Thứ Hai, 13 tháng 2, 2017

Bộ tranh màu nước về Chuối

Hoa Văn

(Mừng xuân Đinh Dậu) Trước tết Đinh Dậu (2017), tình cờ tôi thấy trên facebook của một họa sỹ giới thiệu bộ tranh màu nước của một họa sỹ nước ngoài về chuối khá đẹp, công phu và ấn tượng. Chuối là một loại trái cây thuộc hàng phổ biến nhất ở Việt Nam nói riêng, các quốc gia vùng nhiệt đới, ôn đới nói chung. Tại Việt Nam, phải có đến hàng chục loại chuối khác nhau và tất cả đều rất thơm ngon, bổ dưỡng. Như chuối tiêu (già hương), chuối tây (sứ, xiêm), chuối ngự, chuối cau, chuối hột ...vv. 

<- b="" c="" chu="" i="" m="" n="" nbsp="" ng="" t="" tranh="" trong="" u="">

Có thể nói không quá, cây chuối là một trong những người "bạn" rất hữu ích, thân thiết và gần gũi, gắn bó với người nông dân Việt Nam. Ngoài trái để ăn, có thể nói toàn bộ cây chuối hầu như không bỏ đi một bộ phận nào. Này nhé: bông chuối (bắp chuối) để bóp gỏi (người miền bắc gọi là nộm), làm rau sống, thân chuối làm bè vượt sông, trộn thức ăn cho heo, lá chuối thì dùng để gói bánh, làm giấy gói các loại thức ăn, làm nút đậy, tàu lá có thể bện làm dây buộc rất chắc ...vv.

Tuy chuối thuộc loại trái cây rẻ tiền, bình dị, thậm chí bình dân, nhưng lại không hề bị rẻ rúng. Từ bao đời nay, người dân Việt Nam (đặc biệt ở miền Trung, miền Bắc) ngày tết thường chưng/cúng một nải chuối trên bàn thờ gia tiên. Ngày xưa những loại chuối ngon, quý hiếm nhất được dâng cho vua. Vua ăn vào hóa thông minh sáng suốt, bớt lú lẫn, người dân được nhờ. Ngày nay, chuối được xuất khẩu, có mặt ở những bàn tiệc sang trọng bậc nhất tại các nước châu Âu.

Nói đến chuối, hẳn nhiều người nhớ đến câu ca "mẹ già như chuối chín cây, gió lay mẹ rụng con phải mồ côi" thắm đượm tình mẫu tử, thương thảo của người Việt mình.

Mời quý vị cùng ngắm những nải chuối, nụ hoa, với nhiều sắc thái, giai đoạn, tâm trạng.

..........















..............

Thứ Bảy, 11 tháng 2, 2017

Vĩnh biệt 'người phụ nữ IT' Đồng Thị Bích Thủy

PGS.TS Đồng Thị Bích Thủy, Nhà giáo ưu tú, nguyên Phó hiệu trưởng Đại học Khoa học Tự nhiên TP.HCM, đã qua đời lúc 21h ngày 9.2. Bà là người đặt nền móng cho một chuyên ngành đào tạo mới mẻ vào những năm đầu Đổi mới: Công nghệ thông tin. Các đồng nghiệp gọi TS Bích Thủy là “người đàn bà IT” bởi không chỉ đào tạo ra nhiều thế hệ sinh viên giỏi mà còn là người có những đóng góp quan trọng, góp phần hình thành nên những chính sách ban đầu của ngành Công nghệ thông tin tại Việt Nam.

TS Đồng Thị Bích Thủy hướng dẫn Chủ tịch nước Trần Đức Lương thăm Trung tâm Tin học, ĐH KHTN TP.HCM, tại Công viên phần mềm Quang Trung năm 2003. Ảnh: Nhữ Đình Ngoạn
PGS.TS Đồng Thị Bích Thủy sinh năm 1954 tại huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Từ năm 1970, Bà du học tại Đại học Lausanne (Thụy Sĩ) ngành quản trị kinh doanh, sau đó trợ giảng và bảo vệ luận án tiến sĩ về hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu tin học tài chính tại Đại học Geneve (Thụy Sĩ).
Bà gắn bó với Đại học Khoa học Tự nhiên từ năm 1986, bắt đầu với vai trò giảng viên bộ môn tin học thuộc khoa toán. Gần 30 năm làm việc tại đây bà đảm nhận phần lớn việc đào tạo nhân lực và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công nghệ thông tin: Trưởng bộ môn Tin học; giám đốc Trung tâm Tin học (1991-2010); Phó trưởng khoa công nghệ thông tin - trưởng bộ môn hệ thống thông tin...
Từ năm 2001, PGS.TS Bích Thủy là Phó hiệu trưởng của Đại học Khoa học tự nhiên phụ trách hợp tác quốc tế và công nghệ thông tin; từ 2007 đảm nhận vai trò Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và cải tiến phương pháp dạy và học đại học (CEE) của trường.
PGS.TS Bích Thủy còn được biết đến trong vai trò là đại diện cho trí thức khối khoa học công nghệ trong nhiệm kỳ đại biểu Quốc hội khóa X (1997-2002); Chủ tịch Hiệp hội các trường đại học nói tiếng Pháp vùng châu Á - Thái Bình Dương CONFRASIE (1998-2010).
Bà được giới chuyên môn đánh giá là người khuyến khích đổi mới giáo dục, am hiểu thực tiễn giữa đào tạo và tuyển dụng trong doanh nghiệp Việt Nam. Bà cùng các đồng nghiệp lần đầu tiên đưa khái niệm "học tập phục vụ cộng đồng" (service-learning) vào Việt Nam; mở mô hình cải tiến phương pháp dạy và học đại học.

Khi nghe tin PGS.TS Đồng Thị Bích Thủy qua đời, nhiều bạn bè đồng nghiệp của bà đã chia sẻ với Người Đô Thị những cảm xúc và suy nghĩ  của mình về con người trí thức tài năng và nặng lòng với đất nước.
 Ông Thịnh Nguyễn, CEO Zien Solutions, Việt kiều Mỹ:
Chúng ta biết còn rất ít về những đóng góp lớn của chị
Tôi trở về Việt Nam năm 1991, lúc chưa biết nhiều về môi trường kinh doanh và những người hoạt động trong ngành công nghệ thông tin. Tôi còn nhớ lần đầu gặp chị Thủy ở công viên phần mềm Quang Trung, không chỉ quá ngạc nhiên về người phụ nữ giỏi giang trong lĩnh vực giáo dục, mà với tôi chị còn là người rất lạ và khác biệt, khi tôi biết chị là “người của ngành IT” và là “dân du học trở về”. Có thể nói chị là người đặt nhiều tâm huyết vào giáo dục, hiểu biết những khó khăn thực tế của ngành công nghiệp và dám hy sinh, càng hiểu càng quý mến chị.
Đôi khi trò chuyện, có lúc tôi hỏi: Tại sao chị quyết định trở về Việt Nam? Chị có bao giờ hối hận không? Tôi chưa từng nhận được câu trả lời cụ thể mà thường là một câu thay thế nào đó. “Ai cũng hỏi tôi như anh ngay từ những năm đầu trở về”. Nhưng rồi nhiều năm sau chị đã chấm dứt câu hỏi của tôi bằng câu hỏi tương tự: “Vậy đến giờ Thịnh có hối hận đã trở về không?”. Rồi chúng tôi cùng cười! Tôi đã học được ở chị rất nhiều.
Tôi nghĩ chị Thủy và anh ấy (ông Lương Văn Lý, chồng TS.Thủy) là những người tài năng và tâm huyết, họ có thể sống và thành công ở bất cứ đâu. Chính vì vậy những đóng góp của họ mới thật sự cao cả, nó bao hàm cả sự hy sinh và can đảm. Chị không chỉ đóng góp cho ngành giáo dục, nó còn lớn lao hơn nếu ta đặt vị trí chị vào giai đoạn mà các ngành kinh doanh cạnh tranh khốc liệt, chị đã đứng trên những xô bồ, đặt giá trị của người làm giáo dục và truyền đạt kiến thức lên vị trí cao hơn, không nhìn vào những thứ khác để nghĩ lợi riêng mà dành trăn trở cho trường đại học Khoa học Tự nhiên.
Vai trò xây dựng ngành công nghệ thông tin của chị là rất lớn, không chỉ đào tạo ra những sinh viên giỏi nghề mà còn là người tiên phong và có tiếng nói quan trọng từ lúc ngành này còn rất sơ khai; tài năng và tâm huyết của chị góp phần thuyết phục được những quyết sách của chính phủ, là đóng góp quan trọng trong bước đầu hình thành ngành. Không chỉ tài giỏi thông minh mà sự am hiểu về ngành để đào tạo nhân lực trong môi trường cụ thể Việt Nam là quan trọng.

TS. Bích Thủy (thứ 5 từ trái sang). Ảnh TL: Nhi Phan
Rất nhiều chuyện để kể về chị nhưng tôi ấn tượng mãi câu chuyện về chị và người bạn tôi, Hugo Shong – người phụ trách IDC tại thị trường Trung Quốc. Khoảng 1992, anh ấy đến Sài Gòn và ngụ ở khách sạn Star. Vốn không quen biết ai và cũng không có ý định kinh doanh gì ở Việt Nam, nhưng tình cờ thấy cô nhân viên khách sạn này làm việc bằng máy tính, thời điểm đó vốn rất hiếm. Câu chuyện học IT từ một cô giáo qua lời kể của cô nhân viên đã gây tò mò cho Hugo Shong và anh theo chân học sinh đến gặp cô giáo. Người phụ nữ tài giỏi của ngành IT Việt Nam không chỉ làm thay đổi cách nhìn của Hugo Shong mà sau đó được chị đưa đến gặp người phụ trách lĩnh vực này của TP.HCM, ông Nguyễn Thiện Nhân.
Hugo Shong rở về thuyết phục IDC vào Việt Nam - một trong những tên tuổi toàn cầu sớm khuấy động thị trường IT Việt. Nếu chị Thủy là một người khác thì có lẽ IDC phải nhiều năm sau mới có mặt. Câu chuyện ít ai biết và là một trong nhiều câu chuyện để nhắc về chị - người làm thay đổi suy nghĩ của nhiều người về Việt Nam. Tôi kể vậy để muốn nói rằng những đóng góp của chị thì nhiều nhưng chúng ta biết thì rất ít - những đóng góp lớn lao mà thầm lặng".
Ông Phí Anh Tuấn, CEO công ty PAT Consulting, Phó chủ tịch Hội tin học TP.HCM:
Một tài năng nhưng khiêm tốn
Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng được đủ số lượng nhưng có chất lượng cao luôn là một thách thức cho ngành công nghiệp IT Việt Nam. Những năm đầu tiên, lứa chúng tôi phần lớn được học về IT thông qua những giáo trình hoặc tài liệu rất hạn chế mang tính kinh nghiệm tích lũy. Là một tiến sĩ được đào tạo bài bản từ châu Âu trở về, chị đã đưa phương pháp mới vào đào tạo, tổ chức triển khai giảng dạy hiện đại cho bộ môn này tại đại học KHTN TP.HCM.
Chính vì vậy “sản phẩm” kỹ sư IT đầu ra của trường luôn thuộc hạng cao cấp, được các công ty và tổ chức săn đón. Chúng ta không thể “lượng hóa” những đóng góp của chị như những báo cáo đơn thuần bằng con số hay doanh thu, nhưng công sức vô giá của chị đã góp phần xây dựng nền móng cho ngành IT Việt Nam trong suốt quãng đời làm giáo dục của mình.
Tôi, người thuộc thế hệ đàn em, luôn nhìn thấy ở chị một tài năng nhưng khiêm tốn, quyết liêt nhưng mềm mỏng, phẩm chất của một người tri thức đã cống hiến và mang lại những giá trị lớn cho sự phát triển của ngành IT Việt Nam. Tạm biệt chị!
 Gs.Dương Nguyên Vũ, Viện John von Neumann (ĐH Quốc gia TP.HCM):
Một cánh tay lớn ở Viện John von Neumann
“PGS.TS Đồng Thị Bích Thủy mất đi, để lại một khoảng trống rất lớn sau lưng chúng tôi. Ở Viện John von Neumann, chị Thủy là thành viên Hội đồng, cố vấn đào tạo Viện; chị từng là cánh tay lớn của chúng tôi, chịu trách nhiệm về kế hoạch tài chính, chất lượng học vụ.
Là trí thức Việt Kiều, trở về nước vào năm 1986, khi đất nước đổi mới, có nhiều khó khăn, chị Thủy vẫn lựa chọn trở về. Chị không than thở, than phiền bao giờ, mà chỉ nhìn trực diện vấn đề và đưa ra cách giải quyết, cách làm. Cuộc sống sao chị sống vậy. Chị sống và tích trữ những trải nghiệm, kinh nghiệm. Lúc về làm việc ở Viện JVN, những kinh nghiệm, trải nghiệm của chị đã giúp giải quyết được rất nhiều vấn đề.
Năm vừa rồi chị Thủy bị ung thư bao tử, nhưng chị đã vực dậy, hầu như hết bệnh trở lại bình thường. Vậy mà mới thứ 6 tuần trước, chị em chúng tôi còn làm việc với nhau thì chủ nhật chị bị xuất huyết não. Mất chị Thủy, chúng tôi mất đi một đồng chí, một người chị.”
PGS.TS Dương Anh Đức, phó giám đốc ĐH Quốc gia TP.HCM:
Một con người tiên phong
 PGS.TS Đồng Thị Bích Thủy là cô giáo của tôi, khóa cao học đầu tiên của ngành tin học phía nam. Lúc đó là khóa đầu tiên thành ra có nhiều kỉ niệm lắm. Lúc đó thầy giáo dạy chuyên môn chỉ có hai người là thầy Hoàng Văn Kiếm và cô Thủy. Có thể nói cô Thủy là một trong những người tiên phong của ngành CNTT phía Nam. Cô tham gia tích cực phát triển giai đoạn đầu ngành tin học của thành phố, đặc biệt nói về nữ CNTT TP.HCM thì chắc người ta chỉ nói hai người thôi, là cô Thủy và GS Phan Thị Tươi (nguyên hiệu trưởng ĐH Bách khoa TP.HCM - PV).
Trong lĩnh vực cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin, cô Thủy là giáo sư đầu ngành của VN. Hiện nay trong mọi lĩnh vực, ngành nghề, ứng dụng thấy rõ nhất của CNTT chính là các hệ thống thông tin. Ngay từ nền tảng chính phủ điện tử hay các dịch vụ công, v.v… đều cần dựa trên nền tảng hệ thống thông tin tốt. Tôi còn nhớ những bài giảng cao học cô đưa về, là những kiến thức lúc đó đã rất hiện đại về hệ thống thông tin, và sau này nhiều đơn vị, cơ sở đào tạo sau đại học khác học hỏi theo.

