Nam Kỳ chạy dài từ Biên Hòa đến mũi Cà Mau trên một diện tích rộng 65,000 km2. Dưới triều vua Gia Long Nam Kỳ có ngũ trấn. Từ triều đại vua Minh mạng đến đời vua Tự Đức Nam Kỳ có lục tỉnh.
Pháp
xâm chiếm Nam Kỳ và biến vùng đất này thành thuộc địa của họ trước khi
biến Trung và Bắc Kỳ thành đất bảo hộ. Để tiến đến việc kiểm soát an
ninh lãnh thổ họ chia Nam Kỳ ra làm 21 tỉnh. Nam Kỳ có tổ chức hành
chánh hoàn toàn khác với hai vùng đất bảo hộ ở Trung và Bắc Kỳ. Các đơn
vị hành chánh địa phương là: tỉnh, quận, tổng, xã (làng).
Đứng
đầu guồng máy cai trị Nam Kỳ có thống đốc người Pháp (gouverneur de la
Cochinchine). Các thống đốc Nam Kỳ đầu tiên đều là các tướng lãnh Hải
Quân. Đến năm 1879 Le Myre de Villers là thống đốc dân sự đầu tiên ở Nam
Kỳ
Đứng
đầu tỉnh vào thập niên 1860 là các sĩ quan Hải Quân Pháp. Danh tước thời
bấy giờ là Inspecteur des Affaires Indigènes (Thanh Tra Bản Xứ Vụ) về
sau gọi là Chánh Tham Biện (tỉnh trưởng) có một phó tham biện phụ giúp.
Sau này có chánh tham biện dân sự tốt nghiệp ENA. Dưới thời quốc trưởng
Bảo Đại (1949- 1955) người đứng đầu tỉnh ở Nam Việt là tỉnh trưởng. Chức
vụ này nằm trong tay các đốc phủ sứ.
Đứng
đầu quận có vị quận trưởng. Quận trưởng có khi là một người Pháp tốt
nghiệp ENA. Có khi là người Việt Nam. Từ năm 1949 về sau tỉnh trưởng và
quận trưởng ở Nam Việt do các nhà hành chánh Việt Nam đảm trách.
Đứng đầu tổng có cai tổng (chef de canton) do người Việt đảm nhận.
Trông
coi việc hành chánh xã có ban hội tề (Conseil des Notables) gồm có 12 vị
. Ban Hội Tề như một nội các nhỏ ở đơn vị hành chánh căn bản trong
nước. Ông Cả, ông Chủ đứng đầu ban Hội Tề thực sự chỉ là người lớn tuổi
chớ không có thực quyền. Người thực sự có thực quyền là ông xã (maire)
trong ban Hội Tề.
Người
Pháp tách rời huyện Bình An thuộc tỉnh Biên Hòa để thành lập ra tỉnh Thủ
Dầu Một. Trước kia hai tỉnh phía bắc Nam Kỳ là Biên Hòa và Gia Định
phân cách nhau bằng sông Sài Gòn. Phần đất bên hữu ngạn sông Sài Gòn
thuộc tỉnh Gia Định tức Phiên Trấn dưới triều vua Gia Long. Phần đất bên
tả ngạn sông Sài Gòn thuộc tỉnh Biên Hòa. Theo tổ chức hành chánh cũ
Thủ Đức thuộc Biên Hòa chớ không thuộc về Gia Định như sau này vì Thủ
Đức nằm về phía tả ngạn sông Sài Gòn. Tỉnh Gia Định thời nhà Nguyễn bị
mất đất vì người Pháp lập ra tỉnh Tây Ninh, Chợ Lớn, Gò Công, Tân An nên
phải an ủi tỉnh Gia Định bằng cách đưa Thủ Đức và Dĩ An thuộc Biên Hòa
cho Gia Định.
Thủ Dầu Một xưa
Huyện
Bình An đã trở thành tỉnh Thủ Dầu Một, nơi Pháp đặt chân lên sau khi
chiếm đồn Kỳ Hòa (1860). Thành Công Binh sau này do người Pháp xây dựng
lên. Người đương thời gọi là thành Pháo Thủ (artilleur) hay thành Săn Đá
do chữ soldat (lính; chiến sĩ) mà ra. Thành xây dựng nơi uốn khúc của
sông Sài Gòn. Gần đó có một cây dầu đơn độc cao ngất. Có một người leo
bắt ổ diệc và bị té chết nên ca dao địa phương có câu:
Ngó lên chợ Thủ cây dầu (1)
Có thằng bắt diệc (2) té nhào lộn xương.
Có thằng bắt diệc (2) té nhào lộn xương.
Thoát
thai từ một huyện của tỉnh Biên Hòa, tỉnh Thủ Dầu Một phải nhường bước
trước Biên Hòa về nhiều phương diện: dân số nhỏ hơn, sinh hoạt kinh tế
kém hơn Biên Hòa đôi chút. Cho đến năm 1960 Bình Dương (tên mới của Thủ
Dầu Một) chưa có tòa án. Vì vậy muốn lục khai sinh phải đi Biên Hòa.
Dưới thời Pháp thuộc tỉnh Thủ Dầu Một gồm Lái Thiêu, quận Châu Thành, Bến Cát, Dầu Tiếng, Lộc Ninh.
Trong
thời kỳ chiến tranh Việt- Pháp hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa sáp nhập
thành tỉnh Thủ Biên. Vai trò chiến lược của tỉnh Thủ Dầu Một có vẻ quan
trọng hơn Biên Hòa. Vì Thủ Dầu Một nằm gọn trong Chiến Khu D tiếp giáp
với Chiến Khu C ăn thông qua biên giới Việt- Cambodia.
