Thứ Hai, 3 tháng 11, 2025

CHỮ VÀ NGƯỜI 400 NĂM

 

Nhà thơ Hoàng Hưng nói: ở VN có không ít trí thức nổi tiếng còn nhầm lẫn Alexandre de Rhodes chính là Bá Đa Lộc, người sinh sau Alexandre de Rhodes những 150 năm. Đó là chưa kể khi Đà Nẵng muốn đặt tên đường Alexandre de Rhodes để tôn vinh người tạo nên chữ Việt- quốc ngữ có nhiều nhà văn hoá, tiến sĩ viết thư phản đối vì coi ông là người “lính thực dân”.
Đạo diễn Trần Văn Thuỷ kể rằng, một tay bia rượu khi say, tè trên đê sông Hồng đã phát hiện ra tấm bia đá từng đặt ở đền Bà Kiệu, Bờ Hồ tôn vinh Alexandre de Rhodes. Còn tại tp HCM người ta đã gỡ bảng tên đường Alexandre de Rhodes nhưng rất may chính thủ tướng Võ Văn Kiệt đã yêu cầu gắn lại tên đường như hiện nay.
Đặc biệt, tháng 11 năm 2018 hơn 20 nhân sĩ trí thức người Việt đã đến mộ Alexandre de Rhodes tại Iran đặt tấm bia đá viết chữ Việt, tưởng nhớ và tôn vinh ông. Trong đoàn nhân sĩ trí thức ấy có nhà văn Hoàng Minh Tường.
Một ý tưởng thôi thúc nhà văn, tại sao lại không viết một cuốn tiểu thuyết về lịch sử ra đời chữ quốc ngữ- chữ Việt để tỏ lòng biết ơn những ai đã tạo nên chữ quốc ngữ- chữ Việt này?
Sáng 1.11 Sài Gòn mưa như chưa bao giờ được…mưa. Khắp các ngả đường úng ngập. Hoàng Minh Tường bồn chồn ngó mưa, không hiểu có khấn vái cầu mong cha Francisco de
Pina và cha Alexandre de Rhodes phù hộ gì không để buổi chiều ra mắt sách “Chữ và người 400 năm”của mình viết về cha Pina và cha Rhodes trời ráo tạnh.
Trời ráo tạnh thật. Nhưng tại sao lại có chuyện cầu xin cha Pina bên cạnh cha Rhodes? Vậy cha Pina là ai?
Gã kể: ngày 4.7.2018 tại Lisbon có cuộc hội thảo về vai trò của cha Francisco de Pina cùng
các giáo sĩ Bồ Đào Nha với văn hoá Việt Nam, nhà thơ Hoàng Hưng và gã từ VN xa xôi tự đến dự. Tại hội thảo gồm các nhà nghiên cứu văn hoá, lịch sử, công giáo Bồ Đào Nha ấy gã phát biểu: ở VN hầu như bạn trẻ nào cũng biết cầu thủ Ronaldo nhưng cũng hầu như không bạn trẻ nào biết cha Pina. Tôi chỉ có quyền thay mặt tôi xin lỗi đến đất nước Bồ Đào Nha nơi đã sinh ra cha Pina người có công đầu tiên và lớn nhất tạo nên chữ Việt để cha tôi viết nên câu thơ thật đẹp về mùa thu:
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
Để nhạc sĩ Phạm Duy hát lên bản giao hưởng tiếng Việt: Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi!
Thế rồi gã kể tiếp: trong thư viện Lisbon có một cuốn sách cổ mới chỉ có 9 người VN đọc. Đó là bút tích của cha Pina phiên âm tiếng Việt qua chữ La tinh có đầy đủ các dấu. Các chữ Việt ấy được chép trên các khuôn nhạc. Chưa có ngôn ngữ nào trên thế giới được coi như âm nhạc như vậy. Vâng, cha Pina giáo sĩ đến VN năm 1617 chính là người đầu tiên và có công lớn nhất tạo nên chữ Việt ấy.
Nhà văn Hoàng Minh Tường sau cuộc viếng mộ Alexandre de Rhodes đã bỏ ra 6 năm trời tìm hiểu, sưu tập tư liệu lịch sử chứng minh sự hình thành chữ Việt ở thế kỷ 17 như thế nào. Ông đã kỳ công lần theo dấu tích của các giáo sĩ Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha đến Đàng Trong và Đàng Ngoài để chứng minh sự thật lịch sử về vai trò của cha Pina và cha Rhodes sáng tạo nên chữ Việt.
Hoàng Minh Tường bằng tài năm và lòng tri ân của mình, trong tiểu thuyết 400 trang, lần đầu tiên đã khắc hoạ cả một không gian, một thời đại sinh động, bi hùng của người Việt cùng các giáo sĩ Francisco de Pina và Alexandre de Rhodes tạo nên chữ Việt như thế nào.