 Tuyết Ân - Lê Quỳnh (ghi)   

Thứ Tư, 8 tháng 2, 2017

Hải chiến Hoàng Sa – 40 năm nhìn lại


Quần đảo Hoàng Sa - Đồ họa: Thanh Niên Online
Quần đảo Hoàng Sa – Đồ họa: Thanh Niên Online
Ngày 19.1.1974, Trung Quốc xua quân xuống cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa lúc bấy giờ đang thuộc chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa. Trong hoàn cảnh có nhiều bất lợi, các quân nhân Việt Nam vẫn nổ súng chống lại kẻ xâm lược hòng bảo vệ chủ quyền biển đảo quê hương. Cuộc vệ quốc thất bại. Hoàng Sa rơi vào tay ngoại bang.
Trung Quốc nuốt dần Hoàng Sa
Quần đảo Hoàng Sa từ mấy trăm năm qua thuộc chủ quyền của Việt Nam. Đến đầu thế kỷ 20 thì Trung Quốc bắt đầu lăm le mạo xưng chủ quyền. Tới sau Thế chiến 2, họ tiến chiếm nhóm đông bắc Hoàng Sa, và đến năm 1974 thì nổ súng cưỡng chiếm toàn bộ quần đảo.
Quá trình gặm nhấm Hoàng Sa mà Trung Quốc thực hiện khởi đầu là những tuyên bố hú họa, tiếp đến là thừa nước đục thả câu, và cuối cùng là ngang nhiên nổ súng xâm lược. Quá trình tiến chiếm Hoàng Sa cho thấy tham vọng bành trướng xuyên suốt của các chính quyền tại Bắc Kinh qua nhiều thời kỳ.
Đến nay, cuồng vọng đó không ngừng được nâng cao, với đường lưỡi bò bất chấp đạo lý và pháp lý nhằm biến biển Đông thành ao nhà.
Gặm nhấm
Quần đảo Hoàng Sa bao gồm nhiều đảo lớn, bãi cát và rạn san hô, bãi ngầm nằm cách huyện đảo Lý Sơn thuộc tỉnh Quảng Ngãi khoảng 200 hải lý về phía đông. Hoàng Sa có hai nhóm đảo chính.
Ở phía đông bắc là nhóm An Vĩnh (tiếng Anh là Amphitrite, còn gọi là Nhóm Đông) gồm nhiều đảo khá lớn, trong đó quan trọng nhất là đảo Phú Lâm, đảo Nam, đảo Trung, đảo Bắc, đảo Cây.
Chếch về phía tây nam so với nhóm An Vĩnh là nhóm Lưỡi Liềm (hay Trăng Khuyết, Nguyệt Thiềm, tên tiếng Anh là Crescent), với các đảo lớn là Hoàng Sa, Hữu Nhật, Quang Hòa, Duy Mộng, Quang Ảnh.
Bên cạnh các cụm An Vĩnh và Lưỡi Liềm, Hoàng Sa còn có một số đảo, bãi cát, rạn san hô nằm rải rác, trong đó đáng kể nhất là đảo Linh Côn (Lincoln) nằm ở cực đông quần đảo và đảo Tri Tôn (Triton) đơn độc ở cực tây nam.
HCHS2
Sau khi bắt tay với Mỹ, Mao Trạch Đông đã triển khai kế hoạch bành trướng biển Đông
bằng hành động nổ súng chiếm quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam Cộng Hòa
Chính sử Việt Nam, Trung Quốc, phương Tây và các ghi chép, địa đồ của các nhà hàng hải cho biết Việt Nam đã quản lý Hoàng Sa từ thời các chúa Nguyễn. Xét trên tất cả các nguyên tắc về xác định chủ quyền, Việt Nam đều là chủ sở hữu hợp pháp của quần đảo này: tiên chiếm, nhà nước thực thi chủ quyền liên tục trong hòa bình, không có bên nào tranh chấp, không bao giờ từ bỏ. Việc thực thi chủ quyền cấp nhà nước của Việt Nam kéo dài từ các triều chúa Nguyễn, tới nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn về sau. Dưới thời Pháp đô hộ Việt Nam, Hoàng Sa cũng được đặt dưới quyền quản lý của chính quyền bảo hộ.
Mãi đến đầu thế kỷ 20, Trung Quốc mới quan tâm tới Hoàng Sa và bắt đầu những động thái sơ khai trong yêu sách chủ quyền thể hiện cơn cuồng tham vô cùng. Đầu tiên là chuyến tàu của Đô đốc Lý Chuẩn tới Hoàng Sa năm 1909 với tên gọi “thị sát Tây Sa”. Tại đây, Lý Chuẩn đã thượng cờ và bắn đại bác tuyên bố chủ quyền, cho thấy rằng từ trước đến nay Trung Quốc chưa hề có chủ quyền tại Hoàng Sa.
Vào giữa thế kỷ 20, đặc biệt là giai đoạn sau Thế chiến 2, Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Quốc Dân đảng của Tưởng Giới Thạch đã nhiều lần lăm le chiếm một số đảo thuộc cụm An Vĩnh. Đến năm 1947, lợi dụng việc người Pháp dồn sức cho chiến trường Đông Dương, Tưởng Giới Thạch tiến chiếm đảo Phú Lâm, đánh dấu sự chiếm đóng phi pháp của người Trung Quốc.
Đến năm 1956, Trung Quốc, lúc này do đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo sau khi đánh đuổi Quốc Dân đảng ra đảo Đài Loan, đã lén lút đổ quân lên đảo Phú Lâm, bắt đầu thực hiện sự chiếm đóng đối với cụm An Vĩnh và Linh Côn.
Chuẩn bị chiếm trọn Hoàng Sa
Trung Quốc đã thai nghén mưu đồ nuốt trọn Hoàng Sa từ đầu thế kỷ 20 và lợi dụng những biến động chính trị tại Đông Dương, họ đã từng bước thực hiện việc gặm nhấm quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam này trong giai đoạn sau Thế chiến 2. Đến đầu năm 1974, Trung Quốc nhận thấy cơ hội đã chín muồi cho một cuộc tấn công để chiếm toàn bộ quần đảo, lúc bấy giờ đang thuộc chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa theo sau Hiệp định Geneve về phân chia lãnh thổ Việt Nam.
Cơ hội đó chính là cái bắt tay giữa Trung Quốc với Mỹ, để nước Mỹ làm ngơ trước các động thái của Bắc Kinh tại biển Đông. Cơ hội đó còn là tình hình chiến sự tại Việt Nam, khi mà Việt Nam Cộng Hòa, là chủ sở hữu hợp pháp duy nhất đối với quần đảo Hoàng Sa lúc bấy giờ, đang dần bị Mỹ bỏ rơi và đang gặp nhiều khó khăn trên chiến trường ở trong nước. Trong tình cảnh khá đơn độc, khả năng bảo vệ Hoàng Sa của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa suy giảm nghiêm trọng, dù họ vẫn sở hữu lực lượng hải quân và không quân có thể nói là khá mạnh.
Chu Ân Lai (phải) tìm kiếm tín hiệu xanh từ Mỹ trước khi ra lệnh chiếm Hoàng Sa
Chu Ân Lai (phải) tìm kiếm tín hiệu xanh từ Mỹ trước khi ra lệnh chiếm Hoàng Sa
Trung Quốc cũng muốn chiếm trọn Hoàng Sa càng sớm càng tốt, vì nếu chậm chân, họ sẽ khó làm được điều đó sau khi Việt Nam thống nhất.
Tài liệu Hoàng Sa – Lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa do chính quyền Sài Gòn phát hành sau trận hải chiến năm 1974 cho biết:“Vụ tranh chấp Hoàng Sa đột phát trở lại kể từ ngày 11.01.1974, khi phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Cộng tuyên bố là nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Trung Cộng mà Việt Nam Cộng Hòa chiếm cứ bất hợp pháp”. SáchTài liệu Hải chiến Hoàng Sa của (cựu hạm trưởng HQ-4) Vũ Hữu San và nhà nghiên cứu Trần Đỗ Cẩm cho biết thêm: “Để làm hậu thuẫn cho những lời tuyên bố vô căn cứ, Trung Cộng tung nhiều tàu đánh cá võ trang xâm nhập hải phận Hoàng Sa và đổ quân giả dạng ngư phủ lên các đảo không có lực lượng quân đội Việt Nam Cộng Hòa đóng”.
“Trung Cộng” là tên gọi để chỉ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa do đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo đóng đô tại Bắc Kinh, mà ngày nay chúng ta thường gọi là “Trung Quốc”. Ngày trước, “Trung Cộng” được sử dụng để phân biệt với “Trung Quốc”, tức Trung Hoa Dân Quốc do Quốc Dân đảng lãnh đạo mà sau khi kết thúc nội chiến Quốc – Cộng năm 1949 thì chạy ra cắm dùi tại đảo Đài Loan.
Với chiêu bài mạo xưng chủ quyền, giữa tháng 1.1974, theo yêu cầu của Thủ tướng Quốc vụ viện kiêm Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Chu Ân Lai, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc họp phiên đặc biệt nhằm lập ra ban chuyên trách năm người phụ trách kế hoạch đánh Hoàng Sa – mà phía Trung Quốc gọi là “Cuộc phản kích Tây Sa” để tuyên truyền trong nước và che mắt dư luận quốc tế. Các lãnh đạo cấp cao gồm Diệp Kiếm Anh – Chủ nhiệm Ban chuyên trách, cùng Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Đặng Tiểu Bình và Trần Tích Liên đã nghe Tô Chấn Hoa, Phó Tư lệnh Hải quân, báo cáo tình hình và đề nghị tấn công.
Vào thời điểm ấy, ngày 17.1.1974, tàu và quân lính Trung Quốc đã lởn vởn nhiều nơi quanh cụm Lưỡi Liềm và phía Việt Nam Cộng Hòa đã điều tàu và quân ra để bảo vệ Hoàng Sa.
Chu Ân Lai cũng nhận báo cáo tình hình từ Cục phó Cục tác chiến Bộ Tổng tham mưu quân Trung Quốc Trường Lý Lực. Sau đó, họ Chu cùng Nguyên soái Diệp Kiếm Anh viết báo cáo gửi Mao Trạch Đông đề nghị tăng quân ra Hoàng Sa để chiếm đảo. Họ Mao lúc này đã 81 tuổi, sức khỏe sa sút, tinh thần thụt lùi, nhưng mộng bành trướng thì lại không ngừng tăng tiến. Sau khi phê “đồng ý” vào báo cáo của Diệp và Chu, Mao nói thêm: “Trận này không thể không đánh!”.
Ở đây có một điểm cần lưu ý, đó là Mao Trạch Đông vốn là tổng công trình sư của Cách mạng Văn hóa tàn khốc, Vương Hồng Văn và Trương Xuân Kiều là hai thành viên của nhóm Bè lũ bốn tên chỉ đạo thực hiện Cách mạng Văn hóa; còn Đặng Tiểu Bình vốn là một nạn nhân của cuộc cách mạng này và vừa được phục hồi danh dự chưa lâu. Giữa Mao, Vương, Trương, Đặng có nhiều ân oán và chỉ hơn hai năm sau đó, vào tháng 10.1976, ngay sau khi Mao Trạch Đông chết, Đặng Tiểu Bình cùng Diệp Kiếm Anh đã bắt đầu ra tay trừng trị Bè lũ bốn tên cùng dư đảng của nhóm này.
Bất chấp những ân oán trùng trùng ấy, vào thời điểm tháng 1.1974, họ đã cùng thống nhất với nhau một mục tiêu bành trướng lãnh thổ, lãnh hải. Đấy là một điểm cần phải lưu ý khi đánh giá các lãnh đạo Trung Quốc, cũng như đánh giá mối quan hệ và lập trường của Trung Quốc – Đài Loan trong vấn đề biển Đông. Giữa họ có thể đầy mâu thuẫn, nhưng mộng bành trướng, yêu sách về lãnh thổ, chủ quyền thì họ hoàn toàn thống nhất với nhau.
Vậy là, sau khi đã thừa nước đục thả câu để chiếm phần đông và đông bắc quần đảo Hoàng Sa, gồm nhóm An Vĩnh và Linh Côn, Trung Quốc giờ đây đã lên đạn sẵn sàng đánh chiếm nhóm đảo Lưỡi Liềm, qua đó nuốt trọn quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Cuộc hải chiến Hoàng Sa 1974 cũng đánh dấu một trong những bước đầu tiên trong chiến lược ba bước của Trung Quốc đối với biển Đông: 1. Kiểm soát (1970-2010); 2. Làm chủ (2011-2025) và 3. Độc chiếm (2026-2050).
 Hành quân giữ đảo
Bốn chiến hạm của Việt Nam Cộng Hòa ra chiến đấu bảo vệ quần đảo Hoàng Sa vào tháng 1.1974
Bốn chiến hạm của Việt Nam Cộng Hòa ra chiến đấu bảo vệ quần đảo Hoàng Sa vào tháng 1.1974
Sự kiện Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngụy xưng chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa vào ngày 11.1.1974 là lời thách thức trắng trợn đối với chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa. Ngay lập tức, chính quyền Sài Gòn đã có phản ứng bằng ngoại giao và quân sự.
Sau khi Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhận vơ chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa, “ngay ngày hôm sau, 12.1.1974, với tư cách Ngoại Trưởng VNCH, tôi đã chính thức và cương quyết lên tiếng bác bỏ lời tuyên bố vô căn cứ của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc và lên án hành động gây hấn của nước này”, ông Vương Văn Bắc, nguyên là Ngoại trưởng Việt Nam Cộng Hòa, nhớ lại trong một bài viết được công bố tại Paris vào năm 2007.
Ông Bắc, là một luật sư, còn cho biết: “Ngày 16.1.1974, cũng với tư cách Ngoại Trưởng VNCH, tôi đã gửi công điện cho ông Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc để lưu ý Hội đồng Bảo an tới tình hình căng thẳng nghiêm trọng gây ra bởi lời tuyên bố ngang ngược và những hành vi trái phép của Trung Cộng trong vùng Hoàng Sa, có khả năng đe dọa hòa bình và an ninh tại vùng này. Chính phủ VNCH yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc ban bố mọi biện pháp thích nghi để cải thiện tình hình”.
Lệnh hành quân
Giữa lúc tình hình căng thẳng leo thang tại Hoàng Sa, song song với các động thái ngoại giao, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã tăng cường chiến hạm ra vùng biển đảo này. Ngày 15.1.1974, Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng I Duyên hải lệnh cho tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16) trực chỉ Hoàng Sa phối hợp với lực lượng quân sự thường trực tại đây sử dụng biện pháp hòa bình để bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải. Trước đó, tàu Hải quân VNCH chỉ đến Hoàng Sa trong những chuyến tuần tra định kỳ; còn lực lượng trú đóng chỉ bao gồm một trung đội Địa phương quân thuộc Chi khu Hòa Vang với 24 quân nhân.
Trung tá Lê Văn Thự, Hạm trưởng HQ-16, kể lại trong một bài viết vào năm 2004: “Ngày 15.1.1974, tàu tôi – HQ-16 – được lệnh ra công tác đảo Hoàng Sa, chở theo một cố vấn Mỹ và một thiếu tá Bộ binh thuộc Quân đoàn I. Tàu khởi hành tối 15.1.1974 và đến Hoàng Sa sáng ngày 16.1.1974. Khi đến nơi, Địa phương quân trên đảo thấy tàu đã lái xuồng ra đón viên thiếu tá Bộ binh lên đảo. Trong khi chờ đợi để đưa thiếu tá Bộ binh về lại Đà Nẵng, tôi vận chuyển tầu rời đảo Hoàng Sa ra biển, thả trôi tàu gần đảo Quang Hòa”.