– Năm
1954 Việt Nam bị qua phân. Phía bắc vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải- cầu Hiền
Lương) là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và phía nam vĩ tuyến 17 là Việt Nam
Cộng Hoà. Năm 1956 tỉnh Thủ Dầu Một được cải danh thành tỉnh Bình Dương.
Lộc Ninh- Hớn Quản nơi có nhiều đồn điền cao su tách rời khỏi Bình
Dương để trở thành tỉnh Bình Long. Bù lại một phần lãnh thổ ở hữu ngạn
sông Sài Gòn, vùng Phú Hòa Đông được sáp nhập vào tỉnh Bình Dương. Năm
1957 ba quận của tỉnh Biên Hòa là Hiếu Liêm, Tân Uyên và Phú Giáo hợp
lại thành một tỉnh mới: Phước Thành. Đến năm 1965 tỉnh Phước Thành giải
thể. Hai quận Hiếu Liêm và Tân Uyên trở về với Biên Hòa. Tỉnh Phước
Thành trở thành quận Phú Giáo thuộc tỉnh Bình Dương. Nói một cách vắn
tắt từ năm 1956 đến 1975 Bình Dương có 06 quận: Lái Thiêu, Châu Thành,
Bến Cát, Dầu Tiếng, Phú Giáo, Phú Hòa Đông. Bình Dương càng quan trọng
hơn trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam II vừa qua. Bến Cát, Dầu Tiếng, Phú
Giáo, Phú Hòa Đông được xem là vùng mất an ninh trầm trọng. Bến Cát nằm
trong vùng tam giác sắt liên hệ với Củ Chi, cửa ngõ tiến về Sài Gòn.
Từ
thập niên 1960 Bình Dương có tòa án nên cư dân không phải vất vả đi Biên
Hòa khi có chuyện kiện tụng hay sao lục khai sinh hay xin tư pháp lý
lịch.
Dưới
thời tổng thống Ngô Đình Diệm, Nam Việt (danh xưng của Nam Kỳ dưới thời
quốc trưởng Bảo Đại) được đổi thành Nam Phần. Chức Thủ Hiến được thay
thế bằng chức Đại Biểu Chánh Phủ. Ít lâu sau, vì tình hình bất an ninh,
chức Đại Biểu Chánh Phủ được chia ra làm hai:
– Đại Biểu Chánh Phủ miền đông Nam Phần
– Đại Biểu Chánh Phủ miền tây Nam Phần.
– Đại Biểu Chánh Phủ miền tây Nam Phần.
Như đã
nói, tỉnh Bình Dương càng lúc càng quan trọng hơn so với Biên Hòa khi
văn phòng toà Đại Biểu Chánh Phủ miền Đông Nam Phần và Bộ Tư Lịnh Sư
Đoàn V Bộ Binh di chuyển từ Biên Hòa về Bình Dương (Phú Lợi rồi Lai
Khê).
Sau
năm 1975 tỉnh Bình Dương được cải danh thành Bình Thủ tức Bình Long- Thủ
Dầu Một rồi Sông Bé. Mãi đến năm 1997 mới trở lại tên cũ trước năm
1975: Bình Dương.
Bình
Dương sau năm 1997 gồm 09 (chín) huyện: Thuận An (Lái Thiêu), Châu Thành
Thủ Dầu Một, Dĩ An, Tân Uyên, Bắc Tân Uyên, Bầu Bàng, Bến Cát, Dầu
Tiếng, Phú Giáo. Phú Hòa Đông nằm bên hữu gần sông Sài Gòn được trở về
với Thành Phố Hồ Chí Minh. Bình Dương bây giờ có Tân Uyên, Bắc Tân Uyên
và Dĩ An. Ba huyện này trước kia là hai quận (Dĩ An & Tân Uyên) của
tỉnh Biên Hòa. Như vậy tỉnh Bình Dương bây giờ rộng, đông dân và phú túc
về mặt kinh tế hơn Bình Dương trước 1975. Tỉnh Bình Dương có sông Sài
Gòn, sông Bé, sông Thị Tính và một phần hữu ngạn sông Đồng Nai. Núi Châu
Thới nằm trong tỉnh Bình Dương.
Tên | Năm | Diện Tich |
Bình Dương | trước 1975 | 2,000 km2 |
Bình Dương | bây giờ | 2,695 km2 |
****
Dưới
thời Pháp thuộc tỉnh Thủ Dầu Một nổi tiếng về các trại mộc (Thủ Dầu Một,
Lái Thiêu), sơn mài (Phú Cường, Tương Bình Hiệp), đồ gốm (Bình Nhâm,
Hưng Định, Thuận Giao, Phú Cường, Tân Khánh), nhà máy ép dầu (Phú Cường,
Tân Thới, Tân Khánh), đồn điền cao su (Dầu Tiếng, Lộc Ninh), đất sét
(Bình Chuẩn, Thuận Giao, Tân Khánh, Phú Chánh).
Lái
Thiêu có sông Sài Gòn và nhiều rạch (arroyos), đất mùn rất tốt cho việc
trồng cây ăn trái miền nhiệt đới. Những vườn sầu riêng, chôm chôm, măng
cụt ở Bình Nhâm, Hưng Định, An Sơn do các giáo sĩ Thiên Chúa Giáo học ở
Penang đem giống từ Mã Lai về trồng. Bình Nhâm, Nhị Bình (Gia Định), Cái
Mơn (Bến Tre) nổi tiếng về các vườn sầu riêng, măng cụt, chôm chôm vì
đó là những địa danh có tỷ lệ tín đồ Thiên Chúa Giáo cao ở Nam Kỳ vào
thế kỷ XIX. Các lò gốm ở địa phương đều do người Hoa làm chủ. Nghề mộc
phát triển. Ở Phú Long có Mộc Tổ Miếu để các thợ mộc đủ mọi ngành đến
cúng Tổ ngành mộc hàng năm.
