Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt
Chiến tranh Mông Nguyên -Đại Việt | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Bản đồ cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ nhất | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Tàn quân của Nam Tống Chiêm Thành | |||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Mông Ca Ngột Lương Hợp Thai Hốt Tất Liệt Thoát Hoan Ô Mã Nhi † Toa Đô † | Trần Thái Tông Trần Thủ Độ Trần Thánh Tông Trần Nhân Tông Trần Hưng Đạo Trần Nhật Duật Trần Quang Khải Phạm Ngũ Lão Lê Phụ Trần | ||||||
Lực lượng | |||||||
Lần thứ 1 (năm 1257-1258): ~10.000 kị binh Mông Cổ + 20.000 quân Đại Lý, tổng cộng ~30.000 Lần thứ 2 (năm 1285): ~300.000 - 500.000 quân và dân binh (tùy theo các ước tính khác nhau) Lần thứ 3 (năm 1287-1288): Được tăng cường gần 100.000 quân chính quy, cộng với số quân còn lại của lần thứ 2, tổng cộng ~300.000 - 500.000 quân chính quy và dân binh (tùy theo các ước tính khác nhau)[2] | Lần thứ 1 (năm 1257-1258): Không rõ Lần thứ 2 (năm 1285): ~200.000-300.000 quân và dân binh Lần thứ 3 (năm 1287-1288): ~200.000-300.000 quân và dân binh[cần dẫn nguồn] | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
Không rõ |
Chiến tranh Mông Nguyên – Đại Việt hay Kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên (tên gọi ở Việt Nam) là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của quân và dân Đại Việt đầu thời Trần dưới thời các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông trước sự tấn công của đế quốc Mông Cổ và nhà Nguyên. Tuy thời gian của cuộc kháng chiến bắt đầu từ năm 1258 đến năm 1288 nhưng thời gian chiến sự chính thức chỉ tổng cộng bao gồm khoảng gần 9 tháng, chia làm 3 đợt. Trước, giữa và sau các đợt chiến sự là thời gian tiến hành tích cực các hoạt động ngoại giao. Kết quả là Đại Việt bảo vệ được nền độc lập của mình dù trên danh nghĩa phải chịu làm nước triều cống của nhà Nguyên để tránh xung đột trong tương lai. Ba cuộc kháng chiến này được xem là một trong những trang sử hào hùng nhất của dân tộc Việt Nam, và cũng là chiến công tiêu biểu của triều đại nhà Trần.
Hoàn cảnh
Vào năm 1225, dưới sự sắp đặt của Trần Thủ Độ, nữ hoàng nhà Lý là Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, tức là vua Trần Thái Tông. Nhà Trần chính thức thay thế nhà Lý. Sau khi chính thức nắm quyền cai trị Nhà Trần ra sức củng cố nội chính và chấm dứt nạn cát cứ từ cuối thời Lý. Tới năm 1229, sau khi Nguyễn Nộn ốm chết, các lực lượng chống đối cơ bản bị dẹp.
Trong khi đó ở phương Bắc, Trung Quốc từ lâu đã bị chia cắt. Nhà Tống phải rút xuống phía nam trước sự xâm lấn của nước Kim của người Nữ Chân. Phía tây bị nước Tây Hạ chia cắt. Tới đầu thế kỷ 13, người Mông Cổ ở phía bắc nước Kim thống nhất dưới quyền Thành Cát Tư Hãn, trở nên lớn mạnh. Mông Cổ đánh xuống phía nam, tiêu diệt Tây Hạ (1227) và Kim (1234). Mặc dù đã mở rộng bờ cõi bao la sang phía tây, diệt nhiều nước Tây Nam Á và đánh sang châu Âu, người Mông Cổ tiếp tục tiến xuống phía nam để tiêu diệt Nam Tống.
Năm 1254, quân Mông Cổ đánh chiếm Vương quốc Đại Lý (Vân Nam ngày nay), muốn đánh chiếm Đại Việt để tạo thế "gọng kìm" bao vây Nam Tống. Các đoàn ngoại giao của Mông Cổ được phái sang Đại Việt đề nghị mở đường cho quân đội Mông Cổ đi qua để lên đất Tống. Nhưng các vua Trần không những từ chối mà lại còn bắt giam các sứ giả ngoại giao của Mông Cổ.
Chiến tranh nổ ra vào đầu năm 1258 khi Uriyangqatai (Ngột Lương Hợp Thai) cùng con trai là Aju đem 3 vạn quân người Mông Cổ và 1,5 vạn quân người Đại Lý tấn công Việt Nam. Quân Mông Cổ đã mau chóng giành được thắng lợi, chiếm được kinh đô Thăng Long, nhưng rồi cũng mau chóng bị quân Đại Việt đánh bật. Cuộc chiến năm 1258 chỉ diễn ra trong vòng khoảng nửa tháng, đến cuối tháng 1 năm 1258 thì quân Mông Cổ thất bại và rút hết khỏi Đại Việt.
Hai mươi năm sau, không cần đi đường qua Đại Việt, Mông Cổ vẫn đánh bại được nước Tống. Nhà Nguyên được thành lập trên lãnh thổ Mông Cổ và Trung Quốc ngày nay. Đế quốc này tìm cách mở rộng lãnh thổ của mình ra phía đông tới Nhật Bản, và xuống phía nam. Để thực hiện ý đồ tiến xuống phía nam, Nhà Nguyên đã tiến hành chiến tranh với Chiêm Thành và Miến Điện trước. Nhưng quân và dân Chiêm Thành đã kháng chiến thắng lợi, khiến cho quân Nguyên không thực hiện được ý đồ lấy Chiêm Thành làm bàn đạp. Ở Miến Điện năm 1277, quân Mông Cổ cũng chịu những thiệt hại quân sự và phải rút lui. Đại Việt trở thành nơi phải bị khuất phục để quân Mông Cổ có thể tiếp tục chiến lược hướng nam. Dưới chiêu bài đề nghị Nhà Trần mở đường cho đại quân Nguyên đi qua chinh phạt Chiêm Thành, quân Nguyên tìm cách tấn công Đại Việt.
Số lượng quân Mông Nguyên
Sử sách Việt Nam và Trung Quốc nêu số quân Nguyên không thống nhất. Nhưng tổng thể qua ba chiến dịch lớn cùng với những cuộc giao tranh lẻ tẻ thì tổng số quân đội nhà Nguyên-Mông đặt chân đến Đại Việt là rất đông đảo, với số lượng tổng cộng tối đa ước tính có thể lên đến hơn 80 vạn người, điều này phản ánh quy mô của cuộc chiến mà nhà Nguyên đã nỗ lực huy động một lực lượng lớn tham chiến trên chiến trường Đại Việt. Câu khẩu ngữ "đông như quân Nguyên" của người Việt đã phản ánh thực tế đó.
Lần thứ nhất
Lần đầu số lượng quân Mông Nguyên không lớn lắm; sau này các nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng số quân Mông Cổ năm 1257-1288 khoảng 3 vạn[3]. Nhà sử học Ba Tư là Said ud Zin cho biết số kỵ binh Mông Cổ khi tấn công Vương quốc Đại Lý (nay là tỉnh Vân Nam) có 3 tumen (vạn hộ)[4]. Trừ đi tổn thất khi đánh Đại Lý và số đi hướng khác thì số kỵ binh Mông Cổ khi tấn công Đại Việt vào khoảng 10.000. Ngoài quân Mông Cổ thì còn có khoảng 2 vạn quân người Đại Lý được Mông Cổ trưng dụng để cùng tham gia đánh Đại Việt[4]. Về tổn thất, Rasid ud-Din ghi rằng khi đến Ngạc Châu gặp Hốt Tất Liệt, quân số của đoàn quân này chỉ còn không quá 5.000 người; còn theo Nguyên sử và bài bia ký A Truật thì ghi rằng khi vào đất Tống, đoàn quân này còn 3.000 kị binh Mông Cổ và 1 vạn quân Đại Lý. Như vậy, tổng cộng lần 1, Mông Cổ có khoảng 30.000 quân, trong đó khoảng một nửa cho tới 2/3 tử trận, đào ngũ hoặc bị bắt bởi quân đội Đại Việt.
Lần thứ 2
Lần thứ hai, Đại Việt Sử ký Toàn thư chép quân Nguyên có 50 vạn và khi rút về nước chỉ còn 5 vạn sống sót. Nguyên sử không chép cụ thể số lượng quân Nguyên, chỉ ghi là mấy chục vạn nếu tính luôn cả dân binh là những người tham gia hỗ trợ quân chính quy viễn chinh (giúp xây dựng, chở lương thực, nuôi ngựa...). Tuy nhiên, có thể suy đoán từ những chi tiết khác được Nguyên sử ghi lại:
- Lễ bộ thượng thư nước Nguyên là Lưu Tuyên khi tâu xin Hốt Tất Liệt ngừng chiến tranh đã nói “Chuyên chở, đóng thuyền, phục dịch việc quân phải dùng đến 50, 60 vạn người”[5] Trừ đi số phu đóng thuyền, thì số dân binh phải sang Đại Việt để chuyển lương, phục dịch quân chính quy phải khoảng 20-30 vạn. Áp dụng tỷ lệ mỗi quân chính quy lại có 1-2 dân binh phục dịch, thì đoàn quân Nguyên phải có 30-50 vạn người.
- Nguyên sử có chép về việc cánh quân của Thoát Hoan có sự góp mặt của 8 viên vạn hộ phủ (tumen trưởng) là Triệu Tu Kỷ, Lý Bang Hiến, Lưu Thế Anh, Mãng Cổ , Bột La Hợp Đáp Nhi, Nghê Nhuận, Mã Vinh, Lưu Khuê. Dưới quyền của 8 viên tướng này đã có khoảng 6 vạn quân, cộng thêm số quân dưới quyền các tướng khác, các đơn vị độc lập, quân do Thoát Hoan chỉ huy trực tiếp, quân của Toa Đô từ Champa kéo lên… thì tổng số quân chính quy sẽ khoảng 15 - 20 vạn. Áp dụng tỷ lệ mỗi quân chính quy lại có 1-2 dân binh phục dịch, thì cũng cho ra con số đoàn quân Nguyên có khoảng 30 - 50 vạn người.
Con số 30 – 50 vạn quân chính quy và dân binh cũng được các nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng phù hợp. Tuy nhiên, về số thoát được về nước, chắc chắn nhiều hơn 5 vạn, vì từ tháng 6 âm lịch năm 1285, Thoát Hoan rút chạy về, tới tháng 8 đã được lệnh chuẩn bị sang lần nữa (sau đó Thoát Hoan được cấp thêm gần 10 vạn quân bổ sung). Như vậy số quân Nguyên còn lại cũng tương đối nhiều, gần với số cần thiết mang đi viễn chinh lần nữa[6].
Theo một số tác giả thì quân Đại Việt lần này có 20-30 vạn người, tính cả quân chính quy lẫn dân binh tại các làng xã.
Lần thứ 3
Lần thứ 3, Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi số quân là 50 vạn, trong khi Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục lại cho rằng như vậy quá nhiều, vì quân Nguyên chỉ bổ sung thêm 10 vạn quân chính quy cho lần chinh phạt này. Các nhà nghiên cứu của Việt Nam cũng xác định rằng quân Nguyên lần này cũng có khoảng 30 – 50 vạn như lần thứ hai. Nguyên sử chép rằng: ngoài việc huy động lại những quân lính trong lần chinh phạt thứ 2 thoát được về Trung Quốc, nhà Nguyên đã huy động thêm 7 vạn quân Mông Cổ và Hán, 1.000 quân nhà Nam Tống cũ đầu hàng, 6.000 quân của Vân Nam, 15.000 quân người Lê ở Hải Nam, tổng số là 92.000, chưa tính số quân người Choang ở Quảng Tây không được ghi rõ[7] Dựa trên các dữ liệu này, James A. Anderson phân tích rằng quân Nguyên lần này có khoảng 17 vạn quân chính quy[8], cộng thêm số dân binh theo tỷ lệ cứ mỗi quân chính quy lại có 1-2 dân binh đi theo, thì đoàn quân Nguyên sẽ khoảng 35 - 50 vạn. Còn quân Trần lần này có tổng số khoảng 20 vạn người, tính cả quân chính quy lẫn dân binh tại các làng xã.
Lần thứ nhất
Lần thứ nhất Mông Cổ tấn công Đại Việt vào tháng 2 năm 1258. Từ Đại Lý, khoảng 10.000 kỵ binh Mông Cổ và 20.000 quân Đại Lý(tổng cộng là khoảng 30.000 quân) tiến vào Đại Việt.
Quân Đại Việt năm 1258, gồm quân cấm vệ và quân các lộ, có khoảng 10 vạn, trong đó có 2 vạn cấm quân (lực lượng chủ lực đóng ở gần kinh thành) và 8 vạn sương quân (quân đóng ở các địa phương). Tuy nhiên, 8 vạn sương quân này phải đóng quân rải khắp trên lãnh thổ cả nước, bao gồm việc ngăn ngừa nổi loạn, chống đạo tặc, canh gác biên giới và lăng tẩm... nên nhà Trần chỉ có thể tập trung được một bộ phận để tác chiến với Mông Cổ. Tổng cộng quân Trần trong cuộc chiến này có khoảng 6 vạn.
Đích thân vua Trần Thái Tông và Thái tử Trần Hoảng dẫn quân lên nghênh địch tại Bình Lệ Nguyên (nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phúc). Quân Mông Cổ tỏ ra chiếm ưu thế, quân Trần khi thất lợi đã chủ động rút lui về Phù Lỗ để bảo toàn lực lượng chứ không dốc sức đánh tới cùng, quân Mông Cổ đã không thành công trong việc tiêu diệt quân chủ lực Đại Việt và bắt các vua Trần.
Trận tiếp theo diễn ra tại Phù Lỗ (bên sông Cà Lồ). Quân Đại Việt lại bị đánh bại. Tuy nhiên, Nhà Trần đã dự tính trước điều này và đã chủ động sơ tán người dân và của cải ra khỏi kinh đô từ trước. Quân Mông Cổ dù chiếm được Thăng Long, nhưng Nhà Trần đã thực hiện "vườn không nhà trống", đem đi hết lương thực trong thành khiến quân Mông gặp phải khó khăn về lương thực.
Chỉ 10 ngày sau khi rút khỏi Thăng Long, Vua Trần và Thái tử lại dẫn quân phản công, đánh thắng quân Mông Cổ trong trận Đông Bộ Đầu (nay là quận Ba Đình, Hà Nội). Quân Mông Cổ lập tức bỏ thành Thăng Long rút lui về nước, cũng bằng con đường dọc theo sông Hồng. Trên đường rút lui, quân Mông Cổ đã bị lực lượng các dân tộc thiểu số miền núi Tây Bắc do Hà Bổng chỉ huy tập kích.
Toàn bộ cuộc chiến lần thứ nhất chỉ diễn ra trong vòng khoảng nửa tháng, với chỉ khoảng 3-4 trận đánh lớn. Quân Mông Cổ bị thiệt hại nặng, mất từ quá nửa cho tới khoảng 2/3 quân số. Theo Nguyên sử, khi tiến vào đất Tống, đoàn quân Mông Cổ chỉ còn lại 3.000 kị binh Mông Cổ và 1 vạn quân Đại Lý[9] Sau thất bại tại Đại Việt, quân Mông Cổ phải tìm đường khác để tấn công Tống từ phía nam.
Lần thứ hai
Hai mươi bảy năm sau, Hoàng đế Nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt ra lệnh xâm lăng nước Đại Việt. Cuộc chiến lần này kéo dài khoảng 2 – 6 tháng từ cuối tháng 12 năm Giáp Thân đến cuối tháng 4 năm Ất Dậu (cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm 1285 dương lịch). Lần này, quân Nguyên chuẩn bị chiến tranh tốt hơn, huy động lực lượng lớn hơn rất nhiều, tới 30 - 50 vạn quân và dân binh. Ngoài lục quân từ phía Bắc tiến xuống, còn có thủy quân từ mặt trận Chiêm Thành ở phía Nam đánh bổ trợ.
Cũng tương tự như lần thứ nhất, quân Nguyên chiếm ưu thế trong giai đoạn đầu. Với ưu thế quân số, quân Nguyên liên tục đánh bại quân Việt ở các mặt trận Lạng Sơn, Sơn Động, Vạn Kiếp, Thu Vật (Yên Bình), sông Đuống. Từ phía bắc, chỉ khoảng 20 ngày sau khi vượt qua biên giới, quân Nguyên đã chiếm được thành Thăng Long. Triều đình Nhà Trần rút lui theo sông Hồng về Thiên Trường (Nam Định) và Trường Yên (Ninh Bình), chịu sự truy kích ráo riết của quân Nguyên. Mọi nỗ lực phản kích của các vua Trần dọc theo sông Hồng đều bị quân Nguyên đánh bại. Từ phía Nam, Toa Đô dẫn quân từ Chiêm Thành lên dễ dàng đánh tan quân Đại Việt tại vùng Nghệ An – Thanh Hóa. Bị ép cả trước lẫn sau, các vua Trần phải rút ra biển lên vùng Quảng Ninh, đợi đến khi cánh quân Nguyên phía nam đi qua Thanh Hóa mới lui về Thanh Hóa.
Cũng giống như lần trước, quân Nguyên lại gặp khó khăn về cung ứng lương thực, lần này còn có phần nghiêm trọng hơn vì số quân Nguyên đông hơn nhiều so với lần trước. Nhà Trần thực hiện tiêu thổ kháng chiến khiến quân Nguyên không thể lấy được lương thực từ dân bản địa. Trong khi đó, quân Đại Việt đã nhanh chóng chấn chỉnh đội ngũ và chờ đợi đối phương mệt mỏi, suy giảm nhuệ khí. Khoảng gần 2 tháng sau khi rút về Thanh Hóa, Đại Việt phản công. Dọc theo sông Hồng, quân Đại Việt lần lượt giành thắng lợi tại cửa Hàm Tử (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên), bến Chương Dương (Thượng Phúc, nay thuộc Thường Tín, Hà Nội), giải phóng Thăng Long.
Cánh quân phía Bắc của quân Nguyên trên đường rút chạy đã bị tập kích tại sông Cầu, tại Vạn Kiếp, Vĩnh Bình. Cánh quân rút về Vân Nam bị tập kích tại Phù Ninh. Cánh quân phía Nam bị tiêu diệt hoàn toàn tại Tây Kết (Khoái Châu)
Lần thứ ba
Ngay sau khi bại trận về nước năm 1285, quân Nguyên chỉnh đốn quân ngũ, bổ sung lực lượng để phục thù. Rút kinh nghiệm từ thất bại trước, quân Nguyên cho đóng nhiều tàu chở lương thực theo đường biển để trở lại đánh Đại Việt lần thứ ba. Cuộc chiến lần này kéo dài khoảng gần 4 tháng, từ cuối tháng 12 năm 1287 đến cuối tháng 4 năm 1288. Quân Nguyên chia làm 3 cánh vào Đại Việt từ Vân Nam, từ Quảng Tây và từ Quảng Đông theo đường biển vào Đại Việt.
Giống như 2 lần trước, quân Nguyên đánh bại quân Đại Việt trong một số trận đánh ở trên bộ lẫn trên biển, nhưng lại chịu một tổn thất quan trọng, đó là lương thực chuyên chở bằng tàu biển đã bị mất hết do bão biển, đi lạc và sau đó bị các đơn vị của Trần Khánh Dư tiêu diệt ở Vân Đồn. Quân Nguyên tập trung ở Vạn Kiếp và đánh rộng ra xung quanh, chiếm được Thăng Long, nhưng lại trúng kế giống như hai lần trước.
Khác với 2 lần trước, lần này quân Đại Việt không huy động lực lượng lớn chặn đánh quân Nguyên từ đầu, mà chỉ đánh có tính kìm chân. Bộ chỉ huy và phần lớn lực lượng Đại Việt rút về vùng Đồ Sơn, Hải Phòng, từ đó tổ chức các cuộc tấn công vào căn cứ Vạn Kiếp và đánh thủy quân Nguyên.
Vì thiếu lương thực và có nguy cơ bị đối phương chia cắt, quân Nguyên bỏ Thăng Long rút về Vạn Kiếp, rồi chủ động rút lui dù quân Đại Việt chưa phản công lớn. Cánh thủy quân của Nguyên đã bị tiêu diệt hoàn toàn tại sông Bạch Đằng khi định rút ra biển. Các cánh bộ binh quân Nguyên khi đi qua Bắc Giang và Lạng Sơn đã bị quân Đại Việt phục kích, tấn công dữ dội.
Chấm dứt chiến tranh
Sau thất bại lần thứ ba năm 1288 ở Đại Việt, Nguyên Thế Tổ – Hốt Tất Liệt vẫn chưa muốn đình chiến. Sau 3 lần thất trận, nhà Nguyên vẫn tiếp tục lập ra kế hoạch xâm chiếm lần 4. Sang các năm sau, vua Nguyên tiếp tục muốn chinh phạt Đại Việt nhưng chưa gặp thời cơ thuận tiện. Có năm sắp tiến quân thì chánh tướng chết nên hoãn binh, có năm thì nhà Nguyên gặp nội loạn trong nước nên phải lo đánh dẹp. Tới năm 1294, lại định điều binh lần nữa thì chính Hốt Tất Liệt chết. Cháu nội là Nguyên Thành Tông lên ngôi không muốn gây chiến với Đại Việt nữa. Việc chiến tranh với nhà Nguyên từ đó mới chấm dứt.
Đế quốc Mông Cổ lúc này đã quá rộng lớn nên lại phát sinh nguy cơ phân liệt: cuộc chiến giữa những đội quân Mông Cổ với nhau (nhà Nguyên với Hãn quốc Sát Hợp Đài) đã góp phần làm suy yếu bớt lực lượng, gián đoạn kế hoạch xâm lược lần 4 của Nguyên Mông. Ngoài ra, việc nhà Nguyên liên tục xuất chinh đã vắt kiệt sức cung ứng của người dân, khiến phát sinh nội loạn. Sự đấu tranh của nhân dân miền Nam Trung Quốc chống lại sự cai trị hà khắc của triều đình nhà Nguyên dẫn tới hàng loạt các cuộc khởi nghĩa ở đây, khiến Nguyên triều tốn không ít lực lượng, tiền của để đàn áp, cũng khiến kế hoạch xâm chiếm Đại Việt lần thứ 4 phải hủy bỏ.
Nguyên nhân chiến thắng của nhà Trần
Thành công của nhà Trần là do chính sách đoàn kết nội bộ của những người lãnh đạo. Dù trong hoàng tộc Nhà Trần có những người phản bội, theo nhà Nguyên nhưng nước Đại Việt không bị mất, nhờ sự ủng hộ của đông đảo dân chúng.
Còn một nguyên nhân nữa phải kể tới trong thành công của Nhà Trần là đội ngũ tướng lĩnh xuất sắc, nòng cốt lại chính là các tướng trong hoàng tộc Nhà Trần. Dù xuất thân quyền quý nhưng các hoàng tử, thân tộc Nhà Trần, ngoài lòng yêu nước và bảo vệ quyền lợi dòng tộc, số lớn là những người có thực tài cả văn lẫn võ. Thật hiếm dòng họ cai trị nào có nhiều nhân tài nổi bật và nhiều chiến công như Nhà Trần, đặc biệt là thế hệ thứ hai: Trần Quốc Tuấn, Trần Thánh Tông, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật đều là những tên tuổi lớn trong lịch sử Việt Nam đó là chưa kể tới Trần Thủ Độ, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản,...[10].