Tri ân và biết ơn là phẩm chất rất quý của người Việt. Chúng ta đã đem lại sự công bằng khi tôn vinh cha Alexandre de Rhodes. Hy vọng với những gì nhà văn Hoàng Minh Tường được sự đồng hành của Nxb Phụ nữ và Thái Hà book cùng sự cổ vũ của giới nghiên cứu ngôn ngữ, lịch sử văn hoá dân tộc, đã đến lúc dù quá muộn chúng ta công bằng và biết ơn, tri ân người có công đầu tạo nên chữ quốc ngữ- chữ Việt đó là cha Francisco de Pina mà ngày 15.12 sắp tới tròn đúng 400 năm ngày ngài đã mất do bị bão biển tại Quảng Nam.
Gã xin ghi lại một số cảm tưởng của người đọc sách.
Nguyễn Thuỳ Linh một bạn trẻ tham dự buổi ra mắt sách:
Dù máu các cha và các con chiên đi theo tiếng gọi của Đức Tin đã đổ, nhưng tiếng Việt được khắc họa bằng kí tự Latin vẫn còn, và cuốn kinh đầu tiên vẫn còn, với sự thật như sau:
Cha Pina là người đặt nền móng cho chữ Quốc ngữ và phương pháp ghi âm tiếng Việt bằng ký tự Latin. Cha Alexandre de Rhodes thừa nhận đã học tiếng Việt và cách ghi âm từ Cha Pina.
Dù ai đó có những nhận định khác biệt, theo nhiều góc nhìn khác biệt, tôi nghĩ lòng biết ơn dành cho các cha nên là điều bất cứ ai sử dụng chữ Việt hiện nay nên có. Nhân ngày Lễ Các Thánh, xin kính dâng lời tri ân sâu sắc đến Cha Francisco de Pina – người đã gieo hạt chữ đầu tiên để tiếng Việt được đặt để trong khuôn vàng thước ngọc, và Cha Alexandre de Rhodes – người đã vun đắp, hệ thống hóa để chữ Quốc ngữ lan tỏa. Nguyện xin các ngài được hưởng vinh quang nơi Thiên Chúa, và công lao của các ngài mãi được ghi nhớ trong tâm hồn người Việt.”
Nhà văn Dạ Ngân:
Đường Sách SG như được trời đất tri ân, sáng mưa nhưng xế chiều bỗng ráo đẹp, rất đẹp (và khi buổi toạ đàm kết thúc thì lại mưa). Có lẽ chưa khi nào cử toạ đông đủ và trang trọng suốt buổi như vậy. Dường như không thiếu ai, những anh tài, những fbker nổi tiếng, nhà văn nhà thơ dịch giả, những biên tập và nhà làm sách cùng rất nhiều sinh viên.
Cũng phải thôi. Đến để nghe cội nguồn mẫu tự latin có tự khi nào và có nhờ ai từ 400 năm trước, để tự mình điều chỉnh suy nghĩ có thể bị lệch do định kiến do cứ sử phiến diện và cứng nhắc, hoặc chỉ để lắng nghe cảm xúc ngân nga trong lòng câu hát của một nhạc sĩ tài danh - một nhà văn hoá của VN ta, rằng "Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời người ơi".
Xin được nói lời cảm ơn với Hoàng Minh Tường trong nghĩa cử tri ân này với Người xưa và với Tiếng Việt. Thật bất ngờ anh Tường à, anh đã làm một việc lớn, rất lớn cùng sự đồng hành của GS khả kính Nguyễn Đăng Hưng, nhà báo Lưu Trọng Văn, nhà thơ Hoàng Hưng và nhiều anh chị em người Việt ta trong hành trình đi tận nơi để tri ân bên mộ phần và cố quốc của những Cố đạo đã mang Đức tin đến, ở lại và làm ra những viên gạch đầu tiên cho con đường latin hoá tiếng Việt của chúng ta.
Nhà văn Nguyễn Quang Lập:
CHỮ VÀ NGƯỜI 400 NĂM…một cuốn sách thú vị, nhiều sử liệu quí, nhiều chương, nhiều trang thật hay. Qua đây tôi mới biết cha đẻ chữ quốc ngữ là Gm De Pina chứ không phải Gm d Rhodes, Gm de Rhodes có công trong việc bổ túc, hoàn chỉnh và truyền bá chữ quốc ngữ . Tuy vậy tôi vẫn tiếc phần công lao của de Rhodes được viết hơi ít, chỉ chú trọng trong truyền giao chứ không viết nhiều về việc bổ túc, hoàn chỉnh và truyền bá chữ quốc ngữ, đặc biệt việc phát triển từ từ điển Việt- Bồ sang đến từ điển Việt- Bồ- La. Dù vậy cũng quí hoá lắm rồi. Theo tôi đây là một trong những tiểu thuyết lịch sử đáng đọc nhất của văn học Việt.
Tiến sĩ vật lý Nguyễn Thế Hùng:
Một tráng ca lịch sử thấm đẫm xúc cảm. Nhà văn đã tái hiện một giai đoạn lịch sử- văn hoá cực kì quan trọng của đất nước, nhắc ta nhớ tới những ân nhân của chữ nghĩa mà 400 năm qua tưởng như đã bị lãng quên.



Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2025

Dặm dài ký ức: Lần tìm dấu xưa Trần Trung Hí Viện

 Những năm 1980, trong những lần đi công tác ở Thủ Dầu Một, buổi chiều tôi chạy xe quanh chợ Thủ và một lần đã bất ngờ khi nhìn thấy cái rạp hát xây theo kiểu Tây trên đường Hai Bà Trưng. Nó cũ kỹ, rêu phong nhưng thật sự có vẻ đẹp riêng của một phế tích không chống chọi nổi với thời gian và thiếu sự chăm sóc.

    Trong thời gian đầy khó khăn đó, hầu hết nhà cửa đều xơ xác nên dáng vẻ tiêu điều của rạp hát này không làm cho ai xốn mắt. Tuy nhiên, rạp Thanh Bình, tên của nó, mỗi tối vẫn sáng đèn diễn cải lương cho bà con xem với các đoàn cải lương như Sông Bé 1, Sông Bé 2. Nó vẫn tiếp tục hoạt động như lúc mới được chào đời từ năm 1930. Người dân Thủ Dầu Một vẫn gọi cái tên cũ là Trần Trung Hí Viện hoặc là “rạp hát Trần Trung”, “rạp hát của ông chủ Hiếu”, cho dù nó được đổi tên là rạp Thanh Bình từ năm 1954. 

    Ông chủ Hiếu thời cải lương thạnh trị

    “Ông chủ Hiếu” là tên người chủ xây rạp hát - Trần Trung Hiếu, còn được gọi là ông Hương chủ Hiếu, xuất thân từ danh gia vọng tộc bậc nhất vùng đất Bình Dương trù phú và hiền hòa này. 

    Theo cuốn Gia phả dòng họ Trần Thủ Dầu Một do bà Nguyễn Thị Minh Phượng là con cháu trong họ biên soạn năm 2018, ông Trần Trung Hiếu (1876 - 1944) lúc sinh tiền cai quản những trại cưa gỗ ven đường Nguyễn Tri Phương do cha là ông Trần Văn Long truyền lại.

    Ông Hiếu có bốn người con trai du học bên Pháp, trong đó ba người là bác sĩ và một là dược sĩ. Họ là những người Việt tốt nghiệp ngành y dược tại Pháp đầu tiên của tỉnh Thủ Dầu Một.