Bến
Cát có trại chăn nuôi và trường nông lâm nghiệp đào tạo kiểm lâm
(contolleur forestier) và cán bộ canh nông. Từ Lai Khê lên Lộc Ninh, Hớn
Quản đất đỏ màu mỡ thích hợp cho cây cao su, cà phê, hồ tiêu, và cây ăn
trái không cần nhiều nước như mít, điều.
Ở Chơn Thành có Viện Nghiên Cứu Cao Su Đông Dương (IRCI: Institut de Reserche du Caoutchouc de l’Indochine).
Dầu Tiếng nổi tiếng với đồn điền cao su Michelin, tên Công Ty sản xuất vỏ ruột xe hơi nổi tiếng trên thế giới.
Thủ
Dầu Một sản xuất nhiều đậu phọng, đậu đen, đậu xanh, thuốc lá, mía trên
những cánh đồng khô hạn ở Bình Chuẩn, An Mỹ, Phú Chánh, Phú Hữu, Chánh
Lưu. Hai xã Phú Chánh và Phú Hữu còn nổi tiếng về việc trồng nghệ và ớt.
Năm
1905 chánh tham biện tỉnh Thủ Dầu Một ra lịnh cho thợ mộc dùng gỗ trong
tỉnh làm một căn nhà dựa vào kiến trúc của đình Bà Lụa để đem sang Pháp
dự cuộc Đấu Xảo Thuộc Địa ở Marseille. Ngôi nhà này được gọi là Maison
de Thudaumot (Nhà Thủ Dầu Một). Có người gọi là Temple de Thudaumot
(Đình Thủ Dầu Một vì ngôi nhà phỏng theo kiến trúc của đình Bà Lụa). Năm
1907 ngôi nhà theo kiến trúc đình miếu này được đưa về Jardin Colonial
(Vườn Thuộc Địa) ở Nogent sur Marne cách trung tâm Paris 10.6 km. Sau
khi đệ nhất thế chiến chấm dứt người ta xây tại Đình Thủ Dầu Một này một
cái Đền dành cho các công nhân và lính Việt Nam tử trận dưới lá cờ của
Pháp trong đệ nhất thế chiến. Đó là Đền Kỷ Niệm Đông Dương (Temple du
Souvenir Indochinois) tưởng niệm 1,548 người Việt Nam gồm các công nhân
phục vụ chiến trường (ouvrier non spécialisé- công nhân không chuyên
nghiệp) và lính Việt Nam chiến đấu chống quân Đức và tử trận. Đền được
khánh thành ngày 09-06-1920 với sự hiện diện của thống chế Joffre (1852-
1931) , Albert Sarraut (1872- 1962), cựu toàn quyền Đông Dương và tổng
trưởng bộ Thuộc Địa lúc bấy giờ, Alexandre Millerand (1859- 1943), thủ
tướng sau là tổng thống Pháp. Về phía Việt Nam, đại diện cho vua Khải
Định có ông Đặng Ngọc Oánh (1871- 1922). Ông Đặng Ngọc Oánh đọc diễn văn
khánh thành Đền Kỳ Niệm Đông Dương. Ông là người Biên Hòa, giỏi tiếng
Pháp, làm việc cho triều đình Huế. Ông là ngoại tổ của ông Tôn Thất
Thiện, cựu tổng trưởng bộ Thông tin, và nội tổ của nữ sĩ Đặng Ngọc Lệ
Khánh. Năm 1922 trong chuyến tây du Pháp Quốc vua Khải Định và hoàng tử
Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại sau này) có đến viếng thăm Đền Kỷ Niệm Đông Dương
từng được gọi là Đình Thủ Dầu Một này. Cũng năm 1922 Miếu Tử Trận được
khánh thành ở Thủ Dầu Một.
Cho
đến ngày đất nước qua phân Thủ Dầu Một chưa có trường trung học mà chỉ
có hai trường tiểu học lớn dành cho Nam và Nữ học sinh riêng biệt tại
tỉnh lỵ. Trường tiểu học nữ học sinh sau này là Tòa Án Bình Dương và văn
phòng toà Đại Biểu Chánh Phủ Miền Đông. Học sinh muốn học trung học
phải qua một kỳ thi tuyển gay go vào trường Pétrus Ký hay Chasseloup
Laubat. Trường Chasseloup Laubat là trường dành cho con cái các viên
chức Pháp hay con của các quan và các nhà kinh thương Việt Nam giàu có
học. Tại địa phương có trường trung học tư thục Tân Ánh Mai hoạt động
yếu ớt vì thiếu thầy và học sinh. Vào đầu thập niên 1950 có trường trung
học tư thục Nguyễn Trãi. Trường nầy tồn tại đến năm 1975 và có dạy đến
lớp 12 để thi tú tài II. Sau năm 1954 có trường bán công. Ông Trần Văn
Trai lập trường trung học An Mỹ, xã sinh quán của ông. Mãi đến sau nầy
trường An Mỹ mới được bộ Quốc Gia Giáo Dục công nhận. Đến thập niên 1970
trường có đầy đủ các lớp đệ nhị cấp.
Vào
cuối thập niên 1940 thầy giáo dạy các lớp trung học đệ nhất cấp (từ lớp
1ère année đến 4ème année) đã mang danh hiệu ‘professeur’. Những nhà
giáo tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội chỉ dạy các lớp đệ nhất cấp (1er
Cycle). Học đến năm thứ tư trung học và đậu DEPSI gọi nôm na là bằng
Thành Chung (Diplôme de fin d’étude) nghĩa là đậu rồi thì xem như học
xong, thành công rồi nên đi tìm việc làm và cưới vợ, gả chồng. Việc làm
lý tưởng và được người đương thời trông đợi là có bằng DEPSI và được đậu
trong kỳ thi tuyển để được làm thơ ký hành chánh cho chánh phủ
(secrétaire du gouvernement). Từ đó nếu có tinh thần hiếu học và cầu
tiến sẽ được chấm đậu vào ngạch cò- mi (commis), huyện và cao tột đỉnh
là đốc phủ. Người có cử nhân luật muốn theo ngành hành chánh sẽ được cho
vào ngạch huyện.