Theo một số các nhà nghiên cứu, chiến thắng của nhà Trần có được nhờ vào sự sáng suốt của các tướng lĩnh trong chiến lược, đứng đầu là Trần Hưng Đạo. Trong khi tác chiến, các tướng lĩnh Nhà Trần chủ động tránh lực lượng hùng hậu người Mông Cổ mà đánh vào các đạo quân người Hán bị ép buộc và uy hiếp phải theo quân Mông sang Đại Việt. Tâm lý của những người mất nước và phải chịu sự quản thúc của người Mông khiến các đạo quân này nhanh chóng tan rã, sức kháng cự thấp. Một cánh quân tan rã có tác động tâm lý lớn tới các đạo quân còn lại trên toàn mặt trận[11].
Sử liệu của nhà Nguyên thường quy kết cho khí hậu nóng ẩm và địa hình nhiều rừng núi khiến quân Nguyên phải thất bại. Trần Xuân Sinh cho rằng: Đúng là có sự ảnh hưởng ít nhiều của khí hậu và địa hình đối với quân Nguyên, nhưng phải thấy rằng những khó khăn này không phải là điều chủ yếu làm cho quân Nguyên thất bại. Bởi thực tế cho thấy quân Mông Cổ vẫn chiến thắng Nam Tống và Miến Điện trong những điều kiện tương tự.
Mông-Nguyên đương thời là đế quốc lớn nhất thế giới. Những nơi người Mông Cổ bại trận lúc đó đều phần nhiều là bởi lý do khách quan, như Ai Cập thì quá xa xôi và binh lực Mông Cổ ở đó khá ít, Nhật Bản và Nam Dương đều có biển cả ngăn cách trong khi quân Mông không kinh nghiệm đánh đường thủy, lại xui xẻo gặp bão to (Thần phong ở Nhật Bản) nên mới bị thua trận. Phải nói rằng đế chế Nguyên Mông thời này hầu như đã bành trướng đến điểm giới hạn mà họ có thể đạt được. Người Mông Cổ xuất thân từ thảo nguyên, không có kiến thức hàng hải tốt nên không thể tổ chức tốt những cuộc xâm lược các đảo quốc và những nước ven biển như Chiêm Thành, Nam Dương, Trảo Oa, Nhật Bản… Thế nhưng nước Đại Việt lúc đó nằm liền kề trên đại lục Đông Á, chung đường biên giới cả ngàn dặm với người Mông mà người Mông vẫn không đánh chiếm được. Một đế quốc đã đánh chiếm cả đại lục Á – Âu mà không lấy nổi một dải đất bé nhỏ ở phía nam. Tổng cộng 3 đợt xuất quân, Mông-Nguyên huy động khoảng 600.000 tới 1 triệu lượt quân, trong khi dân số Đại Việt khi ấy chỉ khoảng 3 - 4 triệu. Có so sánh tương quan lực lượng với kẻ địch và vị trí địa lý với những quốc gia làm được điều tương tự mới thấy được sự vĩ đại của chiến công 3 lần đánh đuổi Mông Nguyên của Nhà Trần.
Theo giáo sư Đào Duy Anh thì có 4 nhược điểm khiến quân Mông Nguyên thất bại ở Đại Việt[12]:
- Người Mông Cổ đi đánh xa, lương thực không được vận chuyển đầy đủ mà chỉ mong cướp bóc của dân bản địa để nuôi quân, nếu đối phương áp dụng chiến lược "vườn không nhà trống" thì quân Mông Cổ dễ bị khốn đốn vì thiếu lương do không cướp được của dân bản địa (Trong lần đánh Đại Việt thứ 3, quân Nguyên rút kinh nghiệm điều này và đã cho đoàn thuyền chở nhiều lương thực sang hỗ trợ, nhưng đoàn thuyền này lại bị Đại Việt phục kích tiêu diệt nên quân Nguyên lại tiếp tục thất bại).
- Quân Mông Nguyên là người phương bắc, không hợp thủy thổ.
- Quân lính Nguyên phần lớn là người Trung Hoa bị chinh phục, tinh thần chiến đấu không có, gặp khó khăn là chán nản. Quân kỵ binh gốc Mông Cổ thiện chiến thì lại không phát huy được sở trường do chiến lược của Đại Việt là chọn đánh quân Nguyên ở những vùng bến sông hoặc rừng rậm, tránh giao chiến ở vùng bằng phẳng.
- Quân đội đông và giỏi nhưng chuẩn bị không tốt về mặt tinh thần cho quân sỹ mà chỉ lo đem quân đội đi đánh vì nghĩ quân đội càng đông càng áp đảo lực lượng Đại Việt. Nhưng rốt cục quân càng đông thì lại càng khó điều phối, càng nhanh hao tổn lương thực.
Chiến công của Nhà Trần nhìn chung được nhiều thế hệ nhân dân ca ngợi qua các thần tích, vè và những lời truyền tụng trong dân gian. Sang thế kỷ 20, Trần Trọng Kim và Phan Kế Bính cũng ca tụng nhiều về chiến thắng đó[13].
Sách Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ ca ngợi chiến công đánh quân Nguyên, nhưng chê trách việc dâng công chúa An Tư cho Thoát Hoan là hạ sách[10].
Trương Phổ – một học giả đời Minh, khi bình luận sách Nguyên sử kỷ sự bản mạt của Trần Bang Chiêm đã viết:
- Trấn Nam vương Thoát Hoan tiến binh, vua An Nam là Trần Nhật Huyên (chỉ Thượng hoàng Trần Thánh Tông) đem quân chống lại, quân Thoát Hoan tuy có ngựa mạnh, rong ruổi nhanh như chớp, đánh thành phá ấp, nhưng giữa đường quay giáo lui, quân lính tan nát trong chốn của quân kia, Toa Đô, Lý Hằng đồng thời tử chiến... Thoát Hoan xuất quân lần nữa, Nhật Huyên chạy đi để rồi đón lúc về, đánh lúc mệt, quân Nguyên lại thất bại. Đó là vì quân kia tránh cái thế hăng hái lúc ban mai, đánh cái khí tàn lụi lúc buổi chiều, giấu mình nơi biển khơi, phục quân chốn ải hiểm, quân Nguyên tuy hùng hổ kéo đến, chưa từng thắng được một trận. Có thể nói là Nhật Huyên có tài dùng binh vậy.
Những lãnh đạo kháng chiến thời Trần đã thành công trong việc thực hiện rút lui chiến lược thì cũng đã thành công trong việc phản công chiến lược. Nếu cuộc rút lui chiến lược của quân Trần có ý nghĩa là "tránh cái thế hăng hái lúc ban mai" thì phản công chiến lược chính là "đánh cái khí tàn lụi lúc buổi chiều" của địch như Trương Phổ nói.
Năm 1300, đại tướng Trần Hưng Đạo ốm nặng, vua Trần Anh Tông hỏi rằng: "Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?". Trần Hưng Đạo trả lời:
- "... Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, giặc cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu giặc tiến chậm như tằm ăn lá, không cầu thắng nhanh, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy".[14]
Thượng tướng Văn Tiến Dũng viết: "Các cuộc kháng chiến đời nhà Trần chống quân Nguyên do đã phát động được toàn dân đánh giặc, do đã kết hợp được các hành động chiến đấu của các lực lượng vũ trang chủ lực, địa phương và dân binh, kết hợp đánh du kích với đánh tập trung, nên cả ba lần đều thắng lợi"
Riêng Khâm định Việt sử Thông giám cương mục của Nhà Nguyễn, vua Tự Đức không khen ngợi mà cho rằng Nhà Trần "gặp may" vì các tướng Nguyên sang Đại Việt đều không giỏi. Tuy nhiên sử sách nhà Nguyên đã ghi rõ ràng những tướng Nguyên như Ngột Lương Hợp Thai, Toa Đô, Ô Mã Nhi hay Lý Hằng đều là những tướng lính dày dạn trận mạc, từng tham gia diệt Nam Tống và Đại Lý đặc biệt là Ngột Lương Hợp Thai, được xếp vào hàng công thần thứ ba của Nhà Nguyên, từng tham gia đánh nước Kim của người Nữ Chân; tấn công Đức và Ba Lan dưới cờ của Bạt Đô, thôn tính đế quốc Ả Rập cùng Húc Liệt Ngột, và diệt nước Đại Lý chỉ trong vài tuần. Trần Xuân Sinh trong Thuyết Trần phản bác quan điểm của Tự Đức và cho rằng những lời bình luận đó là "ngớ ngẩn"[15]:
- Nguyên chúa Hốt Tất Liệt anh hùng, rất giỏi quân sự, đâu có sai đi Nam chinh những đồ vô dụng. Quân Mông Cổ hùng mạnh, đã thắng quân ta ở Lạng Sơn, Nội Bàng và Vạn Kiếp, chiếm đóng kinh thành Thăng Long, lại thắng lớn ở ngoài khơi Quảng Yên... thế rất lớn, nhiều nơi lâm nguy... Vua quan Triều Nguyễn đã làm lệch lạc lịch sử. Các tướng nhà Nguyên không phải không giỏi,... thua chỉ vì gặp các tướng Nhà Trần giỏi hơn mà thôi.
Xem thêm
- Nhà Trần
- Trần Hưng Đạo
- Trần Thái Tông
- Trần Thánh Tông
- Trần Nhân Tông
- Trần Quang Khải
- Trần Nhật Duật
- Trần Khánh Dư
- Trần Quốc Toản
- Hội nghị Diên Hồng
- Uriyangqatai
- Ariq Qaya
- Aju
- Lý Hằng
- Toa Đô
- Trận Bạch Đằng, 1288
- Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 1
- Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2
- Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3
- Hội nghị Bình Than
- Thoát Hoan
- Tổ chức và chiến thuật quân sự của quân đội Đế quốc Mông Cổ
Tham khảo
- Đào Duy Anh (2002), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, Nhà Xuất bản Văn hóa Thông tin
- Trần Xuân Sinh (2006), Thuyết Trần, Nhà Xuất bản Hải Phòng
- Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm (1975), Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII, Nhà xuất bản Khoa học xã hội
Chú thích
- ^ Cima, Ronald. (1987). Tài liệu đất nước Việt Nam. Washington: GPO for the Library of Congress.
- ^ Trần Xuân Sinh (2006), Thuyết Trần, Nhà xuất bản Hải Phòng
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 77
- ^ a b Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm, sách đã dẫn, tr 61
- ^ https://1thegioi.vn/nha-nguyen-tinh-dung-ca-trieu-nguoi-danh-dai-viet-dan-han-lam-than-16966.html
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 206
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 277-279.
- ^ Anderson 2014, tr. 127.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm thị Tâm, sách đã dẫn, tr 61
- ^ a b Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 251
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 249
- ^ Đào Duy Anh, sách đã dẫn, tr 254
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 252
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư (tập 2) tr. 76-77.
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 207
Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 1
Kháng chiến chống Mông-Nguyên lần thứ nhất | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Nhà Trần Đại Việt | Đế quốc Mông Cổ | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Trần Thái Tông Trần Thánh Tông Trần Thủ Độ Trần Nhật Hiệu Trần Quốc Tuấn Lê Phụ Trần Hà Bổng | Uriyangqatai (Ngột Lương Hợp Thai) Aju (A Truật) Cacakdu (Triệt Triệt Đô) Quaidu (Hoài Đô) Abiska | ||||||
Lực lượng | |||||||
Khoảng 60.000 quân [1] | Khoảng 30.000 quân (gồm khoảng 10.000 kị binh Mông Cổ và 20.000 quân Đại Lý) | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
Không có số liệu | Khoảng một nửa cho tới 2/3 chết, bị bắt hoặc đào ngũ (khi Uriyangqatai hội quân với Hốt Tất Liệt ở Ngạc Châu thì chỉ còn lại 3.000 kị binh và 10.000 quân Đại Lý) |
Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần thứ nhất hay Kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất là cách người Việt Nam gọi cuộc chiến đấu của quân dân Đại Việt chống lại quân đội của đế quốc Mông Cổ do Uriyangqatai (Ngột Lương Hợp Thai) chỉ huy vào trong khoảng thời gian nửa tháng cuối tháng 1 năm 1258 (hay năm Nguyên Phong[a] thứ 7.
Cuộc chiến mở đầu với trận Bình Lệ Nguyên, sau đó là trận Phù Lỗ. Quân Mông Cổ thắng 2 trận này, nhưng họ không diệt được đạo quân chủ lực của nhà Trần. Quân Mông Cổ tiến vào kinh thành của Đại Việt trong 9 ngày. Quân đội nhà Trần đã phản công, đại phá quân Mông trong trận Đông Bộ Đầu[2] khiến cho đội quân này phải chạy về phía Bắc, sau đó còn phải hứng chịu một cuộc tập kích khác của thủ lĩnh miền núi là Hà Bổng. Cuộc chiến này đã kết thúc với chiến thắng của nước Đại Việt, ghi dấu công lao của vua Trần Thái Tông trong việc lãnh đạo quân dân Đại Việt chiến đấu chống quân đội Mông Cổ.[3]
Bối cảnh[sửa | sửa mã nguồn]
Vào năm 1206, Thành Cát Tư Hãn đã thành công trong việc thống nhất các bộ lạc Mông Cổ, từ đó Đế quốc Mông Cổ liên tục thực hiện nhiều cuộc chiến nhằm mở rộng đế quốc của mình. 50 năm sau, đến đời Đại hãn thứ 4, tức Mông Kha, ông đã tiến hành các chiến dịch tấn công nước Nam Tống (Trung Quốc). Mông Kha muốn đánh vào sườn nhà Tống thông qua việc cử em trai là Hốt Tất Liệt đánh Đại Lý. Đánh Đại Lý xong vào năm 1253, Hốt Tất Liệt trở về, ra lệnh cho Ngột Lương Hợp Thai ở lại đánh các nước chưa hàng phục.[4]
Đến năm 1257, việc chiếm Đại Việt nằm trong chiến lược tổng thể của quân đội Mông Cổ nhằm tiêu diệt Nam Tống. Bốn cánh quân Mông Cổ sẽ tấn công Nam Tống từ những địa điểm khác nhau từ phía Nam và phía Tây. Nắm quyền chỉ huy 3 cánh quân kia là Mông Kha, Hốt Tất Liệt và Tháp Sát Nhi. Cánh quân còn lại – cánh quân thứ tư, sau khi chiếm Đại Việt sẽ đánh thốc vào Nam Tống từ mạn cực Nam. Tổng chỉ huy của cánh quân thứ tư là Ngột Lương Hợp Thai. Nhà Trần (Đại Việt) được thành lập vào năm 1225, đến thời điểm nhà Nguyên xâm phạm, đã có nền hòa bình 180 năm kể từ khi nhà Tống xâm lược vào năm 1077.[4][5]
Lực lượng[sửa | sửa mã nguồn]
- Theo Tập sử biên niên của Rasìd ud-Dìn: Quân đội của Ngột Lương Hợp Thai gồm kỵ binh Mông Cổ và 20.000 quân sĩ người Di (thuộc nước Đại Lý vừa bị Mông Cổ chinh phục). Không có số liệu chính xác về số kỵ binh Mông Cổ, nhưng theo Rasìd ud-Dìn (Tập sử biên niên) cho biết rằng ban đầu Hốt Tất Liệt và Ngột Lương Hợp Thai đã đem 3 vạn quân xuống đánh Đại Lý (Vân Nam), sau đó Hốt Tất Liệt đi hướng khác, còn Ngột Lương Hợp Thai đánh tiếp sang Đại Việt, khi tiến lên châu Ngạc gặp Hốt Tất Liệt thì quân số còn lại không quá 5.000. Như vậy, trừ đi số tổn thất khi đánh Đại Lý và số kỵ binh đi theo Hốt Tất Liệt, thì số kỵ binh Mông Cổ khi tiến đánh Đại Việt sẽ vào khoảng 10.000 là hợp lý. Cộng thêm quân người Di thì tổng số quân của Mông Cổ có khoảng 30.000. Tiên phong là tướng Aju và Cacakdu (Triệu Triệt Đô hay Triệt Triệt Đô). Ngoài ra, đội quân này còn có phò mã của Mông Cổ là Quaidu (Hoài Đô). Đi tiên phong là Đoàn Hưng Trí – vua Đại Lý đã đầu hàng.[6]
- Theo sách Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam thì quân Mông Cổ có khoảng 1 đến 2 vạn, cộng với 2 vạn quân Đại Lý được Mông Cổ trưng dụng, tổng số là khoảng 3 đến 4 vạn.[cần dẫn nguồn]
- Quân Đại Việt, gồm quân cấm vệ và quân địa phương, có khoảng 10 vạn, trong đó có 2 vạn cấm quân (lực lượng chủ lực đóng ở gần kinh thành) và 8 vạn sương quân (quân đóng ở các địa phương). Quân Trần có đủ các binh chủng bộ binh, kỵ binh, tượng binh và thủy binh đã được thao luyện chu đáo. 2 vạn cấm quân có thể huy động toàn bộ, nhưng 8 vạn sương quân thì phải đóng quân rải khắp trên lãnh thổ cả nước, bao gồm việc ngăn ngừa nổi loạn, chống đạo tặc, canh gác biên giới và lăng tẩm... nên nhà Trần chỉ có thể tập trung được một bộ phận sương quân để tác chiến với Mông Cổ. Ước tính tổng binh lực của nhà Trần trong cuộc chiến này vào khoảng 6 vạn.
Đạo quân của Ngột Lương Hợp Thai không thật đông nếu nhìn về số lượng tuyệt đối, họ chỉ bằng 1/2 quân số nhà Trần. Tuy vậy, quân Mông Cổ, như đã được chứng minh trong quá trình tác chiến của mình, hầu như luôn thua sút về quân số so với đối phương của họ, ít nhất là theo tỷ lệ 1:2, tức là nhiều ra thì số quân của họ cũng chỉ bằng một nửa so với đối phương (Mông Cổ là nước ít dân, dù huy động hầu hết trai tráng thì họ cũng chỉ có khoảng 15 – 20 vạn quân). Tuy ít hơn về số lượng nhưng quân Mông Cổ có lợi thế hơn hẳn về kỵ binh. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, quân Trần có vài nghìn kị binh, còn quân Mông Cổ có khoảng 1 vạn kị binh.
Ngoài ra, kỵ binh Mông Cổ cũng giỏi hơn về kỹ năng chiến đấu. Người Mông Cổ là dân tộc du mục sống bằng chăn nuôi và săn bắn, nên từ nhỏ đã phải liên tục tập cưỡi ngựa và bắn cung để sinh tồn, hình thức "thao luyện kị binh cả đời" này không thể có được trong một đất nước sống bằng nông nghiệp - ngư nghiệp như Đại Việt. Con trai Mông Cổ từ khi 3 tuổi đã bắt đầu học cưỡi ngựa, khi 4 - 5 tuổi thì nhận cây cung đầu tiên của mình. Suốt cuộc đời, người Mông Cổ dành phần lớn thời gian trên yên ngựa để săn bắn và chiến đấu. Trong các chiến dịch quân sự, người Mông Cổ còn có thể buộc mình vào yên ngựa để vừa ngủ vừa cưỡi, nhờ đó đạt được tốc độ hành quân cao. Các chiến binh Mông Cổ được ca ngợi là có sức chịu đựng phi thường, ai cũng sở hữu nhiều loại vũ khí và bắn thành thạo cung tên.[b]
Kỵ binh là binh chủng lợi hại bậc nhất thời trung cổ, có tính cơ động hơn hẳn bộ binh, cho phép quân Mông Cổ nhanh chóng tập trung lực lượng đánh vào chỗ mỏng yếu của đối phương, hoặc sẽ rút lui nhanh nếu thấy bất lợi. Sóng biển (chiến thuật kỵ binh) là cách tác chiến lợi hại của quân Mông Cổ, họ bao vây đội hình quân đối phương bằng cách bố trí kỵ binh theo tuyến dài, thực hiện chiến đấu bao vây linh hoạt. Khi quân thù mạnh hơn thì họ sẽ phân tán lực lượng, khi thời cơ thích hợp họ sẽ hợp lại và tiến hành bao vây đối phương. Chỉ với 100 kỵ binh có thể bao vây 1.000 bộ binh, và 1.000 kỵ binh có thể triển khai thành một tuyến dài hơn 30 dặm. Chiến thuật này là hình thức tác chiến cơ động: Quân Mông Cổ liên tục phi ngựa để giữ khoảng cách, không để đối phương tiếp cận, vũ khí sử dụng chủ yếu là cung tên để bắn quân địch từ xa. Khi quân đối phương chạy tới gần để cận chiến, quân Mông Cổ sẽ phi ngựa rút nhanh về phía sau, và chiến đấu theo Chiến thuật Parthia (vừa phi ngựa vừa bắn tên), nếu còn đường lui thì họ luôn tránh việc cận chiến. Chiến thuật này vừa khai thác tối đa lợi thế về tài năng cưỡi ngựa bắn cung của người Mông Cổ, vừa giảm tối đa nguy hiểm khi đánh cận chiến. Một kỵ binh Mông Cổ có thể dùng cung tên bắn hạ vài binh sĩ đối phương từ xa cả trăm mét, trong khi đối phương chỉ có gươm giáo thì cự ly tác chiến chỉ được vài mét, nên không thể đánh trả được.
Với lợi thế chiến thuật này, có những trận đánh quân Mông Cổ chỉ đông bằng 1/4 đối phương mà vẫn chiến thắng (như Trận sông Kalka, trận Mohi,...), hoặc như Chiến tranh Mông-Kim, Mông Cổ chỉ có khoảng 12 vạn quân mà đã đánh bại quân đội gần 1 triệu người của nhà Kim. Huy động 3 vạn quân (trong đó 1 vạn là kỵ binh Mông Cổ) là tương đương 1/7 binh lực của toàn nước Mông Cổ huy động đánh nước Nam Tống (trong khi Nam Tống đất rộng và đông dân gấp 20 lần Đại Việt). Dựa trên thực tế đó, các tướng Mông Cổ cho rằng với nước nhỏ như Đại Việt thì chỉ cần 3 vạn quân là quá đủ để chinh phạt rồi.
Một đặc điểm nữa của đạo quân này là trong thành phần lãnh đạo, nó quy tụ tới 50 chư vương của triều đình Mông Cổ và phò mã Mông Cổ tên là Quaidu. Đây là những sĩ quan có liên hệ huyết thống hoặc hôn nhân với gia đình của Thành Cát Tư Hãn, gia tộc đang thống trị Mông Cổ. Nhà sử học cổ trung đại người Ba Tư là Rasid ud-Din chép:
“ | ......hãn còn phái năm mươi chư vương... trong số con cháu của Sát Hợp Đài (con thứ hai của Thành Cát Tư Hãn) có một người tên là An-bi-ska (Abiska).[c] | ” |
Tuy nhiên, quân Mông Cổ có nhược điểm lớn bắt nguồn từ chính ưu điểm của họ:
- Do gấp rút tấn công nên quân Mông Cổ chỉ có kị binh và bộ binh, không chuẩn bị thủy binh, nên khi gặp sông ngòi thì không tiến quân được.