    Sau, ông Hiếu chuyển sang làm thầu xây dựng (thầu khoán). Ông có nhiều đóng góp trong giai đoạn phát triển của vùng đất Thủ Dầu Một thời gian 1920 - 1940 với các công trình kiến trúc bề thế như rạp hát Trần Trung, những dãy nhà cổ trên đường Bạch Đằng, Nguyễn Thái Học, Hai Bà Trưng… 

    Góc trái của rạp. Bộ ảnh do Ngô Kế Tựu chụp khoảng năm 2012. Một thời gian ngắn sau đó, rạp đã bị đập ra xây lại.


    Khi nhắc đến ông, nhiều người còn nhớ con rạch mang tên Hương chủ Hiếu. Thời Pháp thuộc, căn phố đầu của dãy phố cổ nhất chợ Thủ nằm trên đường Bạch Đằng và đường Điểu Ông có nóc nhà màu đỏ của bà Phạm Thị Lý do ông cho xây lại thành căn phố hai tầng, có ban công ngó ra sông Sài Gòn tại chỗ bãi tắm ngựa. Ông còn là “ông chú” của nha sĩ Trần Công Vàng học tại Pháp về (chủ ngôi nhà cổ tuyệt đẹp Trần Công Vàng đến nay đang được con cháu sử dụng và bảo tồn). 

    Ông Hiếu xây rạp hát ở cuối thời kỳ thịnh vượng nhất thời thuộc địa, trước khi khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra. Giống như nhiều biệt thự thời đó, rạp hát của ông ảnh hưởng kiểu cách kiến trúc Pháp. Rạp do kiến trúc sư người Pháp vẽ kiểu, xây xong có tên là Trần Trung Hí Viện. Vẻ đẹp của rạp nằm ở các chi tiết trang trí, ô gió, chạm trổ, đắp nổi ở mặt tiền. Nóc rạp nhô cao chính giữa, phía dưới có hàng chữ “Thủ Dầu Một” nằm trên cây đàn lyre, biểu tượng cho nghệ thuật phương Tây. Hai pho tượng thiếu nữ bằng xi măng ngồi ở hai góc cột trang trí trên nóc đang đánh đàn (có người cho là hình tượng hai cô gái phương Tây ôm đàn luth và đàn harpe). Bước qua bậc tam cấp đi qua hành lang là tới phòng bán vé ở hai bên. Trên tường treo các bức ảnh của nghệ sĩ, các tấm áp phích giới thiệu phim với nhiều tranh ảnh tài tử hấp dẫn trong phim. Cầu thang dẫn lên lầu nằm phía bên trái cửa chính.

    Hai pho tượng thiếu nữ ngồi đánh đàn trên nóc rạp. Cuốn Buồn vui đời nghệ sĩ của soạn giả Nguyễn Phương có nhắc đến một chuyện ly kỳ ma quái liên quan đến hai pho tượng ở đây khi đoàn Việt kịch Năm Châu về diễn vở Tây Thi gái nước Việt ở rạp này năm 1952.


    Rạp hát ra đời đúng thời thạnh trị của sân khấu cải lương. Năm 1931, đoàn cải lương Phước Cương của ông bầu Cương cùng các ngôi sao Năm Phỉ, Bảy Nhiêu sang biểu diễn nhiều tháng ở Pháp và thành công rực rỡ, sau đó ra diễn ở Hà Nội và các tỉnh cũng được hoan nghênh. Cả nước đều mê say xem cải lương. Là người kinh doanh nhạy bén, ông Trần Trung Hiếu nắm bắt cơ hội đó. Rạp hát của “ông chủ Hiếu” ra đời chuyên hát cải lương là niềm vui của người dân Thủ Dầu Một và các vùng lân cận. Từ nay họ không cần phải đi ghe hay đi xe điện về Sài Gòn coi cải lương nữa.