Sau
năm 1954 Hoa Kỳ giúp đỡ xây dựng trường Trung Học Trịnh Hoài Đức và
trường Cộng Đồng sau này là trường Nông Lâm Súc Bình Dương. Trường Trung
Học Trịnh Hoài Đức được xây dựng xa thành phố. Trường nằm trên Quốc Lộ
13 trong xã An Thạnh (Búng) giữa Lái Thiêu và Phú Cường (xa tỉnh lỵ Bình
Dương). Trường Nữ nằm cách xa Quốc Lộ 13 lối 500 m. Trường trở thành
trung tâm văn hóa của tỉnh. Trường thuận lợi cho cư dân Phú Cường và Lái
Thiêu hơn là các quận xa xôi hẻo lánh khác như Bến Cát, Dầu Tiếng, Phú
Giáo, Phú Hòa Đông. Từ sau 1965 nhu cầu giáo dục của tỉnh được đáp ứng
viên mãn. Nhiều trường trung học công lập và tư thục Phật Giáo, tư nhân
hay Thiên Chúa Giáo ra đời đáp ứng nhu cầu giáo dục của cư dân trong
tỉnh. Đó là một cố gắng rất lớn của chánh phủ Sài Gòn nhờ sự viện trợ
của Hoa Kỳ trong tình trạng chiến tranh.
Thời
Pháp thuộc có thiết lộ nối liền Sài Gòn- Thủ Dầu Một, Sài Gòn- Lộc Ninh.
Thiết lộ Sài Gòn- Lộc Ninh đi ngang qua Thủ Dầu Một đổi hướng không đi
ngang qua thành phố Lái Thiêu sau khi cầu sắt nối liền Thạnh Lộc và Phú
Long bị giựt sập năm 1949. Sau năm 1954 đường sắt này bị hủy bỏ vì hoạt
động yếu ớt của các đồn điền cao su do người Pháp làm chủ và vì Chiến
Tranh Việt Nam II bùng nổ. Trong thời gian 1954- 1957 đường xe lửa Sài
Gòn- Lộc Ninh thường xảy ra những trận đánh cướp táo bạo nhằm vào tiền
lương phát cho công nhân đồn điền hàng tháng.
Sau
năm 1954 hoạt động của các đồn điền cao su do Pháp làm chủ ở Lai Khê,
Dầu Tiếng sụt giảm. Ảnh hưởng chánh trị của Pháp ở miền Nam sụt giảm
trước ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Tình hình an ninh trong tỉnh bắt đầu có
những dấu hiệu xấu từ năm 1957 về sau. Các tỉnh trưởng và quận trưởng
được thay thế bằng những quân nhân. Các phó tỉnh trưởng đều là dân sự.
Một ít trong số nầy tốt nghiệp Trường Quốc Gia Hành Chánh Đà Lạt do tiến
sĩ Trần Cửu Chấn làm Giám Đốc. Về sau có chức phó quận trưởng để đặt
những phó đốc sự tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh trông coi việc
hành chánh bên cạnh các quận trưởng quân nhân.
Dưới
thời đệ nhất và đệ nhị Cộng Hoà công nghiệp ép dầu, ép mía làm đường sụt
giảm. Nhà máy đường Vĩnh Phú (Lái Thiêu) được thay thế bằng nhà máy
đường Bà Lụa với máy móc và kỹ thuật sản xuất tối tân như các nhà máy
sản xuất đường trên thế giới. Xưởng sản xuất sơn mài Thành Lễ được danh
tiếng quốc tế vì các quốc khách thăm viếng VNCH đều được tổng thống Ngô
Đình Diệm tặng một bức tranh sơn mài Thành Lễ Bình Dương. Trường Mỹ Nghệ
Bình Dương đã có từ thời Pháp thuộc cũng được nổi danh với các giáo sư
Báu và Yến, tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội cuối thập niên 1930.
Sau
năm 1954 ông Trần Văn Thành có công phát triển chăn nuôi heo, gà và sản
xuất thực phẩm gia súc ở các xã Tân Thới, Phú Long, Hưng Định trong quận
Lái Thiêu. Ông sáng lập ra Hợp Tác Xã Đồng Tiến và là thành viên Hội
Đồng Kinh Tế Quốc Gia dưới thời tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hưng Định
phát triển việc nuôi cá nhưng kết quả không khả quan. Việc nuôi cá phi
vào những năm 1953, 1954, 1955 thất bại nặng nề vì có dư luận cho rằng
ăn cá phi bị cùi!
Thủ
Dầu Một là nơi đào luyện thiếu úy Dương Văn Minh sau này là đại tướng
quốc trưởng rồi tổng thống 02 ngày của VNCH. Cùng thời này có ông Nguyễn
Văn Theo (Xuyên Sơn) sau này là đại tá trong Quân Đội Nhân Dân ở miền
Bắc. Dưới thời Pháp, Phú Lợi là nơi huấn luyện kỵ binh và pháo binh. Kỵ
binh và pháo binh Thủ Dầu Một đều có mặt trong các cuộc diễn binh trên
đường Norodom (Thống Nhất; Lê Duẩn) hàng năm vào ngày Quốc Khánh 14-07
của Pháp.