Ông Thự còn cho biết khi dùng ống nhòm quan sát đảo Quang Hòa thì thấy “có một dãy nhà sườn gỗ còn đang xây cất dở dang, chỉ có sàn nhà, chưa có mái” và ông đã gọi báo về Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng I Duyên hải. Vào trưa 16.1, HQ-16 phát hiện một tàu chiến Trung Quốc tiến vào vùng biển trong khu vực cụm đảo Lưỡi Liềm.
Lúc bấy giờ, khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) do trung tá Vũ Hữu San làm hạm trưởng đang tuần tra vùng biển gần cù lao Ré (đảo Lý Sơn) thì nhận được lệnh trở về Đà Nẵng để chuẩn bị ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ. Lúc rời Đà Nẵng ra Hoàng Sa, HQ-4 có quân số 170 người và một trung đội Biệt hải quá giang. Công điện hành quân thượng khẩn số 50.356 của Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng I Duyên hải, sau khi thông báo việc tàu và quân Trung Quốc xâm chiếm một số đảo ở Hoàng Sa, đã nêu nhiệm vụ: “Lực lượng tham dự hành quân tiến chiếm lại các đảo nói trên khởi sự vào ngày “N”… HQ-16 tiến chiếm lại đảo Money (Quang Ảnh – NV) vào ngày “N” bằng nhân viên cơ hữu… HQ-4 nhận 32 nhân viên biệt hải từ Đà Nẵng vào ngày “N”… đổ bộ chiếm đảo Robert (Hữu Nhật), sau đó là Drummond (Duy Mộng) và Duncan (Quang Hòa). Theo thông tin do Hạm trưởng San chia sẻ với Thanh Niên mới đây, thì vào giai đoạn ban đầu, ông là chỉ huy trưởng cuộc hành quân bảo vệ Hoàng Sa, gồm hai tàu HQ-4 và HQ-16.
Lúc bấy giờ, phía Trung Quốc cũng tăng cường tàu cá và tàu chiến tới khu vực. Một số toán lính của họ cũng được triển khai đổ bộ lên các đảo thuộc nhóm Lưỡi Liềm.
Trước tình hình hết sức khẩn trương, Việt Nam Cộng Hòa đã điều thêm hai tàu Trần Bình Trọng (HQ-5) và Nhật Tảo (HQ-10) đến để tăng cường lực lượng bảo vệ đảo. HQ-5 do trung tá Phạm Trọng Quỳnh làm hạm trưởng, đến Hoàng Sa vào trưa 18.1; HQ-10 do thiếu tá Ngụy Văn Thà chỉ huy, đến nơi vào buổi tối cùng ngày (một số tài liệu cho biết HQ-5 và HQ-10 cùng đến Hoàng Sa vào sáng 18.1; dù khác nhau về giờ, nhưng các thông tin đều khẳng định hai tàu này có mặt vào ngày 18.1).
Đến lúc này, đại tá Hà Văn Ngạc, đi theo tàu HQ-5, thừa lệnh Tư lệnh Hải quân Vùng I Duyên Hải làm chỉ huy trưởng toàn bộ công tác trên mặt biển.
Khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư của VNCH
Khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư của VNCH
Tàu tuần tra HQ-10 Nhật Tảo của VNCH
Tàu tuần tra HQ-10 Nhật Tảo của VNCH
Vờn nhau trước trận chiến
Nhắc lại, sau tuyên bố mạo xưng chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa vào ngày 11.1.1974, Trung Quốc đã gia tăng các hoạt động quân sự tại nhóm đảo Lưỡi Liềm thuộc quần đảo Hoàng Sa. Nhóm lưỡi liềm là một cụm đảo nằm ở góc tây nam quần đảo Hoàng Sa, cho tới thời bấy giờ vẫn do Việt Nam Cộng Hòa kiểm soát; còn cụm đảo An Vĩnh ở đông bắc và đảo Linh Côn ở phía đông đã bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép từ thập niên 1950.
Về các hoạt động của Trung Quốc tại nhóm Lưỡi Liềm, sách Tài liệu Hải chiến Hoàng Sa của Vũ Hữu San và Trần Đỗ Cẩm cho hay đến ngày 15.1.1974, Trung Quốc đã đổ quân lên các đảo Hữu Nhật (Robert), Quang Ảnh (Money), Quang Hòa (Duncan) và Duy Mộng (Drummond). Tài liệu Hoàng Sa – Lãnh Thổ Việt Nam Cộng Hòa do chính quyền Sài Gòn ấn hành cũng đưa thông tin tương tự, và cho biết “chiến hạm ta đã dùng loa và đèn hiệu yêu cầu những người Trung Cộng rời khỏi đảo, nhưng vô hiệu”. Cũng theo tài liệu này, ngày 17.1, vào lúc 7 giờ 45, một tiểu đội xung kích Việt Nam Cộng Hòa đã đổ bộ lên đảo Quang Ảnh mà không gặp sự kháng cự nào. Trên đảo, họ thấy 6 ngôi mộ mới, có bia viết chữ Tàu, có thể là bằng chứng ngụy tạo nhằm chứng tỏ người Trung Quốc đã chiếm giữ đảo từ lâu. Toán xung kích này được lệnh nhổ cờ Trung Quốc, phá hủy hết các dấu tích ngoại bang trên đảo.
Sau khi ra đến khu vực Hoàng Sa vào xế trưa 17.1, HQ-4 đã phối hợp với HQ-16 để bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải. Một số diễn biến căng thẳng đã xảy ra sau đó, khi tàu cá và tàu chiến Trung Quốc tiếp tục tiến sâu vào vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam Cộng Hòa. Đôi bên dùng loa phóng thanh để tuyên bố chủ quyền và yêu cầu đối phương rời đi. Hạm trưởng Vũ Hữu San kể lại, sau một hồi giằng co không đạt kết quả, ông đã húc mũi tàu HQ-4 vào tàu cá 407 của Trung Quốc, khiến tàu Trung Quốc bị hư hỏng nặng phần buồng lái.
Cuối buổi chiều 17.1, hai chiếm hạm Kronstadt trang bị hải pháo 100 và 37 ly, mang số hiệu 271 và 274, của Trung Quốc xuất hiện. Hai tàu Trung Quốc tiến nhanh về phía HQ-16 và HQ-4 để uy hiếp. Đáp lại, tàu Việt Nam Cộng Hòa sử dụng đèn hiệu để yêu cầu tàu đối phương rời đi. Sau khoảng 60 phút vờn nhau, hai tàu chiến Trung Quốc lui về đậu gần đảo Quang Hòa và Duy Mộng.
Qua ngày 18.1, các chiến hạm Trung Quốc tăng cường các hoạt động khiêu khích, mà theo nhận định của phía Việt Nam Cộng Hòa là muốn tái chiếm đảo Hữu Nhật. Trung tá Lê Văn Thự nhớ lại: “Khoảng 10 giờ sáng ngày 18.1.1974, Đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh cho tôi đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo Hoàng Sa, sau đó cho toán người nhái đổ bộ lên đảo Quang Hòa và một toán của HQ-16 lên giữ đảo Quang Ảnh. Sau khi đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo Hoàng Sa, tôi vận chuyển HQ-16 bên trong lòng chảo để đến gần đảo Quang Hòa đổ bộ toán người nhái lên đảo thì một tàu Trung Cộng xuất hiện, cản trước mũi, không cho tàu tôi tiến gần đến đảo.
Tôi phải ngưng máy, vận chuyển để tránh đụng tàu. Nhưng cả hai tàu cũng cọ vào nhau làm dẹp một số trụ căng dây an toàn chung quanh tàu Trung Cộng và làm rách bè nổi của tàu Trung Cộng. Nhờ xáp lại gần, tôi thấy tàu Trung cộng số hiệu 271, dài chừng 70 mét, có súng tương đương với súng 76.2 ly, 40 ly, 20 ly và đại liên 12.7 của tàu tôi. Tàu Trung Cộng nhỏ hơn tàu tôi nhưng vận chuyển nhanh nhẹn hơn.
Tôi báo cáo với Đại tá Ngạc những gì xẩy ra. Sau đó tôi lái tàu ra khỏi lòng chảo và đổ bộ toán người nhái vào mặt ngoài biển (mặt nam) của đảo Quang Hòa vào chiều ngày 18.1.1974.
HQ-16 chỉ ở cách xa bờ một, hai hải lý rồi người nhái thả xuồng cao su có trang bị máy mà chạy vào bờ chứ HQ-16 không thể vào sát bờ được vì đá ngầm và san hô. Toán người nhái rời tàu chừng non một tiếng thì gọi máy báo cáo là ở trong bờ bắn ra. Tôi hỏi người liên lạc máy là có thấy người ở trên bờ không và các anh đã lên được bờ chưa? Họ trả lời là đang lội nước ngang ống chân, còn chừng vài chục thước nữa mới tới bờ…
Vài phút sau thì nghe báo cáo là một thiếu úy người nhái bị bắn chết. Họ xin rút lui vì không thể vào bờ an toàn được. Tôi báo cáo với Đại tá Ngạc và xin cho người nhái rút lui. Toán người nhái đã trở về lại HQ-16”. Viên cố vấn Mỹ mà ông Thự đề cập là Gerald Kosh, một nhân viên của Phòng tùy viên quốc phòng Mỹ tại Việt Nam (DAO).
Trong buổi chiều và tối 18, hai bên ở trong thế kiềm chế lẫn nhau, sử dụng loa, đèn hiệu hoặc di chuyển để đẩy đuổi đối phương. Những diễn biến căng thẳng này vào ngày hôm sau sẽ dâng lên đến đỉnh điểm, trở thành một trận hải chiến ngắn ngủi nhưng khốc liệt mà kết cục của nó trở nên vô cùng đau đớn cho đất nước Việt Nam.
Tương quan lực lượng
Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) là tàu chiến hiện đại nhất bên phía Việt Nam Cộng Hòa
Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) là tàu chiến hiện đại nhất bên phía Việt Nam Cộng Hòa
Sau khi Trung Quốc chiếm đóng bất hợp pháp cụm An Vĩnh và đảo Linh Côn ở phía đông bắc và đông quần đảo Hoàng Sa từ thập niên 1950, Việt Nam Cộng Hòa vẫn duy trì hoạt động thực thi chủ quyền thường trực tại cụm Lưỡi Liềm ở miệt tây nam cũng như đảo Tri Tôn, các bãi cát, đảo nhỏ khác. Vào thời điểm tháng 1.1974, trên đảo Hoàng Sa nằm ở vị trí trung tâm nhóm Lưỡi Liềm có một đơn vị địa phương quân thuộc Chi khu Hòa Vang trấn đóng, cùng với một vài nhân viên khí tượng, hải dương. Đến khi Trung Quốc ngạo ngược mạo xưng chủ quyền vào ngày 11.1.1974 cũng như gia tăng tàu chiến và tàu cá chở quân nhân tới cụm Lưỡi Liềm, Việt Nam Cộng Hòa điều lần lượt 4 tàu chiến ra bảo vệ Hoàng Sa.
Đầu tiên là tàu HQ-16, ra tới Hoàng Sa vào sáng 16.1; tiếp theo là tàu HQ-4 đến nơi vào xế trưa 17.1, mang theo một trung đội Biệt hải (thuộc Sở vòng vệ Duyên hải, đóng tại Đà Nẵng). Ngày 18.1, tàu HQ-5 chở theo một đại đội Hải kích (tức lực lượng người nhái thuộc Hải quân) và tàu HQ-10 ra đến Hoàng Sa.
Bốn chiến hạm của Việt Nam Cộng Hòa
Như vậy, lực lượng Việt Nam Cộng Hòa trước trận hải chiến có 4 tàu vũ trang, với các trang bị, tính năng cụ thể như sau:
Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5) nguyên là tàu USS Castle Rock biên chế cho Hải quân Mỹ vào năm 1944, sau đó chuyển qua cho Tuần duyên nước này và rồi bàn giao cho Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1971. Tàu dài 94,72 m, rộng 12,52 m, độ choán nước 1.766 tấn (tối đa là 2.800 tấn), vận tốc tối đa 18 hải lý/giờ (34 km/giờ). Vũ khí gồm: 1 pháo 127 ly trước mũi; 1 pháo 40 ly đôi ở sân thượng phía trên khẩu 127 ly; 2 khẩu 40 ly hai bên hông và 2 khẩu 20 ly hai bên hông đài chỉ huy. Thủy thủ đoàn khoảng 200 người.
Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16) nguyên là tàu USS Chicoteague của Hải quân Mỹ, hạ thủy năm 1942, sau đó chuyển giao cho Tuần duyên Mỹ rồi chuyển cho Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1972. Tàu có đặc tính tương tự HQ-5.
Chiếc Kronstadt số hiệu 274 của Trung Quốc tham gia Hải chiến Hoàng Sa
Chiếc Kronstadt số hiệu 274 của Trung Quốc tham gia Hải chiến Hoàng Sa
Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) là tàu chiến hiện đại nhất của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa thời bấy giờ. HQ-4 trước đây vốn là tàu hộ tống USS Forster bắt đầu được biên chế vào Hải quân Mỹ năm 1944. Đến năm 1951 nó được chuyển cho Tuần duyên Mỹ và năm 1971 thì bàn giao cho Hải quân Việt Nam Cộng Hòa. Tàu dài 93 m, rộng 11,15 m, có độ choán nước 1.590 tấn; vận tốc 22 hải lý/giờ (39 km/giờ); tàu có tầm hoạt động 16.900 km khi chạy ở tốc độ tiết kiệm 22 km/giờ. Trang bị của HQ-4 gồm có  2 pháo 76 ly, một số súng 20 ly. Khi chuyển giao cho Việt Nam Cộng Hòa, một số trang bị của tàu được thay đổi để phù hợp với nhiệm vụ mới. Theo ông Lữ Công Bảy, Hạ sĩ quan phụ tá trưởng ngành hàng hải kiêm trưởng khối hành quân trên tàu HQ-4, hệ thống hải pháo 76 ly của tàu được điều khiển (nạp đạn và bắn) bằng điện. Thủy thủ đoàn gồm 170 người.
Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10) vốn là tàu quét mìn USS Serene (AM-300) của Hải quân Mỹ, được hạ thủy vào năm 1943 và chuyển giao cho Việt Nam Cộng Hòa năm 1964. Tàu dài 56,24 m, rộng 10 m, độ choán nước 650 tấn, vận tốc tối đa 14 hải lý/giờ (26 km/giờ). Tàu có 1 pháo 76 ly ở phía mũi, 2 súng 40 ly hai bên hông, 4 súng 20 ly đôi ở hai bên đài chỉ huy.
Phía Việt Nam Cộng Hòa cũng chuẩn bị một lực lượng dự bị gồm tuần dương hạm Trần Quốc Toản (HQ-6) và hộ tống hạm Chí Linh (HQ-11). Có thông tin là các phi đoàn phản lực F-5 và A-37 được lệnh trực chiến ở Đà Nẵng để thực hiện chiến dịch yểm trợ trên không.
Ở đây có một điểm cần lưu ý, đó là cách gọi các loại tàu chiến dưới thời Việt Nam Cộng Hòa khá đặc biệt. Tuần dương hạm là loại tàu lớn nhất của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa, nhưng thực ra là tàu cũ của Mỹ, có độ choán nước khá nhỏ và khả năng đại dương, hỏa lực hữu hạn, khác với khái niệm “tuần dương hạm” (cruiser) phổ biến của thế giới, vốn chỉ loại tàu chiến có choán nước trên 9.000 tấn và hỏa lực cực mạnh.
Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5) là soái hạm bên phía Việt Nam Cộng Hòa
Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5) là soái hạm bên phía Việt Nam Cộng Hòa
Lực lượng xâm lược của Trung Quốc