- Do chú trọng việc tác chiến cơ động, hành quân phải thật nhanh nên quân Mông Cổ không mang theo dân phu để vận tải lương thực, xây dựng doanh trại (do dân phu phải khuân vác nặng nên đi khá chậm, nếu đi cùng dân phu thì kỵ binh không hành quân nhanh được). Tất cả những gì cần thiết cho việc chiến đấu, sinh hoạt và ăn uống đều được quân Mông Cổ mang theo trên lưng ngựa. Với cách này, quân Mông Cổ chỉ có thể mang theo rất ít lương thực (chỉ đủ ăn vài ngày), khi đánh vào lãnh thổ đối phương thì họ sẽ cướp lương thực của dân bản địa để nuôi sống quân lính. Đây là chiến thuật mà Mông Cổ thường áp dụng trong các cuộc chiến trước đó và tỏ ra khá hiệu quả. Nhưng nhà Trần đã nhận ra điểm yếu của chiến thuật này và chuẩn bị sẵn kế hoạch "vườn không nhà trống" để đối phó. Triều đình nhà Trần đã sớm ra lệnh cho người dân cất giấu hết lương thực trong các kho, khiến quân Mông Cổ không cướp được lương thực và dần bị suy yếu.
Diễn biến[sửa | sửa mã nguồn]
Đội quân của Ngột Lương Hợp Thai sau khi chiếm được Đại Lý, rồi đóng binh ở A Mễ (阿迷, nay là Khai Viễn châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam)[7] phía Bắc Đại Việt, sai hai sứ giả đến dụ hàng Đại Việt. Nhà Trần đã nhốt hai viên sứ giả vào ngục và trói bằng dây tre. Theo Nguyên sử: Ngột Lương Hợp Thai không thấy tin tức hai viên sứ giả này, bèn sai tướng là Triệt Triệt Đô cùng đem 3000 quân,[d] chia đường tiến binh tấn công Đại Việt. Đến tháng Mười âm năm Đinh Tỵ quân Nguyên Mông tiến tới áp sát biên giới[8] (vùng ải Lê Hoa). Tháng Chín âm năm 1257, chủ trại Quy Hóa[e] là Hà Khuất báo tin có sứ Nguyên sang. Vua Trần không nghe lời dụ hàng, xuống chiếu ra lệnh đem quân thủy bộ ra ngăn giữ biên giới (vùng ải Lê Hoa, núi Mai Lĩnh), theo sự tiết chế của Trần Quốc Tuấn và truyền cả nước sắm sửa vũ khí.[9]
Trận Bình Lệ Nguyên[sửa | sửa mã nguồn]
Ngột Lương Hợp Thai chia quân làm hai cánh, một cánh do mình chỉ huy và cánh quân còn lại do Triệt Triệt Đô chỉ huy, chia đường tiến xuống sông Thao ở vùng Kinh Bắc, Đại Việt. Viên tướng này dùng con trai là A Truật sang giúp và dòm ngó tình hình. Nhà Trần bày nhiều lớp phòng thủ, A Truật trở về báo, liền tiến quân đi gấp, sai Triệt Triệt Đô làm tiên phong, A Truật ở sau làm điện, đến tháng 12 năm 1257, hai đạo quân hợp lại với nhau. Đến tháng Chạp năm Đinh Tỵ (1257), quân đội Mông Cổ xâm lấn đồng Bình Lệ, vua Trần Thái Tông tự mình dẫn theo sáu đạo cấm quân (Thiên Thuộc, Thiên Chương, Thánh Dực, Chương Thánh, Thần Sách, Củng Thần), cộng thêm sương quân ở các địa phương gần kinh thành để chống lại.[10]
Quân Mông Cổ giáp trận quân Đại Việt do đích thân Trần Thái Tông (Trần Cảnh) ngự giá thân chinh chỉ huy tại Bình Lệ Nguyên (nay là huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc). Đó là ngày 17 tháng 1 năm 1258.[11]
Quân đội nhà Trần bày tượng binh, kỵ binh và bộ binh bên bờ sông Hồng đợi giặc, tượng binh dàn hàng ngang tại tiền quân che chắn cho lớp bộ binh, kỵ binh phía sau, thủy quân dọc sông Hồng để có thể khi thua sẽ rút quân an toàn. Quân Mông Cổ chia làm ba đội để sang sông, Triệt Triệt Đô dẫn 5.000 quân làm quân tiên phong, Ngột Lương Hợp Thai cầm đại quân đi giữa, phò mã Hoài Đô và A Truật giữ hậu quân. Đội chủ lực của Ngột Lương Hợp Thai lấy những hàng binh Đại Lý dàn ở các hàng phía trước để làm bia đỡ hứng chịu thương vong, kỵ binh Mông Cổ đi phía sau để hỗ trợ và tung đòn quyết định. Ngột Lương Hợp Thai dặn Quỳ Thủ Soạn và viên tiên phong là Triệt Triệt Đô:[12]
“ | ..."quân ngươi qua sông đừng đánh. Chúng nó tất đến chống ta, phò mã sẽ theo sau mà chặn phía sau nó: Ngươi lừa cướp lấy thuyền để nếu quân Nam tan vỡ thì đến sông không có thuyền, tất bị ta bắt được." | ” |
Nhưng Triệt Triệt Đô vừa qua sông đã ập lại đánh ngay. Trần Thái Tông tự làm tướng, đốc chiến đi trước xông pha tên đạn, sai tượng binh tiến ra giao chiến. Con Hợp Thai là A Truật (18 tuổi) ra lệnh cho kỵ binh bắn tên vào mắt voi, khiến voi đau và hoảng sợ, quay lại dày xéo đội hình quân Trần. Quân Trần nao núng, Trần Thái Tông ngoảnh trông hai bên, chỉ có tướng Lê Tần cưỡi ngựa một mình ra vào trận, sắc mặt không thay đổi. Lúc ấy, có người khuyên vua Trần dừng lại để chỉ huy chiến đấu. Lê Trần cố sức can vua: "Nay thì bệ hạ chỉ đánh một ván dốc túi thôi! Hãy nên tạm lánh chúng, sao lại có thể dễ dàng tin lời người ta thế!". Bấy giờ, vua Trần mới lui quân đóng ở sông Lô, Lê Tần giữ phía sau. Quân Mông Cổ bắn loạn xạ, Lê Tần lấy ván thuyền che cho vua Trần khỏi trúng tên giặc. Thế quân Mông rất mạnh, do không chiếm được thuyền của Đại Việt, vua Trần vẫn bảo tồn được lực lượng và lui về giữ sông Thiên Mạc.[10]
Quân Trần thất lợi nhưng chủ động rút lui. Trần Thái Tông và tướng Lê Tần lui tới sách Cụ Bản, gặp tướng Phạm Cự Chích đem viện binh tới cứu. Quân Mông Cổ giết được Phạm Cự Chích, nhưng vua Trần đã chạy thoát ra bến Lãnh Mỹ, rồi xuôi thuyền về Phù Lỗ. Không bắt được bộ chỉ huy nhà Trần, Ngột Lương Hợp Thai nổi giận. Triệt Triệt Đô uống thuốc độc tự sát do không nghe lệnh, để vua Trần chạy thoát.[10][13]
Quân Trần rút lui[sửa | sửa mã nguồn]
Khi vua Thái Tông triệt binh về sông Thiên Mạc, Lê Tần đã thảo luận với ông về những chuyện cơ mật, không mấy người biết tới. Khi ấy, Thái Tông cũng ngự thuyền nhỏ tới thuyền của em là Thái uý Trần Nhật Hiệu để hỏi ý Nhật Hiệu về kiến về kế sách giữ nước. Nhật Hiệu ngồi dựa vào mạn thuyền, không thể nào đứng lên được và đưa ngón tay xuống chấm nước rồi ghi hai chữ "nhập Tống" trên mạn thuyền (tức là nên chạy sang lánh ở đất Nam Tống).[14] Thái Tông bèn hỏi về tình hình của quân Tinh Cương[f] dưới quyền Nhật Hiệu, thì Nhật Hiệu đáp lại: "Không gọi được chúng đến". Thế rồi, nhà vua lại ngự thuyền đến chỗ Thái sư Trần Thủ Độ. Khi nghe câu hỏi của nhà vua, Thủ Độ tâu:[2]
“ | Đầu thần chưa rơi xuống đất, Bệ hạ đừng lo gì khác. | ” |
— Trần Thủ Độ |
Ngày hôm sau, ngày 18 tháng 1 năm 1258, hai bên chạm trán một lần nữa tại Phù Lỗ, vua Trần đã chặt cầu Phù Lỗ từ trước.
Hai bên đối mặt nhau qua một con sông (sông Cà Lồ) mà bày trận, quân Mông Cổ vẫn là người qua sông phá trận. Quân Mông muốn qua sông nhưng không có thuyền bè, bèn men theo bờ sông bắn tên xuống nước, thấy chỗ nào tên bắn xuống mà không nổi lên tức là cạn, rồi dùng kị binh băng qua sông. Quân Trần vẫn tiếp tục gặp bất lợi, nhưng một lần nữa họ lại chủ động rút lui. Sau đó, quân Trần lại chủ động rút khỏi Thăng Long.[10]
Quân Mông Cổ chiếm được kinh đô Đại Việt sau 2 trận đánh. Nguyên sử chép: Ngột Lương Hợp Thai cũng phá quân bộ, lại cùng A Thuật hội đánh, đại phá chúng, rồi vào nước này. Nhật Quýnh (chỉ vua Trần) trốn chạy ra hải đảo. Bắt gặp sứ giả ngày trước ở trong ngục, bị dây tre trói lằn vào da thịt, lúc cởi trói ra, một sứ giả chết, do đó làm cỏ thành này.[10]
Quân Trần phản công[sửa | sửa mã nguồn]
Chiếm được kinh đô chỉ sau hai trận đánh, nhưng kho tàng trống rỗng là vấn đề lớn đối với đội quân Mông Cổ. Những cuộc cướp bóc để kiếm lương ở vùng ngoại vi và phụ cận không có nhiều kết quả, quân Mông Cổ lâm vào tình trạng thiếu thốn lương thực.
Nửa đêm ngày 28 tháng 1 năm 1258, từ nơi trú quân (Thiên Mạc) trên Hoàng Giang,[g] Trần Thái Tông cùng Thái tử Trần Hoảng ngự lâu thuyền[2] ngược sông, bất ngờ đánh thẳng vào quân Mông Cổ.[15] Quân Mông Cổ cho rằng lực lượng quân Trần đã kiệt quệ sau trận thua đầu nên rất chủ quan, do đó khi bị tập kích đã không kịp trở tay, bị thua to. Sau khi bị phá tan tại Đông Bộ Đầu,[h] quân Mông Cổ không giữ nổi Thăng Long nữa. Chúng đồng loạt tháo chạy thẳng về Vân Nam.
Như khi mới tiến quân vào, quân Mông Cổ rút chạy theo dọc sông Thao, nhưng theo con đường bộ ở phía tả ngạn. Quân Mông rút lui quá nhanh, ngoài cả dự tính của nhà Trần khiến vua Trần chưa kịp bố trí lực lượng đón đánh. Tuy nhiên khi đến Quy Hóa (vùng Lào Cai, Yên Bái), quân Mông bị chủ trại là Hà Bổng – một thổ quan người Tày - tập kích kịch liệt. Trong số quân của Hà Bổng có những người Thái chạy từ nước Đại Lý vừa bị Mông Cổ diệt sang theo Đại Việt, muốn trả thù người Mông Cổ nên đã đánh rất hăng khiến quân Mông Cổ khốn đốn; chỉ vì số quân của Hà Bổng ít người nên thiệt hại của quân Mông Cổ không lớn.[16] Trên đường rút về, do sợ bị quân Trần truy đuổi đằng sau, quân Mông Cổ cố rút nhanh và không cướp phá dân chúng, do đó người Việt mỉa mai gọi là "giặc Bụt".[17]
Kết cục[sửa | sửa mã nguồn]
Theo Nguyên sử - Ngột Lương Hợp Thai truyện và Kinh thế đại điển tự lục chép rằng: sau khi bỏ Thăng Long, người Mông Cổ đã chạy về thành Áp Xích, trên đất của 37 bộ Quỷ Phương (Đại Lý), và điều này có nghĩa là Mông Cổ đã không đạt được mục tiêu là chiếm Đại Việt để làm bàn đạp đánh vào lưng Nam Tống. Ngột Lương Hợp Thai truyện cũng cho biết, Uriyangqatai đóng quân ở Áp Xích, sau khi có lệnh của Mông Kha thì mới đi theo đường trại Hoành Sơn để tiến vào châu Ngạc của Tống và hội quân với Hốt Tất Liệt. Nguyên sử lại viết: quân ở lại 9 ngày, vì khí hậu nóng nực nên rút quân về. Lại sai hai sứ giả đi gọi Nhật Cảnh về (chỉ vua Trần). Nhật Cảnh thấy kinh đô bị phá hủy, rất giận, ép sứ giả quay về. Thực tế, quân Mông Cổ đánh Đại Việt vào tháng 1, đúng vào lúc giữa mùa đông ở miền Bắc Việt Nam, do vậy không thể có chuyện "khí hậu nóng nực nên rút quân về" như Nguyên sử chép được.
Các khám phá địa chất gần đây cho thấy khoảng năm 1257 hoặc đầu 1258, núi lửa Samalas ở Indonesia xảy ra phun trào lớn, làm khí hậu thế giới bị biến động. Một số ý kiến cho rằng quân Mông ra lệnh rút quân là do thời tiết trở nên khắc nghiệt bởi ảnh hưởng từ vụ phun trào. Tuy nhiên, các ý kiến này là không hợp lý. Thứ nhất, đúng là vụ phun trào núi lửa Samalas làm khí hậu ấm lên trong mấy tháng do hiệu ứng của khí sunfat[18], nhưng mức gia tăng nhiệt độ chỉ ở mức mấy độ C, chỉ có thể làm mùa đông bớt lạnh chứ không thể biến mùa đông thành "mùa hè nóng nực" được. Thứ hai, ảnh hưởng của vụ phun trào cũng diễn ra tương tự ở lãnh thổ nước Nam Tống đang bị Mông Cổ chinh phạt vào cùng thời điểm, nhưng không hề thấy quân Mông Cổ rút khỏi Nam Tống vì lý do thời tiết.
Thiệt hại của quân Mông Cổ, tùy theo nguồn tài liệu mà chênh lệch từ già nửa cho tới khoảng 2/3:
- Theo Rashid-al-Din, đạo quân ba vạn kỵ binh Mông Cổ của Ngột Lương Hợp Thai kéo xuống Vân Nam, trước khi tiến lên châu Ngạc, còn lại không quá 5000 người, không rõ thiệt hại trong chiến tranh với Đại Việt là bao nhiêu.
- Nguyên sử, Ngột Lương Hợp Thai truyện và bài bia ký A Truật thì chép rằng: khi thâm nhập đất Tống, đoàn quân này còn lại 3.000 kị binh Mông Cổ và 1 vạn quân Thoán Bặc.[6]
Sau cuộc chiến[sửa | sửa mã nguồn]
Vua Trần Thái Tông hồi kinh, trăm họ Đại Việt nghiệp yên như cũ. Định công phong tước, cho Lê Tần (hay Lê Phụ Trần) làm Ngự sử đại phu và đem công chúa Chiêu Thánh gả cho. Vua nói: Trẫm không có khanh thì làm gì có được ngày nay. Khanh nên cố gắng để cùng hưởng phúc sau này. Cùng năm đó (1258), vua Trần Thái Tông truyền ngôi cho thái tử Hoảng, tức Trần Thánh Tông.
Năm 1258, ngay khi vừa bị đuổi chạy về đến Vân Nam, Uriyangqatai (Ngột Lương Hợp Thai) đã sai ngay hai sứ sang dụ vua Thái Tông vào chầu. Căm phẫn vì thấy kinh đô Thăng Long bị tàn phá, Thái Tông với khí thế của người chiến thắng, đã sai trói hai sứ lại, đuổi về.[6]
Vua Trần sai sứ giả sang thông hiếu với nhà Tống. Sai Lê Phụ Trần làm sứ, Bác Lãm làm phó sang nhà Nguyên, rốt cuộc định ba năm một kỳ cống làm lệ thường.[19] Theo Nguyên sử: Tháng 2 ngày mậu ngọ năm thứ 8, Nhật Cảnh (vua Trần) truyền nước cho con trưởng là Quang Bính, đổi niên hiệu Thiệu Long. Mùa hạ, Quang Bính sai con rể (Lê Phụ Trần) cùng người nước này đem phương vật đến, Ngột Lương Hợp Thai hộ tống đến sở quan, sai riêng Nột Lạt Đinh đến dụ chúng, nói: "Trước ta sai sứ giả đến giao hảo, các ngươi bắt giữ mà không cho quay về, ta do đó phát binh năm trước. Vì vua của nước ngươi đứng trốn ở đồng cỏ, lại lệnh cho hai sứ giả đến gọi về nước, ngươi lại ép sứ giả ta trở về. Nay sai riêng sứ giả đến dụ, nếu các ngươi thực lòng nội thuộc, thì vua nước ngươi phải tự mình đến, nếu vẫn không chừa, sớm đến báo cho ta". Quang Bính nói: "Nước nhỏ thật lòng thờ Nhà vua, thì nước lớn lấy gì đối đãi nước nhỏ?". Nột Lạt Đích về báo. Bấy giờ Vương chư hầu là Bất Hoa giữ Vân Nam, Ngột Lương Cáp Thai nói với Vương, lại sai Nột Lạt Đinh đến dụ, sai sứ giả cùng đến. Quang Bính bèn thực lòng nạp thuộc, lại nói: "Đợi ban ân đức, liền sai con em làm con tin". Vương lệnh cho Nột Lạt Đinh lên ngựa đưa tin vào tấu lên.
Theo sử gia Lê Tắc, người viết quyển sử An Nam chí lược, có chép về bức thư vua Nguyên gửi cho vua Trần năm 1275: "Theo chế độ của tổ tông đã quy định, phàm các nước Nội phụ thì vua phải thân hành tới chầu, gửi con em làm con tin, biên nạp dân số, nộp thuế lệ, mộ dân trợ binh và vẫn đặt quan Đạt lỗ hoa xích để thống trị; sáu điều nói trên, năm trước đã có lời dụ cho khanh biết rồi, thế mà qui phụ đã hơn 15 năm, khanh chưa từng tới triều kiến một lần nào, và các điều quy định đến nay vẫn chưa thi hành, tuy rằng ba năm tới cống hiến một lần, nhưng các đồ cống hiến đều không dùng được".[20] Như vậy, mang tiếng là một nước phải triều cống, nhưng đó chỉ là trên danh nghĩa, còn thực tế Đại Việt là một nước tự chủ, không thi hành theo sáu điều quy định của Mông Cổ về nước Nội phụ của Mông Cổ.
Nhận định[sửa | sửa mã nguồn]
Các tác giả của Nguyên sử, phần Hiến Tông bản kỷ chỉ chép vắn tắt:[21]
- "Mùa đông tháng 11, Ngột Lương Hợp Thai đánh vào Giao Chỉ, đi vào nước nó. Chúa An Nam là Trần Nhật Cảnh trốn vào hải đảo, [Mông Cổ] bèn rút quân về".
- (ghi chép của Nguyên sử để tránh kị huý đã không công nhận đây là thất bại mà chỉ nói tránh là "Mông Cổ rút quân về", không nhắc đến việc quân Mông Cổ bại trận ở Đông Bộ Đầu và bị tập kích khi rút về. Vua Trần cũng không hề "trốn vào hải đảo" như Nguyên sử viết mà đã trực tiếp chỉ huy trận Đông Bộ Đầu phản công đánh bại quân Mông Cổ)
Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Kỷ nhà Trần, phần Thái Tông hoàng đế, có bình luận:
- "...lúc đó, người Nguyên mới lấy Vân Nam, du binh xâm lược đến, không có ý lấy nước ta."
- Bình luận "quân Nguyên không có ý lấy nước ta" trong Đại Việt sử ký toàn thư ngày nay bị bác bỏ. Các sử gia trong đế quốc Mông Cổ như Rashid al-Din và Lê Tắc (tác giả An Nam chí lược) đều công nhận rằng Mông Kha muốn chiếm Đại Việt làm bàn đạp để đánh thọc vào châu Ung, châu Quế phía nam nước Tống. Chính Nguyên sử cũng ghi: "Uriangqadai vào Giao Chỉ định kế lâu dài." Nếu chiến dịch này chỉ là để cướp bóc, không phải để chiếm lãnh thổ thì quân Mông không cần phải huy động tới 3 vạn quân, và Mông Kha cũng đã không cử tới 50 chư vương của triều đình Mông Cổ, có cả phò mã Mông Cổ tên là Quaidu tham gia chỉ huy đội quân này.
Lời cẩn án của các sử quan thời Nguyễn chép trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục:
- Trận này thế giặc rất mạnh, thế mà Sử cũ chỉ chép rằng nhà vua tiến quân đánh được giặc, không chép rõ cái cớ sở dĩ đánh được như thế nào cả. Tham khảo sách Nguyên sử loại biên và sách Cương mục tục biên (Trung Quốc) đều chép rằng: Ngột Lương Hợp Thai đã bình được nước Đại Lý, kéo quân sang nước ta, ba lần sai sứ đến dụ nhà vua đầu hàng, đều không thấy sứ thần trở về, bấy giờ mới chia đường tiến quân, nhân thế thắng, kéo vào đô thành nước ta, khi vào, thấy ba người sứ sai sang trước còn bị giam ở trong ngục, người nào cũng bị những thanh tre bó chặt vào mình sát hẳn đến da, khi cởi trói ra, thì một người đã bị chết, họ liền giết hết cả dân trong thành. Đóng quân ở đây được 9 ngày, vì không chịu được nóng nực, phải rút về. Lại sai sứ giả đến chiêu an, vua Thái Tông giận họ tàn phá, nên lại sai trói hai sứ giả đưa trả lại.[22]
Sử gia Trần Xuân Sinh cho rằng: Ngột Lương Hợp Thai là tướng giỏi, khi thấy không giữ nổi Thăng Long đã rút sớm về Vân Nam để bảo toàn lực lượng là thượng sách.[23]
Việc quân Mông Cổ thất bại ở Đại Việt cũng đã giúp Nam Tống tránh được việc bị đánh kẹp từ phía Nam để có thể tập trung binh lực đối phó Mông Cổ ở phía Bắc. Quy mô đạo quân của Ngột Lương Hợp Thai có thể nói là không lớn, chỉ cỡ 3 vạn. Nhưng xét về hậu quả của thất bại đối với toàn thể chiến lược xâm lăng đất Tống theo bốn con đường cũng như sự thất bại quá chóng vánh, sử gia Hà Văn Tấn có nhận định rằng:
- "Có lẽ...trong đời chinh chiến của mình, chưa bao giờ Uriangqadai bị thua nhục nhã như lần này."
Sử liệu Trung Quốc thời Nguyên, Minh không chấp nhận họ là nước lớn mà lại thất bại, nên đã quy kết nguyên nhân thất bại của quân Mông Cổ là do thời tiết nóng nực của Đại Việt. Trong Nguyên văn loại, quyển 41, Kinh thế đại điển tự lục (bản Thương vụ ấn thư quán 1958, trang 563) chép rằng: "[Quân Mông Cổ] ở lại chín ngày, vì nóng nực, rút quân về". Còn Nguyên sử trong quyển 209, An Nam truyện cũng viết là "Quân ở lại chín ngày, vì khí hậu uất nhiệt bèn rút quân về". Thực tế, quân Mông Cổ đánh Đại Việt vào tháng 1, đúng vào lúc giữa mùa đông ở miền Bắc Việt Nam, do vậy không thể có chuyện "khí hậu nóng nực nên rút quân về" như Nguyên sử và Kinh thế đại điển tự lục chép được.