Trong
một cuộc nói chuyện với Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh tại nhà của ông ở San
José năm 2000 người viết được Giáo Sư Vinh cho biết ông Nguyễn Văn
Nghĩa, người Thủ Dầu Một, là người tốt nghiệp Không Quân Pháp trước ông
Vinh, vị Tư Lịnh Không Quân đầu tiên của VNCH trong thời kỳ độc lập và
qua phân. Đại tá Trần Văn Hổ, người gốc Thủ Dầu Một, là tư lịnh Không
Quân thời quốc trưởng Bảo Đại khi Pháp chuyển giao Không Quân cho chánh
phủ Quốc Gia nhưng ông Hổ không phải là sĩ quan của ngành này. Một người
Thủ Dầu Một khác tốt nghiệp trường Không Quân Salon de Provence là ông
Lưu Văn Đức.
Thủ
Dầu Một nổi tiếng về võ thuật với võ Tân Khánh- Ba Trà. Đó là võ Bình
Định theo chân người miền Trung vào miền Nam lập nghiệp. Những võ sư
khét tiếng trong tỉnh vào đầu thế kỷ XX là các ông Võ Văn Đẳng (Tân
Khánh), ngoại tổ của bác sĩ Đặng Như Tây, thầy năm Dục (An Phú), ông cả
Đại (An Sơn) v.v. Ông giáo Khai ở Tân Ba, Biên Hòa, nổi tiếng về gồng và
võ thuật vào thập niên 1920 là võ sinh do ông năm Dục đào tạo. Đông
Phương Sóc một thời làm sống dậy tên tuổi sinh quán Thủ Dầu Một của ông
trên võ đài. Như vậy Thủ Dầu Một tức Bình Dương sau này cũng có chút
truyền thống võ nghiệp. Dù vậy chưa có một cư dân Thủ Dầu Một (Bình
Dương) nào là tướng bốn sao cả. Ông Đặng Thanh Liêm là trung tướng được
cho về hưu non năm 1965 khi ông mới 40 tuổi. Đại tướng Đỗ Cao Trí là
cháu rể của ông Võ Văn Vân không phải là người Thủ Dầu Một (Bình Dương).
Ông được thụy phong đại tướng sau khi mất năm 1971. Những sĩ quan được
đào tạo thời Pháp thuộc và có chức vụ khá quan trọng quân đội VNCH gồm
có: tướng Nhảy Dù Lê Quang Lưỡng, chuẩn tướng Nguyễn Văn Tý (Tổng Cục
Truyền Tin), đại tá Nguyễn Trí Hanh, Tư Lịnh phó Quân Đoàn III, đại tá
Nguyễn Duy Ninh (Không Quân), đại tá Nguyễn Văn Tường, chỉ huy pháo binh
của binh chủng Nhảy Dù, đại tá Nguyễn Hữu Phước (cựu phó đô trưởng Sài
Gòn thời đệ nhất Cộng Hoà), đại tá Dương Văn Tảo, đại tá Nguyễn Hoà
Phùng, con của ông Nguyễn Hòa Hiệp tức Giang Đông (VNQDD miền Nam),
trung tá Nguyễn Văn Hội, vô địch kiếm thuật Việt Nam . Cha ông là Nguyễn
Văn Hia, giám đốc Cercle Sportif Saigonnais, đồng sáng lập Hội Khuyến
Lệ Cổ Ca với ông Đỗ Văn Rổ, quốc vụ khanh đặc trách Văn Hoá.
Tuy là
một tỉnh tân lập thời Pháp chiếm đóng, Thủ Dầu Một rồi Bình Dương sớm
tiếp thu văn hóa Tây Phương và có tên tuổi trong nước trước và sau năm
1975 với các ông Trần Văn Trai (Lưỡng tiến sĩ Luật & Văn Chương,
chánh văn phòng đức Quốc Trưởng Bảo Đại, dân biểu đệ nhất Cộng Hòa, luật
sư); Nguyễn Lâm Sanh (luật sư, chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống Cộng);
Lê Văn Hai (tốt nghiệp ENS .<.École Normale Supérieure.>., dạy
Triết ở Chasseloup Laubat sau cải thành Jean Jacque Rousseau), Trần Công
Vàng (Tiến sĩ Dược Khoa); Trần Tấn Thông (tiến sĩ Dược Khoa, dân biểu
đệ nhất Cộng Hoà; giáo sư đại học Dược Khoa); Phạm Đình Hưng (thẩm phán,
tham chánh văn phòng phủ Tổng Thống .<.đệ nhất Cộng Hoà.>., chánh
văn phòng bộ Nội Vụ, dân biểu, giám sát viên); Đặng Như Tây (bác sĩ
giải phẫu nổi tiếng); Phan Kiều Dương (kỹ sư Kiều Lộ .<.Ingénieur de
Ponts et Chaussées.>., con của ông Phan Văn Hùm).
Trường
Trịnh Hoài Đức chào đời sau năm 1954 nhưng đã có Ph.D Cao Văn Hở (dạy
Học Viện Quốc Gia Hành Chánh), Ph.D Nguyễn Viết Đức (Tâm Trị liệu
California), Tam tiến sĩ Phạm Quốc Kiệt (Giáo Sư ENS .<. École
Normale Supérieure.>. ở Paris) v.v. Thế hệ sau 1975 không thuộc
trường Trịnh Hoài Đức có Ph.D Phạm Đình Khôi Nguyên (Harvard &
Vanderbilt). Danh sách này có thể thiếu sót xin người Bình Dương bổ túc
thêm.
Bây
giờ Bình Dương không còn là Bình Dương Lục Quận (Lái Thiêu, Châu Thành,
Phú Giáo, Bến Cát, Dầu Tiếng, Phú Hòa Đông) mà là Bình Dương Cửu Huyện
(Thuận An (Lái Thiêu), Dĩ An, Tân Uyên, Bắc Tân Uyên, thị xã Thủ Dầu
Một, Bến Cát, Phú Giáo, Bầu Bàng, Dầu Tiếng).