    Chiến tranh chống Pháp nổi lên khắp nơi từ 1945 - 1954 ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của rạp hát. Năm 1949, một sự kiện bi thảm đã xảy ra ở đây. Một hôm, nhiều người tụ tập tại dãy nhà bên hông sân khấu để đánh bài. Khi họ đang chơi thì có một người vào xin tiền. Người này bị đuổi ra, tức giận nên đi báo cho lính Pháp là Việt Minh tụ tập tại rạp. Hai lính Tây cầm súng đi tới, bắn xối xả vào đám người. Mấy chục người bị bắn chết, chỉ một may mắn sống sót. Câu chuyện kinh hoàng đó gây dấu ấn sâu đậm trong trí nhớ của người lớn tuổi vùng này (theo tác giả Hoàng Anh).

    Nóc rạp nhô cao chính giữa, phía dưới có hàng chữ “Thủ Dầu Một” nằm trên cây đàn lyre, biểu tượng cho nghệ thuật phương Tây.


    Rạp vẫn tiếp tục hoạt động khi ổn định trở lại. Bài viết Trần Trung Hí Viện, thanh bình thuở xưa của ông Lâm Quang Khải, cư dân cố cựu ở Thủ Dầu Một nhắc đến không khí rạp hát này qua câu chuyện của người chị: “… lúc mình học lớp Nhất trường Nguyễn Trãi 1952 - 1953 đã được má mình dẫn đi xem cải lương, có khi được bà Tám chủ rạp dẫn theo cho ngồi buồng dành riêng cho chủ rạp đó. Từ lúc ấy chị Bê đã biết “Lã Bố hí Điêu Thuyền”, biết kép hát Duy Lân, bà Phùng Há, Bích Thuận, Kim Lan, Kim Cúc... Nhớ trận bão lụt năm Thìn 1952 ở Thủ Dầu Một, trường Nguyễn Trãi có làm văn nghệ bán vé giúp bão lụt, chị có được lên sân khấu lần đầu tiên trong đời trong bài hợp xướng...”. 

    Sau năm 1954, phim ảnh Pháp và Ấn Độ là trào lưu, chủ rạp không đứng ngoài cuộc. Có thể từ lúc đó, rạp đã được cho thuê để khai thác bằng cách cho chiếu phim sau khi ông chủ Hiếu mất từ hơn mười năm trước. Rạp đổi tên thành rạp Thanh Bình. Tác giả Gia phả mô tả: “Mấy cô đào Ấn và nam tài tử Ấn thường mở màn và đóng màn bằng những pha vừa nhảy múa uốn éo vặn vẹo thân mình, vừa tay chân múa may đẩy đưa bên nhau và lả lơi liếc mắt cười tình với nhau, vừa hát... in ni ca ni ca ni ca... Con nít vừa biết đọc chữ, chưa đọc được hàng phụ đề, không hiểu gì hết thì phim chiếu sáng một cảnh khác, vậy mà cũng thích đi xem phim”. 

    Góc phải mặt tiền.


    Khoảng năm 1970 (có thông tin cho là khoảng 1967 - 1968), một rạp hát khác tên Bình Minh của gia đình ông Thái (cũng là người thuê rạp Thanh Bình) khai trương, nằm trên quốc lộ 13 cũ, chuyên chiếu phim Tây và Đài Loan. Từ đó rạp Thanh Bình quay trở lại hướng ban đầu là cho các đoàn cải lương biểu diễn. “Mỗi khi có một đoàn cải lương hoặc đại nhạc hội về Thủ trình diễn, khu vực rạp hát và thành phố sinh động và nhộn nhịp hẳn lên. Có lúc xe lam, có lúc một xe hơi nhỏ phóng loa chạy vòng vòng thành phố quảng cáo gánh hát hoặc đại nhạc hội về. Có lúc họ còn phát tờ bướm quảng cáo cho biết ai sẽ diễn và diễn mấy giờ vào ngày nào. Có lúc “đắt sô” rạp có hai suất, buổi trưa và buổi chiều tối cùng ngày”.