Chiến thắng của quân dân Đại Việt trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất đã ghi dấu công lao của vua Trần Thái Tông.[3] Sau này vua Trần Nhân Tông về thăm Long Hưng, trông thấy vẻ uy nghi đường vệ của lăng Thái Tông, đã ghi lại dư âm của chiến thắng năm 1258 trong niên hiệu Nguyên Phong bằng mấy câu thơ trong bài "Xuân Nhật yết Chiêu Lăng":
- Tì hổ thiên môn túc
- Y quan thất phẩm thông
- Bạch đầu quân sĩ tại
- Vãng vãng thuyết Nguyên Phong
- Dịch:
- Nghìn cửa quân tì hổ uy vũ
- Các quan thất phẩm áo đầy đủ.
- Quân sĩ người đầu bạc vẫn còn,
- Thường thường kể chuyện thời Nguyên Phong[24]
- Các tác giả phương Tây Peter D. Sharrock và Vũ Hồng Liên (người Anh gốc Việt) đã nhận xét về kết quả cuộc chiến năm 1258:[25]
“ | Các bộ sử Việt ca ngợi các sự kiện năm 1258 là một đại thắng, nhưng Nguyên sử và An Nam chí lược cho là người Mông Cổ đã thắng, vì họ đã chiếm được Thăng Long. Cuối năm đó, Đại hãn Mông Kha gửi một lá thư cho vua Trần, có nói đến việc ông ta [vua Trần] đuổi hai sứ Mông Cổ, và yêu cầu triều đình Trần thần phục. Điều đó có nghĩa là nhà Trần đã không thần phục từ trước. Điều đó cũng có nghĩa là thanh danh bất khả chiến bại của người Mông Cổ đã bị tan vỡ tại thời điểm này. Nguyên sử, An Nam chí lược và các bộ sử biên niên Việt chỉ viết sơ sài về cuộc chiến năm 1258, nhưng thật ra đây là một bước ngoặt trong lịch sử thế giới, vì đây là bước lùi đầu tiên của quân Mông Cổ tại châu Á và trong chiến dịch chinh phục thế giới của họ. Nó được nối tiếp bằng thất bại được biết đến nhiều hơn của họ trong tay người Mamluk tại Ain Jalut tháng 9 nắm 1260. | ” |
— Petrer Sharrock & Vũ Hồng liên |
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
- Kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2
- Kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 3
- Trần Thái Tông
- Trần Thủ Độ
- Lê Phụ Trần
- Lê Tắc
Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Niên hiệu của vua Trần Thái Tông.
- ^ Trích từ Tổ chức và chiến thuật quân sự của quân đội Đế quốc Mông Cổ, phần Giáo dục và Đào tạo
- ^ Trong lần xâm lấn Đại Việt lần thứ 2, trong quân của Thoát Hoan cũng có hai thân vương Mông Cổ là Tích Lệ Cơ và Đại vương Giảo Kì. Tuy vậy, khi này, Tích Lệ Cơ đang bị tội và bị phái đi phục vụ trong đạo quân xâm lược như một biện pháp trừng phạt.
- ^ Số liệu của sách Nguyên sử
- ^ Quy Hóa: Xưa thuộc bộ Tân Hưng, nhà Lý gọi là Đăng Châu; nhà Trần gọi là trại Quy Hóa; nhà Lê đổi làm phủ; bây giờ cũng theo như cũ, thuộc tỉnh Hưng Hóa, lời chú của các sử quan trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục
- ^ Quân Tinh Cương: Tức quân tuyển trong những người ở làng Tinh Cương do Nhật Hiệu thống lĩnh. Trích lời chú trong sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục.
- ^ Đoạn sông Hồng chảy qua Lý Nhân, Hà Nam.
- ^ Nay là dốc Hàng Than, Hà Nội
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Nhà Trần khi đó có 100.000 quân trên cả nước, gồm 2 vạn cấm quân và 8 vạn sương quân. Tất cả cấm quân và khoảng 1 nửa sương quân được huy động
- ^ a b c Đại Việt Sử ký Toàn thư, Bản Kỷ, Kỷ Nhà Trần, mục Thái Tông Hoàng đế
- ^ a b Hội khoa học lịch sử Việt Nam, Viện sử học, Nhà Trần và con người thời Trần, trang 139
- ^ a b Nguyên sử, phần Liệt truyện, Ngoại di, An Nam
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản thời đại, 2013, tr 263
- ^ a b c Hà Văn Tấn và Phạm thị Tâm, sách đã dẫn, tr 61
- ^ Trần Quốc Vượng và Hà Văn Tấn, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập 1, trang 382.
- ^ [1 Nguyên sử, quyển 21, Tốc Bất Đài (Ngột Lương Hợp Thai)].
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản thời đại, 2013, tr283
- ^ a b c d e Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản thời đại, 2013, tr283, 284
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Bản Kỷ, Kỷ Nhà Trần, mục Thái Tông Hoàng đế chép trận đánh diễn ra ngày 12 tháng 12 năm Đinh Tỵ.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm, sách đã dẫn, tr 68
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm, sách đã dẫn, tr 69
- ^ Chú thích của Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Bản Kỷ, Kỷ Nhà Trần, mục Thái Tông Hoàng đế chép trận đánh diễn ra ngày 24 tháng 12 năm Đinh Tỵ.
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 82
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 84
- ^ Lavigne và đồng nghiệp 2013, tr. 16746.
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản thời đại, 2013, tr 285
- ^ An Nam chí lược, Viện đại học Huế, Ủy ban phiên dịch sử liệu, 1961, bản điện tử, tr 19
- ^ Lê Mạnh Thát (2004), Toàn tập Trần Thái Tông, Nhà xuất bản Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, các trang 78-83.
- ^ Khâm định việt sử thông giám cương mục, Nhà xuất bản Giáo dục - Hà Nội, 1998, quyển VI
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 83
- ^ http://vanhoanghean.com.vn/index.php?option=com_k2&view=item&id=4142:b%E1%BB%8B-coi-th%C6%B0%E1%BB%9Dng-hay-t%E1%BB%B1-coi-th%C6%B0%E1%BB%9Dng-?
- ^ Peter D. Sharrock (2014). Descending Dragon, Rising Tiger: A History of Vietnam (bằng tiếng Anh). Reaktion Book. ISBN 1780233884.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- Đại Việt Sử ký Toàn thư, Nhà xuất bản thời đại, 2013
- An Nam chí lược, Lê Tắc
- Việt sử tiêu án, Ngô Thì Sĩ
- Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nhà xuất bản giáo dục HN, 1998
- Hà Văn Tân và Phạm Thị Tâm (1972), Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, bản in lại năm 2003, Chương III: "Cuộc kháng chiến lần thứ nhất", trang 66 – 88
- Trần Xuân Sinh (2006), Thuyết Trần, Nhà xuất bản Hải Phòng
- Hội khoa học lịch sử Việt Nam, Viện sử học, Nhà Trần và con người thời Trần, Trung tâm UNESCO thông tin tư liệu, lịch sử và văn hóa Việt Nam, 2004
Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2
Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2 | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Tàn quân người Tống do Triệu Trung mang sang quy hàng Đại Việt | Đế quốc Mông Cổ | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Trần Thánh Tông Trần Nhân Tông Trần Quốc Tuấn Trần Quang Khải Trần Nhật Duật Trần Khánh Dư Trần Bình Trọng † Trần Quốc Toản † Phạm Ngũ Lão Trần Quốc Nghiễn Nguyễn Khoái Nguyễn Thế Lộc Hà Chương Hà Đặc † Triệu Trung Trần Ích Tắc Trần Kiện † Lê Tắc | Thoát Hoan Ariq Qaya (A Lý Hải Nha) Ô Mã Nhi Toa Đô † Lý Hằng † Koncak (Khoan Triệt) Bolqadar (Bột La Hợp Đáp Nhĩ) Satartai (Sát Tháp Nhi Đài) Mangqudai (Mãng Cổ Thái) Naqai (Nạp Hải) Lý Bang Hiến Tôn Hựu Tôn Đức Lâm Lưu Thế Anh Lưu Khuê Nghê Nhuận | ||||||
Lực lượng | |||||||
Khoảng 200.000 - 300.000 quân và dân phu | Khoảng 500.000 quân và dân phu | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
Không rõ | Khoảng 100.000-200.000 chết 50.000 bị bắt |
Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2[1] là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm 1285 (dương lịch). Cuộc chiến tranh lần này diễn ra sau cuộc chiến giữa hai nước lần thứ nhất khoảng 27 năm.[2] Trong lần này, quân Nguyên huy động lực lượng đông đảo gấp cả chục lần so với cuộc chiến lần trước. Nhưng dù cho quân Nguyên Mông hùng mạnh và có nhiều Vương hầu của triều Trần mang tư tưởng cầu an, quân dân Đại Việt dưới sự lãnh đạo của Trần Hưng Đạo, Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và nhà vua Trần Nhân Tông đã giành chiến thắng vang dội trong cuộc kháng chiến này, thể hiện "Hào khí Đông A" của nước Đại Việt thời đó.[3]
Diễn biến[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1258, quân Mông Cổ từng thất bại ở Đại Việt trong việc tìm cách mở một hướng từ phía Nam để đánh vào lãnh thổ Nam Tống.
Năm 1279, Nam Tống hoàn toàn bị Đại Nguyên thôn tính. Tháng 8 năm này, hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt ra lệnh đóng thuyền chiến chuẩn bị đánh Đại Việt và Nhật Bản.[4]
Đụng độ đầu tiên[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1281, vua Nguyên đòi vua Trần vào chầu. Vua Trần cáo bệnh từ chối và cử chú mình là Trần Di Ái sang thế. Vua Nguyên nhân cơ hội này phong Trần Di Ái làm An Nam quốc vương và gửi thư cho vua Trần thông báo việc lập Di Ái thay vua Trần. Lúc này, vua Trần là Trần Nhân Tông và Thái thượng hoàng là Trần Thánh Tông.
Ngày 27 tháng 11 năm 1281, nhà Nguyên thành lập An Nam tuyên úy ty và cử Buyan Tamur làm An Nam tuyên úy sứ đô nguyên soái, Sài Thung và Qugar làm phó. Khoảng đầu tháng 1 năm 1282, Sài Thung được lệnh đem hơn 1.000 quân người Hán trong quân đội Nguyên hộ tống Trần Di Ái về Đại Việt làm vua. Tuy nhiên, vua Trần Nhân Tông đã cho người đón đánh khiến Trần Di Ái sợ trốn về nước Nguyên, chỉ còn Sài Thung sang.[5]
Sau những sự kiện này, quan hệ ngoại giao vốn bằng mặt nhưng không bằng lòng giữa hai nước suốt từ năm 1258 trở nên căng thẳng với ít nhân nhượng. Nhà Trần nhiều lần từ chối các yêu cầu của nhà Nguyên như việc vào năm 1283 nhà Nguyên yêu cầu nhà Trần giúp binh lương cho việc chinh phạt Chiêm Thành (Trần Nhân Tông trả lời rằng nước nghèo nên không thể cấp binh lương nhiều được). Không những vậy, Đại Việt còn gửi quân sang chi viện cho Chiêm Thành (2 vạn quân binh và 500 chiến thuyền). Còn Sài Thung thực hiện một thái độ cư xử hống hách ngay giữa triều đình nhà Trần.[6]
Mặt trận ở nước láng giềng.[sửa | sửa mã nguồn]
Cuối năm 1282, Toa Đô (Sogetu) chỉ huy một hạm đội hải quân Nguyên sang đánh Chiêm Thành. Quân Chiêm yếu thế rút khỏi kinh đô vào rừng núi chống cự, Toa Đô đánh nhiều lần không được. Nhà Trần điều quân và thuyền chiến sang giúp Chiêm chống quân Nguyên.
Năm 1283, Hốt Tất Liệt sáp nhập hành tỉnh Kinh Hồ - Chiêm Thành làm một, biến những vùng đất đã chiếm được của Chiêm Thành trở thành căn cứ phía Nam để đánh Đại Việt.
Khoảng cuối tháng 12 năm 1284 đầu tháng 1 năm 1285, Toa Đô viết thư tâu với vua Nguyên rằng:
- "Giao Chỉ liền đất với Chân Lạp, Chiêm Thành, Vân Nam, Xiêm, Miến, nên lập tỉnh ngay trên đất ấy và đóng quân trấn giữ ở ba đạo Việt Lý,[7] Triều Châu, Tỳ Lan,[8] lấy lương ở đó cấp cho quân sĩ, tránh được việc vận tải đường biển mệt nhọc".[9]
Đề nghị đó được Hốt Tất Liệt đồng tình. Đại Việt rơi vào tình thế trước mặt sau lưng đều có hiểm họa. Chiến tranh chuẩn bị bùng nổ.
Chuẩn bị và củng cố lực lượng[sửa | sửa mã nguồn]
Quân đội Mông-Nguyên[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 21 tháng 7 năm 1284, Hốt Tất Liệt phong con trai thứ 9 của mình tên Toghan (Thoát Hoan)[10] làm Trấn Nam vương. Ariq Qaya, viên tướng xuất sắc người Uigur của nhà Nguyên, được chọn làm phó cho Thoát Hoan, và được phong làm An Nam hành trung thư tỉnh tả thừa tướng. Các tướng lĩnh đáng chú ý khác của đội quân Nguyên là Lý Hằng - viên tướng xuất sắc người Tây Hạ của nhà Nguyên, Koncak (Khoan Triệt, người Uzbek), Bolqadar (Bột La Hợp Đáp Nhĩ), Satartai (Sát Tháp Nhi Đài), Mangqudai (Mãng Cổ Đái), Naqai (Nạp Hải), các tướng người Hán là Lý Bang Hiến, Tôn Hựu, Tôn Đức Lâm, Lưu Thế Anh, Lưu Khuê, Nghê Nhuận.[11]
Đặc biệt, nhà Nguyên sai Tangutai đến Chiêm Thành để truyền lệnh của vua Nguyên điều đạo quân Nguyên đang chinh phạt Chiêm Thành chuyển sang chiến trường Đại Việt hòng tạo thêm một cánh quân đánh từ phía Nam, hợp với cánh phía Bắc của Thoát Hoan tạo ra thế gọng kìm bao vây Đại Việt ở giữa. Đạo quân này lúc xuất phát từ Quảng Đông đi Chiêm Thành, gồm mấy vạn quân và dân phu do Toa Đô chỉ huy. Không rõ sau mấy năm chiến đấu với Chiêm Thành trong điều kiện đói khát, quân số của đạo quân này khi đánh vào Đại Việt là bao nhiêu.[12][13]
Tổng số quân không được sử nhà Nguyên ghi rõ, nhưng họ có ghi rằng số quân huy động thêm trong lần tấn công Đại Việt thứ 3 là 92.000 (chưa tính số quân người Choang). Như vậy, có thể suy đoán rằng khi tấn công Đại Việt lần 2 (tức là lần này), số quân chính quy Nguyên bị thương vong là khoảng 10 vạn (chưa tính số thương vong của dân phu). Cộng thêm số quân thoát được về nước thì có thể ước đoán số quân chính quy nhà Nguyên là 20 - 25 vạn, để cung ứng cho số lính này thì số dân phu ít nhất cũng phải đông chừng đó. Như vậy có thể ước tính đoàn quân Nguyên có chừng 40-50 vạn người. Con số này cũng khá sát với con số 50 vạn ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư.
Đây là lần xuất chinh với quân số lớn nhất mà nhà Nguyên từng thực hiện, so với dân số thời đó thì đoàn quân này có quy mô cực lớn. Để so sánh, khi nhà Nguyên tấn công Nhật Bản vào năm 1281, họ cũng chỉ huy động 14 vạn người (tính cả quân chính quy và dân phu), dù dân số và diện tích Nhật Bản lớn gấp đôi Đại Việt thời nhà Trần. Sau này người Việt có câu ví von "Đông như quân Nguyên" là vì nguyên do này.
Để phục vụ cho lực lượng chinh phạt Đại Việt, nhà Nguyên đã chuẩn bị 3 vạn thạch lương. Lực lượng quân y do Trâu Tôn (cha của Trâu Canh) chỉ huy.[14]
Nhà Nguyên chuẩn bị xâm lược lớn nên phải thực hiện lao dịch, bắt lính, tăng thuế má rất nhiều, khiến cho dân chúng nhiều nơi lâm vào cảnh khốn cùng. Một số quan lại địa phương nước Nguyên liên tiếp tâu trình xin Hốt Tất Liệt giãn tiến độ chuẩn bị. Khoảng tháng 7/1285, Tuyên úy ti Hồ Nam đã dâng sớ xin Hốt Tất Liệt hoãn binh[15]:
- Luôn năm đánh Nhật Bản và dùng binh ở Chiêm Thành, trăm họ phục dịch vận chuyển rất vất vả cực nhọc, quân sĩ mắc phải chướng lệ chết rất nhiều. Dân chúng kêu than, tứ dân bỏ nghiệp. Người nghèo phải bỏ con để cầu sống, kẻ giàu phải bán sản nghiệp để ứng dịch. Nỗi khổ như bị treo ngược, mỗi ngày một tăng. Nay lại có việc đánh Giao Chỉ, điều động đến trăm vạn người, tiêu phí đến nghìn vàng, đó chẳng phải là việc để thương sĩ dân... Nếu theo lời xin để phục hồi sức dân thì là kế hay nhất. Nếu không được thì nên nới phú thuế cho trăm họ, chứa lương thực, sắm giáp binh, đợi đến năm sau thiên thời địa lợi tất hơn chút nữa hãy cất quân cũng chưa muộn.
Hành tỉnh Hồ Quảng là Tuyến Kha (Sanag) đem sớ vào triều: "Tỉnh của hạ thần trấn giữ hơn 70 sở, luôn năm chinh chiến, quân sĩ tinh nhuệ đều mệt nhọc ở ngoài, kẻ còn lại đều già yếu, mỗi thành ấp nhiều không quá hai trăm quân, trộm nghĩ rằng sợ kẻ gian dò xét được tình hình đó. Năm ngoái bình chương A Lý Hải Nha xuất chinh, thu 3 vạn thạch lương, dân còn kêu khổ. Nay lại thu gấp bội số đó, quan không có tích trữ, còn mua ở trong dân, trăm họ sẽ khốn khổ khôn xiết. Nên theo lời của tuyên úy ti, xin hoãn quân đánh phương Nam".
Lễ bộ thượng thư nước Nguyên là Lưu Tuyên tâu xin Hốt Tất Liệt nên đàm phán với Đại Việt, tránh nạn binh đao:
- ...Nay định tháng 7 họp các đạo quân ở Tĩnh Giang đến An Nam tất nhiều người mắc bệnh chết, lúc cần cấp gặp giặc biết lấy gì ứng phó. Ở Giao Chỉ lại không có lương, đường thủy khó đi, không có xe ngựa, trâu bò chuyên chở thì không thể tránh được vận chuyển đường bộ. Một người phu gánh 5 đấu gạo, đi về ăn hết một nửa, còn quan quân được một nửa. Nếu có 10 vạn thạch lương, dùng 40 vạn người cũng chỉ có thể có lương cho quân 1, 2 tháng. Chuyên chở, đóng thuyền, phục dịch việc quân phải dùng đến 50, 60 vạn người. Quảng Tây, Hồ Nam điều động nhiều lần, dân ly tán nhiều, lệnh cho cung dịch cũng không thể làm được...[15].
Nhưng vua Nguyên vẫn quyết tâm phát binh. Vua Nguyên sai sứ đòi Đại Việt phải cho quân Nguyên mượn đường và cung cấp lương thảo để chinh phạt Chiêm Thành. Vua Trần từ chối vì biết đây chỉ là kế "Mượn đường diệt Quắc".
Quân đội Nhà Trần[sửa | sửa mã nguồn]
Về phía Đại Việt, các vương tôn nhà Trần được lệnh tuyển thêm quân vào các lực lượng riêng của mình. Quân đội liên tục được tập trận. Cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 1282, ngay sau khi nhận được tin tình báo về ý đồ của nhà Nguyên, vua Trần đã triệu tập một hội nghị quân sự tại Bình Than để "bàn kế đánh phòng" và "chia quân giữ nơi hiểm yếu".[16] Tất cả các tướng lĩnh phạm tội, như Trần Khánh Dư, đều được tha tội để đến hội nghị bàn việc. Đại Việt sử ký toàn thư chép việc Trần Quốc Toản vì nhỏ tuổi không được dự Hội nghị Bình Than đã tức giận bóp nát quả cam.
Trần Quốc Tuấn đã viết Hịch tướng sĩ để nâng cao tinh thần của quân sĩ. Nhiều chiến sĩ Đại Việt đã xăm hai chữ Sát Thát (Chữ Hán: 殺韃. Sát nghĩa là "giết", còn Thát chỉ người Mông Cổ) vào tay để thể hiện quyết tâm chiến đấu của mình.[17]
Đến tháng 12 năm Giáp Thân (tháng 1 đầu tháng 2 năm 1285), Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông đã mời những bậc tuổi cao có uy tín trong cả nước về điện Diên Hồng ở kinh đô Thăng Long để trình bày chủ trương của triều đình. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng, trong Hội nghị Diên Hồng, khi được vua hỏi có nên đánh lại quân Nguyên hay không, thì các phụ lão đã "vạn người cùng nói như từ một miệng": "Đánh!".[18]
Còn Nguyên sử đã chép lại việc quân Nguyên sau này khi vào Đại Việt đi qua các địa phương đã thấy các thông báo của triều đình Đại Việt cho dân chúng rằng "Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến, phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng."[19]
Trần Quốc Tuấn được phong làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh tất cả các lực lượng vũ trang của Đại Việt. Trần Quang Khải được phong chức Thượng tướng thái sư. Quân đội Đại Việt được điều động rất đông lên phòng ngự ở biên giới, nhất là ở khu vực Lạng Sơn ngày nay. Bản doanh của Trần Quốc Tuấn đóng ở ải Nội Bàng (khoảng thị trấn Chũ và xã Bình Nội của Bắc Giang ngày nay).
Trong Binh thư yếu lược, Trần Quốc Tuấn viết: "Người giỏi thắng không cần thắng nhiều lần, mà cần toàn thắng, đảm bảo thắng". Điều đó đồng nghĩa với việc làm cách nào để có được chiến thắng cuối cùng mới là điều quan trọng nhất, còn thắng bại trong các trận đánh chỉ là phụ trợ. Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông dưới sự chỉ đạo của ông cũng tiến hành theo nguyên tắc trên. Với sức mạnh áp đảo, quân Nguyên muốn đánh nhanh, thắng nhanh. Trần Quốc Tuấn hiểu rằng, đối đầu trực diện là trúng với ý đồ của đối phương, trong khi những đội quân muốn đánh nhanh thắng nhanh thường có một nhược điểm chí tử: đó là công tác hậu cần không thể đảm bảo lâu dài.
Do vậy Trần Quốc Tuấn đã chọn chiến lược: chuyển từ trực tiếp đối đầu với quân Nguyên sang lui binh, thực hiện vườn không nhà trống để triệt nguồn cung ứng lương thảo của quân Nguyên. Kế hoạch vườn không nhà trống được thực hiện ráo riết, trong đó có sự giúp đỡ của các tông thất nhà Trần. Phu nhân của Trần Quốc Tuấn, công chúa Thiên Thành đã góp không ít công sức trong cuộc di tản người dân, ổn định tình thế. Cứ thế, quân Trần tránh đụng độ với địch trong nhiều tháng, chờ địch suy yếu do thiếu lương và suy sụp tinh thần, lúc đó ông mới tập trung quân phản công để giành thắng lợi quyết định.