Tân
Uyên vừa phồn thịnh về kinh tế vừa là nơi có nhiều nhân vật nổi tiếng
trong nước như nhà văn Bình Nguyên Lộc (Tô Văn Tuấn), tiến sĩ Nguyễn
Ngọc Huy Giáo Sư Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, tổng thơ ký đảng Tân Đại
Việt và Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, tác giả tập thơ Hồn Việt và nhiều
tác phẩm chánh trị bằng Việt, Pháp, Anh ngữ có giá trị khác); Lê Văn
Khoái (Đại Biểu Chánh Phủ miền Đông Nam Phần, glam sát viên), Trần Văn
Linh (thẩm phán Tối Cao Pháp Viện), Huỳnh Văn Nghệ (quân nhân thuộc Quân
Đội Nhân Dân miền Bắc. Ông nổi tiếng trong thời kháng chiến chống Pháp.
Nhưng cấp bậc của ông chỉ là thượng tá nghĩa là thấp hơn đại tá! Năm
1975 ông về miền Nam và giữ chức thứ trưởng bộ Lâm Nghiệp).
Dĩ An là sinh quán của thiếu tướng Cộng Sản Đào Sơn Tây.
Bến Cát là sinh quán của ông Nguyễn Minh Triết, chủ tịch Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam từ năm 2006 đến 2011.
Ông Võ
Văn Vân nổi tiếng với nhà thuốc Đông Y. Thuốc của ông được bán khắp bán
đảo Đông Dương. Hai con ông là Võ Văn Thêm và Võ Văn Ứng là hai nhà
kinh doanh có tiếng. Ông Võ Văn Ứng là bầu của hội Ngôi Sao Bà Chiểu
(Étoile de Bà Chiểu), chủ nhà hàng Nam Đô và hãng mực Song Long. Ông còn
là chủ nhiệm nhật báo Bình Minh. Ông Võ Văn Thêm là nhạc phụ của đại
tướng Đỗ Cao Trí. Ông cũng có nhiều cổ phần trong hãng mực Song Long.
Ông
Trần Văn Thành là một nhà kinh doanh có tầm vóc lớn. Ông là người đầu
tiên lập trại chăn nuôi qui mô ở ấp Đông Ba, Tân Thới, sau năm 1954. Ông
sáng lập Hợp Tác Xã Đồng Tiến và là hội viên Hội Đồng Kinh Tế Quốc Gia.
Con ông là Trần Quang Minh, thủ trưởng bộ Canh Nông.
Hai
nhà kinh doanh nữ có tầm vóc quốc gia gốc người Thủ Dầu Một là bà Nguyễn
Thị Giàu và bà bảy Lình tức Trần Kim Liên (gốc người Hoa).
Bà bảy
Lình là nhà tỷ phú (tiền Việt Nam- piastres) trong tỉnh Bình Dương cho
đến năm 1975. Con bà là tiến sĩ Trần Tấn Thông có phòng thí nghiệm và
viện bào chế thuốc Trần Tấn. Sau năm 1975 bà chết trong khám. Ông Thông
chết trong trại học tập cải tạo Nhà Đồ, Sông Bé (tên của Bình Dương lúc
bấy giờ).
Bà Nguyễn Thị Giàu là chủ nhà máy dệt Liên Phương ở Thủ Đức. Sau năm 1975 bà định cư ở Canada và mất ở đó.
Thủ
Dầu Một là địa bàn hoạt động của Thiên Địa Hội, Hội Kín Nguyễn An Ninh,
Giáo Hội Cao Đài (Phú Văn, Tân Khánh, Phú Chánh, Thuận Giao, Chánh Lưu
v.v.). Ông Nguyễn Hòa Hiệp, một tín hữu Cao Đài, theo Việt Nam Quốc Dân
Đảng. Năm 1965 ông là tổng trưởng bộ Nội Vụ trong nội các Phan Huy Quát.
Ông
Phan Văn Hùm cùng với Nguyễn An Ninh họp dân để diễn thuyết chống Pháp.
Ông Hùm gốc ở Búng làm cán sự Công Chánh (đốc công) ở Huế. Sau khi gặp
nhà cách mạng Phan Bội Châu an trí ở Bến Ngự ông từ chức và dấn thân vào
đường cách mạng gặp lúc ông Nguyễn An Ninh từ Pháp về. Phương tiện đấu
tranh của Nguyễn An Ninh lúc bấy giờ là sản xuất và bán dầu cù là theo
toa của cha ông là Đông y sĩ ái quốc Nguyễn An Khương (người chủ trương
tờ Nông Cổ Mín Đàm và dịch truyện Tàu ra quốc ngữ vào đầu thế kỷ XX) và
tờ báo Pháp ngữ La Cloche Félée (Chuông Nứt). Lợi dụng lúc bán dầu cù là
ông lớn tiếng chỉ trích chánh sách của người Pháp ở Đông Dương. Sau khi
ra khỏi khám lớn Sài Gòn (khuôn viên Thư Viện Quốc Gia và Phủ Quốc Vụ
Khanh Văn Hoá sau này) ông Hùm sang Pháp học và lấy cử nhân triết học.
Về nước ông trở thành người Cộng Sản thuộc khuynh hướng Đệ Tứ Quốc Tế
của Trotsky.
Bình Dương là đất chuộng tâm linh. Đó là nơi có giáo đường cổ kính ở Nam Kỳ (giáo đường Bình Nhâm, Hưng Định, Phú Cường).
Bình
Nhâm là sinh quán của Á Thánh Gầm (mộ nằm trên đường Frères Louis; Võ
Tánh). Đó là nơi xuất phát nhiều linh mục Thiên Chúa Giáo trong nước như
Nhị Bình (Gia Định) và Cái Môn (Bến Tre).