    Bà Nguyễn Thị Minh Phượng mô tả không khí chung quanh rạp: “… các con đường dẫn đến rạp hát có xe sinh tố góc đường trước tiệm may đồ tây và vắt sổ, xe nước đá bào đậu đỏ bánh lọt, xe bán bò vò viên bên kia đường trước nhà thầy giáo Minh nhìn thẳng vào rạp hát. Những sạp nhỏ bán bánh củ cải, mì xào, hủ tiếu xào... toàn những thứ đồ ăn vặt của vợ chú Gấu trước tiệm sửa xe Honda... Đi xem cải lương xong, thấy đói thì đi thẳng đến chợ trên đường Đoàn Trần Nghiệp, trước tiệm vàng Nhựt Hưng có xe hủ tiếu mì hoành thánh và một xe bán bánh mì, hoặc có khi là quầy bán khô mực nướng…”.

    Ký ức của cô bé Lành con bà soát vé

    Bà Cao Thị Lành năm nay 70 tuổi, có mẹ làm nhân viên gác cửa, xé vé rạp hát nên từ 9, 10 tuổi đã đi theo mẹ quét rạp và phụ lặt vặt. Bà gắn bó với rạp hát từ năm 1965 đến 1983, sau lớn lên tiếp tục buôn bán quanh đó nên còn nhớ nhiều về những ngày bên rạp hát. Nhớ nhất là tấm bảng “Trần Trung Hí Viện” trên cao và bức tượng hai cô ngồi hai bên ôm đàn. 

    Bây giờ hồi tưởng lại, ấn tượng sâu đậm trong đầu bà Lành chính là hình ảnh các nghệ sĩ lui tới diễn tại rạp suốt những năm trước và sau 1975. Lành say mê ngắm nhìn các cô đào đẹp lộng lẫy, các anh kép oai phong trong vai tướng quân, dũng sĩ hay hào hoa lịch lãm trong các tuồng xã hội trên sân khấu rồi so sánh khi họ bỏ lớp trang điểm và trang phục diễn. 

    Mặt tiền Trần Trung Hí Viện. Ảnh theo bài Trần Trung Hí Viện, thanh bình thuở xưa của ông Lâm Quang Khải.


    Bà nhớ cô Thanh Nga nhỏ nhắn, tóc dài đi xe hơi chung với mẹ là bà Bầu Thơ lên diễn xong rồi về. Cô Mỹ Châu hát xong cũng về bằng xe hơi, khi nào có mẹ đi cùng mới ở lại qua đêm. Cô Lệ Thủy ở đoàn Kim Chung 5, lúc đó chưa nổi tiếng, đi xe đò từ Sài Gòn đến bến xe Phú Cường ở Thủ Dầu Một, rồi đi xe ngựa đến rạp. Kép Thanh Sang đang có người vợ đầu là cô đào Diệp Tuyết Anh tuy đã nổi tiếng nhưng thường ở lại chứ không về Sài Gòn, ăn cơm hội với đoàn cùng nghệ sĩ Diệp Lang. Hai nghệ sĩ Hùng Cường và Thành Được đẹp trai, hát hay ai cũng mê. Thành Được mũi cao, đi hát bằng xe hơi, bận pa-đờ-suy bước xuống xe là dân quanh đó bu lại nhìn mê mẩn. Kép Dũng Thanh Lâm cũng đẹp và cao lớn. Nghệ sĩ Minh Cảnh rất được ái mộ, thường hát tuồng kiếm hiệp có cảnh bay trên sân khấu. Đoàn Dạ Lý Hương với Hùng Cường - Bạch Tuyết rất thu hút khán giả. 

    Thời đó, khi diễn phải mắc micro trên sân khấu thành ba hàng chạy qua chạy lại, mỗi hàng có người kéo đến chỗ nghệ sĩ, kéo rất nhanh và rất khớp. Bàn thờ tổ đặt bên trong do đoàn mang đến đặt phía hậu trường. Mỗi nghệ sĩ khi ra hát phải vái bàn thờ tổ.  

    Dấu vết rêu phong và vẻ đẹp riêng của một phế tích không chống chọi nổi với thời gian và thiếu sự chăm sóc.