Diễn biến[sửa | sửa mã nguồn]
Nhà Nguyên chia làm 3 đạo tiến đánh Đại Việt. Đạo chủ lực do Thoát Hoan và A Lý Hải Nha chỉ huy từ Ninh Minh tiến vào Lộc Châu (nay là Lộc Bình, Lạng Sơn). Ngày 27 tháng 1 năm 1285 (dương lịch), đạo quân này chia làm 2 mũi tiến quân, một do Bột La Hợp Đáp Nhĩ chỉ huy theo đường Khâu Ôn (nay là Ôn Châu, Lạng Sơn), một do Sát Tháp Nhi Đài và Lý Bang Hiến chỉ huy đi theo đường núi Cấp Lĩnh (tức là từ Lộc Bình đi Sơn Động ngày nay). Đại quân của Thoát Hoan đi sau mũi thứ hai của Sát Tháp Nhi Đài và Lý Bang Hiến.[20] Chống lại đạo quân thứ nhất này của quân Nguyên là lực lượng chủ lực của quân Trần do đích thân Trần Quốc Tuấn chỉ huy.
Đạo thứ hai chỉ gồm hơn 1 nghìn quân Mông Cổ và Vân Nam do Nasirud Din từ Vân Nam vào Đại Việt qua vùng Tuyên Quang tiến theo sông Chảy. Vị chỉ huy quân Trần ở vùng này là Trần Nhật Duật.[21]
Đạo thứ ba là đạo quân đang chiến đấu ở Chiêm Thành do Toa Đô chỉ huy, tiến vào Đại Việt muộn hơn hai cánh trên, vào khoảng tháng 3 dương lịch, từ phía Nam.
Quân Trần phòng ngự và rút lui[sửa | sửa mã nguồn]
Trận Sơn Động[sửa | sửa mã nguồn]
Trận giao chiến đầu tiên giữa hai bên là trận tại ải Khả Ly.[22] Tướng Nguyên đi mở đường là Tôn Hựu đã đánh tan được quân Trần và bắt được các tướng Đỗ Vĩ và Đỗ Hựu. Sau khi vượt qua ải Khả Ly, quân Nguyên tiến tiếp tới ải Động Bản.[23] Tại đây, quân Nguyên lại thắng, giết được tướng Trần Sâm của Đại Việt.[24]
Chỉ 5 ngày sau, đại quân của Thoát Hoan tiến xuống từ Lộc Châu, cùng cánh quân của Bột La Đáp Nhĩ tràn qua các ải Vĩnh Châu, Thiết Lược, Chi Lăng. Ngày 2 tháng 2 năm 1285, quân Nguyên chia làm 6 mũi ồ ạt tấn công ải Nội Bàng nơi quân Trần tập trung một lực lượng lớn và có đại bản doanh của Trần Quốc Tuấn. Quân Trần bị tổn thất nặng nề; tướng Đoàn Thai của Đại Việt bị bắt.[25] Trong khi đó, cánh quân của Bột La Đáp Nhĩ đã qua ải Chi Lăng. Trần Quốc Tuấn phải thu quân về Vạn Kiếp. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, quân Trần đã tan vỡ; Trần Quốc Tuấn thoát được là nhờ có Yết Kiêu kiên quyết giữ thuyền đợi chủ tướng.[18]
Trận Vạn Kiếp[sửa | sửa mã nguồn]
Một lực lượng lớn quân Trần tập trung ở Vạn Kiếp, bao gồm cả lực lượng từ Nội Bàng rút về. Phát hiện thấy Đại Việt có hơn 1.000 thuyền đóng ở gần Vạn Kiếp, Thoát Hoan liền cho quân đi tìm và đóng gấp thuyền chặn đường rút của quân binh Đại Việt.
Ngày 11 tháng 2, thủy quân Nguyên do Ô Mã Nhi chỉ huy tấn công vào Vạn Kiếp và các trại quân Trần ở Chí Linh. Đại kịch chiến đã xảy ra. Tướng Nguyên cấp vạn hộ[26] là Nghê Nhuận bị tử trận. Tuy nhiên, quân Trần đã quyết định rút lui để tránh thế giặc mạnh, thực hiện nghi binh khiến địch mệt mỏi rồi mới phản công. Thấy bề tôi lo lắng, vua Trần cho khắc hai câu thơ cuối thuyền ngự:
- Cối Kê việc cũ khanh nên nhớ
- Hoan, Diễn vẫn còn mười vạn quân
Ngày 14 tháng 2, Ô Mã Nhi đem quân vây quân của Trần Quốc Tuấn. Một trận thủy chiến lớn giữa 2 bên đã diễn ra. Vua Trần đã đem quân đến trợ chiến cho Trần Quốc Tuấn. Ô Mã Nhi đã không ngăn nổi quân Trần rút lui. Toàn bộ quân Trần rút khỏi Vạn Kiếp, Phả Lại, Bình Than về dàn trận bên bờ sông Hồng gần thành Thăng Long. Quân Nguyên tiến theo đường bộ về Thăng Long.[27]
Trận sông Đuống[sửa | sửa mã nguồn]
Quân Nguyên từ Vạn Kiếp[28] đi theo đường qua Vũ Ninh,[29] Đông Ngạn.[30] Đến sông Đuống, các đơn vị quân Nguyên và quân Trần giáp chiến. Quân Trần bị thiệt hại nặng, nhiều thuyền lọt vào tay quân Nguyên.
Thoát Hoan cho dựng cầu phao để đưa đại quân vượt sông Đuống tiến về kinh thành của Đại Việt.[31]
Trận Thăng Long[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 17 tháng 2, quân Nguyên dựng trại bên sông Hồng. Quân Trần do vua Trần Nhân Tông trực tiếp chỉ huy cũng lập các chiến lũy bằng gỗ bên bờ Bắc sông Hồng nghênh chiến. Dưới sông là lực lượng thủy quân đông đảo của Đại Việt. Mục đích của quân Trần trong trận này chỉ là cản bước quân Nguyên để kịp hoàn thành công tác sơ tán hoàng gia và dân chúng khỏi kinh thành, thực hiện kế hoạch 'vườn không nhà trống', đồng thời sử dụng chiến lược 'Tiêu thổ', đốt sạch các làng và đồng ruộng gần kinh thành. Khi quân Nguyên tiến đến bờ sông, quân Trần đã dùng súng bắn đá bắn vào quân Nguyên và thách đánh.
Tuy nhiên, đến chiều ngày 17 tháng 2, vua Trần sai Đỗ Khắc Chung sang doanh trại đối phương để giả đưa thư cầu hòa. Arig Qaya gửi thư cự tuyệt. Đỗ Khắc Chung ở lại doanh trại địch trinh sát đến sáng sớm hôm sau mới quay về. Liền sau đó, hai bên Nguyên-Việt đại chiến bên bờ sông Hồng. Sau khi thành Thăng Long đã trống không, quân Trần xuôi sông Hồng rút lui. Khi rút khỏi Thăng Long, quân Trần hãy còn rất đông.[32]
Quân Nguyên tiến đến đóng dưới chân thành một hôm rồi mới vào thành, chỉ thấy "cung thất nhẵn không". Thoát Hoan khao quân trong cung thành, nhưng rồi lại sớm rút quân khỏi thành (hoặc có lẽ không phải, vì theo tục lệ của người Thát, sau khi chiếm được bất kỳ thành trì nào họ cũng không đóng quân trong thành mà tìm một bãi rộng để dựng trướng, trại, do thành Thăng Long quá sát sông Hồng nên có thể họ qua lại bên kia sông để lập trại), trở lại trại đã lập bên bờ Bắc sông Hồng.[33] Vừa đợi Toa Đô từ phía Nam tiến lên, Thoát Hoan vừa phái Koncak, Mangqudai, Bolqadar theo đường bộ, Lý Hằng, Ô Mã Nhi theo đường thủy đuổi theo vua Trần.
Trận Thu Vật[sửa | sửa mã nguồn]
Cánh quân của Nasirud Din đi theo sông Chảy tới trại Thu Vật[34] thì bị quân của Trần Nhật Duật chặn đánh. Tuy nhiên, do đại quân đều đã rút lui về Vạn Kiếp, nên Trần Nhật Duật cũng thu quân. Quân Nguyên một mặt đi dọc 2 bờ sông đuổi theo quân Trần, một mặt cử một đơn vị đi chặn đầu. Trần Nhật Duật phát hiện ra kế hoạch của quân Nguyên, nên ra lệnh bỏ thuyền lên bộ, rút lui an toàn về đến Bạch Hạc (Việt Trì) vào ngày 20 tháng 2 năm 1285. Sau đó, Trần Nhật Duật được điều vào mặt trận phía Nam ngăn Toa Đô.
Các trận đánh trên sông Hồng[sửa | sửa mã nguồn]
Vua Trần, triều đình, tông thất và đại quân rút lui theo đường sông Hồng về hướng phủ Thiên Trường (Nam Định). Quân Nguyên chia làm 2 đường thủy bộ đuổi theo. Để cản địch, quân Trần liên tiếp bố trí một số trận đánh trên sông Hồng.
Trận đầu tiên là trận ở bãi Đà Mạc.[35] Quân Trần do Trần Bình Trọng chỉ huy đã chặn đánh quân Nguyên quyết liệt. Kết quả, 600 quân Thánh Dực ở đây đã kiềm chân được mấy ngàn quân Mông đang hăng máu. Qua 6 đợt tấn công, thiệt hại vô số, nhờ lực lượng chênh lệch quá lớn nên quân Nguyên mới phá được đội hình của quân Trần. Trần Bình Trọng bị bắt và hy sinh.[36]
Trận tiếp theo ở ải Hải Thị.[37] Quân Trần đã đóng cọc, đắp bờ chắn sông để ngăn đối phương. Tuy nhiên, quân Nguyên đã thủy bộ hợp đồng tác chiến, phá tan trận tuyến của quân Trần.
Quân Trần tập hợp lại lực lượng[sửa | sửa mã nguồn]
Sau trận Hải Thị, quân Trần lui hẳn về đóng quân tại Thiên Trường (Nam Định) và Trường Yên (Ninh Bình). Đồng thời, phát hiện thấy quân Nguyên không đóng giữ Vạn Kiếp, Trần Quốc Tuấn cùng Phạm Ngũ Lão đã chỉ huy hơn 1 nghìn thuyền quay lại đóng ở Vạn Kiếp. Một thuộc tướng khác của Trần Quốc Tuấn là Nguyễn Lộc thực hiện tác chiến kiểu du kích rất mạnh ở vùng Vĩnh Bình (Lạng Sơn). Tin trinh sát đã khiến A Lý Hải Nha báo cáo với vua Nguyên rằng: "Bấy giờ ở 2 xứ Thiên Trường, Trường Yên mà Trần Nhật Huyên[38] trốn đến, binh lực lại tập hợp, Hưng Đạo vương tụ tập hơn 1 nghìn chiếc thuyền ở Vạn Kiếp, Nguyễn Lộc ở Vĩnh Bình".[39]
Ngay sau khi tập hợp lại lực lượng, quân Trần đã tiến hành phản công. Quân của vua Trần ngược sông Hồng lên giao chiến với quân Nguyên ở đoạn chảy qua huyện Lý Nhân ngày nay vào ngày 10 tháng 3 năm 1285, nhưng không thắng được, phải rút lui.[40]
Toa Đô bắc tiến[sửa | sửa mã nguồn]
Cuối tháng 2, đầu tháng 3 năm 1285, đạo quân của Toa Đô đánh ra vùng Bố Chính (Quảng Bình ngày nay) rồi tiến ra Nghệ An. Trần Nhật Duật và Trịnh Đình Toản chỉ huy quân Trần ngăn địch, nhưng thất bại, phải rút lui. Toa Đô phái một đơn vị đánh ra Thanh Hóa. Tướng nhà Trần giữ Thanh Hóa là Chương Hiến hầu Trần Kiện mang 1 vạn quân ra đón hàng cánh quân Nguyên này
Ngày 9 tháng 3, quân Nguyên được Trần Kiện dẫn đường đã đi qua Vệ Bố (Quảng Xương) đánh úp quân Trần, giết được các tướng Đinh Xa và Nguyễn Tất Thống.[41]
Ngày 13 tháng 3, quân Nguyên lại được Trần Kiện dẫn đường đánh quân của Trần Quang Khải, giết được 2 chỉ huy của quân Trần. Do Trần Kiện đầu hàng và dẫn đường cho quân Nguyên làm cho quân Trần ở đây đã không thể giữ nổi Nghệ An - Thanh Hóa, phải rút lui.
Toa Đô tiến lên Thanh Hóa, sai con trai là Bách Gia Nô cùng các tướng Giảo Kỳ và Tangutai mang một cánh quân ra phối hợp với Thoát Hoan.
Cuộc rượt đuổi ở Hải Đông[sửa | sửa mã nguồn]
Sau trận quân của vua Trần phản công quân Nguyên không thành và việc mặt trận Thanh-Nghệ bị tan vỡ, đại quân do vua Trần chỉ huy ở Thiên Trường và Trường Yên lâm vào thế bị ép từ 2 mặt Bắc-Nam. Để tìm cách hoãn binh, vua Trần sai Trần Dương đi sứ đến chỗ Thoát Hoan xin cầu hòa, và sai Đào Kiên mang công chúa An Tư là em út của Trần Thánh Tông đến cho Thoát Hoan. Thoát Hoan giam giữ Trần Dương và sai người đến đòi vua Trần đến gặp, nhưng vua Trần không nghe, tiếp tục mang quân rút chạy. Thoát Hoan mang quân đuổi theo.[42]
Tình hình đó khiến Trần Quốc Tuấn lại bỏ Vạn Kiếp đem thuyền về cứu vua Trần. Trần Hưng Đạo đưa 2 vua Trần từ Thiên Trường dùng thuyền nhỏ đi qua cửa Giao Hải (cửa sông Hồng ở huyện Xuân Thủy, Nam Định) đi ra biển, ngược lên phía bắc rồi quay vào Tam Trĩ Nguyên (tức cửa sông Ba Chẽ, huyện Ba Chẽ tỉnh Quảng Ninh). Từ Tam Trĩ, vua Trần sai đem thuyền rồng lớn ra cửa Ngọc Sơn (Vạn Ninh, Móng Cái) để lừa quân Nguyên.[43]
Thoát Hoan gặp các tướng do Toa Đô phái từ Thanh Hóa đến, được biết tình hình cánh quân Toa Đô bị đói vì thiếu lương, nên không vội tập hợp toàn quân vì áp lực về lương thực, bèn sai người ra lệnh cho Toa Đô tiến lên Thiên Trường kiếm lương; cùng lúc phát hiện vua Trần chạy ra Hải Đông, Thoát Hoan lại sai Lý Hằng, Ô Mã Nhi và Giảo Kỳ tiếp tục đuổi theo.[44]
Khi thấy đạo quân của Toa Đô đã rời Thanh Hóa tiến lên đóng ở Trường Yên (Ninh Bình), ngày 7 tháng 4 năm 1285 (2 tháng 3 âm lịch), 2 vua Trần bỏ thuyền đi bộ đến Thủy Chú, lấy thuyền ra sông Nam Triệu (tức sông Bạch Đằng), rồi lại ra cửa Đại Bàng (tức cửa Văn Úc), dẫn quân theo đường biển tiến vào Thanh Hóa, thoát khỏi thế bị kìm kẹp và truy đuổi của đối phương.[31]
Mãi đến ngày 10 tháng 3 âm lịch (15 tháng 4 năm 1285), quân thủy của Giảo Kỳ, Tangutai mới tới cửa Tam Trĩ, còn cánh quân Lý Hằng cũng đuổi theo vua Trần ngoài biển nhưng không gặp. Sau đó quân Nguyên bắt được một số thuyền mà quân Trần bỏ lại, mới biết vua Trần đã bỏ thuyền lên bộ, liền đuổi theo 3 ngày 3 đêm nhưng không có kết quả, vì quân Trần đã chạy vào Thanh Hóa[45]
Nghe tin vua Trần chạy vào Thanh Hóa, Thoát Hoan lại điều Ô Mã Nhi mang 1300 quân thủy vào Thiên Trường cùng Toa Đô dẫn quân vào Thanh Hóa truy đuổi vua Trần, nhưng không tìm thấy mục tiêu.[46]
Lúc hai vua Trần chạy vào Thanh Hóa, nhiều quý tộc nhà Trần đã hàng quân Nguyên: ngoài Trần Kiện và Trần Tú Hoãn ở Thanh Hóa còn có hoàng tử Trần Ích Tắc, Trần Lộng, các tướng Phạm Cự Địa, Lê Diễn, Trịnh Long.
- Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim không thống nhất với các nguồn tài liệu khác như Nguyên sử, Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Theo Việt Nam sử lược, Toa Đô đánh từ Chiêm Thành tới Nghệ An, đụng độ với quân Trần Quang Khải. Quân Trần thế yếu phải rút lui vào khu vực hiểm yếu cố thủ. Bị Trần Quang Khải chặn giữ, Toa Đô không tiến ra bắc được, phải cùng Ô Mã Nhi dùng thuyền vượt biển ra bắc hội binh với Thoát Hoan.[47] Dù mô tả Toa Đô không thể tiến quân ra bắc, nhưng Trần Trọng Kim trước đó lại nêu việc Toa Đô tiếp nhận Trần Kiện đầu hàng ở Nghệ An và sai quân đưa gia đình Trần Kiện về Yên Kinh; đoàn quân Nguyên này đi qua được Nghệ An ra bắc và tới biên giới Lạng Sơn thì Kiện bị Nguyễn Địa Lô bắn chết.[48]
Quân Trần tổng phản công[sửa | sửa mã nguồn]
Vua Trần rút vào Thanh Hóa để củng cố, tổ chức lại lực lượng. Trong lúc đó quân Nguyên của Thoát Hoan ở ngoài Bắc không hợp thủy thổ và thời tiết mùa hè nóng bức, bị mưa lớn, phát sinh bệnh tật, lại bị thiếu lương. Toa Đô mang quân mỏi mệt từ Thiên Trường, cùng Ô Mã Nhi lại vào Thanh Hóa truy kích vua Trần nhưng không tìm được, phải dừng lại kiếm lương.[49]
Nắm được tình hình địch đang gặp khó khăn, tháng 4, vua Trần trở lại miền Bắc tấn công quân Nguyên, tập trung tấn công vào các mục tiêu của quân Nguyên ở khúc sông Hồng chảy qua Khoái Châu (Hưng Yên). Chiếm được vùng này, quân Trần sẽ từ đây đánh vào Thăng Long.[49]
Trận Hàm Tử - Tây Kết[sửa | sửa mã nguồn]
Lúc đó Thanh Hóa có cánh quân Toa Đô đóng giữ. Sau một thời gian không bắt được vua Trần, Toa Đô cùng Ô Mã Nhi mang quân trở lại phía bắc để phối hợp với Thoát Hoan.
Có những giả thuyết khác nhau về cử động của Toa Đô và quân Trần. Đại Việt sử ký toàn thư cho rằng: Toa Đô và Ô Mã Nhi ngày 7 tháng 5 âm lịch mới ra bắc, vì vậy hai tướng không dự trận Hàm Tử mà chỉ dự trận Tây Kết.[50] Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm ủng hộ thuyết này.[51] Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho rằng, Toa Đô và Ô Mã Nhi từ Thanh Hóa ra Bắc từ tháng 4 âm lịch, do đó hai tướng dự trận Hàm Tử và Tây Kết.[52] Trần Xuân Sinh ủng hộ thuyết này.[53] Riêng Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim không rõ căn cứ từ nguồn tài liệu nào cho rằng, Toa Đô bị Trần Quang Khải cầm chân ở Nghệ An suốt từ khi tiến từ Chiêm Thành ra, không ra bắc bằng đường bộ được, phải cùng Ô Mã Nhi đi đường biển ra bắc.[47]
Do theo thuyết Toa Đô ra bắc vào tháng 5 âm lịch, mà một loạt trận đánh ở Bắc Bộ diễn ra từ tháng 4, Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm cho rằng Trần Hưng Đạo chủ trương đưa quân vượt biển ra bắc, cắt đôi hai đạo quân Nguyên giữa Toa Đô và Thoát Hoan, không để tập hợp lại.[49]
Trần Nhân Tông sai Trần Nhật Duật làm chánh tướng, Chiêu Thành Vương[54] và Trần Quốc Toản làm phó tướng đi cùng với Nguyễn Khoái mang 5 vạn quân ra bắc đánh quân Nguyên ở Hàm Tử. Trần Trọng Kim và Trần Xuân Sinh cho rằng Toa Đô đụng độ với Trần Nhật Duật ở Hàm Tử.[55] Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm theo Đại Việt sử ký toàn thư cho rằng Trần Nhật Duật đánh một đạo quân Nguyên nhưng không rõ tướng chỉ huy. Nhưng các nguồn tài liệu đều thống nhất rằng trong quân Trần Nhật Duật có tướng người Trung Quốc của nhà Tống cũ là Triệu Trung theo hàng. Trần Nhật Duật gặp binh thuyền Toa Đô ở bến Hàm Tử, bèn chia quân ra đánh. Hai bên chống nhau ác liệt. Toa Đô đi đường xa, giao chiến lâu ngày đã mỏi mệt, trông thấy cờ hiệu Tống của Triệu Trung, lo lắng tưởng rằng nhà Tống đã khôi phục sang giúp Đại Việt. Nhóm quân người Hoa trong hàng ngũ quân Trần đều muốn trả thù nên đánh rất hăng.[50]
Trong khi đó quân Trần lại dùng kế ly gián, bắn tên gắn giấy sang bên quân Nguyên, nói rằng chỉ đánh người Thát Đát chứ không đánh người Hoa. Điều đó khiến nhiều tướng sĩ người Hoa trong quân Nguyên không tận lực chiến đấu hoặc trở giáo sang hàng quân Trần. Toa Đô bị thua to. Sau khi thua trận ở Hàm Tử quan, Toa Đô vẫn không biết rằng Thoát Hoan đã tháo chạy. Cánh quân Toa Đô đóng ở sông Thiên Mạc (đoạn sông Hồng ở Hưng Yên) và tìm cách liên lạc với Thoát Hoan. Được ít ngày, Toa Đô biết tin quân Thoát Hoan đã thất bại và rút chạy, bèn lui về Tây Kết (Khoái Châu). Ngày 24 tháng 6 năm 1285, Trần Hưng Đạo trực tiếp chỉ huy quân đánh Toa Đô. Toa Đô và Ô Mã Nhi thua, bỏ thuyền đi đường bộ ra phía biển. Trên đường chạy, Toa Đô bị quân Đại Việt bao vây, sau cùng bị tướng Vũ Hải của nhà Trần chém đầu. Ô Mã Nhi thì chạy thoát về Thanh Hóa. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vua Trần Nhân Tông trông thấy thủ cấp của Toa Đô thì cởi áo ngự phủ lên và nói "người làm tôi phải nên như thế này" rồi sai người khâm liệm tử tế.[50]
- Sử liệu dẫn khác nhau về các tướng tham chiến. Có tài liệu cho rằng Trần Nhật Duật cùng Trần Quốc Toản, Nguyễn Khoái và Triệu Trung cùng đánh trận Hàm Tử, có tài liệu dẫn rằng chỉ có Trần Nhật Duật và Triệu Trung đánh Hàm Tử, còn Nguyễn Khoái và Trần Quốc Toản đánh trận Tây Kết.[56]
Trận Chương Dương Độ[sửa | sửa mã nguồn]
Trần Nhật Duật sai Trần Quốc Toản về Thanh Hoá báo tin thắng trận. Trần Quốc Tuấn bàn với Trần Nhân Tông quyết định mang toàn quân ra bắc đánh Thoát Hoan để lấy lại Thăng Long. Trần Quang Khải ở Nghệ An mới ra được cử làm chánh tướng, Phạm Ngũ Lão và Trần Quốc Toản làm phó tướng; lại truyền lệnh cho Trần Nhật Duật phải ngăn không cho Toa Đô hợp binh được với Thoát Hoan.