Các
chùa cổ kính trong tỉnh Bình Dương là chùa Hội Khánh, chùa Tây Tạng,
chùa trên núi Châu Thới, chùa Thầy Sửu, chùa Giác Nguyên sau được gọi là
chùa bà Tám v.v. Chùa Hội Khánh đã có từ năm 1741 trước khi dân tộc
Việt Nam hoàn tất cuộc Nam tiến ở phần đất cực nam của đất nước. Trong
thời đại Xã Hội Chủ Nghĩa, Bình Dương có Đại Nam Quốc Tự xây từ năm 1999
đến năm 2010 mới hoàn thành. Đại Nam Quốc Tự chiếm 450 ha (4.5 triệu
m2) đất với khách sạn dài 13 km với 5,000 phòng, chuồng nuôi dã thú và
thú hiếm lạ, hồ nhân tạo v.v! Tất cả chi phí xây cất Đại Nam Quốc Tự để
thờ Phật kể cả “phật” Hồ Chí Minh, anh hùng dân tộc, chiến sĩ trận vong
lên đến 4,000 tỷ tiền Việt Nam (tức 4 cải đồng hay 4 trillion đồng tương
đương 170 triệu Mỹ Kim) đều do đại gia Dũng Lò Vôi đài thọ.
Phú Văn, Phú Long có Thánh Thất Cao Đài.
Người
Hoa ở Bình Dương có chùa Ông, chùa Bà và trường học. Chùa Ông thờ Guan
Gong (Quan Công). Chùa Bà thờ bà Tianhou (Thiên Hậu). Họ có truyền thống
:
– rước
Ông Bốn tức đô đốc Zheng He hay Cheng Ho (1371- 1433) tức Trịnh Hòa,
người chỉ huy đoàn tàu Trung Hoa xuống Nam Dương và sang Ấn Độ Dương để
đến vùng Trung Đông và Đông Phi năm 1405
– rước
cộ Bà (bà Tianhou (Thiên Hậu: hoàng hậu Thiên Đình) hàng năm rất trọng
thể. Người Hoa ở các tỉnh khác đổ xô về Phú Cường, xa tỉnh lỵ Bình
Dương, để tham dự lễ rước cộ Bà. Vào ngày nầy các phú thương người Hoa
tranh nhau đốt pháo để rước Bà và để phô trương sự giàu có của mình.
Nhang khói mịt mù ở Chùa Bà, chùa Linh Không Dàn vào ngày rước cộ Bà
(rằm tháng giêng hàng năm). Người ta đến khấn vái Bà và vay mượn tiền
tượng trưng để được may mắn trong việc làm ăn trong năm mới. Vay tượng
trưng $1 tiền cúng trả lễ có thể là $1 triệu đồng nếu công việc làm ăn
được may mắn, hưng vượng như lời khấn nguyện.
Bình Dương là đất lành đãi khách phương xa.
Ông Dương Văn Minh khởi nghiệp ở Thủ Dầu Một, sau này là đại tướng, quốc trưởng và tổng thống VNCH trong hai ngày.
Ông Lê Công Chất làm phó tỉnh trưởng Bình Dương trở thành tổng trưởng bộ Nội Vụ trong nội các Trần Thiện Khiêm.
Ông
Nguyễn Thanh Liêm là hiệu trưởng thứ nhì của trường Trịnh Hoài Đức sau
ông Trương Văn Di đã trở thành thứ trưởng bộ Giáo Dục và Thanh Niên.
Khi
Lộc Ninh, Quản Lợi, Xa Cam, Xa Trạch còn nằm trong tỉnh Thủ Dầu Một,
vùng đất đỏ trên (Terre Rouge) là vùng đồn điền cao su. Một người Huế
làm việc trong đồn điền Quản Lợi đã trở thành chủ tịch CHXHCNVN từ năm
1992 đến 1997. Đó là đại tướng Lê Đức Anh (1920- ). Ông hoạt động ở Nam
Bộ suốt thời kỳ kháng Pháp. Vào thập niên 1980 ông chỉ huy bộ đội Việt
Nam tấn công Khmer Đỏ theo chủ nghĩa Maoist trên chiến trường Cambodia.
Nhưng ông được xem là người thân Beijing (Bắc Kinh).
Bình
Dương Lục Quận là Bình Dương nổi tiếng trong chiến tranh với những trận
đánh đẫm máu như trận Dầu Tiếng, Bầu Bàng, Thới Hòa, Bố Lá, Bình Mỹ, An
Nhơn Tây, Hố Bò, Rạch Bắp, khu Tam Giác Sắt, trận đột kích Gò Dầu (Phú
Văn) v.v. Hàng ngàn cư dân Bến Súc được đưa về định cư ở Bình Hòa (Lái
Thiêu) năm 1967. Sau năm 1975 nhiều người trở về quê quán. Hiện nay Bình
Hòa trở thành một xã thành phố với đầy đủ tiện nghi của một thành phố
tân tiến.
Trong
cuộc chiến tranh vừa qua chỉ có Lái Thiêu là quận tương đối an ninh hơn
05 quận còn lại. Bù lại những vùng kém an ninh có sự hiện diện của quân
sĩ Hoa Kỳ. Snack Bar mọc lên như nấm từ năm 1965 đến 1973. Cư dân địa
phương phát đạt nhờ buôn bán hàng Mỹ hay là buôn đô la xanh và đỏ là đô
la dành cho các quân nhân Mỹ chiến đấu ở miền Nam Việt Nam. Đó là sự
phồn vinh giả tạo trong chiến tranh. Bình Dương không còn nhà lá. Nhiều
nông dân có sân phơi lúa, phơi đậu và chuồng nuôi gia súc tráng xi măng
sạch sẽ. Hầu hết nhà nào cũng có một xe Honda gắn máy. 60% thị dân trong
tỉnh có TV, ra-dio, tủ lạnh. Năm 1973 quân Hoa Kỳ rút ra khỏi miền Nam
Việt Nam, sự ‘phồn vinh’ trên như vụt tắt. Các snack bar bị bỏ hoang tạo
cảnh vắng vẻ, hoang tàn dù không bị bom đạn tàn phá.