Sách Tài liệu Hải chiến Hoàng Sa của Vũ Hữu San và Trần Đỗ Cẩm cho biết phía Trung Quốc có tổng cộng 11 tàu các loại, trong đó có hai tàu săn ngầm Kronstadt mang số 271 và 274; 2 chiếc tàu rà mìn T-43 mang số 389 và 396 là có hỏa lực đáng kể. Các tàu còn lại là tàu chở quân hoặc tàu cá được vũ trang. Cuối trận hải chiến, Trung Quốc còn điều thêm hai tàu Kronstadt (281 và 282) nữa.
Tàu hộ tống săn ngầm Kronstadt do Liên Xô sản xuất, kích thước tiêu chuẩn: dài 52 m, rộng 6,5 m, choán nước tối đa 380 tấn và vận tốc tối đa 24 hải lý/giờ (39 km/giờ). Tàu được trang bị 1 pháo 100 ly ở sân trước và 2 súng 37 ly ở sân sau, 2 giàn bom lặn chống ngầm và 2 giàn thả mìn. Thủy thủ đoàn chừng 60 người.
Tàu rà mìn T-43 cũng do Liên Xô sản xuất, với kích thước chuẩn: dài 58 m, rộng 6,1 m, choán nước tối đa 610 tấn và vận tốc tối đa 17 hải lý/giờ (27 km/giờ). Tàu được trang bị pháo 85 ly.
Bên cạnh đó, theo một số nguồn thông tin chưa kiểm chứng, Trung Quốc còn có lực lượng dự phòng gồm 4 xuồng tên lửa cao tốc lớp Komar do Liên Xô sản xuất; một số tàu khu trục, săn ngầm và một số lượng khá lớn máy bay MiG đóng tại đảo Hải Nam. Về khả năng Trung Quốc điều tàu tên lửa và cho máy bay không kích cụm đảo Lưỡi Liềm thì Thanh Niên Online sẽ có bài viết riêng. Ở đây, chúng tôi chỉ tạm đưa ra những thông tin chưa thể xác minh về lực lượng dự bị để bạn đọc tham khảo.
Tương quan
Theo đánh giá của những người trong cuộc, lực lượng Việt Nam Cộng Hòa có vẻ nhỉnh hơn về mặt “tàu to súng lớn”. Cụ thể, các tuần dương hạm HQ-5 và HQ-16 có đại bác 127 ly, trong khi súng pháo lớn nhất của Trung Quốc chỉ khoảng 100 ly. Tàu của Việt Nam Cộng Hòa lớn hơn nhiều so với tàu của đối phương, do đó có sức chịu đựng lớn hơn. Tàu hộ tống Nhật Tảo (HQ-10), chiếc có hỏa lực yếu nhất và là chiếc nhỏ nhất của phía Việt Nam Cộng Hòa, khi đem so sánh với tàu Trung Quốc thì cũng đã tương đương, chỉ kém về tốc độ.
Về quân số binh sĩ, có vẻ như phía Trung Quốc chiếm ưu thế, vì họ có một số tàu cá chở quân nhân, tàu chở quân. Lực lượng dự phòng của họ cũng có thể được tăng cường từ cụm đảo An Vĩnh, cách cụm Lưỡi Liềm vài chục hải lý. Tài liệu CIA mới được giải mật gần đây cho biết vào thời điểm trước trận hải chiến, Mỹ đã phát hiện Trung Quốc có hoạt động xây dựng hạ tầng ở đảo Phú Lâm thuộc cụm An Vĩnh.
Theo cuốn Tài liệu Hải chiến Hoàng Sa của Vũ Hữu San (cựu hạm trưởng HQ-4) và Trần Đỗ Cẩm, trong một trận hải chiến khi đôi bên gần nhau, cỡ súng lớn chưa chắc đã chiếm được lợi thế vì không tận dụng được tầm bắn xa, hơn nữa nhịp bắn lại chậm. Phần các chiến hạm Trung Quốc có vận tốc cao lại nhỏ nhẹ dễ vận chuyển nên chiếm được ưu thế trong lúc cận chiến, đặc biệt là trong một khu vực có nhiều đá ngầm, bãi cạn như Hoàng Sa. Các chiến hạm Việt Nam Cộng Hòa không những vừa to, cao lại xoay trở tương đối chậm nên là mục tiêu rất dễ dàng cho địch thủ nhắm bắn.
Theo tác giả Trần Đỗ Cẩm, do các chiến hạm Trung Quốc nằm rất thấp gần sát mặt nước nên rất khó bắn trúng. Trong khi các khẩu hải pháo Việt Nam Cộng Hòa nằm trên cao nên xoay trở rất khó khăn, có khi phải hạ cao độ xuống dưới đường chân trời mới có thể nhắm trúng mục tiêu nằm gần. Các chiến hạm Trung Quốc thấp hơn nên dễ dàng nâng cao độ của đại bác chừng dăm ba độ là đã có thể tác xạ hữu hiệu.
“So sánh những sở trường và sở đoản của từng loại chiến hạm, trong trận hải chiến một chọi một tại Hoàng Sa, lực lượng đôi bên có vẻ tương đồng, việc hơn thua phần lớn sẽ do các cấp chỉ huy và tinh thần của thủy thủ đoàn quyết định. Tuy nhiên, kể về lực lượng trừ bị ứng chiến, phía Trung Cộng chiếm ưu thế tuyệt đối, nhất là về mặt không yểm”, theo Tài liệu Hải chiến Hoàng Sa.
Bài viết của trung tá Lê Văn Thự
levanthu
Như đã đề cập từ đầu, tường thuật về Hải chiến Hoàng Sa 1974 của người trong cuộc có nhiều điểm mâu thuẫn nhau. Theo một bài viết của trung tá Lê Văn Thự (cựu Hạm trưởng HQ-16) được công bố vào năm 2004 tại Mỹ, thì trong suốt trận hải chiến vào sáng 19.1.1974, ông đã không hề biết tàu HQ-4 và HQ-5 ở đâu và cũng không liên lạc được với đại tá Hà Văn Ngạc, là chỉ huy cao nhất tại hiện trường.
Chiến hạm HQ-16
Chiến hạm HQ-16
Sau đây là những gì xảy ra trong trận chiến mà tôi đã chứng kiến. Trước khi nói đến trận đánh, tôi xin sơ lược về quần đảo Hoàng Sa.
Quần đảo Hoàng Sa (gọi chung là Paracels) cách bờ biển Đà Nẵng 180 hải lý về phía đông. Như quí vị thấy trong bản đồ, quần đảo Hoàng Sa gồm một số đảo ghi trong bản đồ quây quần nhau làm thành một lòng chảo, muốn vào bên trong lòng chảo đó phải theo hai lộ trình mà chúng tôi thường gọi là cái « pass ». Một cái ở giữa đảo Hoàng Sa và đảo Cam Tuyền. Cái kia ở giữa bãi đá ngầm Antelope và đảo Quang Hòa.
Bản đồ này tỷ lệ xích quá nhỏ nên các đảo chỉ bằng lóng tay hay chỉ là những dấu chấm. Hoàng đảo Hoàng Sa không chỉ có bấy nhiêu đảo trong bản đồ mà còn một số đảo khác nữa nằm rải rác ở phía đông bắc. Những đảo trong bản đồ là những đảo tận cùng phía nam của quần đảo Hoàng Sa . Nhìn vào bản đồ, quí vị thấy các đảo rời nhau, có khoảng trống ở giữa, những tàu bè không chạy qua được vì đá ngầm và san hô ở dưới mặt nước, chỉ ra vào lòng chảo bằng hai cái « pass » tôi nói ở trên.
Quần đảo Hoàng Sa có đảo lài, có đảo cao nhưng cũng chỉ cao hơn mặt biển chừng vài chục thước. Các đảo phần nhiều trơ trụi, hiếm có cây cao, toàn đá lởm chởm, chỗ cao chỗ thấp, ít có nơi bằng phẳng. Gần bờ thì có đá ngầm, san hô. Hết đá ngầm, san hô thì biển rất sâu. Đáy biển cũng có đá nên neo tàu không an toàn. Quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa không thể lập căn cứ hải quân được vì không có chổ ẩn núp cho tàu bè, chỉ có thể lập căn cứ trên đảo mà thôi.
Tất cả các đảo đều không có nước ngọt, trừ đảo Hoàng Sa mà chúng tôi thường gọi là « đảo khí tượng » vì có đài khí tượng do người Pháp thiết lập và sau này luôn luôn có nhân viên khí tượng Việt Nam làm việc cho đến ngày trận chiến Hoàng Sa xảy ra. Người Pháp xây một hồ chứa nước bên trong nhà, có các máng xối hứng nước mưa chuyền vào bên trong hồ chứa để dùng cho cả năm.
Trên đảo Hoàng Sa mấy năm đầu tiên có một trung đội Thủy Quân Lục Chiến trấn giữ. Về sau vì nhu cầu chiến trận, Thủy Quân Lục Chiến phải rời đảo và được thay thế bởi Địa Phương Quân của tiểu khu Quảng Nam. Họ phải ở trên đảo Hoàng Sa vì chỉ đảo này mới có nước ngọt. Thủy Quân Lục Chiến hay Địa Phương Quân đều được trang bị xuồng cao su để di chuyển quanh các đảo mà kiểm soát.
Sau khi biết tổng quát vị trí các đảo, quí độc giả có thể theo dõi diễn tiến trận chiến Hoàng Sa sau đây. Tôi cũng xin thưa trước là những gì xảy ra tôi không nhớ chính xác giờ giấc, chỉ phỏng chừng. Nhưng những sự kiện thì xác thực. Ngày giờ và sự kiện xảy ra đều có ghi trong «nhật ký hải hành» và «nhật ký chiến hạm» nhưng nay không có thể tham khảo được.
Ngày 15 tháng 1 năm 1974 tàu tôi, HQ-16, được lệnh ra công tác đảo Hoàng Sa, chở theo một cố vấn Mỹ và một Thiếu tá bộ binh thuộc Quân đoàn 1 (mà nay tôi không còn nhớ tên).
Tàu khởi hành tối ngày 15 tháng 1 năm 1974 và đến Hoàng Sa sáng 16 tháng 1 năm 1974. Khi đến nơi, Địa Phương Quân trên đảo thấy tàu đã lái xuồng ra đón viên Thiếu tá Bộ binh lên đảo. Trong khi chờ đợi đưa Thiếu tá Bộ binh về lại Đà Nẵng, tôi vận chuyển tàu rời đảo Hoàng Sa ra biển, thả trôi tàu gần đảo Quang Hòa. Tôi lấy ống nhòm nhìn lên các đảo chung quanh để ngắm nhìn phong cảnh và tiêu khiển thì giờ.
Khi nhìn lên đảo Quang Hòa thì thấy có một dãy nhà sườn gỗ còn đang xây cất dở dang, chỉ có sàn nhà, chưa có mái. Tôi thấy lạ, liền gọi máy về Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải (BTL/HQ/VIZH) hỏi thì nơi đây hỏi lại tôi là có biết người nào trên đó không? Tôi trả lời chỉ thấy bốn, năm người di chuyển tới lui nơi dãy nhà đang xây cất chứ không biết là ai. Họ ăn mặc thường dân, có người ở trần, nhưng có nhà xây cất thì chắc là người ngoại quốc mà không ai khác hơn là Trung Cộng, vì cách đảo Quang Hòa chừng 20 hải lý về phía đông bắc có căn cứ của Trung Cộng, cũng nằm trong quần đảo Hoàng Sa.
HQ-16 vẫn thả trôi tàu để chờ Thiếu tá Bộ binh và chờ lệnh từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải.
Trưa ngày 16 tháng 1 năm 1974 một chiến hạm Trung Cộng xuất hiện trong vùng.
Tối ngày 17 tháng 1 năm 1974 Bộ Tư Lệnh Hải Quân gởi ra một toán người nhái do HQ-4 chở ra. Toán người nhái này rời HQ-4 bằng xuồng cao su để lên HQ-16.
Sáng ngày 18 tháng 1 năm 1974 HQ-5 và HQ-10 có mặt ở khu vực Hoàng Sa. Đại tá Hải quân Hà Văn Ngạc ở trên HQ-5 là người chỉ huy cuộc chiến.
HQ-5 do Trung tá Phạm Trọng Quỳnh (khoá 11) chỉ huy. HQ-16 do tôi, Trung tá Lê văn Thự (khoá 10) chỉ huy. HQ-4 do Trung tá Vũ Hữu San (khoá 11) chỉ huy. HQ-10 do Thiếu tá Ngụy Văn Thà (khoá 12) chỉ huy.
Khoảng 10 giờ sáng ngày 18 tháng 1 năm 1974 Đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh cho tôi đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo Hoàng Sa, sau đó cho toán người nhái đổ bộ lên đảo Quang Hòa và một toán của HQ-16 lên giữ đảo Vĩnh Lạc.
Sau khi đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo Hoàng Sa, tôi vận chuyển HQ-16 bên trong lòng chảo để đến gần đảo Quang Hòa đổ bộ toán người nhái lên đảo thì một tàu Trung Cộng xuất hiện, cản trước mũi, không cho tàu tôi tiến gần đến đảo (xin xem hình 1).
Tôi phải ngưng máy, vận chuyển để tránh đụng tàu. Nhưng cả hai tàu cũng cọ vào nhau làm dẹp một số trụ căng dây an toàn chung quanh tàu Trung Cộng và làm rách bè nổi của tàu Trung Cộng. Nhờ xáp lại gần, tôi thấy tàu Trung Cộng số hiệu 271, dài chừng 70 mét, có súng tương đương với súng 76.2 ly, 40 ly, 20 ly và đại liên 12.7 của tàu tôi. Tàu Trung Cộng nhỏ hơn tàu tôi nhưng vận chuyển nhanh nhẹn hơn.
Tôi báo cáo với Đại tá Ngạc những gì xảy ra. Sau đó tôi lái tàu ra khỏi lòng chảo và đổ bộ toán người nhái vào mặt ngoài biển (mặt nam) của đảo Quang Hòa vào chiều ngày 18 tháng 1 năm 1974. HQ-16 chỉ ở cách xa bờ một, hai hải lý rồi người nhái thả xuồng cao su có trang bị máy mà chạy vào bờ chứ HQ-16 không thể vào sát bờ được vì đá ngầm và san hô. Toán người nhái rời tàu chừng non một tiếng thì gọi máy báo cáo là ở trong bờ bắn ra. Tôi hỏi người liên lạc máy là có thấy người ở trên bờ không và các anh đã lên được bờ chưa? Họ trả lời là đang lội nước ngang ống chân, còn vài chục thước nữa mới tới bờ. Họ cũng cho biết là không thấy người trên bờ.
Vài phút sau thì nghe báo cáo là một Thiếu úy người nhái bị bắn chết. Họ xin rút lui vì không thể vào bờ an toàn được. Tôi báo cáo với Đại tá Ngạc và xin cho người nhái rút lui. Toán người nhái đã trở về lại HQ-16.
Chiều ngày 18 tháng 1 năm 1974, khoảng 6 giờ, Đại tá Ngạc gọi máy cho tôi và ra lệnh cho tôi chỉ huy HQ-10, bằng mọi giá phải đổ bộ cho được toán người nhái lên đảo Quang Hòa. Sau khi đại tá Ngạc ra lệnh này xong, thì từ đó về sau tôi không còn nghe lệnh lạc gì thêm từ Đại tá Ngạc nữa.
Đến tối ngày 18 tháng 1 năm 1974 máy liên lạc âm thoại giai tần đơn bị Trung Cộng phá rối tần số, không liên lạc được. Tôi không thể gọi Đại tá Ngạc, HQ-4 hay bộ tư lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải. Tôi chỉ liên lạc được với HQ-10 bằng máy PRC-45 là loại máy truyền tin xách tay, chỉ liên lạc được trong vòng 10 hải lý.
Sau khi nhận lệnh, tôi nghĩ chỉ còn cách đổ bộ toán người nhái vào ban đêm mới may ra lên được đảo, nhưng chưa chắc toán người nhái đã vào trót lọt được vì có thể tàu Trung Cộng theo dõi và liên lạc chỉ điểm cho người của họ trên đảo canh chừng để bắn khi người nhái vào bờ. Ngoài ra thức ăn, nước uống không có, làm sao toán người nhái có thể hoạt động lâu hơn một ngày được, và ít nhất cũng phải có một tiểu đội hay trung đội Thủy Quân Lục Chiến đổ bộ gần bờ yểm trợ cho toán người nhái khi họ rút lui nếu bị phát hiện hay khi gặp lực lượng địch mạnh hơn. Vì thế, muốn thi hành lệnh của Đại tá Ngạc, tôi nghĩ chỉ còn cách là phải tiêu diệt tàu Trung Cộng trước rồi mới tính chuyện đổ bộ người nhái lên đảo sau.