Đại quân Thoát Hoan đóng ở Thăng Long cũng trong tình trạng lương thực sắp cạn, các chiến thuyền đóng ở bến Chương Dương.
Trần Quang Khải tiến ra bắc khá thuận lợi. Quân Trần nhanh chóng diệt nhiều đồn nhỏ của quân Nguyên, kết hợp dụ hàng quân người Hoa bỏ hàng ngũ quân Nguyên. Trong khi đó thì Trần Nhật Duật cũng giữ lại số quân để cầm chân Toa Đô, còn chia một số sang hợp với cánh quân Trần Quang Khải. Nhiều toán quân Trần trước kia bị tản mát, chưa tìm được vào Thanh Hoá, lúc đó gặp quân Trần Quang Khải đã cùng gia nhập nên lực lượng càng mạnh lên. Quân Trần chiếm được nhiều thuyền của địch ở bến đò.[57]
Quân Trần tiếp tục ngược sông Hồng phản công quân Nguyên. Trần Quang Khải cùng Phạm Ngũ Lão và Trần Quốc Toản đã tấn công quân Nguyên ở Chương Dương (huyện Thường Tín).[58] Quân Nguyên thường thấy quân Trần bị thua, khi đó thấy quân Trần đánh mạnh nên bị bất ngờ, tan tác bỏ chạy. Phần lớn các chiến thuyền quân Nguyên bị quân Trần đốt cháy hoặc chiếm.
Giành lại Thăng Long[sửa | sửa mã nguồn]
Sau các trận phản công thắng lợi trên sông Hồng, quân Trần quyết định tấn công giải phóng kinh thành Thăng Long. Lực lượng tham gia gồm các đơn vị thủy bộ chủ lực do Trần Quang Khải chỉ huy. Các đơn vị dân binh các địa phương lân cận do Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp và Nguyễn Truyền chỉ huy. Sau khi đánh bại đơn vị quân Nguyên ngoài thành do Mã Vinh chỉ huy, quân Trần bắt đầu bao vây và công thành.
Tài liệu thời Nguyên chép rằng:
- "Thủy lục đến đánh đại doanh, vây thành mấy vòng, tuy chết nhiều nhưng quân tăng thêm càng trở nên đông, quan quân sớm tối đánh rất khốn đốn, thiếu thốn, khí giới đều hết"[59] và "Người Giao chống đánh quan quân, tuy mấy lần thua tan, nhưng quân tăng càng đông, quan quân mỏi mệt, tử thương cũng nhiều, quân mã Mông Cổ không thể nào thi thố tài năng được".[60]
Trước sức tấn công mạnh mẽ và bền bỉ của quân Trần, quân Nguyên phải rút chạy khỏi thành Thăng Long về đóng ở bờ Bắc sông Hồng (khoảng Gia Lâm ngày nay).[61] Tại đây, đồn trại của quân Nguyên vẫn liên tục bị tấn công.
Trận sông Thiên Mạc[sửa | sửa mã nguồn]
Toa Đô vẫn không biết rằng Thoát Hoan đã tháo chạy. Cánh quân Toa Đô đóng ở sông Thiên Mạc[62] và tìm cách liên lạc với Thoát Hoan. Được ít ngày, Toa Đô biết tin quân Thoát Hoan đã thất bại và rút chạy, bèn lui về Tây Kết.
- Có tài liệu căn cứ vào Nguyên sử cho rằng Toa Đô sau trận thua ở Hàm Tử quan lại tiến vào Thanh Hoá đánh vua Trần lần nữa, nhưng không thu được kết quả nên lại trở ra tìm Thoát Hoan. Trận Tây Kết này còn được coi là trận Tây Kết thứ hai.[63]
Ngày 24 tháng 6 năm 1285, quân Trần do đích thân vua Trần chỉ huy tấn công đạo quân Nguyên này. Tướng Nguyên là Trương Hiển (chức tổng quản) đầu hàng quân Trần và dẫn đường cho quân Trần tấn công Toa Đô ở Tây Kết. Quân Nguyên bị giết rất nhiều. Toa Đô cũng bị tử trận. Ô Mã Nhi và Lưu Khuê đi thuyền nhỏ trốn thoát ra biển.[64]
- Trận này một số sách sử chép khác nhau. Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972) cho biết Nguyên sử chép rằng: Toa Đô không tin Thoát Hoan đã rút, nên tiến quân lên tới tận Thăng Long, thấy không còn quân mình thì mới tin, đành rút quân lên phía Bắc, gặp quân Trần chặn đánh ở sông Càn Mãn (tức sông Thị Cầu) và tử trận tại đây.[64]
Quân Trần truy kích quân Nguyên[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 10 tháng 6 năm 1285, Trần Quốc Tuấn và Hưng Ninh vương Trần Tung dẫn hơn 2 vạn quân tấn công quân Nguyên ở bờ Bắc sông Hồng. Quân Nguyên cử Lưu Thế Anh dẫn quân ra đối phó, nhưng đại bại. Quân Nguyên rút chạy về phía Bắc.[65]
Khi rút chạy đến sông Như Nguyệt (sông Cầu), quân Nguyên bị đơn vị của Trần Quốc Toản chặn đánh. Quân Nguyên thua, không sang sông được, phải chạy về phía Vạn Kiếp. Chỉ huy quân Trần là Trần Quốc Toản đã hy sinh trong trận này.[66]
Chạy đến sông Sách (tức đoạn sông Thương chảy quan Vạn Kiếp), quân Nguyên bắc cầu phao định vượt sông, nhưng bị quân Trần do Trần Quốc Tuấn chỉ huy ập vào đánh. Lý Hằng đẩy lui được mũi quân Trần tấn công vào lưng quân Nguyên, chém được tướng Việt là Trần Thiệu. Nhưng một mũi quân Trần khác lại đánh vào sườn đội hình quân Nguyên đang vượt cầu phao. Quân Nguyên xô nhau chạy, cầu phao đứt, nhiều binh sĩ bị chết đuối.[67]
Sau khi vượt qua sông Sách, quân Nguyên chạy về hướng Tư Minh. Lý Hằng được cử chặn hậu, đề phòng quân Trần truy kích. Đến Vĩnh Bình, quân Nguyên lại bị quân Trần do Trần Quốc Hiến (Trần Quốc Nghiễn) chỉ huy chặn đánh. Lý Hằng bị trúng tên độc. Tương truyền, quân Nguyên phải giấu Thoát Hoan trong ống đồng để chạy trốn. Khi về đến Tư Minh, Lý Hằng ngấm thuốc độc chết, thọ 50 tuổi.[68]
Cánh quân Vân Nam của Nasirud Din chạy về Vân Nam, đến địa phận huyện Phù Ninh đã bị các lực lượng của Hà Đặc và Hà Chương tấn công. Quân Nguyên thua chạy, nhưng Hà Đặc tử trận.[69]
Tông thất, tướng sĩ nhà Trần hàng nhà Nguyên[sửa | sửa mã nguồn]
- Xem chi tiết: Trần Ích Tắc, Lê Tắc
Trong cuộc chiến lần thứ hai, nhà Trần đã có một số tông thất và tướng sĩ đi theo nhà Nguyên.
Người đầu tiên là Trần Di Ái, em vua Trần Thái Tông, chú vua Trần Thánh Tông. Di Ái được cử đi sứ nhà Nguyên, được Hốt Tất Liệt phong luôn làm An Nam quốc vương để có cớ đưa "vua mới" về nước. Di Ái bị quân Trần đón đánh ở đầu địa giới phải bỏ chạy.
Người thứ hai là Trần Ích Tắc, con thứ của Trần Thái Tông, em của Trần Thánh Tông. Ích Tắc có tài, vẫn còn có ý tranh đoạt ngôi trưởng đích. Trước khi quân Nguyên kéo sang, Ích Tắc đã từng gửi thư riêng cho khách buôn ở Vân Đồn xin quân Nguyên xuống nam. Khi quân Nguyên Mông tiến sang, ngày 15 tháng 3 năm 1285, Ích Tắc đem cả gia đình theo hàng, với hy vọng được lập làm vua.
Quân Nguyên thất bại chạy về nước, Ích Tắc được đưa về Trung Quốc và được Hốt Tất Liệt, phong làm An Nam quốc vương và chờ ngày đưa trở về nước. Hai năm sau (1287), Ích Tắc theo Thoát Hoan sang Đại Việt lần thứ ba.
Thứ ba là Trần Kiện, là con thứ của Trần Quốc Khang, phục vụ dưới quyền Trần Ích Tắc cùng theo Ích Tắc hàng Toa Đô. Toa Đô sai đưa bọn Kiện về Yên Kinh thì bị thổ hào người Tày ở châu Ma Lục (Lạng Sơn) là Nguyễn Thế Lộc và Nguyễn Lĩnh chặn đánh. Trần Kiện bị gia nô của Hưng Đạo Vương là Nguyễn Địa Lô bắn chết, Trần Ích Tắc đem xác Kiện để lên mình ngựa trốn đi đêm, đến Khâu Ôn chôn tại đấy.[70] Một tướng khác là Lê Tắc cũng hàng quân Nguyên, trong cảnh quân Nguyên hỗn loạn bỏ chạy, Lê Tắc đã chỉ đường giúp nhiều tướng sĩ nhà Nguyên chạy thoát về bên kia biên giới.[71]
Một số tông thất dưới quyền Trần Ích Tắc theo sang Trung Quốc còn có Trần Văn Lộng và Trần Tú Viên.
Kết quả và ý nghĩa[sửa | sửa mã nguồn]
Cuộc kháng chiến của quân dân Đại Việt dưới sự lãnh đạo của hai vua Trần Thánh Tông và Nhân Tông đã toàn thắng, thể hiện "Hào khí Đông A" của Đại Việt thời ấy.[3] Nhà Trần lần thứ hai đánh đuổi được quân Mông Nguyên, lần này với quy mô lớn hơn nhiều và hoàn cảnh khó khăn hơn nhiều. Nhà Tống ở phương bắc đã mất, không còn lá chắn, Đại Việt phải trực tiếp đối đầu với nhà Nguyên trên toàn tuyến biên giới phía bắc. Diệt được Nam Tống, sức mạnh của nhà Nguyên cũng tăng lên so với trước.
Theo sử cũ Việt Nam, quân Nguyên chết rất nhiều, thây nằm ngổn ngang, máu chảy thành suối. Đại Việt Sử ký Toàn thư chép rằng Lý Quán thu tàn quân chỉ còn lại 5 vạn người so với 50 vạn khi bắt đầu sang Đại Việt, tức là có tới 45 vạn quân Nguyên đã chết hoặc bị bắt.
Tháng giêng năm Bính Tuất, niên hiệu Trùng Hưng thứ 2 (26/1 – 24/2/1286), vua Trần cho thả tù binh Nguyên vừa bị bắt về nước. "Trần đại vương bình Nguyên thực lục" chép rằng nhà Trần đã khắc chữ lên mặt 5 vạn hàng binh rồi cho về, răn rằng kẻ nào lại sang, nếu bắt được thì chém. Như vậy, số tù binh mà quân Trần bắt được chí ít cũng phải 5 vạn (chưa kể số tù binh đã chết trong quá trình giam giữ, đã bỏ trốn hoặc không muốn trở về nước).
Trần Xuân Sinh trong Thuyết Trần đặt nghi vấn về con số 45 vạn quân Nguyên đã chết hoặc bị bắt. Bằng chứng là ngay khi quân Nguyên thua chạy về, chỉ 2 tháng sau Hốt Tất Liệt đã có ý định cho sang đánh phục thù ngay. Như vậy lực lượng quân Nguyên còn sống trở về khá đông đảo để có thể tiếp tục một cuộc chinh phạt mới. Sau đó Hốt Tất Liệt phải hoãn việc dùng binh ngay vì thiếu lương thảo chứ không phải thiếu quân. Lực lượng mà vua Nguyên bổ sung thêm cho lần đánh Đại Việt thứ 3 cũng chỉ chừng gần 10 vạn người, nhằm bổ sung tổn thất cho đội quân vừa rút về nước.[72] Như vậy, tổng tổn thất của quân Nguyên có lẽ không tới 45 vạn, mà vào khoảng 10-20 vạn chết hoặc bị bắt.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, bản in lại năm 2003.
- Trần Xuân Sinh (2006), Thuyết Trần, Nhà xuất bản Hải Phòng
- Quốc Chấn chủ biên (2006), Những danh tướng chống ngoại xâm thời Trần, Nhà xuất bản Giáo dục.
- Vũ Ngọc Khánh (2008), Người "có vấn đề" trong sử nước ta, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.
- Đỗ Trình chủ biên (2003), Lịch sử quân sự Việt Nam - Tập IV: Hoạt động quân sự thời Trần (Thế kỷ XIII - XIV), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Theo cách gọi khác ở Việt Nam là Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2
- ^ Đúng ra thì năm 1258, Đại Nguyên vẫn chưa được thành lập.
- ^ a b “Xuân Mậu Tý - nhớ hào khí vua Trần Thánh Tông”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2012.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 121.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 122-124.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 125-127.
- ^ Quảng Trị ngày nay, theo Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972).
- ^ Tây Bắc đảo Hải Nam, theo Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972).
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 125-127 dẫn lại từ Nguyên sử quyển 209 phần An Nam truyên.
- ^ Nguyên sử thời Minh phiên âm là Thoát Hoan. Nguyên sử giải nghĩa thời Thanh phiên âm là Thác Hoan. Tên gọi Thoát Hoan thường được biết tới ở Việt Nam
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), chương VI.
- ^ Sau đó đạo quân này được tăng viện thêm 1,5 vạn quân do Qutuqu, Ô Mã Nhi Batur, Lưu Quân Khánh dẫn đầu. Đến Chiêm Thành tìm nơi đóng quân của Toa Đô chưa được thì gặp bão tan tác hết, không rõ còn bao nhiêu.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), Chương V.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 183-184.
- ^ a b https://1thegioi.vn/nha-nguyen-tinh-dung-ca-trieu-nguoi-danh-dai-viet-dan-han-lam-than-16966.html
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 186-187. Bình Than theo Lê Tắc trong An Nam chí lược và Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972) là chỗ hợp lưu của sông Kinh Thầy với sông Thái Bình.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 196.
- ^ a b Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 5.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 198 dẫn lại Nguyên sử quyển 209.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 204-205.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 222-223.
- ^ sông Xa Lý, huyện Sơn Động ngày nay
- ^ Huyện lỵ huyện Sơn Động ngày nay
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 206.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 207.
- ^ Vạn hộ là cấp chỉ huy một đơn vị gồm 1 vạn quân.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 212-216.
- ^ Phả Lại
- ^ Quế Võ, Bắc Ninh
- ^ Tiên Du, Từ Sơn, Bắc Ninh
- ^ a b Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 216-217.
- ^ Nguyên sử, quyển 209.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 217-222.
- ^ Huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái ngày nay
- ^ Tức bãi Mạn Trù ở Khoái Châu, Hưng Yên
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 227-228.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972) cho rằng ải Hải Thị có thể là nơi sông Luộc hợp lưu với sông Hồng.
- ^ Trần Nhật Huyên là tên dùng của vua Trần Nhân Tông trong ngoại giao với nhà Nguyên.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972) dẫn lại Nguyên sử quyển 3.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 235-236.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 212.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 214, dẫn theo An Nam chí lược.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 215.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 216.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 217, dẫn theo Nguyên sử.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 215-216.
- ^ a b Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, tr 151
- ^ Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, tr 150
- ^ a b c Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 223.
- ^ a b c Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ quyển 5
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 222.
- ^ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, chính biên quyển 7
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 191
- ^ Không rõ tên
- ^ Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, tr 151. Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 192
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 249.
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 194
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 251.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972) trích dẫn Kinh tế đại điển tự lục.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972) trích dẫn Nguyên sử quyển 209.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 251-253.
- ^ Khúc sông Hồng chảy qua Khoái Châu
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 199
- ^ a b Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 260-261.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 254.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 254-255.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 255-256.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 256-257.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 257-259.
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư, 2004, tr 506
- ^ Vũ Ngọc Khánh, sách đã dẫn, tr 84
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 206, 214
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3
Chiến tranh Nguyên Mông - Đại Việt lần thứ III | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Nhà Trần (Đại Việt) | Đế quốc Mông Cổ | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Trần Thánh Tông Trần Nhân Tông Trần Quốc Tuấn Trần Quang Khải Trần Nhật Duật Trần Khánh Dư Phạm Ngũ Lão Trần Gia Nguyễn Khoái Nguyễn Thế Lộc Trần Ngạc Đỗ Hành | Thoát Hoan Ariq Qaya (A Lý Hải Nha) Ô Mã Nhi (POW) Ayuruychi (Áo Lỗ Xích) Phàn Tiếp (POW) Tích Lệ Cơ (POW) Yiymis (Diệc Hắc Mê Thất) Ariq Qusun (A Lý Quy Thuận) Abaci (A Bát Xích) Ali (A Lý) Trình Bằng Phi Aruq (Ái Lỗ) Trương Ngọc † Lưu Khuê Trương Quân † Siktur (Tích Đô Nhi) Trương Văn Hổ Phí Củng Thìn Đào Đại Minh Trần Trọng Đạt Tạ Hữu Khuê Bồ Tý Thành Trần Ích Tắc Lê Tắc | ||||||
Lực lượng | |||||||
Khoảng 200.000 - 300.000 quân chính quy và dân binh[1] | Khoảng 300.000 - 500.000 quân chính quy và dân binh[1] Theo James A. Anderson: 170.000 quân chính quy[2], chưa kể dân binh | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
Không rõ | Không rõ |
Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3 (theo cách gọi khác ở Việt Nam là Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3) là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ tháng 12 năm 1287 đến cuối tháng 4 năm 1288.
Đại Việt lại một lần nữa đẩy lui được cuộc xâm lăng của Nguyên Mông. Sau này, giữa nhà Trần và nhà Nguyên không phát sinh thêm cuộc chiến tranh nào và đây được sử sách nhìn nhận là cuộc chiến cuối cùng giữa hai bên.
Nguyên nhân[sửa | sửa mã nguồn]
Sau thất bại trong việc chinh phạt Đại Việt năm 1285, hoàng đế nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt vẫn không từ bỏ kế hoạch chiếm Đại Việt. Gần như ngay lập tức, kế hoạch tái chinh phạt được hoạch định. Ngày 21 tháng 8 năm 1285, Khu mật viện nhà Nguyên trình đề nghị tái chiến với Đại Việt
Giữa tháng 2 năm 1286, Hốt Tất Liệt lệnh cho A Lý Hải Nha bàn kế hoạch đánh Đại Việt. Đầu tháng 3, danh sách các chỉ huy quân Nguyên tham gia được phê duyệt. Giữa tháng 3, việc điều động binh lính bắt đầu và đồng thời một dự án đóng 300 tàu chiến được khởi công.
Tuy nhiên, do những cuộc khởi nghĩa của nhân dân Trung Quốc nổ ra khắp nơi ở miền Nam Trung Quốc, nên vào tháng 6 năm 1286 vua Nguyên ra lệnh hoãn việc chinh phạt Đại Việt. Đến cuối năm 1286, việc chuẩn bị chinh phạt Đại Việt được tái khởi động.[3]
Lực lượng[sửa | sửa mã nguồn]
Quân Nguyên[sửa | sửa mã nguồn]
Theo kế hoạch mà Hốt Tất Liệt đề ra vào tháng 3 năm 1286, đội quân Nguyên chinh phạt Đại Việt vẫn sẽ do Thoát Hoan làm tổng tư lệnh. A Lý Hải Nha làm phó tổng tư lệnh. Các chỉ huy cao cấp khác gồm Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp (tướng người Hán của nhà Nguyên), Diệp Hắc Mê Thất, A Lý Quỹ Thuận,... Sau đó, tháng 11 năm 1286, A Bát Xích, A Lý, Trình Bằng Phi (tướng người Hán của nhà Nguyên), Ái Lỗ, Trương Ngọc, Lưu Khuê, Tích Đô Nhi, Trương Văn Hổ, Phí Củng Thìn, Đào Đại Minh (những tên cướp biển người Hán làm tướng nhà Nguyên), Trần Trọng Đạt, Tạ Hữu Khuê, Bồ Tý Thành cũng được điều động. Phần lớn các tướng lĩnh này đều đã từng tham gia chinh phát Đại Việt năm 1285.[4] A Lý Hải Nha qua đời ngày 18 tháng 6 năm 1286, và Áo Lỗ Xích được cử làm phó cho Thoát Hoan.
Theo Nguyên sử, ngoài việc huy động lại những quân lính trong lần chinh phạt thứ 2 thoát được về Trung Quốc, nhà Nguyên còn huy động thêm 7 vạn quân Mông Cổ và Hán của ba tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng, 1.000 quân nhà Nam Tống cũ đầu hàng theo Nguyên, 6.000 quân của Vân Nam, 15.000 quân người Lê ở Hải Nam, ngoài ra còn quân người dân tộc ở Quảng Tây. Số quân huy động thêm mà Nguyên sử ghi là 92.000, chưa tính số quân người Choang không được ghi rõ. An Nam chí lược ghi tổng số quân là 10 vạn, nhưng khi vào đến Đại Việt hội binh thì lại ghi có 50 vạn. Đại Việt sử ký Toàn thư ghi số quân Nguyên là 50 vạn. Về thủy quân, quân Nguyên có 700 thuyền chiến mới đóng cùng 120 thuyền chiến của Hải Nam đều đặt dưới sự chỉ huy của Ô Mã Nhi. 100 thuyền vận tải chở 17 vạn thạch lương do Trương Văn Hổ chỉ huy đi cùng Ô Mã Nhi.[5]
Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược cho rằng số quân Nguyên khoảng 30 vạn và Trần Xuân Sinh trong Thuyết Trần cho rằng con số này giống như An Nam chí lược ghi khi quân Nguyên hội binh, là gần với sự thực, vì ngoài số quân mới huy động còn số quân trở về từ thất bại năm 1285 được điều động quay trở lại Đại Việt.[1]
Dựa trên các dữ liệu trong Nguyên sử, James A. Anderson ước tích rằng quân Nguyên lần này có khoảng 17 vạn quân chính quy[2]. Cộng thêm số dân binh theo tỷ lệ cứ mỗi quân chính quy lại có 1-2 dân binh đi theo, thì đoàn quân Nguyên sẽ khoảng 35 - 50 vạn người.
Rút kinh nghiệm từ thất bại lần trước, quân Nguyên trang bị hai hạm thuyền lớn. Hạm đội tải lương dưới quyền của Trương Văn Hổ, chở theo 17 vạn thạch lương (có sách chép 70 vạn) để giúp đảm bảo hậu cần cho quân Nguyên, giảm bớt sự lệ thuộc vào việc tải lương đường bộ vốn rất khó khăn và tốn nhiều nhân lực. Hạm đội chiến đấu gồm hơn 600 chiến thuyền dưới quyền chỉ huy của Ô Mã Nhi, với hàng vạn thủy quân tinh nhuệ nhất của nước Nguyên là những sắc quân người Lê đảo Hải Nam, quân Tân Phụ miền Giang Nam. Hạm đội của Ô Mã Nhi có nhiệm vụ đánh mở đường và hộ tống đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ, đồng thời sẽ là một lực lượng quan trọng để phá tan ưu thế thủy chiến của quân Đại Việt. Lần xâm lược này, quân Nguyên có tổng quân số ít hơn lần trước, nhưng thủy quân được tăng cường mạnh mẽ hơn rõ rệt. Gần sát ngày tiến quân, Hốt Tất Liệt còn đích thân ra chỉ dụ căn dặn các tướng: “Không được cho Giao Chỉ là nước nhỏ mà khinh thường”.