Năm
1973 Lộc Ninh là địa điểm trao đổi tù binh giữa VNCH và MTDTGP. Đó là
địa điểm gần Sài Gòn nhất do MTDTGP chiếm giữ và được xem như thủ đô của
chánh phủ Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam. Những năm 1973 và 1974 vài vùng
đất gò trong tỉnh Bình Dương chịu ảnh hưởng văn hóa trồng cây lương thực
của Lộc Ninh. Diện tích trồng khoai mì (sắn: cassava; manioc
.<.Pháp.>.) Manihot dulcis được nới rộng đáng kể. Đó là dấu hiệu
báo động sự sụp đổ của miền Nam và tình trạng thiếu thực phẩm cho những
ngày sắp tới như câu sấm ký Phật Giáo Hòa Hảo đã ghi:
Khoai lang rồi lại khoai mì
Đến khi Tần (3) khởi độ thì khẩu ta.
Đến khi Tần (3) khởi độ thì khẩu ta.
Khi
mang tên Bình Thủ và Sông Bé cư dân Bình Dương lâm vào sự lo âu, sợ sệt
cho sự sống trong tương lai. Về vật chất họ lâm vào tình trạng thiếu
lương thực và thiếu dinh dưỡng nhưng chưa đến nỗi chết đói. Sông Bé lại
là nguồn sống tạm bợ và bấp bênh cho những cựu quân nhân chở than, củi
từ Lai Khê, Chơn Thành, Bến Cát và lu, hủ, chén từ Lái Thiêu về bán ở
Sài Gòn hay các tỉnh trên đồng bằng sông Cửu Long.
Ngày nay Bình Dương Cửu Huyện có vẻ tân tiến và phú túc nhờ có hòa bình, thực thi kinh tế thị trường nên có nhiều quốc gia như Đại Hàn, Taiwan, Nhật Bản, Singapore đầu tư hay mở nhiều nhà máy kỹ nghệ trong tỉnh. Bình Dương Cửu Huyện được đô thị hóa và đứng trước ngưỡng cửa kỹ nghệ hóa của thời kỳ tiền tư bản Âu Châu vào thế kỷ XIX. Dù chậm trễ nhưng có vẫn hơn không dẫu biết rằng cho đến nay Việt Nam vẫn chưa sản xuất được một con vít (vis) đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Ngày nay Bình Dương Cửu Huyện có vẻ tân tiến và phú túc nhờ có hòa bình, thực thi kinh tế thị trường nên có nhiều quốc gia như Đại Hàn, Taiwan, Nhật Bản, Singapore đầu tư hay mở nhiều nhà máy kỹ nghệ trong tỉnh. Bình Dương Cửu Huyện được đô thị hóa và đứng trước ngưỡng cửa kỹ nghệ hóa của thời kỳ tiền tư bản Âu Châu vào thế kỷ XIX. Dù chậm trễ nhưng có vẫn hơn không dẫu biết rằng cho đến nay Việt Nam vẫn chưa sản xuất được một con vít (vis) đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Bình Dương là một tỉnh của Việt Nam nên tỉnh cũng rơi vào mâu thuẫn kinh tế- chánh trị của quê hương:
1. Ấm no trong chinh chiến (miền Bắc có viện trợ Liên Sô, Trung Quốc và các nước Cộng Sản Đông Âu. Miền Nam có viện trợ Hoa Kỳ)
2.
Nghèo khổ, thiếu thốn khi hòa bình (không còn viện trợ; không thể có một
nền kinh tế phồn vinh trong một quốc gia Cộng Sản đề cao kinh tế chỉ
huy).
3.
Việt Nam là một nước Cộng Sản. Dân chúng Việt Nam lại no cơm ấm áo từ
khi CHXHCNVN theo kinh tế tự do hay kinh tế thị trường hay nói rõ hơn
kinh tế tư bản.
4. Một
số người no cơm ấm áo nhờ bán đất đai cho các công ty ngoại quốc. Một
số người khác bỏ ruộng nương ra thành phố tìm công việc trong các hãng
xưởng, xí nghiệp. Công nhân có lương cố định hàng tháng. Công nhân không
phải dải nắng dầm mưa như nông dân và được tiếp xúc với ánh sáng văn
minh đô thị. Lợi tức của nông dân biến thiên bất định tùy theo thời
tiết, giá bán ngoài thị trường. Thanh niên nam, nữ ở nông thôn ước muốn
rời bỏ đời sống nông thôn để thay vào đó là nếp sống thành thị hay xa
hơn nếp sống ngoài nước Việt Nam. Nông nghiệp dễ bị quên lãng giữa lúc
đất nước chưa thực sự kỹ nghệ hóa.
Đó là
vài suy nghĩ thô thiển về sự nghịch lý kinh tế- chánh trị, tâm lý nông
thôn, thành thị và hướng ngoại và tiến trình phát triển của tỉnh sinh
quán của người viết trong lòng cố hương Việt Nam vào đầu thế kỷ XXI.
PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.
Chú Thích
(1)
Cây dầu là một loại cây to không nhánh. Thân đốt có dầu. Tên khoa học
làDipterocarpus alatus. Trái có hai cánh. Ngày nay trong khuôn viên tòa
hành chánh tỉnh Bình Dương vẫn còn nhiều cây dầu cổ thụ.
(2)
Con diệc là con cò trắng heron hay egret tên khoa học là Ardea alba
modesta (alba: trắng). Những địa danh, Thủ Dầu Một, Dầu Tiếng, Gò Dầu Hạ
cho thấy sự hiện diện phong phú của loại cây to và có nhiều nhựa dầu
này.
(3) Tần ở đây ám chỉ nước Cambodia chớ không phải nước Tần bên Trung Hoa.