Lúc này phía Trung Cộng xuất hiện thêm hai chiếc tàu nữa cùng loại với chiếc đã có trước.
Tôi gọi Thiếu tá Thà HQ-10 và nói ý định của tôi: Đêm nay HQ-16 và HQ-10 ra thật xa đảo, làm tối chiến hạm (không cho ánh sáng lọt ra ngoài) để tàu Trung Cộng không biết chúng tôi ở đâu. Sáng mai (19 tháng 1 năm 1974) sẽ tiến vào lòng chảo. HQ-16 vào cái “pass” gần đảo Hoàng Sa, HQ-10 vào cái “pass” gần đảo Quang Hòa (xin xem hình 2).
Tôi cũng nói với Thiếu tá Thà là anh cũng như tôi, phải cố gắng hết sức mình. Nếu một trong hai đứa mà loạng quạng, chỉ còn lại một, thì bọn chúng (ba chiếc tàu Trung Cộng) xúm lại, mình không thể nào chống nổi.
Đêm hôm đó (18 tháng 1 năm 1974) khoảng nửa đêm, tôi tập họp thủy thủ đoàn HQ-16 để thông báo ngày mai sẽ tiến vào đánh tàu Trung Cộng. Tôi cũng nói với thủy thủ đoàn là tất cả mọi người phải can đảm, cố gắng hết sức mình, ai làm phần việc của mình cũng phải nhanh nhẹn, chính xác mới mong thắng và còn sống. Nhất là các ổ súng và toán phòng tai phải lo chuẩn bị trước, xem xét lại súng ống, đạn nước phải đem từ hầm đạn lên để sẵn ở các ụ súng, ống nước cứu hoả phải trải sẵn ra. Máy bơm nước phải sẵn sàng.
Sáng ngày 19 tháng 1 năm 1974 HQ-16 và HQ-10 tiến vào lòng chảo như dự định.
Tôi gọi máy cho Thiếu tá Thà và nói là nếu chừng nào thấy tôi khai hỏa là phải khai hỏa theo liền.
Khi HQ-16 và HQ-10 qua khỏi hai cái “pass” và vừa tầm súng, tôi quay ngang tàu HQ-16 đưa phía hữu hạm của HQ-16 hướng về ba tàu Trung Cộng. Mục đính của tôi là để tận dụng tất cả súng từ mũi ra sau lái. Nếu hướng mũi tàu về phía tàu Trung Cộng thì chỉ sử dụng được hỏa lực ở phía trước mũi thôi.Với lợi thế sử dụng tối đa hỏa lực nhưng cũng có cái bất lợi là hứng đạn của địch nhiều hơn. Nhưng vì tôi đánh phủ đầu tàu Trung Cộng nên phải sử dụng tối đa hỏa lực. So với tàu Trung Cộng, tàu tôi có đủ loại súng tàu Trung Cộng có, ngoài ra còn có thêm khẩu 127 ly mà tàu Trung Cộng không có. HQ-10 chỉ có hỏa lực ngang bằng tàu Trung Cộng.
Khi đang tiến vào lòng chảo, tôi đã mừng thầm khi thấy ba tàu Trung Cộng đều ở trong lòng chảo, tức là những mục tiêu tốt cho HQ-16 và HQ-10 tác xạ. Nếu chúng ở rải rác, chiếc trong chiếc ngoài lòng chảo thì tôi cũng chưa biết tính sao vì tàu Trung Cộng tuy nhỏ nhưng linh động hơn, nếu chúng ra ngoài biển thì khó bắn trúng hơn vì nó nhỏ và chạy nhanh, còn tàu tôi lại là mục tiêu tốt cho tàu Trung Cộng vì to con nên nặng nề, chậm chạp nên dễ lãnh đạn hơn. Nhưng nay thì cả ba tàu địch bị vây trong vòng chảo vì hai cái “pass” đã bị HQ-16 và HQ-10 chặn rồi.
Khi đã ở đúng vị trí và vị thế dự định (xin xem hình 2), HQ-16 cách HQ-10 chừng một hải lý, hai tàu HQ-16 và HQ-10 cách ba tàu Trung Cộng từ 3 đến 4 hải lý, tôi ra lênh lần chót: các ổ súng phải luôn luôn theo dõi mục tiêu, mục tiêu nào thuận lợi thì bắn mục tiêu đó. Sau khi hỏi tất cả các ổ súng đã sẵn sàng chưa, tôi ra lệnh khai hỏa.
HQ-16 và HQ-10 đứng yên một chỗ còn ba tàu Trung Cộng di chuyển loanh quanh sát vòng cung lòng chảo gần đảo Duy Mộng và bắn trả chúng tôi.
Tôi hy vọng trong 5,10 phút là triệt hạ được tàu Trung Cộng vì khai hỏa trước và sử dụng tối đa hỏa lực trong khi tàu Trung Cộng bị tấn công bất ngờ vì ngày hôm trước, tàu tôi bị họ chặn, tôi bỏ đi mà không có gì xảy ra nên họ không ngờ rằng tôi sẽ tấn công họ.
Mười phút trôi qua mà chưa thấy tàu Trung Cộng hề hấn gì, tôi bắt đầu sốt ruột, trong khi đó tôi nghe tiếng lách tách, lép bép trên trời như tiếng pháo bông, giữa tàu tôi và HQ-10 và về phía HQ-10 nhiều hơn. Tôi nghĩ chắc là đạn thời chỉnh tức là đạn tự động nổ mà không cần chạm mục tiêu. Trận chiến vẫn tiếp tục. Chừng khoảng phút thứ 20 hay 30, tôi thấy một tàu Trung Cộng bốc khói, một tàu khác có thể bị trúng đạn làm hư hệ thống tai lái nên tàu cứ xoay quanh như gà trống chạy lòng vòng trước khi đạp mái.
Tiếp đến HQ-10 báo cáo Hạm trưởng bị thương. Tôi ra lệnh Hạm phó lên thay quyền chỉ huy, đồng thời đặt ống nhòm nhìn sang HQ-10 tôi thấy một ngọn lửa nhỏ cháy ở đài chỉ huy có thể dập tắt được bằng bình CO2 mà sao không ai làm. Quan sát phía sau lái HQ-10 tôi thấy 4, 5 cái đầu nhấp nhô trên mặt biển. Tôi không biết chuyện gì xảy ra trên HQ-10 vì không nghe báo cáo gì thêm. Tôi đoán chừng vì Hạm trưởng bị thương nặng nên HQ-10 như rắn mất đầu. Một số nhỏ nhát gan sợ tàu cháy hay trúng đạn nổ nên đã nhảy xuống biển. Nhưng HQ-10 vẫn nổi bình thường, thăng bằng, không nghiêng một chút nào cả.
Sau đó hầm máy hữu HQ-16 báo cáo trúng đạn ở lườn tàu dưới mặt nước. Nước tràn vào tàu.Trung sĩ điện khí Xuân bị thương. Nhân viên cứu hỏa tìm cách bít lỗ thủng. Chừng vài phút sau, tàu bắt đầu nghiêng. Hầm máy báo cáo lỗ thủng bít không được vì nước vào quá mạnh, chỗ thủng nằm trong kẹt không có chỗ cho nhân viên cứu hỏa xử dụng đà chống để chặn tấm bố và tấm gỗ bít lỗ thủng. Nước ngập đến đầu gối. Tôi ra lệnh nếu không bít được lỗ thủng thì đóng nắp hầm máy lại đừng cho nước chảy ra khỏi hầm máy. (Tôi nhớ hầm máy hữu trúng đạn mà trong bài viết của ông Dân thì lại viết là hầm máy tả !).
Tàu chỉ còn một máy tả và một máy điện, phòng vô tuyến liên lạc truyền tin bị gián đoạn vì mất điện. Nhận thấy tình thế không thể tiếp tục chiến đấu được nữa, tôi vận chuyển tàu quay trở ra theo cái “pass” đẻ rời lòng chảo.
Tàu mỗi lúc một nghiêng thêm (trên 10°) và chỉ còn một máy nên vận chuyển rất khó khăn. Hầm máy hữu báo cáo nhân viên phải rời hầm máy vì tàu sắp chìm.
Thấy độ nghiêng của tàu đến mức gần hết độ an toàn, có thể tàu sẽ lật, nên tôi ra lệnh: toàn thể nhân viên vào nhiệm sở đào thoát vì sợ họ không còn thì giờ đào thoát kịp. Ra lệnh xong, tôi nắm lấy tay lái tiếp tục lái thay cho nhân viên ra nhiệm sở.
Trong khi tôi đang lái thì Đại úy Hiệp, cơ khí trưởng, chạy lên đài chỉ huy, nói với tôi: “Vì sao hạm trưởng cho nhiệm sở đào thoát? Tôi đang ráng làm cân bằng tàu”. Tôi nói là tàu mỗi lúc một nghiêng thêm, không biết sẽ lật chìm lúc nào nên phải chuẩn bị đào thoát.
Lúc này tàu nghiêng đã đến độ bão hòa (không nghiêng thêm nữa) vì nước đã vào đầy hầm máy. Tôi cho giải tán nhiệm sở đào thoát và vào lại nhiệm sở tác chiến. Lúc này ở đài chỉ huy có Trung úy Đoàn Viết Ất, tôi nói với Trung úy Ất: “Tàu nghiêng như thế này, khó mà lái ra biển an toàn được, chắc tôi phải ủi tàu vào đảo khí tượng (đảo Hoàng Sa) để cố thủ và chờ HQ-4, HQ-5 tiếp viện”. Trung úy Ất nói với tôi: “Xin Hạm trưởng đừng ủi tàu vào đảo khí tượng. Mình sẽ bị Trung Cộng bắt làm tù binh. Làm tù binh Trung Cộng thì kể như chết rục xương trong tù, không còn thấy cha mẹ, vợ con, quê hương xứ sở. Xin Hạm trưởng cứ lái ra biển. Tàu có chìm thì đào thoát vẫn còn cơ may sống sót. Nếu chết thì chết trên biển vẫn sướng hơn”.
Bây giờ viết lại câu nói này của Trung úy Ất tôi vẫn còn xúc động đến chảy nước mắt. Nghe Trung úy Ất nói, tôi suy nghĩ thêm: Nếu tôi cứ ủi vào đảo khí tượng thì cũng không thể nào ủi sát vào bờ được vì gần bờ đá ngầm rất nhiều. Nếu ủi, tàu sẽ mắc cạn, lườn tàu sẽ bị đá ngầm rạch nát, nước sẽ vào thêm, tàu sẽ hoàn toàn tê liệt mà thủy thủ đoàn cũng không thể nào lên đảo được. Do đó tôi tiếp tục lái tàu ra khỏi “pass” đồng thời ra lệnh nhân viên hướng súng về đằng sau và về phía quần đảo Hoàng Sa canh chừng tàu Trung Cộng truy kích theo.
Khi rời Hoàng Sa, tôi hết sức ân hận đã bỏ lại trên đảo một toán nhân viên 8 người do Trung úy Liêm chỉ huy khi có lệnh đưa nhân viên lên giữ đảo. Trung uý Liêm và toán nhân viên sau đó đã mạo hiểm vượt biển bằng bè vì không muốn Trung Cộng bắt làm tù binh. Sau hơn mười ngày lênh đênh trên biển, bè trôi về tận ngoài khơi Qui Nhơn, được ngư phủ cứu và đưa vào bệnh viện Qui Nhơn cấp cứu. Họ vượt biển mà không chuẩn bị thức ăn nước uống nên Hạ sĩ quản kho Nguyễn Văn Duyên đã chết vì kiệt sức khi đưa vào Qui Nhơn.
Ra khỏi “pass” tôi hướng tàu về Đà Nẵng, lúc này khoảng 5 – 6 giờ chiều ngày 19 tháng 1 năm 1974. Tàu chỉ còn một máy và nghiêng nên chạy chậm. Khi trời bắt đầu tối, tàu cách Hoàng Sa chừng 15 hải lý. Lúc này tôi mới thở ra nhẹ nhõm vì chắc tàu Trung Cộng cũng bị thương tích cả người lẫn tàu nên không truy kích tàu tôi. Bây giờ mối lo khác lại đến với tôi là tàu có thể lật chìm bất cứ lúc nào nếu có sóng chếch xuôi rất dễ làm tàu lật. Tôi cho nhân viên chuẩn bị các bè nổi, xem xét lại cách xử dụng để khi hữu sự thì làm cho nhanh chứ khi tàu lật thì không có thì giờ mà mò mẫm.
Lúc này hệ thống truyền tin vừa được sửa chữa xong. Nhân viên vô tuyến báo cáo tình trạng chiến hạm về Bộ Tư lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải, nhưng không thấy HQ-4 và HQ-5 lên tiếng. Một tin làm bàng hoàng mọi người trên chiến hạm là Trung sĩ Điện khí Xuân trút hơi thở cuối cùng vì vết thương quá nặng mà không được săn sóc đúng mức.
Đại úy Hiệp mang họa đồ chiến hạm các khoang hầm trên tàu lên đài chỉ huy cho tôi biết đã làm cân bằng tàu bằng cách bơm nước và dầu từ hầm này sang hầm khác và dồn về phía tả hạm, nhưng tàu cũng không bớt nghiêng bao nhiêu. Đại úy Hiệp nói: “Bây giờ chỉ còn cách bơm xả nước ngọt và dầu ra biển may ra mới làm tàu bớt nghiêng”. Xả nước ngọt và dầu ra biển thì tôi rất ngại mà cũng không chắc là khi xả xong tình trạng có khá hơn không hay lại tệ hơn vì phải biết trọng tâm con tàu trước và sau khi xả nằm ở đâu rồi mới dám làm.
Học môn lý thuyết thuyền bè trong trường Hải Quân nhưng ra trường lâu ngày và gặp lúc hữu sự, lại không còn nhớ cách tính trọng tâm con tàu nên tôi không dám bảo Đại úy Hiệp làm và giữ nguyên tình trạng như vậy mà chạy về Đà Nẵng. Cũng may nhờ biển rất êm nên không có gì xảy ra.
Sáng 20 tháng 1 năm 1974, khoảng 7 – 8 giờ, tàu vào vịnh Tiên Sa Đà Nẵng nhưng tôi không vận chuyển cặp cầu được. Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải phải xin tàu dòng từ Ty Thương Cảng Đà Nẵng, kẹp ngang hông HQ-16 mà cặp cầu quân cảng Đà Nẵng.
Cặp cầu xong, Thủy xưởng Đà Nẵng sang bơm dầu, nước ngọt ra, làm nhẹ tàu cho tàu nổi lên rồi tìm cách bít tạm lỗ thủng dưới nước (do người nhái lặn xuống nước mà bít, tôi nhớ như vậy không biết có đúng không?). Sau đó bơm nước ngập hầm máy ra và hàn lại lỗ thủng ở hầm máy.
Ngày hôm sau, Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải xin toán tháo gỡ đạn dược từ Quân đoàn I sang để tháo gỡ viên đạn còn nằm lại trên tàu. Viên đạn được bắn vòng cầu, rơi xuống nước gần HQ-16, do tốc độ của viên đạn nên khi xuống nước gặp sức cản của nước, viên đạn không đi thẳng xuống nước mà bị lệch hướng rồi đâm vào lườn tàu HQ-16 dưới mặt nước. Viên đạn vẫn còn tốc độ di chuyển, xướt qua một góc máy điện, xuyên đứt tay Trung sĩ điện khí Xuân kế đó rồi chui vào kho điện khí ở một góc hầm máy và nằm ở đó. May là viên đạn không nổ, chứ nổ thì HQ-16 chìm tại chỗ!
Lấy được viên đạn ra, toán tháo gỡ đạn dược ngạc nhiên cho biết rằng viên đạn “made in USA” và cỡ 127 ly. Sau này truy ra mới biết là đạn do HQ-5 bắn.
Sau khi sửa chữa xong, sơn phết lại, làm sạch sẽ, chiến hạm HQ-16 được lệnh về Sài Gòn làm lễ tiếp đón chiến hạm trở về từ Hoàng Sa. Phần thượng tầng kiến trúc của chiến hạm bị lỗ chỗ các lỗ thủng do đạn 40 ly và 20 ly bắn vào vẫn để y nguyên, mục đích cho dân chúng Sài Gòn ai tò mò muốn xem chiến hạm dự trận Hoàng Sa về ra sao, khi lên tàu xem sẽ thấy dấu tích còn để lại trên tàu. Tàu cặp cầu B ở bến Bạch Đằng.
Trong buổi lễ tiếp đón, tôi cùng 4 – 5 nhân viên được Tư Lệnh Hải quân gắn huy chương. Sau buổi lễ dân Sài Gòn được lên xem tàu.Và phóng viên BBC là ông Tôn Thất Kỳ phỏng vấn tôi. Ông hỏi tôi có thấy máy bay phản lực Trung Cộng dự chiến trong trận Hoàng Sa không? Tôi trả lời là tôi không thấy.
Ngày hôm sau, Khối Chiến Tranh Chính Trị Bộ Tư Lệnh Hải Quân (lúc đó Đại tá Trần Văn Triết làm trưởng khối thì phải), phái một Thiếu úy hay Trung úy (mà tôi không nhớ tên hay cấp bậc), xuống HQ-16. Anh ta nói với tôi “Tại sao Hạm trưởng trả lời phỏng vấn đài BBC là không thấy phản lực cơ Trung Cộng?”