Quân Trần[sửa | sửa mã nguồn]
Phía Đại Việt đã tiến hành tổng động viên. Lần này lãnh đạo là Trần Nhân Tông. Tướng chỉ huy toàn bộ quân đội là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Tổng số quân nhà Trần khoảng 32 vạn[1] (con số này có lẽ tính gộp cả quân chủ lực lẫn quân địa phương và dân phu).
Trần Nhân Tông đại xá thiên hạ, chỉ trừ những người từng hàng quân Nguyên đều không được đại xá. Nhiều tù nhân được tha, tình nguyện tòng quân ra mặt trận để báo ơn.
Trần Quốc Tuấn với những kinh nghiệm tác chiến thu được sau khi đánh bại quân Nguyên 2 năm trước, sau khi phân tích tình hình quân Nguyên, đã tự tin tâu với vua Trần: "Thế giặc năm nay dễ phá"
Diễn biến[sửa | sửa mã nguồn]
Hai bên dàn quân[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 3 tháng 9 âm lịch, Thoát Hoan khởi binh từ đất Ngạc tiến về phía nam, mượn tiếng đưa "An Nam quốc vương" Trần Ích Tắc về nước. Quân Nguyên chia làm 3 cánh:
- Cánh thứ nhất theo đường Vân Nam tiến xuống sông Thao và sông Lô như 2 lần trước do Ái Lỗ chỉ huy
- Cánh thứ hai là quân chủ lực đi đường châu Khâm, châu Liêm do Thoát Hoan cùng Trình Bằng Phi, Áo Lỗ Xích, dẫn theo Trần Ích Tắc tiến vào biên giới đông bắc.
- Cánh thứ 3 là thủy quân do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp chỉ huy 500 chiến thuyền cùng đoàn vận lương do Trương Văn Hổ phụ trách kéo theo sau.
Phía Đại Việt, Trần Quốc Tuấn thống lĩnh các vương hầu chia quân chống giữ các nơi. Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Khoái mang 3 vạn quân giữ Lạng Sơn;[6] Lê Phụ Trần[cần dẫn nguồn] mang 3 vạn quân vào giữ Thanh – Nghệ; Trần Khánh Dư giữ Vân Đồn; tự Trần Quốc Tuấn đóng binh ở Quảng Yên. Mặt khác, Hưng Đạo Vương sai quân biên giới giáp châu Tư Minh, chia ra đóng các đồn Sa, Từ, Trúc để chống bộ binh địch xâm nhập; lại sai một tướng khác ra giữ Bình Than.
Đụng độ ở biên giới quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]
Cánh quân Nguyên chủ lực do Thoát Hoan và Áo Lỗ Xích chỉ huy tập kết tại Tư Minh vào ngày 18 tháng 12 năm 1287 và bắt đầu vào lãnh thổ Việt Nam ngày 25 tháng 12 năm 1287. Tiến tới Lộc Châu (Lộc Bình, Lạng Sơn) ngày 29 tháng 12 thì Thoát Hoan chia quân làm 2 mũi, một mũi do Trình Bằng Phi và Bột Đa Cáp Đáp Nhĩ chỉ huy có 1 vạn quân người Hán đi từ Vĩnh Bình tới Chi Lăng và một mũi nữa gồm số quân còn lại đi từ Lộc Bình tới Sơn Động; lưu 2500 quân ở lại vận lương, vũ khí và binh phục.
Ngả quân bộ do Aí Lỗ, A Thai và Mãng Cổ Đái chỉ huy từ Vân Nam tiến vào lãnh thổ Đại Việt còn sớm hơn cả ngả chính; ngày 11 tháng 12 đã đến Bạch Hạc.
Thủy quân của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy xuất phát từ Khâm Châu tiến về vùng bờ biển Đông Bắc của Đại Việt. Ngày 17 tháng 12 năm 1287, lực lượng chiến đấu chính do Ô Mã Nhi chỉ huy tách khỏi lực lượng vận tải lương thực, vài ngày sau thì tiến vào cửa biển Vạn Ninh (Móng Cái) từ đó đi ven bờ tiến tới cửa sông Bạch Đằng và theo sông này tiến vào Vạn Kiếp.
Gần như ngay khi đặt chân vào đất Đại Việt, quân Nguyên và quân Đại Việt đã giao chiến với nhau. Quân từ Vân Nam của Ái Lỗ giao chiến với 4 vạn quân của Trần Nhật Duật tại Bạch Hạc và giành thắng lợi, thu được một số thuyền và giết được Lê Thạch và Hà Anh của Đại Việt.
Các mũi quân của Thoát Hoan vừa qua sông biên giới, Trình Bằng Phi mang quân Hán tiến vào phía Lạng Châu và Lão Thử (Chi Lăng). Nguyên sử chép rằng cánh quân này thắng liền 17 trận, đánh chiếm các đồn Hãm Sa, Tư Trúc.[6] Mũi nhánh thứ hai của Thoát Hoan có Thoát Hoan đi cùng vượt qua ải Khả Lý. Đến đầu năm 1288 thì đóng ở kênh Mao La.
Lực lượng thủy quân Nguyên không tiến vào Thanh - Nghệ rồi đánh ngược ra giống lần trước như nhà Trần dự định vì đã biết quân Trần đề phòng, trái lại tiến thẳng vào miền bắc để hợp binh với Thoát Hoan. Khi Ô Mã Nhi tiến tiến đến Quảng Yên thì giao chiến với quân của tướng Đại Việt là Trần Gia tại vụng Đa Mỗ (mũi Ngọc, Móng Cái). Trần Gia nỗ lực chống lại, chiếm được một số thuyền và đánh đắm vài thuyền lương đầu tiên. Phía Trần Gia cũng bị chết vài trăm người[7] và thế yếu hơn, cuối cùng phải rút lui.
Thoát Hoan nghe tin báo lương thực bị hãm, liền lệnh cho các tướng đi cướp được một số lương thực của Đại Việt để dùng.
Đầu tháng chạp âm lịch, quân Trần tại khắp các đồn ải ở biên giới Lạng Sơn chống đỡ không nổi phải rút lui; một số nơi khác nghe tin thanh thế quân Nguyên quá lớn phải bỏ đồn rút trước khi quân Nguyên đến nơi.[7]
Quân Trần yếu thế, lại bị quân Nguyên cướp lương, nên lui về Vạn Kiếp để bảo toàn lực lượng. Trần Gia tuy thắng được tiền quân thủy một trận nhỏ nhưng tiền quân thủy của Phàn Tiếp vẫn tiến được qua sông Bạch Đằng vào Bắc Giang. Trần Quốc Tuấn bố trí quân ra chặn ở sông nhưng không cản nổi. Phàn Tiếp gặp được quân bộ của Thoát Hoan.
Trận Vạn Kiếp và phía tây bắc nước ta[sửa | sửa mã nguồn]
Thoát Hoan chia quân đánh chiếm núi Phả Lại và núi Chí Linh (Hải Dương), lập trại vững chắc để bố phòng.
Trình Bằng Phi tiến đánh trại Phù Sơn, quân Trần dùng tên độc giết nhiều quân Nguyên nhưng sau đó Bằng Phi được tiếp viện, lại quay trở lại đánh. Quân Trần rút lui.
Đầu tháng 1 năm 1288, hai cánh quân của Thoát Hoan và Trình Bằng Phi hợp lại tại Vạn Kiếp. Dọc đường từ Lộc Châu đến Vạn Kiếp, cánh Trình Bằng Phi đã giao chiến với quân Đại Việt 17 trận, còn cánh của Thoát Hoan chỉ gặp sự kháng cự yếu ớt. Lực lượng Đại Việt tại Vạn Kiếp rất ít và đã rút lui về Thăng Long.
Thoát Hoan chiếm lấy Vạn Kiếp làm căn cứ đầu não, để ở đây 2 vạn quân, dựng thành gỗ trên núi ở Chí Linh và Phả Lại. Từ đây, quân Nguyên đánh rộng ra xung quanh và tiến về Thăng Long.
Tại mặt trận tây bắc, đạo quân của Aí Lỗ từ Vân Nam theo dòng sông Thao và sông Lô đánh xuống. Quân của các chủ trại Tuyên Quang ra đánh chặn không nổi. Trần Nhật Duật vốn giữ mặt trận Lạng Sơn, sợ địch vào sâu bèn ra đóng ở Bạch Hạc để ngăn quân Aruq. Hai bên giao chiến tất cả 18 trận và cùng bị thiệt hại. Hai tướng nhà Trần là Hà Anh và Lê Thạch bị quân Nguyên bắt giết.
Cuối cùng Trần Nhật Duật thua chạy. Ái Lỗ tiến vào Thăng Long.
Trận Cao Lạng[sửa | sửa mã nguồn]
- Xem thêm: Lê Tắc
Khi đạo quân chủ lực Thoát Hoan cùng "An Nam quốc vương" Trần Ích Tắc tiến vào Thăng Long thì lực lượng hậu đội do các tướng người Việt chạy theo Nguyên là Lê Tắc cùng Lê An mang 5000 quân hộ tống con Trần Ích Tắc là Trần Dục mới 9 tuổi kéo theo sau quân Nguyên, đúng đường Thoát Hoan đã đi.[8]
Tuy không gặp phải sự ngăn cản của quân chủ lực nhà Trần nhưng cánh quân Lê Tắc lại bị sự phục kích của tướng người Tày là Nguyễn Thế Lộc tại cửa ải Nội Bàng. Quân Nguyên bị tổn hại nhưng vẫn tiến qua được biên giới. Nguyễn Thế Lộc bủa vây, Lê Tắc dựa vào sông Lục Nam bày trận chống lại.[8] Thế Lộc để chừa lại hướng bắc, vây 2 mặt kẹp lại. Lê Tắc và Lê An không chống nổi, phải theo hướng bắc để ngỏ chạy trở lại biên giới. Thế Lộc tung quân đuổi theo. Lê An bế Trần Dục đi con ngựa gầy chạy chậm, bị quân Trần đuổi sát. Lê Tắc vội quay ngựa lại, nhường ngựa tốt mình đang cưỡi cho Lê An ôm Dục chạy trước. Cuối cùng cánh quân Nguyên này chỉ còn không đầy 100 người, chạy thoát về châu Tư Minh đúng ngày Tết nguyên đán năm Mậu tý (1288).[9]
Lê Tắc thuộc đường nên dẫn bọn Vạn hộ Đạt, Thiên hộ Tiêu, Nguyễn Lĩnh, Lê Yến, Trần Dục… cùng khoảng 60 kỵ binh còn sót lại đêm ngày chạy trốn về nước Nguyên. Đám tướng người Việt cùng tàn binh bày tiệc ăn Tết và ăn mừng thoát chết. Lê Tắc tự ghi trong hồi ký của mình: “Chật vật hiểm nghèo, muôn phần chắc chết. Ngày chạy mấy trăm dặm, từ nửa đêm đến tảng sáng đến châu, vọng bái cửa khuyết, mừng tết năm Mậu Tý”.
Trận Thăng Long[sửa | sửa mã nguồn]
Cuối tháng 1, quân Nguyên bắt đầu tiến đánh Thăng Long. Cánh quân Vân Nam của Aruq gặp đại quân Thoát Hoan ở bên bờ sông Hồng gần Thăng Long.
Ngày 2 tháng 2 năm 1288, quân Nguyên bắt đầu đánh thành. Trần Quốc Tuấn dàn quân cố thủ. Quân Trần nấp trong thành bắn tên đạn ra. Quân Nguyên bao vây tấn công vài lần không có kết quả. Trần Quốc Tuấn sai Trần Cao vài lần đến trại Thoát Hoan xin giảng hoà, nhưng ban đêm thường kéo ra từng toán nhỏ đánh lén vào trại quân Nguyên, đốt phá lương thực rồi rút lui. Thoát Hoan điều quân ra ngoài truy kích, nhưng quân Trần thường ẩn nấp khó phát hiện ra.[10]
Trong các cuộc xung đột quanh kinh thành, tướng Trần Ngạc (tông thất nhà Trần) bị trúng tên tử trận.
Sau khi thấy cầm chân quân Nguyên đã đủ lâu, Trần Quốc Tuấn rút về kinh thành, sai tướng rước vua Trần lui xuống hạ lưu sông Hồng rồi theo cửa Giao Thủy đi ra biển vòng lên Tháp Sơn (Đồ Sơn). Sau đó bị cánh quân Nguyên của Ô Mã Nhi đuổi quá gấp, thượng hoàng Thánh Tông và Nhân Tông phải xuống thuyền vào Thanh Hóa. Ô Mã Nhi mang vài chục thuyền và ít lương đuổi gấp theo, nhưng nghe tin có Lê Phụ Trần[cần dẫn nguồn] cầm một đạo thủy quân lớn đã phòng ở Thanh Hoá, liệu thế không đánh nổi đành quay trở lại. Qua Long Hưng, Ô Mã Nhi bực tức sai phá lăng Trần Thái Tông.[10]
Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi truy đuổi các vua Trần. Ô Mã Nhi sai bắn tin với vua Trần rằng: "Ngươi chạy lên trời ta theo lên trời, ngươi chạy xuống đất ta theo xuống đất, ngươi trốn lên núi ta theo lên núi, ngươi lặn xuống nước ta theo xuống nước".[11]
Vua Trần Nhân Tông cùng Thượng hoàng Trần Thánh Tông đem một hạm đội vào Thanh Hóa. Nhờ có thuyền bè nhiều và nhanh nhẹn, quân Đại Việt có thể dễ dàng chia quân tùy thích để chốt giữ các đồn trại, một phần trong số đó là để đánh lạc hướng, làm nhiễu thông tin trinh sát của địch. Theo Nguyên sử ghi chép thì quân Nguyên "thắng trận liên tục" ở Cá Trầm, Cá Lê, Man San, Ngụy Trại (những địa danh chép theo Nguyên sử, không rõ vị trí cụ thể), nhưng thực chất những trận này chỉ đụng phải những lực lượng nghi binh của nhà Trần.
Các tài liệu dẫn về trận Thăng Long chưa hoàn toàn thống nhất. Khâm định Việt Sử Thông giám Cương mục, Việt Sử tiêu án và Việt Nam sử lược chỉ nêu Thoát Hoan vây đánh nhưng không hạ được thành; Đại Việt Sử ký Toàn thư không chép trận Thăng Long. Một số sách sử Việt Nam hiện đại cho rằng quân Trần bỏ thành rút lui.[12] Quân Nguyên lọt được vào kinh thành, nhưng sau đó đụng độ kịch liệt với quân Trần. Sau vài lần giao chiến, cuối cùng quân Nguyên phải rút lui, trước khi rút đã đốt phá cung điện và phố xá.[13]
Trận Vân Đồn[sửa | sửa mã nguồn]
Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp vốn được giao cầm quân thủy mở đường cho đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ, Phí Củng Thìn theo sau. Sau khi đánh lui được quân Trần Gia, Ô Mã Nhi cho rằng thế quân Trần yếu không đáng lo, bèn tiến sâu vào nội địa để hội binh với Thoát Hoan và truy đuổi vua Trần.
Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư được giao trấn giữ đường biển nhưng để quân Nguyên đi qua, bị thượng hoàng Thánh Tông sai sứ hỏi tội. Khánh Dư xin khất vài ngày để chuộc tội.
Đầu năm 1288, đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ kéo đến Vân Đồn, bị quân Trần Khánh Dư tập kích. Không có quân chủ lực bảo vệ, quân của Trương Văn Hổ mau chóng bị tiêu diệt. Văn Hổ cố gắng kéo vào đất liền nhưng đến Lục Thủy thì thuyền quân Trần đổ ra đánh càng đông. Hổ đại bại, đổ cả thóc xuống biển vì không muốn lọt vào tay quân Trần, rồi bỏ chạy về Quỳnh châu.
Thuyền lương của Phí Củng Thìn kéo theo sau, mới đến Huệ châu đã gặp bão, trôi giạt tới Quỳnh châu. Đoàn thuyền lương do Từ Khánh chỉ huy thì đi lạc tới Chiêm Thành rồi quay trở lại Quảng Đông. Như vậy, các thuyền lương của quân Nguyên mất hoàn toàn.
Theo Nguyên sử, quân Nguyên trong trận này chết 220 người, thuyền mất 11 chiếc, lương mất hơn 14.300 thạch. Con số đó chắc chắn là thấp hơn nhiều so với sự thực, vì Trương Văn Hổ chỉ chạy thoát trên một chiếc thuyền. Chiến thắng Vân Đồn có một ý nghĩa rất lớn đối với toàn bộ cuộc kháng chiến lần thứ ba của nhà Trần, vì vấn để lương thực đã trở lên vô cùng khó khăn đối với quân Nguyên.
Chiến thắng Vân Đồn – Lục Thủy là bước ngoặt quan trọng của cuộc chiến. Việc Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư phá tan được đoàn thuyền lương khiến mọi toan tính chiến lược của quân Nguyên đã bị đảo lộn. Việc thiếu lương thực đã đẩy quân Nguyên vào một thế trận hoàn toàn bị động. Cương mục viết: “Quân Nguyên từ đấy thiếu lương ăn, mỗi ngày một quẫn bách thêm. Quân sĩ ai cũng muốn về, không ai có lòng chiến đấu. Cho nên năm bấy giờ quân Nguyên lại kéo sang mà dân ta bị hại không đến nỗi thảm khốc như năm trước. Khánh Dư thực đã dự một phần công lao”.
Thoát Hoan rút về Vạn Kiếp[sửa | sửa mã nguồn]
Trong khi Thoát Hoan vây đánh Thăng Long thì các tướng Nguyên ở Vạn Kiếp vẫn tiếp tục củng cố căn cứ này làm bản doanh; lập hành lang thông sang Trung Quốc để báo tin về nước, nhưng nhiều đồn trại qua các vùng núi thường bị quân Trần đánh phá và cô lập.[14]
Thoát Hoan vây đánh Thăng Long, chờ mãi không thấy thuyền lương của Trương Văn Hổ tới, bèn sai Ô Mã Nhi đi đón. Ô Mã Nhi khi đi tìm đoàn thuyền lương phải qua đây và đã bị tập kích ở cửa Văn Úc (ngày 10 tháng 2 năm 1288), và trên biển gần Tháp Sơn, bị thiệt hại nặng mà vẫn không thấy Trương Văn Hổ đâu, đành quay về Vạn Kiếp. Dọc đường về Vạn Kiếp, Ô Mã Nhi đã cướp được 4 vạn thạch gạo.[15] Các đơn vị của A Bát Xích cũng đã giao chiến với quân Trần tại Tháp Sơn và cũng cướp được 1,3 vạn thạch lương thực. Nhưng ngần đó lương thực cũng không thể đủ nuôi số lượng quân Nguyên quá đông trong một thời gian đủ dài.
Ở Thăng Long mà không có lương thực, Thoát Hoan lúng túng. Đã vậy, quân Đại Việt đã phản công mạnh mẽ và kiểm soát vùng Hải Dương và Hải Phòng đẩy Thoát Hoan vào nguy cơ bị cắt đường về Vạn Kiếp. Trước tình hình như vậy, Thoát Hoan rút quân khỏi Thăng Long quay về Vạn Kiếp, sai Abaci đi tiên phong mở đường.[16]
Cho đến cuối tháng 3/1288, tức gần 4 tháng tính từ khi Thoát Hoan dẫn quân đặt chân vào lãnh thổ Đại Việt, thủy bộ quân Nguyên đã dần co cụm lại ở Vạn Kiếp và phụ cận, lương thực ít ỏi, vùng chiếm đóng liên tục bị tập kích, bệnh tật cũng lan rộng trong quân do thời tiết chuyển từ xuân sang hè. Nguyên sử chép rằng quân Nguyên bi dịch bệnh rất nhiều, không thể tiếp tục tiến binh nên phải lui trở lại.[14]
Để kéo dài thời gian cho quân Nguyên thêm xuống sức, vua Trần dùng kế trá hàng. Hưng Ninh vương Trần Tung được phái sang trại quân Nguyên, hẹn ngày “xin hàng”. Thoát Hoan tưởng là thật, bèn án binh bất động, sửa sang thành lũy mà chờ đợi vua Trần đến. Đang lúc quân Nguyên mất cảnh giác, quân Đại Việt thình lình tấn công vào ban đêm, hạ liền mấy trại. Thoát Hoan biết mình mắc mưu, vô cùng tức giận, hạ lệnh cho Vạn hộ Giải Chấn đốt thành lũy, muốn dẫn toàn quân ra tử chiến một phen. Các tướng Nguyên dưới quyền phải hết sức can ngăn, Thoát Hoan mới bình tâm trở lại mà hủy lệnh.
Tại Vạn Kiếp, quân Nguyên cố thủ trong các thành gỗ nhưng thường xuyên bị quân Đại Việt tập kích vào ban đêm. Tình hình thiếu lương thực càng ngày càng trầm trọng. Tướng lĩnh quân Nguyên hoang mang, cùng nhau bàn bạc kế tiến thủ. Theo Tân Nguyên sử, Thần Nỗ Tổng Quản của quân Nguyên là Giả Nhược Ngu bàn rằng: “Quân có thể về, không thể giữ”. Các tướng Nguyên khác cùng tiếp lời: “Giao Chỉ chẳng có thành trì nào có thể giữ được, không có kho lương tiếp tế lương thực. Vả lại thời tiết đã nóng, sợ rằng hết lương binh mỏi, không thể ở lâu, làm xấu mặt triều đình, nên cho toàn quân quay về”
Thoát Hoan quyết định rút quân khỏi Đại Việt. Lúc đó là vào khoảng cuối tháng 3 năm 1288, tức là chỉ 3 tháng sau khi tiến quân vào Đại Việt. Quân Nguyên chia làm 2 ngả rút về, một ngả của thủy quân do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy. Một ngả của bộ binh do Thoát Hoan chỉ huy.
Trận Bạch Đằng[sửa | sửa mã nguồn]
- Xem chi tiết: Trận Bạch Đằng 1288
Để bảo vệ cho thủy quân rút lui, Trình Bằng Phi và Đạt Truật được Thoát Hoan phái đi hộ tống, nhưng bị chặn đánh liên tục phải quay về Vạn Kiếp đi cùng đại quân bộ.[17] Đoàn thuyền của Ô Mã Nhi không có bộ binh bảo vệ đã bị chặn đánh liên tục, mãi tới ngày 8 tháng 4 năm 1288 mới tiến tới Trúc Động định vào sông Giá. Tuy nhiên, quân Đại Việt đã ngăn được quân Nguyên vào sông Giá, khiến Ô Mã Nhi phải tiến vào sông Bạch Đằng.[18] Tại đây, quân Đại Việt bố trí một trận địa cọc ngầm. Một lực lượng lớn bộ binh Đại Việt lại trú tại Tràng Kênh chờ đánh vào sườn phải quân Nguyên khi họ vào sông Bạch Đằng, còn một lực lượng lớn nữa trú tại khu rừng bên tả ngạn sông sẽ đánh vào sườn trái đối phương. Thủy quân Đại Việt thì ẩn náu trên các sông khác thông với sông Bạch Đằng.