    Khoảng năm 1965, Đoàn Kim Chung với Minh Phụng, Minh Vương, Lệ Thủy, Kiều Tiên… chở theo cả nồi niêu xoong chảo, phông màn cảnh trí đến từ 4 giờ sáng để chuẩn bị diễn tối. Diễn xong, các đào kép ở lại đi ăn khuya. Họ ra chợ Thủ Dầu Một, khu đèn Năm Ngọn ăn hủ tíu, uống sinh tố, cà phê. Ban ngày, nhiều đào kép đánh bài dưới hội trường. Tối ngủ dưới sân khấu, có cái hầm xuống khoảng chục bậc cấp, mỗi gia đình một ô giăng màn che chắn. Lúc ăn cơm thì đánh kẻng cho mọi người tụ về. Cơm do bốn bà nấu bếp đi chợ mua về nấu. Các bà này kiêm luôn việc giúp bận trang phục cho đào kép, được trả lương hằng tuần. Mâm cơm của các nghệ sĩ đơn giản, chủ yếu ba món mặn, xào và canh. Một số nghệ sĩ mang theo chén đũa cho riêng mình, ăn xong tự rửa rồi cất, không dùng chung...

    Năm Mậu Thân 1968, đoàn Minh Cảnh mới hát ngày mùng một thì chiến sự nổi lên. Dân chúng ở miệt Chánh Nghĩa (khu lò chén) chạy bom đạn đến ở đầy kín rạp hát, chung chỗ với các nghệ sĩ. Họ được các nghệ sĩ hát cho nghe miễn phí. Ai cũng nói mình may mắn.

    Khi đoàn hát về diễn, luôn có chuyện một vài nam nữ trong vùng mê hát, bỏ đi theo đoàn. Khi thấy con cái bỗng dưng mất tích, cha mẹ biết ngay là có đoàn hát vừa rời rạp đi diễn nơi khác. Họ truy tìm, hỏi han xem đoàn hát đi đâu để tìm con mình về. Thời đó, có đoàn Sao Ngàn Phương về diễn rất đắt khách, dựng sân khấu kéo dài ra tận ghế khán giả để múa nên ai cũng mê. Một bà bị mất con, biết đoàn đang ở Vũng Tàu nên ra đó tìm. Đến nơi, bà thấy con đang đi mua… chai nước mắm cho đoàn bèn lôi ngay về. Có một số thanh niên trốn quân dịch đến xin các đoàn đang diễn vào đóng vai phụ, như quân sĩ. Họ được chấp nhận nếu biết ca vài câu vọng cổ, không biết ca thì làm soát vé.

    Người phụ nữ bán vé số mỗi ngày đi qua đây.


    Bên hông rạp, ông Tư Mạnh là người quản lý có nuôi một con nai lông vàng. Nai dạn người, ai cũng vuốt ve được. Con nai hiền lành đó trở thành ký ức đáng nhớ khi hồi tưởng về rạp hát này, nhất là ở các chú bé thời đó nay đang tuổi bảy mươi. 

    Sau năm 1975, các đoàn tiếp tục diễn ở đó là đoàn Sông Bé 1, Sông Bé 2, Sông Bé 3 (từ đoàn Dạ Lý Hương tách ra). Lúc đó, nghệ sĩ Vũ Linh hát cho đoàn cải lương Sông Bé 1 chưa qua hát Hồ Quảng nên chưa nổi tiếng. Cải lương Hồ Quảng có Thanh Bạch, Bạch Lê về diễn rất được ái mộ. Sau 1975, rạp xuống cấp dần. Trên la-phông có nhiều dơi cư ngụ. Người đi xem hát phải mang tấm nylon theo để ngồi vì sợ rệp cắn.

    Cách nay hơn chục năm rạp hát bị dỡ bỏ, trở thành Trung tâm Văn hóa cộng đồng phường Phú Cường. Hai bức tượng bên trên đưa đi đâu không rõ. Trần Trung Hí Viện - rạp hát Thanh Bình, sân khấu cải lương rực rỡ một thời đã kết thúc sau hơn 70 năm tồn tại, chứng kiến những đổi thay thăng trầm của Thủ Dầu Một. Không biết các nghệ sĩ từng diễn ở đó có còn nhớ Hí Viện Trần Trung? 

    Bài: Phạm Công Luận - Ảnh: Ngô Kế Tựu