Tôi trả lời vị sĩ quan đó: “Anh về nói lại trên Bộ Tư Lệnh là tôi không thấy nên tôi trả lời không có. Nếu Bộ Tư Lệnh muốn tôi nói có thì phải báo trước cho tôi biết”.
Tôi nghĩ nguồn tin này do Đại tá Ngạc báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân nên Bộ Tư Lệnh Hải Quân muốn tôi trả lời phỏng vấn cho phù hợp với nguồn tin. Cũng như Đại tá Ngạc báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân: HQ-10 và HQ-16 mất tích.
Lúc HQ-16 về Sài Gòn, tôi nghe nói lại (không biết có đúng không) là khi nhận được tin HQ-16, HQ-10 mất tích, Đại tá Võ Sum,
Trưởng khối Truyền tin Hải quân, đã dùng con lắc (một loại dụng cụ cảm ứng) để xem thử HQ-16 còn hay mất. Tôi không nghe nói kết quả của việc dùng con lắc này.
Tường thuật của Bùi Ngọc Nở
Tôi phải liệt kê các tài liệu đã đọc để nói lên một điều là các cấp chỉ huy trực tiếp của trận đánh đã lên tiếng, những người thuộc các chiến hạm tham dự trận đánh đã lên tiếng như HQ4, HQ10 và HQ16, ngoại trừ HQ5. Nay tôi một người thuộc Tuần Dương Hạm HQ5 (Soái Hạm) trực tiếp tham dự trận đánh, buộc lòng phải lên tiếng và thấy cần phải lên tiếng, đặc biệt là sau khi đọc bài “Sự Thật Về Trận Hải Chiến Hoàng Sa” của HQ Trung Tá Lê Văn Thự, Hạm Trưởng HQ16. Tôi rất ngạc nhiên sau khi đọc xong bài này, ngạc nhiên vì một Hạm Trưởng có mặt từ đầu đến cuối trận chiến, sự hiểu biết của Hạm Trưởng Thự rất là hạn chế và có rất nhiều điều sai lầm, nếu không muốn nói là bôi bác 2 chiến hạm bạn là HQ4 & HQ5. Hạm Trưởng Thự nói (trích nguyên văn): “Chính tôi là người chỉ huy HQ16 mà cũng không biết những hoạt động của HQ4 và HQ5 làm sao ông Dân biết được”, “Tôi không biết gì về hoạt động của HQ4 và HQ5 cũng như nhiệm vụ của họ”, “Sự thật là HQ4 và HQ5 chỉ ở vòng ngoài chứ không tham dự trận chiến trong lòng chảo”, “Suốt trận chiến, HQ4 và HQ5 làm gì tôi không được biết”, “Sự thật là HQ4 và HQ5 chẳng bị trầy một mảnh sơn nào cả. Cả Hải Quân đều biết, vì thế cho nên chỉ một mình HQ16 được tiếp đón ở Sài Gòn và gắn huy chương chứ không có Ðại Tá Ngạc hay HQ4 và HQ5”, “Muốn thanh toán quân Trung Cộng trên đảo, tôi nghĩ không nhiều, chừng một tiểu đội mà dự định đổ bộ một toán người nhái 9, 10 thì khó mà thành công”, “Người nhái không đổ bộ trong ngày cuộc chiến xảy ra và cũng chưa bao giờ lên được đảo”, “Trước sau họ (Trung Cộng) chỉ đưa ra vỏn vẹn có 3 chiến hạm không thuộc loại tối tân”, “Toàn bài viết của Ðại Tá Ngạc (về trận chiến Hoàng Sa) từ đầu đến cuối là sai sự thật”, v.v… và ..v.v…
Tôi không biết Hạm Trưởng Thự muốn nói đến sự thật nào và đã xảy ra ở đâu chứ không phải là trận chiến Hoàng Sa, chỉ có một sự thật được nói lên là Hạm Trưởng Thự biết quá ít về trận chiến này, nhưng tôi không có tham vọng là viết lại trận hải chiến Hoàng Sa, vì Ðại Tá Ngạc, Chỉ Huy Trưởng cuộc hành quân, Ðại Tá Khuê BTL/Hành Quân Biển và ông Trần Ðổ Cẩm đã viết rồi, tương đối đầy đủ dù không hoàn toàn chính xác, tôi cũng không nghĩ đến chuyện tranh công, cướp công hay luận công ai nhiều ai ít, tôi chỉ nói lên những điều tôi biết, tôi thấy, tôi nghe và tôi hãy còn nhớ dù nó đã xảy ra hơn 30 năm rồi. Tôi chỉ muốn sự thật hãy trả về cho sự thật, hãy trả lại công lao cho những người đã chiến đấu và đã anh dũng hy sinh và cho những người còn sống dù họ còn ở trong nước hay đang sống ở hải ngoại. Mục đích chính của tôi là muốn làm sáng tỏ và rộng đường dư luận về cái gọi là “Sự Thật Về Trận Hải Chiến Hoàng Sa” của Hạm Trưởng Thự, cho nên tôi sẽ nói nhiều về những hoạt động của HQ5 liên quan đến trận chiến này.
* * *
Ngày 16 tháng 1 năm 1974, chiến hạm tôi (Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ5) đang ở Vũng Tàu thì được lệnh ra Ðà Nẵng. Chiến hạm tôi cập cầu quân cảng Tiên Sa chiều ngày 17 tháng 1 năm 1974, ngay sau đó Hạm Trưởng HQ 5, HQ Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh lên BTL/HQ Vùng 1 Zuyên Hải họp hành quân. Họp xong Hạm Trưởng Quỳnh mang về một lệnh hành quân, mang tên Hành Quân Trần Hưng Ðạo 47, tôi đã đọc lệnh hành quân này.
Về phía ta tức lực lượng bạn tham dự cuộc hành quân gồm có:
– Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm I: HQ4, HQ16, HQ5, HQ10. – Hải Ðoàn Ðặc Nhiệm II: HQ1, HQ6, HQ17, HQ11 (ghi chú: các chiến hạm này trên đường hướng về Ðà Nẵng, nghĩa là còn xa vùng hành quân và các diển biến ở Hoàng Sa xảy ra quá nhanh, nhanh hơn dự liệu, nên hải đoàn này ít được nhắc đến). – Lực lượng Hải Kích và Biệt Hải.
Còn lực lượng địch gồm cả Hải Lục Không quân và có thể có cả tiềm thủy đĩnh nữa, chi tiết không nhớ được.
Sau đó lực lượng hải kích lên chiến hạm gồm 49 người với đầy đủ vũ khí cá nhân và hiện đại, dưới quyền chỉ huy của HQ Trung Úy Nguyễn Minh Cảnh Khoá 20 SQHQ/Nha Trang. Lúc 00:37 giờ ngày 18/01/1974 chiến hạm tôi rời quân cảng Tiên Sa, Ðà Nẵng cùng đi có HQ Ðại Tá Hà Văn Ngạc, Chỉ Huy Trưởng Hải Ðội Tuần Dương kiêm Chỉ Huy Trưởng cuộc Hành Quân. Khởi hành cùng lúc còn có Hộ Tống Hạm HQ10 do HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà làm Hạm Trưởng. Lúc đầu còn đi hải hành tập đội, nhưng vì HQ10 chỉ còn một máy chánh, chạy không được nhanh, nên sau đó HQ5 đã tăng tốc độ chạy trước. Chiến hạm tôi đến Hoàng Sa lúc 15:00 giờ ngày 18/01/1974, nơi đây đã có mặt HQ4 và HQ16. Sau đó Ðại Tá Ngạc ra lệnh 3 chiến hạm hải hành đội hình hàng dọc từ đảo Hoàng Sa tiến về đảo Quang Hòa (Duncan), tất cả đều vào nhiệm sở tác chiến, nhưng các khẩu pháo vẫn ở vị trí số 0, mục đích là quan sát, thăm dò sự hiện diện và phản ứng của địch. Khi tiến gần đến đảo Quang Hòa thì có 2 chiến hạm Trung Cộng loại Kronstad mang số 271 & 274 xuất hiện và nghênh cản, họ vận chuyển rất nguy hiểm bằng cách cắt ngang đường tiến của đội hình. HQ5 và một Kronstad có trao đổi quang hiệu, cả hai bên đều nhận đảo này thuộc chủ quyền của mình và yêu cầu phía bên kia hảy rời khỏi đảo, dĩ nhiên kết quả là không đi tới đâu. Thấy tình hình không ổn và hơi căng thẳng, Ðại Tá Ngạc ra lệnh cho đội hình quay trở lại đảo Hoàng Sa và thả trôi ở đó. Ðến chiều tối, HQ5 chuyển 16 hải kích qua HQ16 nghĩa là trên HQ5 còn lại 33 hải kích, nhận từ HQ16 một phái đoàn Công binh gồm 6 người do một Thiếu Tá làm trưởng đoàn trong đó có một cố vấn người Mỹ, sau đó vì lý do an toàn và tránh mọi rắc rối có thể xảy ra, HQ5 đã đưa phái đoàn này lên đảo Hoàng Sa.
Tối hôm đó (tối ngày 18/01/1974) trên chiến hạm HQ5 có một cuộc họp hành quân gồm 6 sĩ quan do Ðại Tá Ngạc chủ tọa, 6 sĩ quan đó là: Ðại Tá Ngạc, Hạm Trưởng Quỳnh, Hạm Phó Thông, Thiếu Tá Toàn, tôi sĩ quan Hải Hành, Xử Lý Thường Vụ Trưởng khối Hành Quân của chiến hạm và Trung Úy Cảnh chỉ huy hải kích. Ðại Tá Ngạc chia Hải Ðoàn đặc nhiệm I thành 2 phân đoàn: phân đoàn 1 gồm HQ4 và HQ5 làm nổ lực chính do Hạm Trưởng HQ 4 chỉ huy, phân đoàn 2 gồm HQ16 và HQ10 do Hạm Trưởng HQ16 chỉ huy. Có người viết gọi phân đoàn 1 thành phân đoàn 2, phân đoàn 2 thành phân đoàn 1, nhưng đây chỉ là chi tiết nhỏ và không có gì quan trọng. Hạm Trưởng Thự nói việc chỉ định Hạm Trưởng San làm phân đoàn trưởng “là sai nguyên tắc” vì Ðại Tá Ngạc ở trên HQ 5, không lẽ Hạm Trưởng San chỉ huy luôn Ðại Tá Ngạc hay sao? Tôi nghĩ đây chỉ là chuyện phân quyền, phân nhiệm cho có vì trên thực tế người chỉ huy và điều động vẫn là Ðại Tá Ngạc và Hạm Trưởng Thự, đừng quên là Ðại Tá Ngạc Chỉ Huy Trưởng cuộc hành quân bao gồm 3 lực lượng: Hải đoàn đặc nhiệm I, Hải đoàn đặc nhiệm II dù chưa hiện diện trong vùng hành quân, lực lượng Hải kích và Biệt hải.
Theo kế hoạch hành quân này, phân đoàn 1 tiến về phía Tây Nam đảo Quang Hòa, phân đoàn 2 tiến về Ðông Bắc đảo Quang Hòa, đổ bộ Hải kích và Biệt hải để chiếm lại 2 đảo là Quang Hòa và Duy Mộng, giờ xuất phát ấn định là 0400H ngày 19/01/1974. HQ10 vì chỉ còn 1 máy chánh, chạy chậm nên đã nhập vùng vào khoảng 2200H ngày 18/01/1974. Còn lực lượng Hải kích và Biệt hải được phân bổ như sau: HQ5 có 33 Hải kích, HQ16 có 16 Hải kích, HQ4 có một trung đội Biệt Hải, riêng HQ10 không có Hải kích hay Biệt hải.
0400H ngày 19/01/1974 (nhằm 27 tết) đúng giờ xuất phát, phân đoàn 1 gồm HQ4 và HQ5 rời Hoàng Sa hướng về Tây Nam đảo Quang Hòa, phân đoàn 2 gồm HQ16 và HQ10 hướng về Ðông Bắc đảo Quang Hòa. Ðúng 0600H HQ4 và HQ5 đã có mặt ở Tây Nam đảo Quang Hòa và hiện diện ở đây cho đến lúc tàn trận chiến, tôi không biết Tây Nam đảo Quang Hòa có nằm trong lòng chảo mà Hạm Trưởng Thự đã đề cập hay là còn có một lòng chảo nào khác. Khi xuất phát, chiến hạm đã vào nhiệm sở tác chiến, trên đài chỉ huy chỉ có 3 sĩ quan là Ðại Tá Ngạc, Hạm Trưởng Quỳnh và tôi là sĩ quan hải hành, Hạm Phó Thông ở trong Trung tâm Chiến báo (C.I.C.), Hạm Trưởng và Hạm Phó không cùng vị trí khi có nhiệm sở tác chiến, để khi cần còn có thể thay thế chỉ huy chiến hạm. Cả 3 đều hiện diện trên đài chỉ huy từ 0400H đến khoảng 1500H, nghỉa là từ khi bắt đầu nhiệm sở tác chiến cho đến khi giải tán nhiệm sở tác chiến. Và cũng kể từ 0400H trở đi, mọi liên lạc, báo cáo giữa soái hạm HQ5 và Ðà Nẳng, cũng như giữa các chiến hạm với nhau, tôi đều được nghe trực tiếp từ đài chỉ huy của chiến hạm, cho đến khi phòng vô tuyến của chiến hạm bị ăn mấy trái đại bác 100 ly, bị hư hại nặng, mới chuyển giao lại việc liên lạc tầm xa cho HQ4, và cũng kể từ đó không liên lạc được với HQ16 và HQ10.
Khi HQ4 và HQ5 đến nơi, tôi không thấy chiến hạm Trung Cộng đâu cả, nhưng sau đó khi phát hiện ra HQ4 và HQ5, hai chiến hạm Kronstad mang số 271 và 274 từ phía Ðông đảo Quang Hòa xuất hiện. Khoảng 0650H, Hải kích đã sẵn sàng, Ðại Tá Ngạc ra lệnh đổ bộ, Hải kích xuống xuồng cao su để vô bờ, từ chỗ chiến hạm thả trôi vô bờ cũng gần thôi, nhưng thấy xuồng không vô gần bờ mà càng lúc càng xa bờ, có lẽ có một luồng nước đã đẩy xuồng đi về một hướng khác, HQ5 phải thả “yu yu” xuống để kéo các xuồng Hải kích vô gần bờ, cả hai phía đều theo dỏi diễn tiến này, trong khi đó mạn bên kia đảo, Trung Cộng cũng đang đổ thêm quân, tôi không rõ là bao nhiêu, cuối cùng khoảng 0730H, 30 Hải kích trên HQ5 đã đặt chân lên đảo Quang Hòa, tiến vô sâu khoảng mấy chục mét, nhưng ngay sau đó đã bị quân Trung Cộng dàn hàng ngang chận lại, Ðại Tá Ngạc ra lệnh Hải kích chiếm lại đảo bằng biện pháp ôn hòa, nghỉa là nói rằng đây là đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa, yêu cầu quân Trung Cộng phải rời khỏi đảo, nên Hải kích dù trang bị tối tân nhưng súng chỉ được quyền chỉa lên trời, trong khi đó súng của quân Trung Cộng chỉa thẳng vào bụng của Hải kích, hai bên xí xô xí xào qua lại, bên này nói đảo thuộc chủ quyền của mình yêu cầu bên kia rời khỏi đảo, nghĩa là bên ta muốn chiếm lại những gì đã mất, còn bên kia cũng nói đảo thuộc chủ quyền của họ và yêu cầu Hải kích rời khỏi đảo, nghĩa là họ quyết giữ những gì đã chiếm, nhì nhằng như vậy kéo dài hơn một tiếng đồng hồ và quân Trung Cộng với súng chỉa vô bụng Hải kích, càng lúc càng đẩy lùi Hải kích về lại bải biển, nơi đã đổ bộ. Khoảng 0840H thấy tình hình như vậy, Ðại Tá Ngạc mới ra lệnh cho Trung Úy Lê Văn Ðơn trưởng toán Hải kích đổ bộ tiến về phía Ðông đảo chiếm ngọn đồi nhỏ, Trung Úy Ðơn và Hải kích mới di chuyển về phía Ðông, quân Trung Cộng liền nổ súng, bắn hạ ngay Trung Úy Ðơn (quân Trung Cộng biết rõ Trung Úy Ðơn là cấp chỉ huy) và một Hạ Sĩ Nhất người nhái tên Ðỗ Văn Long và bắn bị thương thêm 3 Hải kích khác. Thấy Trung Úy Ðơn tử thương và tình hình bất lợi, Ðại Tá Ngạc ra lệnh rút Hải kích về lại HQ5, toàn bộ Hải kích sau đó đã rút về kể cả người chết và bị thương ngoại trừ Hạ Sĩ Nhất Ðỗ Văn Long ở lại vĩnh viễn để làm chứng nhân lịch sử cho việc xâm lấn của bọn giặc đỏ Bắc phương. Quân Trung Cộng không bắn theo khi Hải kích rút đi vì mục đích của họ là chỉ muốn Hải kích rời khỏi đảo và vì e ngại các chiến hạm của ta có thể hải pháo vô đảo. Trong khi đó HQ16 và HQ4 báo cáo là đổ bộ Hải kích và Biệt hải không thành công có nghĩa là thất bại. Hạm Trưởng Thự nói: “Muốn thanh toán quân Trung Cộng trên đảo, tôi nghĩ không nhiều, chừng một tiểu đội, mà dự định đổ bộ một toán người nhái 9, 10 thì khó mà thành công”, “Người nhái không đổ bộ trong ngày cuộc chiến xảy ra và cũng chưa bao giờ lên được đảo”, điều này chứng tỏ Hạm Trưởng Thự hoàn toàn không biết gì hết dù sự việc đã xảy ra lúc đó hay đã hơn 30 năm rồi, tình hình diễn biến mỗi lúc một khác và các diễn biến này khó lường trước hết được. Ngay sau đó Ðại Tá Ngạc báo cáo mọi diễn tiến về cho Ðà Nẳng, Ðà Nẵng ra lệnh “tái đổ bộ, cố gắng lập một đầu cầu, nếu cần thì hải pháo vô đảo”. Lệnh này khá gay go: tái đổ bộ, lập một đầu cầu không dể dàng, còn hải pháo vô đảo các chiến hạm Trung Cộng đâu để yên cho mình, cuối cùng suy đi tính lại chỉ còn có cách là đấu pháo, nếu diệt được mấy chiến hạm Trung Cộng thì mới có thể đổ bộ và chiếm lại đảo. Ðại Tá Ngạc nêu đề nghị về Ðà Nẵng và xin lệnh. Ðà Nẵng chập thuận cho khai hỏa.
Ðại Tá Ngạc ra lệnh phân đoàn 2 từ Ðông Bắc đảo di chuyển về Tây Bắc đảo Quang Hòa hợp cùng phân đoàn 1, dĩ nhiên 2 chiến hạm Trung Cộng mang số 389 và 396 đã bám sát HQ16 và HQ10 từ sáng tới giờ cũng di chuyển theo. Bốn chiến hạm VNCH lập thành đội hình vòng cung từ Tây Bắc xuống Tây Nam đảo, vị trí các chiến hạm của ta tính từ trên xuống HQ16, HQ10, HQ4 và HQ5, còn các chiến hạm Trung Cộng theo đội hình hàng dọc, một kèm một và nằm bên trong vòng cung vị trí theo thứ tự từ trên xuống 389, 396, 271, 274 (xin xem phóng đồ).
Hạm Trưởng Thự nói rằng “Trước sau họ chỉ đưa ra vỏn vẹn chỉ có 3 chiến hạm không thuộc loại tối tân”. Nội 4 chiếc bám sát các chiến hạm ta từ mờ sáng cho đến lúc hải chiến đã là 4 rồi, không kể những chiếc khác mang số 402, 407, 281, 282. Hạm Trưởng Thự đứng ở đài chỉ huy, tôi cũng đứng ở đài chỉ huy, tôi nhìn thấy HQ16 và HQ10 (chiếc HQ4 nằm gần bên tôi không kể), và các chiến hạm địch tôi nhìn rõ con tàu lẫn số tàu và hãy còn nhớ như in dù đã 30 năm rồi, còn Hạm Trưởng Thự không nhìn thấy đầy đủ các chiến hạm địch và tệ hơn nữa không nhìn thấy chiến hạm bạn cho nên không biết HQ4 và HQ5 đang ở đâu và đang làm gì, tôi rất ngạc nhiên và không hiểu nổi về điều kỳ quái này. Lúc này các khẩu pháo không còn ở vị trí số không và các nòng pháo đều chỉa thẳng vào nhau, các pháo thủ của cả hai phía đều khiêng tối đa đạn lên pháo tháp của mình, chiếc này kèm chiếc kia và cũng là mục tiêu của nhau: HQ16 & 389, HQ10 & 396, HQ4 & 271, HQ5 & 274. Theo kế hoạch của Ðại Tá Ngạc, HQ10 sẽ bắn phát đạn 76ly2 lên đảo như là một tiếng súng lệnh, ngay sau đó các chiến hạm đồng loạt nhả đạn vào chiến hạm địch.
Lúc 1024H ngày 19/01/1974, Ðại Tá Ngạc ra lệnh HQ10 khai hỏa, ngay sau đó các chiến hạm ta đồng loạt bắn thẳng vào các chiến hạm địch với mục tiêu đã định, trận hải chiến Hoàng Sa bắt đầu. Trận đấu pháo giữa ta và địch bắt đầu, lúc này chiến hạm ta và địch chỉ cách nhau khoảng 1500 yards, nghĩa là hoàn toàn nằm trong tầm pháo của nhau, trên bờ quân Trung Cộng bắn trước, trên biển hải quân ta bắn trước. Vài phút sau nghe báo cáo HQ4 bị trở ngại tác xạ, 10 phút sau nghe báo cáo HQ10 sắp chìm, nhiệm sở đào thoát, 15 phút sau nghe báo cáo HQ16 cũng sắp chìm, đang nhiệm sở đào thoát. Riêng HQ5, 15 phút đầu nhả đạn như mưa về phía tàu địch tức chiếc 274, không kể đạn đại bác 40ly và 20ly, chỉ tính riêng khẩu đại bác 127ly đã bắn trên 100 quả đạn, nghĩa là cho đến khi bị bất khiển dụng vì trúng đạn đại bác 100ly của địch, làm chết trưởng khẩu, làm bị thương các pháo thủ và làm đứt tung hệ thống điện của khẩu pháo, một khẩu pháo khác là khẩu đại bác 40ly cũng bị bất khiển dụng vì trúng đạn 37 ly ngay khối cơ bẩm, làm khối cơ bẩm không di chuyển được, dỉ nhiên là không bắn được. 15 phút đầu tôi thấy HQ5 ăn đạn cũng hơi nhiều nhưng không nhiều bằng những phút sau đó. Vì sao, vì HQ10 đang chìm, HQ16 đang rời vòng giao chiến vì bị thương nặng, HQ4 đang lùi ra xa vì trở ngại tác xạ, chỉ còn lại HQ5 là soái hạm với soái kỳ trên đỉnh, mà hỏa lực lúc bấy giờ rất hạn chế, chỉ còn lại một khẩu pháo 40 ly sau lái bên hữu hạm bắn cầm cự mà thôi, trong khi đó các chiến hạm Trung Cộng quay sang “dí” HQ5, mỗi phút trôi qua, không biết bao nhiêu là quả đạn hướng về HQ5 và không trật. Ðến khoảng 1100H, thấy tình hình hoàn toàn bất lợi, Ðại Tá Ngạc ra lệnh “di tản chiến thuật”, HQ5 tăng máy rời vùng lửa đạn, hướng về phía Nam, sau đó đổi sang hướng Tây, chiến hạm Trung Cộng đuổi theo một đoan thấy vô ích nên quay trở lại.
Khoảng 1400H ngày 19/01/1974 khi ngang qua đảo Tri Tôn thì được lệnh từ Ðà Nẳng: “HQ4 và HQ5 phải quay trở lại Hoàng Sa “nếu cần thì ủi bãi”, khu trục hạm và tuần dương hạm mà ủi bải có nghĩa là tự sát, một cái lệnh không hiểu nổi, nhưng không lâu sau đó có một phản lệnh từ Ðà Nẳng, cho HQ4 và HQ5 trở về lại Ðà Nẳng.
Khoảng 1500H Hạm Trưởng Quỳnh ra lệnh giải tán nhiệm sở tác chiếm, trực chỉ Ðà Nẳng. Tôi rời đài chỉ huy đi xuống bên dưới, bên trong chiến hạm không điện, không đèn, tối thui, nhìn mọi người mặt mũi bơ phờ, đi một vòng chiến hạm thấy có quá nhiều vết đạn, phòng tai và nhân viên chiến hạm vẫn còn đang chiến đấu với thần hỏa vì hãy còn nhiều đám cháy nhỏ và phải làm ngập hầm đạn vì sợ sức nóng của lửa có thể dẫn đến việc nổ hầm đạn, người chết và bị thương rải rác khắp nơi trên chiến hạm, trời kêu ai nấy dạ, bên trong chiến hạm, nhiều nơi bị hư hại nặng ..v.v.. và.. v.v…, có điều hai máy chánh không bị suy suyển gì.
Sau một trận hải chiến, thường thì người ta chỉ nhìn thấy những thiệt hại, những đổ nát, những tổn thất trên chiến hạm của mình mà không biết, mà không nhìn thấy những thiệt hại, những đổ nát, những tổn thất trên chiến hạm khác kể cả bạn và địch. Ðêm đó khi đi ngang qua “Ballon Room”, tần ngần nhìn 7 xác chiến hữu nằm xếp hàng ngang ở đó, có 7 chết và 18 bị thương bao gồm nặng nhẹ, kể cả Hải kích và nhân viên cơ hữu. Khoảng 0700H ngày 20/01/1974, HQ5 về đến Ðà Nẵng và cập cầu thương cảng, được các đồng đội Hải Quân hoan hô mà lòng cảm thấy xót xa buồn. Về đến bến, tôi là người đi đếm lỗ đạn, từ đài chỉ huy trở xuống, từ trước mũi ra sau lái, hữu hạm và tả hạm, vì Trung Cộng xử dụng loại đạn xuyên phá, nghĩa là xuyên thủng qua lớp thép rồi mới nổ và phá ở bên trong, nên thấy lỗ nào tròn tròn, đường kính khoảng 1 tấc đích thị là nó. Tôi đếm được tất cả là 102 lỗ đạn đại bác 100ly, còn đạn đại bác 37 ly lỗ nhỏ hơn và nhiều không đếm được, riêng đài chỉ huy trúng mười mấy trái đại bác 100ly nhưng may mắn là nhờ hai lớp thép bảo vệ nên khi xuyên qua hai lớp thép này thì hết tầm và cũng nhờ Trời thương Phật độ nếu không Ðại Tá Ngạc, Hạm Trưởng Quỳnh, tôi và các nhân viên trên đài chỉ huy có thể đã đi theo cố Hạm Trưởng Ngụy Văn Thà, đâu đâu tôi cũng thấy vết đạn từ Trung tâm Chiến báo, phòng vô tuyến, phòng ngũ Hạm Trưởng, phòng ngũ sĩ quan, pháo tháp 127ly ..v.v… và ..v.v… Riêng hữu hạm phần trên mặt nước trúng ba mươi mấy quả đại bác 100ly, tàu to nên dễ bị ăn đạn, trúng đạn không có nghĩa là tàu phải chìm, sở dĩ trúng đạn nhiều mà không chìm là vì chiến hạm có hai phần, phần trên mặt nước và phần dưới mặt nước, nếu trúng phần trên chỉ gây hư hại, nếu trúng phần dưới mới nguy hiểm, mới có thể dẫn đến việc chìm tàu, vả lại hệ thống an toàn trên chiến hạm cao hơn tàu buôn rất nhiều, vẫn còn có thể cứu vãn được ngoại trừ trúng ngay chỗ nhược và có sức công phá mạnh như thủy lôi, torpedo, hỏa tiển v.v…
Sau đó Căn cứ Yểm Trợ Tiếp vận Ðà Nẵng xuống sửa chữa khẩn cấp và tạm thời, để chiến hạm có thể đi hành quân tiếp. 102 lỗ đạn 100ly, chỉ hàn khẩn cấp ba mươi mấy lỗ đạn bên hữu hạm và gần mực nước vì sóng gió lớn có thể làm nước biển tràn vào bên trong, còn những lỗ đạn khác chỉ vá, cắt một miếng lưới tròn tròn, đắp lên rồi sơn phết lại trông cũng OK, sửa hệ thống điện khẩu pháo 127ly, thay khối cơ bẩm khẩu pháo 40ly, sửa máy vô tuyến và một số linh tinh lang tang khác, còn những hư hại khác chờ về Sài Gòn sửa chữa hay thay thế, riêng boiler hệ thống lọc nước biển thành nước ngọt, mỗi ngày lọc được 8,000 gallons bị bắn bể không sửa chữa được kể cả sau khi về Sài Gòn rồi, báo hại những chuyến công tác sau đó không có nước ngọt để tắm, còn đạn dược phải khiêng lên toàn bộ số đạn đã làm ngập và khiêng xuống bằng ấy số lượng, nghĩa là phải thanh toán một cầu tàu đạn, toàn bộ sĩ quan, hạ sĩ quan và đoàn viên đứng thành một hệ thống dây chuyền, hết đưa lên rồi lại đưa xuống, từ trưa cho đến trước giờ giao thừa, xong hầu hết đều đi ngủ vì quá uể oải.
Giao thừa tết Giáp Dần 1974 toàn chiến hạm trôi qua trong yên lặng và buồn thảm, buồn thảm vì có những người bạn đồng đội mới thấy đó đã vỉnh viển ra đi, vì có nhiều việc phải lo, phải làm, lo cho người chết, lo cho người bị thương, lo báo cáo, lo sửa chữa và lo chuẩn bị để đi hành quân tiếp.
Hạm Trưởng Thự nói: “Sự thật là HQ4 và HQ5 chẳng bị trầy một mảnh sơn nào cả. Cả Hải Quân đều biết. Vì thế cho nên chỉ một mình HQ16 được đón tiếp ở Sài Gòn và gắn huy chương chứ không có Ðại Tá Ngạc hay HQ4 & HQ5”, tôi không hiểu tại sao Hạm Trưởng Thự lại lộng ngôn đến thế, nếu Hạm Trưởng Thự muốn làm anh hùng thì cứ việc, nhưng xin đừng bôi bác, xin đừng phủ nhận công lao của chiến hạm bạn và những chiến hữu của mình, đừng tạo ra những hiểu lầm tai hại vì sự mù lòa và thiếu hiểu biết của mình.
Sau khi sửa chữa tạm thời xong, nhìn từ bên ngoài HQ5 trông vẫn OK, nhưng mấy ai biết được rằng từ đầu (đài chỉ huy) và lục phủ ngũ tạng (phần bên trong chiến hạm) gần banh xà rông, vẫn còn ngổn ngang trăm mối, ngoại trừ hai chân vẫn còn tốt, nghĩa là hai máy chánh vẩn còn khiển dụng. Ngày mồng Một Tết Giáp Dần, chiến hạm nhận được lệnh hành quân, đi đâu? – ra lại Hoàng Sa, làm gì? – tìm kiếm người mất tích, một cái lệnh coi bộ không vui chút nào, nhưng phải thi hành lệnh thôi.
Sau vài ngày tìm kiếm người mất tích không kết quả, HQ5 có tham dự thực tập tác xạ hải pháo lên một hòn đảo trọc (không cây cối) ngoài khơi Ðà Nẳng cùng với HQ6 và HQ17, xong về lại Ðà Nẵng. Ðầu tháng 2/1974 chiến hạm tôi được lệnh rời Ðà Nẵng, trực chỉ Trường Sa, tham dự hành quân Trần Hưng Ðạo 48, Chỉ Huy Trưởng cuộc hành quân là HQ Ðại Tá Nguyễn Văn May và một lần nữa chiến hạm của tôi lại làm soái hạm. Lực lượng hành quân gồm có: Tuần dương hạm HQ5 (soái hạm), Tuần dương hạm HQ17, Hộ tống hạm HQ07 và Hải vận hạm HQ405 chở theo một tiểu đoàn Ðịa phương quân thuộc Tiểu khu Phước Tuy, mục đích là chiếm đóng và duy trì chiếm đóng 4 đảo còn đang bỏ trống thuộc quần đảo Trường Sa vì không muốn tái diễn Hoàng Sa thêm một lần nữa, 4 đảo này là Sơn Ca, Song Tử Tây, Sinh Tồn và đảo Trường Sa. Trước đó năm 1973 Hải quân VNCH đã chiếm đóng và duy trì chiếm đóng đảo Nam Yết, đảo lớn nhất thuộc chủ quyền của VNCH và là đảo lớn thứ nhì sau đảo Thái Bình thuộc Trung Hoa Quốc Gia. Lực lượng hành quân đi một vòng đổ bộ tiểu đoàn Ðịa phương quân lên các đảo kể trên cùng các quân trang, quân dụng, vũ khí đạn dược, lương thực, thực phẩm, nước ngọt ..v.v. và ..v.v…., kết quả hoàn toàn tốt đẹp mà không gặp bất cứ một sự kháng cự nào vì lúc đó trên đảo chỉ có chim và vích.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ các chiến hạm HQ17, HQ7 và HQ405 rút về, chỉ còn lại soái hạm HQ5 chạy vòng vòng 5 đảo để tuần tiểu, yểm trợ, tiếp tế, nói chạy vòng vòng chớ mấy đảo này cách nhau rất xa, hết 15 ngày về Vũng Tàu nghĩ bến, tiếp tế sửa chữa linh tinh 2 ngày, lại ra Trường Sa 15 ngày cứ như thế cho đến giữa tháng 4/1974 nghĩa là gần 3 tháng sau ngày xảy ra trận chiến, soái hạm của trận hải chiến Hoàng Sa mới được lệnh về Sài Gòn. Trong khi đó các lực lượng tham chiến và các thành phần liên quan đều đã lượt lượt trở về Sài Gòn hết rồi, từ HQ16 được về sớm nhất, những người đào thoát từ HQ10, HQ4, những người đào thoát từ đảo thuộc HQ16, rồi đến 48 tù binh bị Trung Cộng bắt giữ bao gồm Hải quân, Ðịa phương quân và Công binh trong đó có 1 cố vấn Mỹ, riêng soái hạm rời vùng lửa đạn sau cùng, ăn đạn nhiều nhất và cũng là chiến hạm về lại Sài Gòn chót nhất. Dầu trở về muộn màng, HQ5 cũng được đón tiếp, hoan hô và sau đó có nhiều phái đoàn xuống chiến hạm ủy lạo và tặng thưởng, tổng số tiền mà các phái đoàn ủy lạo kể cả trước đó ở Ðà Nẵng nằm giữa con số một triệu rưởi và hai triệu đồng tiền VNCH thời điểm 1974, điều này cũng đủ để an ủi, cũng đủ để ấm lòng dù hãy còn nhiều áy náy vì sứ mạng không thành.
Khi về lại Sài Gòn, tôi có nghe được những lời đồn đại đầy ác ý và bôi bác về Ðại Tá Ngạc, nào là trong khi hải chiến Ðại Tá Ngạc sợ quá bò lăn bò càng trên đài chỉ huy, nào là sợ quá tìm chỗ ẩn núp ..v.v… Tôi đứng cạnh Ðại Tá Ngạc trên đài chỉ huy từ 0400H đến 1500H, nào có thấy gì đâu, ổng lo điều động, chỉ huy, báo cáo, nhận lệnh còn thì giờ đâu mà lo mà sợ, vả lại cái lon Ðại Tá của ổng đâu cho phép ổng làm như vậy, nếu ổng không anh hùng thì tôi chắc chắn là ổng cũng không hèn.
Ngay chuyện trước mắt đây, Hạm Trưởng Thự nói: “Toàn bài viết của Ðại Tá Ngạc (trận hải chiến Hoàng Sa) từ đầu đến cuối là sai sự thật”. Ðại Tá Ngạc là người trực tiếp chỉ huy trận đánh, mấy chục năm sau ngồi xuống, nhớ lại viết về trận đánh này có thể không hoàn toàn đầy đủ, có thể không hoàn toàn chính xác, có thể có một vài nghi vấn, nhưng không thể hồ đồ kết luận rằng tất cả đều sai sự thật, ngoại trừ phi Ðại Tá Ngạc bị lú lẫn, mà tôi tin rằng Ðại Tá Ngạc thì không, điều khôi hài là sự kết luận này lại đúng cho chính Hạm Trưởng Thự, nhiều điều trong bài viết của Hạm Trưởng Thự là hoàn toàn sai sự thật, tôi có thể khẳng định như vậy. Hạm Trưởng Thự đã nhiều lần tự xác nhận là mình không biết gì về nhiệm vụ và hoạt động của HQ4 và HQ5, không biết trước, trong và sau hải chiến, HQ4 và HQ5 đang ở đâu và đang làm gì thì tốt hơn hết là Hạm Trưởng Thự xin hãy dựa cột mà nghe, đừng có lên tiếng, lên tiếng làm chi, rồi còn hết sự thật này tới sự thật kia, những sự thật trời ơi đất hởi để làm phiền lòng nhau, phiền lòng nhau không phải bởi những điều Hạm Trường Thự nói đúng sự thật, mà bởi những điều nói sai sự thật. Hãy trả sự thật về với sự thật dù là nó không trọn vẹn, không hoàn hảo, còn cái gọi là “Sự Thật Về Trận Hải Chiến Hoàng Sa” xin được trả lại cho Hạm Trưởng Thự để khỏi phiền toái cuộc đời.
Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã làm tất cả những gì có thể làm được để bảo vệ quê hương và vùng biển thân yêu, nhưng lịch sử có những nghiệt ngã của nó, đã đưa đẩy chúng ta đến chỗ đau lòng, nhìn nước mất nhà tan và vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa lần lượt rơi vào tay bọn quỷ đỏ Bắc phương, và xin hãy nhớ cho một điều quan trọng, chúng ta chỉ có một kẻ thù duy nhất là bọn giặc đỏ Bắc phương.
Bùi Ngọc Nở- HQ5
 Không quân Việt Nam Cộng Hòa lên kế hoạch giành lại Hoàng Sa
Đại tá Nguyễn Thành Trung đang kể về kế hoạch không kích giành lại Hoàng Sa vào năm 1974
Đại tá Nguyễn Thành Trung đang kể về kế hoạch không kích giành lại Hoàng Sa vào năm 1974
Đại tá Nguyễn Thành Trung, Anh hùng lực lượng Vũ trang nhân dân, là phi công được “Việt Cộng” cài vào Không quân Việt Nam Cộng Hòa thời chiến tranh. Lâu nay người ta thường biết đến ông qua các sự kiện như vụ ném bom Dinh Độc Lập, cuộc không kích phi trường Tân Sơn Nhất vào giai đoạn sắp kết thúc chiến tranh và công lao trong quá trình xây dựng lực lượng không quân cũng như hàng không dân dụng của Việt Nam thời bình. Nhưng bên cạnh những câu chuyện đã trở nên nổi tiếng nói trên, ông còn có một bí mật để kể.
Trong căn nhà yên tĩnh ở quận Gò Vấp, TP.HCM, phi công huyền thoại Nguyễn Thành Trung kể lại cho chúng tôi câu chuyện mà ông giấu kín suốt 40 năm qua, từ sau trận Hải chiến Hoàng Sa bi tráng.
Sẵn sàng không kích
“Quay lại thời điểm năm 1974, Không quân Trung Quốc chỉ có MiG 21 do Liên Xô sản xuất, là loại máy bay phòng vệ, chứ không phải tấn công. Phòng vệ là đánh trên đất mình, ai vào thì mình đánh nên tầm bay rất ngắn. Phi công của mình (miền Bắc) ngày xưa cũng vậy, các anh không bay xa, bay lên đánh được hay không được khi hết thời gian là phải về, nếu bay quần nữa là không có dầu. MiG 21 rất hạn chế về dầu. Đó là tôi chưa nói đến phi công, phi công Trung Quốc lúc đó không thể bay biển được, phi công của mình ngoài Bắc cũng thế, mấy ảnh ít bay ra biển lắm. Bay ra biển là cả một vấn đề, môi trường bay biển khác hẳn môi trường bay đất liền. Giữa trời và biển rất lẫn lộn, phi công rất dễ thao tác nhầm. Như anh (Bùi Thanh) Liêm, phi công vũ trụ, bay ra biển đâm xuống biển. Anh (Hoàng Mai) Vượng cùng biên đội với tôi đánh sân bay Tân Sơn Nhất, đánh xong bay ra biển nhào xuống biển liền. Với phi công phe XHCN thời đó, bay biển là một vấn đề, nên tôi đánh giá phi công Trung Quốc năm 1974 không có gì, không thể bay ra biển, không dám chiến đấu trên biển, trong khi ở miền Nam, chúng tôi bay trong đất liền, bay ra biển giống nhau, bay ra Hoàng Sa, Trường Sa là bình thường”, Đại tá Nguyễn Thành Trung dẫn dắt chúng tôi trở lại quá khứ, trước khi kể về kế hoạch của Việt Nam Cộng Hòa sử dụng máy bay F-5 không kích tái chiếm Hoàng Sa.
Sau khi bị mất đảo, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phản ứng như thế nào? Theo ông Nguyễn Thành Trung, Mỹ chỉ nói kiểu hàng hai, vì lúc đó Mỹ và Trung Quốc đã thông đồng rồi. “Còn ông Thiệu thì tức và quyết tâm làm một cái gì đấy để lấy tiếng vang. Lúc bấy giờ, theo tôi làm thế là hoàn toàn đúng. Mày cướp nước tao thì tao phải đánh mày một trận, còn giữ được hay không tính sau. Tao phải đánh mày một trận để cho mày bỏ tính hung hăng đi”, phi công Nguyễn Thành Trung diễn giải.
Vào thời điểm xảy ra Hải chiến Hoàng Sa, ông Trung là phi công của Không đoàn 63 chiến thuật đóng ở Biên Hòa. Có 5 phi đoàn F-5 ở Biên Hòa, 1 phi đoàn F-5 ở Đà Nẵng. Tổng thống Thiệu liền ra lệnh điều 4 phi đoàn F-5 từ Biên Hòa ra Đà Nẵng, chỉ giữ lại 1 phi đoàn ở Biên Hòa. Theo biên chế thời đó, mỗi phi đoàn 24 chiếc; 5 phi đoàn có khoảng 120 chiếc và 150 phi công
“Khi ra đến Đà Nẵng, chúng tôi nhận được lệnh chuẩn bị đánh để lấy lại Hoàng Sa và trước nhất muốn đánh là phải đánh cái hạm đội của Trung Quốc”, ông Trung nhớ lại. Trong kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa bằng không quân, đại tá Nguyễn Văn Sỹ làm Không đoàn trưởng, cấp trên chỉ huy là chuẩn tướng Nguyễn Văn Tường, còn gọi là Tường “Mực”, da đen thui, là Phó sư trưởng Sư đoàn 3. Ở cấp phi đoàn, phi đoàn 536 có trung tá Đàm Thượng Vũ, phi đoàn 520 có trung tá Nguyễn Văn Dũng, phi đoàn 540 có trung tá Nguyễn Văn Thành, phi đoàn 542 có trung tá Nguyễn Ngọc Quang, phi đoàn 538 ở Đà Nẵng thì có trung tá Nguyễn Văn Giàu làm chỉ huy.
Theo phương án họp bàn ở Đà Nẵng, trước hết máy bay sẽ tấn công tàu Trung Quốc vì “họ đi ra Hoàng Sa của mình là bằng tàu thôi, mình mà diệt hạm đội này là họ cụt ngòi”. Máy bay sử dụng cho chiến dịch là loại F-5 và F-5E, loại có bình xăng phụ.
“Cất cánh từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa, tụi tôi thừa sức đánh với họ trong 20 phút, thừa dầu bay về Đà Nẵng. Cự ly từ Hải Nam ra Hoàng Sa xa hơn Đà Nẵng ra Hoàng Sa chút xíu, nhưng không quân Trung Quốc chỉ có MiG-21, ra tới Hoàng Sa thì không còn dầu để quay về. Thế nên, về không quân thì tụi tôi chiếm ưu thế, Trung Quốc không có gì. MiG-21 không dám bén mảng ra Hoàng Sa, mà ra đến đấy tụi tôi đánh cũng rớt, hoặc không có dầu về. F-5 vừa mang bom, tên lửa, vừa có súng, hai bên 2 cây 20 li, mỗi bên cánh 2 quả bom và chùm 3 quả ở giữa, hai bên đầu cánh là 2 tên lửa đối không Sidewinder. Hỏa lực của F-5 hồi đấy là quá mạnh. Về tương quan lực lượng là chúng tôi chiếm ưu thế, nếu đánh Hoàng Sa thì tôi xem như một cuộc dạo chơi, không có gì phải lo cả”, đại tá Nguyễn Thành Trung kể.
Sau khi các phi đội từ Biên Hòa bay tới Đà Nẵng, máy bay do thám RF-5A được điều ra Hoàng Sa để chụp ảnh. Đây là loại máy bay có thời gian hoạt động trên không rất lâu. RF-5A chụp ảnh chi tiết hết địa hình các đảo, mặt biển trong bán kính 100 km, ghi lại hình ảnh các chiến hạm Trung Quốc. Hình ảnh thu được cho thấy Trung Quốc tập trung tàu quanh Hoàng Sa khá nhiều. “Chúng tôi cho phóng to hình ảnh ra và được chỉ huy đơn vị tập trung hết 120 phi công lại nghe thuyết trình. Chúng tôi đếm từng chiếc tàu một, thậm chí số hiệu tàu chúng tôi cũng đọc được. Không có tàu lớn, tàu trung bình thôi, tàu nhỏ thì nhiều”.
“Nhấn hết xuống biển”
Các phi công đếm được khoảng 40 chiếc tàu, xác định được vị trí và hướng di chuyển của số tàu đó. Sau khi nắm được tình hình thì đại tá Sỹ chia tấm bản đồ thành 4 miếng và mỗi miếng được giao cho một phi đoàn, trách nhiệm của mỗi phi đoàn là làm sạch mảnh bản đồ được chia.
“Ví như ô của tôi có 15 chiếc, ô của anh có 20 chiếc thì nhiệm vụ của anh và của tôi là trong một ngày phải cho những chiếc tàu đó chìm hết xuống biển, không có chiếc nào nổi được nữa”, ông Trung giải thích. “Các phi đoàn phải làm sạch, nhấn hết xuống biển và tôi đảm bảo là 100% sau một ngày tất cả 40 chiếc tàu đó không còn chiếc nào sống sót. Máy bay mà đánh tàu thì quá dễ, tàu nó chạy chậm, tốc độ khoảng 20 hải lý/giờ thì không có cách nào trốn được. Nói thiệt là xe tăng còn chạy không được huống gì tàu, xe tăng mà chạy là tụi tôi đánh lật ngửa hết, cho nên tàu trên biển mà đánh là trong tầm tay”.
Theo trí nhớ của ông Trung, các phi công lúc bấy giờ cho rằng nhiệm vụ khá dễ, chỉ trong vòng 12 giờ là tàu Trung Quốc sẽ chìm hết. “Mà việc đó là chắc chắn đến 100%, không có trận nào mà chắc chắn như thế”, người phi công kỳ cựu lặp lại.
Lúc bấy giờ, quyết tâm của Không quân Việt Nam Cộng Hòa, từ lãnh đạo đến chỉ huy, phi công là rất cao. “Khí thế dữ lắm, các anh có sống ở thời điểm đó mới biết người Việt Nam chúng ta yêu nước như thế nào”.
Lúc bấy giờ, ông Trung là một sĩ quan cấp úy. “Mấy ông cấp tá, mấy ông lãnh đạo, chỉ huy phát biểu trong cuộc họp rằng: Đánh với Việt Cộng là chỉ đánh chơi thôi, không có sướng. Đánh với Trung Cộng mới là đánh cho nên tôi nói thật với các ông, đánh trận này, tụi tôi đi đánh trước. Cấp đại tá, trung tá, thiếu tá đánh trước, đánh cho họ biết người Việt Nam là như thế nào, đánh một trận cho họ từ bỏ ý định, bớt hung hăng, sau khi chúng tôi chết hết rồi mới đến cấp úy các ông đi đánh”, ông kể lại và nói thêm: “Nói thế để biết người Việt Nam yêu nước như thế nào, vì đánh với Trung Quốc mới là đánh giặc xâm lăng, cho nên mấy ổng bảo chừng nào tụi tôi chết hết mới đến các anh”.
Chiến đấu cơ F-5 của Không quân Việt Nam Cộng Hòa
Chiến đấu cơ F-5 của Không quân Việt Nam Cộng Hòa
Theo lời kể của đại tá Nguyễn Thành Trung, lúc bấy giờ tất cả phi công đều tình nguyện ký vào lá đơn “Thề được chết cho Hoàng Sa”. Tất cả phi công đều tuyên thệ sẵn sàng chết cho Hoàng Sa và ai cũng coi đó là cái chết rất vinh hạnh. “Trận đánh này chúng tôi chuẩn bị rất kỹ và phần thắng là chắc chắn 100%, vì tàu không thể chạy nổi. Mỗi tàu một quả bom là xong và khí thế ấy nó luôn hừng hực trong lòng mỗi người Việt Nam, hừng hực trong mỗi phi công”.
Kế hoạch không kích, theo lời ông Trung, là tuyệt mật, chỉ có những người tham gia mới biết. Chỉ huy cấp cao trong quân đội, nếu không có nhiệm vụ liên quan trực tiếp tới việc triển khai chiến dịch, đều không biết được.
Một kế hoạch phản công được chuẩn bị công phu với “khả năng chiến thắng là 100%”, nhưng rốt cuộc đã không thể diễn ra do Mỹ cảnh báo Tổng thống Thiệu không được hành động. Lúc bấy giờ, Mỹ đã làm lành với Trung Quốc và chấp nhận làm ngơ để Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa.
Đối với những người như đại tá Nguyễn Thành Trung, 40 năm đã trôi qua nhưng những kỷ niệm ngày ấy vẫn còn mới nguyên, và trong lòng mỗi một cựu phi công F-5 thuở nào luôn canh cánh một nỗi niềm, rằng đã không được chiến đấu và được chết trong cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa thân yêu.
“Nếu ngày đó chiến dịch diễn ra đúng kế hoạch thì bây giờ và các thế hệ con cháu đỡ biết bao nhiêu. Bây giờ Trung Quốc đã chiếm đóng bất hợp pháp ở Hoàng Sa rồi, cái di sản, cái gánh nặng để lại cho các thế hệ con cháu Việt Nam thật là quá nặng nề”, ông Trung nói.