Sáng ngày 9 tháng 4 năm 1288, thủy quân Nguyên tiến vào sông Bạch Đằng, thấy thủy quân Việt liền đuổi đánh, song va phải các cọc ngầm và bị chặn lại. Quân Đại Việt từ khắp các hướng đổ ra đánh. Đích thân vua Trần và Trần Hưng Đạo cầm quân tham chiến.
Tướng quân Nguyễn Khoái thống lĩnh quân Thánh Dực dũng nghĩa, đội cấm binh tinh nhuệ nhất của Đại Việt từ hạ lưu đánh thẳng vào chính diện đội hình chiến thuyền Nguyên Mông. Đội thuyền đang giả thua cũng quay đầu lại đánh, chắn ngang đường ra biển. Từ các nhánh sông Chanh, sông Kênh, sông Giá, sông Thai, sông Điền Công… thủy quân Trần vốn mai phục sẵn từ trước nhất tề đổ ra đánh. Đồng thời hàng loạt các thuyền bè chở đầy chất cháy được đốt rồi lao thẳng vào thuyền quân Nguyên Mông. Từ hai bên bờ sông, cung tên, hỏa tiễn bắn ra liên tục.
Các tướng Nguyên là Phàn Tiếp, Lưu Khuê, Hoạch Phong, Ô Mã Nhi, Trương Ngọc, Tích Lệ Cơ cùng chỉ huy quân lính cố gắng chống trả. Phàn Tiếp cho quân đổ bộ lên chiếm lấy núi Tràng Kênh, toan lấy chỗ cao cho quân tựa lưng vào đó mà dàn trận. Quân của Phàn Tiếp vừa lên bờ đã bị phục binh ở núi Tràng Kênh vây đánh, đẩy xuống sông.
Thủy triều rút làm cho số thuyền bị cọc nhọn làm hư hại càng tăng. Cả đoàn thuyền bị ùn tắc, đám thuyền không vướng cọc thì cũng bị một đội thuyền của quân Trần chặn ngang từ phía hạ lưu, không sao thoát ra hướng biển được. Quân Nguyên bị hãm giữa trận, tiến thoái đều không được.
Đến chiều, toàn bộ cánh quân thủy của quân Nguyên bị tiêu diệt. Tướng Nguyên là Trương Ngọc chết trong đám loạn quân. Tướng Trần là Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ. Phàn Tiếp bị thương, nhảy xuống nước, bị quân Trần dùng câu liêm móc lên, bắt sống Siragi và Lý Thiên Hựu. Khoảng 6 vạn quân Nguyên chết hoặc bị bắt (gần như không thoát được ai), hàng trăm tàu thuyền bị chìm, hơn 400 chiến thuyền khác lọt vào tay quân Trần. Gần như toàn bộ thủy quân Nguyên bị tiêu diệt.[19]
Ô Mã Nhi bị đem giải đến thuyền ngự của Thượng hoàng Trần Thánh Tông. Thượng hoàng sai người rót rượu cho Ô Mã Nhi uống.
- Một số sách sử chép những người bị bắt với Ô Mã Nhi gồm Tích Lệ và Cơ Ngọc. Các sử gia hiện đại đính chính rằng đó không phải là hai người mà chỉ là một người: hoàng thân Tích Lệ Cơ, được phong tước vương nên gọi là Tích Lệ Cơ vương. Do chữ "vương" và chữ "ngọc" gần giống nhau nên sử cũ đã nhầm.
Giả thuyết khác[sửa | sửa mã nguồn]
Có ý kiến cho rằng, ngay từ khi nhận chức Tiết chế ở Bình Than, Trần Quốc Tuấn đã theo kế của Ngô Quyền, muốn ngăn quân địch tiến vào bằng cọc nhọn ở sông Bạch Đằng. Số cọc nhọn làm năm 1288 chỉ là số bổ sung thêm.[20]
Ngay từ năm 1284, Trần Quốc Tuấn đã giăng bẫy ở đây và muốn dồn địch vào trận địa cọc, nhưng quân Trần yếu thế không thực hiện được ý định. Kết quả quân Nguyên vượt qua an toàn.
Năm 1287, khi Ô Mã Nhi tiến vào cũng mang quân đông và mạnh khiến quân Trần không thể dồn quân Nguyên tới bãi cọc vào thời điểm triều rút, do đó việc bố trí cọc cũng vô hiệu.
Theo ý kiến của Trần Xuân Sinh, các tướng Nguyên không thể không biết về bài học trận Bạch Đằng, 938 của quân Nam Hán; nhưng do hai lần đã đi qua dễ dàng, quân Nguyên chủ quan không đề phòng cạm bẫy ở sông Bạch Đằng năm 1288. Chính vì vậy khi rút lui đã bị sa vào trận địa và bị diệt hoàn toàn.[21]
Trận Lạng Sơn[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 8 tháng 4 năm 1288, quân của Thoát Hoan từ Vạn Kiếp tiến lên Lạng Sơn. Abaci dẫn quân kỵ đi mở đường. Siktur được lệnh dẫn một cánh đi theo hướng Tây (qua Chi Lăng), nhưng đến Hãm Nê thì bị quân Đại Việt chặn đánh, đành trở lại nhập vào đoàn quân của Thoát Hoan. Ngày 11 tháng 4, đội quân Nguyên tiến tới cửa Nội Bàng (thị trấn Chũ và xã Bình Nội của Bắc Giang ngày nay) và lọt vào trận địa phục kích của quân Đại Việt. Quân Nguyên cố sức chống cự; Daraci và Lưu Thế Anh phải liều chết mở đường máu cho đại quân thoát khỏi cửa Nội Bàng. Qua được Nội Bàng, Thoát Hoan nhận được tin trinh sát rằng phía trước quân Đại Việt "chia binh hơn 30 vạn, giữ cửa quan Nữ Nhi cùng núi Khâu Cấp, trải dài hơn trăm dặm chặn đường về". Con số 30 vạn có lẽ là do quân Trần nói phao lên để lừa trinh sát quân Nguyên, vì phần lớn quân chủ lực Đại Việt đã dồn về ven biển để đánh diệt thủy quân Nguyên, toàn tuyến biên giới trên bộ chỉ có khoảng vài vạn quân Trần hoạt động.
Quân Nguyên đành đổi hướng đi qua Đơn Kỷ[22] về Lộc Châu. Tuy nhiên qua đường này, quân Nguyên vẫn bị quân Đại Việt tập kích.
Nguyên sử chép: "Lúc đó quân ta đã thiếu ăn lại mệt vì chiến đấu, tướng tá nhìn nhau thất sắc" nhưng vẫn phải "cố xông vào mà đánh" và "buộc vết thương lại mà đánh".[23] A Bát Xích trúng tên độc, đầu cổ đều sưng vù rồi chết trên đường đi. Mãi đến ngày 19 tháng 4 năm 1288, quân Nguyên mới thoát khỏi biên giới về đến Tư Minh.[24] Ái Lỗ đem quân bản bộ về Vân Nam, Áo Lỗ Xích đem tàn binh còn lại về bắc. Cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ ba của Nguyên Mông chính thức kết thúc.
Kết cục các tướng Nguyên[sửa | sửa mã nguồn]
Thoát Hoan cùng Trình Bằng Phi chạy thoát về nước. Gần như ngay khi về nước, Ái Lỗ bị cảm lị qua đời (1288).[25]
Các viên đầu mục người Mông bị bắt được tha về. Những tướng người Hán bỏ hàng ngũ Mông Cổ theo Đại Việt được nhà Trần chấp thuận, cấp đất cho sinh sống.[26]
Riêng Ô Mã Nhi, sử cũ của Việt Nam cho rằng: vì Ô Mã Nhi khoẻ mạnh, dũng mãnh và tàn ác, giết hại nhiều người Việt và phá lăng vua Trần, Trần Quốc Tuấn đã thực hiện ý định ám sát để ngừa hậu hoạ. Ông cấp thuyền cho Ô Mã Nhi trở về, nhưng lại sai người (có thuyết cho là Yết Kiêu) sung làm phu chèo thuyền và nhân lúc đêm tối dùi thuyền thủng cho đắm. Ô Mã Nhi bị chết đuối. Trần Nhân Tông gửi thư sang nói với Hốt Tất Liệt rằng thuyền bị rỉ nước nên đắm. Nhà Nguyên không thể tra cứu việc đó nên buộc phải lờ đi, không trách cứ.[27] Nguyên sử chép lại bức thư của vua Nhân Tông gửi vua Nguyên về việc này:
- "Tham chính Ô Mã Nhi theo kỳ định đã về sau. Chẳng may đêm đến, thuyền rỉ nước, tham chính tầm vóc cao lớn lực lưỡng, khó bề cứu vớt, mới nỗi phải chết chìm; người chở thuyền của tiểu quốc vì vớt ông ấy, cũng đều phải chết cả. Thê thiếp và tiểu đồng của Tham chính cũng suýt chết đuối, may vì mình mẩy bé nhẹ nên mới cứu được..."
Có ý kiến cho rằng Ô Mã Nhi đã bị giết trong trận Bạch Đằng và vụ ám sát do Nguyên sử đặt ra để cho nhà Trần là hẹp lượng. Một căn cứ là sau này trong bài Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi viết:
- Sông Bạch Đằng giết toi Ô Mã (Mã Nhi hựu ế ư Bạch Đằng hải).[27]
Vụ giết Ô Mã Nhi bị một số sử gia Ngô Sĩ Liên, Ngô Thì Sĩ coi là "thất tín", còn Trần Trọng Kim đồng tình với Tự Đức coi là "bất nhân phi nghĩa". Các sử gia hiện đại của Việt Nam thì cho rằng: tuy không phải đáng khen nhưng không có gì đáng chê trách, mạt sát cả. Đó là sự trả giá của Ô Mã Nhi với người Việt.[28] Riêng Lê Văn Siêu phản đối nhận định của Tự Đức gay gắt hơn trong việc này:
- "Vua Tự Đức chê (việc này) là bất tín bất nghĩa... Nhưng sao đế vương ngài chẳng đem cái ý niệm đạo đức ấy mà soi vào việc tổ phụ ngài là Nguyễn Ánh đã xử tử tế như thế nào với di hài của Quang Trung? Còn đây là tướng giặc, đã từng giết thác (chết) bao nhiêu người, từng đuổi ngặt vua và thượng hoàng, lại từng phá lăng miếu tổ tiên người ta..."[29]
Phàn Tiếp lo buồn thành bệnh qua đời ở Đại Việt, Trần Nhân Tông sai hoả táng và cấp người ngựa cho vợ con mang xác về nước. Có ý kiến cho rằng Phàn Tiếp cũng bị giết lén cùng Ô Mã Nhi.[30]
Hoàng thân Tích Lệ Cơ cùng các tướng người Mông khác được trở về nước tháng 2 năm 1289.
Kết quả[sửa | sửa mã nguồn]
Kế hoạch xâm lược Đại Việt của nhà Nguyên một lần nữa thất bại. Một số tướng lĩnh xuất sắc của nhà Nguyên đã chết, như A Bát Xích, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp. Phần lớn chiến thuyền của quân Nguyên bị tiêu diệt hoặc bắt giữ. Số lượng binh sĩ tử trận là không nhỏ, đặc biệt là lực lượng thủy quân bị tiêu diệt gần như toàn bộ.
Riêng cánh quân Vân Nam của Ái Lỗ, sử cũ không ghi rõ kết cục. Trần Xuân Sinh phỏng đoán rằng đạo quân này theo ngược sông Hồng trở về Vân Nam, sau khi Thoát Hoan rời Vạn Kiếp. Nguyên sử chỉ ghi ngắn gọn: "Thoát Hoan lệnh cho Ái Lỗ rút về Vân Nam".[25]
Tin bại trận về đến nơi, vua Nguyên là Hốt Tất Liệt lồng lộn nổi giận, đã lệnh cho Thoát Hoan ra ở đất Dương Châu, suốt đời không cho về kinh nhìn mặt.
Ngoại giao sau chiến tranh[sửa | sửa mã nguồn]
Về phía Đại Việt, tuy đã làm phá sản kế hoạch xâm lược của quân Nguyên, nhưng nhiều tướng sỹ đã tử trận. Triều đình Đại Việt mong muốn hai nước hòa hảo, dập tắt lửa chiến tranh. Vì thế, chỉ khoảng một tháng sau thì sứ giả Đại Việt đã sang nước Nguyên để mong nối lại bang giao. Tháng 5/1288, sứ bộ nhà Trần gồm Nguyễn Đức Vinh, Đoàn Khải Khung sang tặng cống phẩm, đưa biểu “tạ tội”. Sứ bộ Nguyễn Đức Vinh sang Nguyên đúng vào lúc Hốt Tất Liệt hậm hực nên đã bị giam lỏng, không cho về nước. Mùa đông năm 1288, sứ bộ thứ hai của Đại Việt do Đỗ Thiên Hư lại sang Nguyên, đem theo một số tù binh trao trả lại cho nước Nguyên. Trong số tù binh có quý tộc Mông Cổ là Tích Lệ Cơ cũng được trao trả trong đợt này.
Ngày 21/03/1288, sứ bộ nước Nguyên do Lưu Đình Trực, Lý Tư Diễn sang đến kinh đô Đại Việt. Triều đình nhà Trần ân cần đón tiếp. Lưu Đình Trực cưỡi ngựa đến tận cung điện, đích thân Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn phải ra đón sứ, mời vào điện Tập Hiển tiếp đãi. Chiếu thư của vua Nguyên yêu cầu vua Trần phải sang chầu, và phải thả hết các tướng Nguyên còn đang bị bắt làm tù binh.
Vua Trần không chấp nhận sang chầu vua Nguyên, lấy cớ rằng “tuổi già không đi xa được”. Còn về tướng tù binh thì làm theo kế mà Hưng Đạo vương hiến: Một mặt triều đình công khai lệnh cho Nội tư gia Hoàng Tá Thốn đưa Ô Mã Nhi về nước theo đường biển. Mặt khác ngầm sai người bơi lặn giỏi làm phu chèo thuyền, khi ra chỗ nước sâu, phu thuyền nhân lúc đêm đến lặn xuống nước đục thuyền cho chìm khiến Ô Mã Nhi bị chết đuối, ngụy trang đó là một vụ tai nạn. Vua Trần lại sai đại phu Đàm Minh cùng Chu Anh Chủng theo sứ đoàn nước Nguyên sang gặp Hốt Tất Liệt, gửi biểu biện bạch của vua Trần. Hốt Tất Liệt và quan lại Nguyên khi nghe lời biện bạch của sứ giả Đại Việt, đọc qua biểu trần tình của vua Trần ai nấy cũng nghi ngờ không phải sự thật, nhưng không có lý lẽ gì để bắt bẻ.
Kế hoạch chinh phạt Đại Việt lần 4[sửa | sửa mã nguồn]
Sau những thất bại, vua tôi nước Nguyên rút kinh nghiệm, bàn nhau mở một hướng tấn công trọng tâm khác vào Đại Việt.
Ngày 10/3/1289, Quản quân vạn hộ Thành Đô là Lưu Đức Lộc tâu xin đem 5.000 quân đi chiêu dụ các bộ lạc vùng tây nam nước Nguyên để từ đó tiến đánh Đại Việt. Hốt Tất Liệt chấp thuận, còn cho thành lập Soái phủ, phong Lưu Đức Lộc làm Đô nguyên soái, cấp cho 1 vạn quân Tứ Xuyên. Nguyên triều toan tính rằng sẽ chuẩn bị mở một cuộc xâm lược với hướng tấn công chính đánh vào vùng tây bắc nước Đại Việt, hy vọng rằng tấn công từ hướng này sẽ phát huy hết thế mạnh về kỵ bộ, tránh được ưu thế thủy quân Đại Việt.
Tuy nhiên, kế hoạch mới chỉ trong giai đoạn phôi thai và sớm gặp trở ngại. Trong những năm từ 1288, tình hình nội bộ nước Nguyên bất ổn. Nhà Nguyên huy động binh lính chinh phạt liên tục, thường xuyên áp bức, bóc lột nhân dân. Nhất là các vùng phía nam, Nguyên Mông đã huy động rất nhiều sức người sức của đổ vào chiến tranh với Đại Việt, Chiêm Thành, Java… Dân chúng quá khổ sở, nổi dậy chống lại ở nhiều nơi. Phúc Kiến có quân Hoàng Hoa; Quảng Đông có quân của Đổng Hiền Cử; Chiết Giang có Dương Trấn Đông, Liễu Thế Anh; Tuần Châu có Chung Minh Lượng có đến hàng vạn quân nổi dậy. Cả vùng phía nam nước Nguyên loạn lạc.
Án sát sứ Phúc Kiến là Vương Tồn tâu lên với Hốt Tất Liệt: “Phúc Kiến quận huyện hơn 50 chỗ, liền núi tiếp biển, thực là khu trọng yếu ở biên cương. Từ khi bình Tống đến nay, quan lại tàn bạo, cho nên dân ngu thường tụ nhau nổi dậy, triều đình đem quân đi đánh lại giày xéo tan nát... Huống dân quy phụ ở Phúc Kiến đến mấy trăm vạn hộ, trong vụ biến Hoàng Hoa đi theo đến 4-5 phần mười, nay thanh thế của Minh Lượng lại rầm rộ hơn Hoa, sao có thể coi là bọn giặc cỏ tầm thường. Nên tuyển tinh binh, nghiêm hiệu lệnh, dùng kế mà đánh, nếu không thì không dứt được mối hoạ”. Ngự sử đại phu nước Nguyên là Oa Lúc lên Hốt Tất Liệt: “Giặc cướp nổi lên ở Giang Nam hơn 400 chỗ, nên chọn tướng để đi đánh” Thế là kế hoạch đánh Đại Việt phải ngừng lại để lo dẹp nội loạn.
Ở phía Bắc, đế chế Mông Cổ cũng bắt đầu tan vỡ. Các vương tôn Mông Cổ ở phía bắc liên kết nhau chống lại Hốt Tất Liệt. Năm 1287, vương tôn Nãi Nhan cất quân chống lại Nguyên triều. Hốt Tất Liệt đã phải thân chinh đi đánh, bắt được Nãi Nhan. Hãn quốc Sát Hợp Đài và nhà Nguyên cũng thường xuyên xảy ra xung đột. Hải Đô, cháu nội Oa Khoát Đài liên minh với Đô Oa (Duwa) đem quân từ Hãn quốc Sát Hợp Đài tấn công vào miền bắc nước Nguyên của Hốt Tất Liệt. Đến năm 1289, đích thân Hốt Tất Liệt lại phải cầm quân lên phía bắc chống lại, Hải Đô phải lui binh nhưng chiến sự giữa nhà Nguyên và Hãn quốc Sát Hợp Đài vẫn diễn ra dai dẳng nhiều năm sau nữa. Cuộc chiến này đã làm suy yếu cả hai đế chế của người Mông Cổ.
Ngày 2/7/1290, Thượng hoàng Trần Thánh Tông qua đời. Nguyên chủ muốn nhân lúc Đại Việt có tang mà gây sự. Thừa tướng Hoàn Trạch và viên Bình chương Bất Hốt Mộc can ngăn, vì tình hình nước Nguyên cũng không khả quan để có thể nam chinh. Hốt Tất Liệt sau khi cân nhắc đành phải nghe theo.
Năm 1293, Hốt Tất Liệt lại nung nấu ý muốn thôn tính Đại Việt, triệu Lưu Quốc Kiệt Bạt Đô (Bạt Đô tức là dũng sĩ) vào triều để giao việc. Hốt Tất Liệt lệnh thành lập Hồ Quảng An Nam hành tỉnh, giao cho Lưu Quốc Kiệt làm tướng soái, cùng thân vương Diệp Cát Lý Đải (Ikiradai) với các tướng Trần Nham, Triệu Tu Kỷ, Vân Tòng Long, Trương Văn Hổ, Sầm Hùng… chuẩn bị nam chinh. Lưu Quốc Kiệt được lệnh đến Ngạc Châu bàn bạc với Trần Ích Tắc kế hoạch. Ban đầu, Nguyên triều điều động 1.000 chiếc thuyền, mỗi chiếc chứa được 100 hộc, 56.570 quân, 35 vạn thạch lương thực, hai vạn thạch thức ăn cho ngựa, 21 vạn cân muối, 70 vạn khí giới tập trung ở Tĩnh Giang (thuộc Quảng Tây), lấy cớ là dẹp giặc ngoài biên giới để Đại Việt không đề phòng. Bấy giờ có tù trưởng tên Hoàng Thánh Hứa, vốn là tri châu Thượng Tư (thuộc Thượng Lang, Cao Bằng ngày nay) đã nổi dậy, đem hàng vạn quân đánh phá Ung Châu. Nguyên triều muốn lấy việc đánh dẹp Hoàng Thánh Hứa làm bình phong cho việc tập trung quân tấn công Đại Việt. Từ năm 1293 đến 1294 tập trung lực lượng, của cải, mộ quân. Quảng Đông được lệnh đóng thêm 500 chiến thuyền, dân vùng Quảng Tây được lệnh làm đồn điền để chu cấp cho quân nam chinh. Việc chuẩn bị đang gấp rút chuẩn bị thì đến ngày 18/2/1294, Nguyên chủ Hốt Tất Liệt ốm chết. Thái tử Thiết Mộc Nhĩ lên kế vị, là Nguyên Thành Tông. Vua mới không có lòng hận Đại Việt, nhân cớ trong nước có tang mà xuống lệnh bãi binh.
Định công phạt tội[sửa | sửa mã nguồn]
Tháng 4 âm lịch năm 1289, Trần Nhân Tông xét công lao các tướng sĩ trong trận thắng quân Nguyên. Các tướng Trần Quốc Tuấn được phong tước "đại vương", Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn phong Khai quốc công, Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng phong Tiết độ sứ; Đỗ Khắc Chung được ban họ Trần của vua; Nguyễn Khoái được phong Liệt hầu và 1 hương (xã) làm thái ấp (sau được mang tên ông, gọi là Khoái Lộ);[31] Phạm Ngũ Lão được phong Dực Thánh quân. Tù trưởng Lạng Giang Lương Uất có quân công nên được phong làm Trại chủ Quy Hóa. Tù trưởng Hà Tất Năng có công chỉ huy người thiểu số đánh giặc, được phong tước Quan phục hầu. Các tù trưởng người Mường, Tày, Thái, Dao đều được phong chức phục hầu.
Hưng Trí vương Trần Quốc Hiện cũng có công lao rất lớn, nhưng vì cãi lệnh vua đem quân đánh bọn Thoát Hoan trong khi vua đã hạ lệnh thả cho chúng một con đường sống nên ông không được phong thưởng. Nội minh tự Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi, là lập được đại công nhưng vì không dâng lên vua mà lại dâng lên Thượng hoàng nên bị bắt tội bất kính, chỉ được phong tước Quan nội hầu.
Ngoài ra, Trần Nhân Tông còn phong cho tông thất có công, như con cháu Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trấn thủ các vùng thượng du. Triều đình lại cho vẽ chân dung, ghi công trạng những người có chiến công đặc biệt trong hai cuộc chiến (kháng chiến chống Nguyên lần 2, lần 3) vào sách Trùng Hưng Thực Lục.
Bấy giờ người trong nước lập được quân công rất nhiều mà chức tước, bổng lộc của triều đình thì có giới hạn. Việc thưởng công xong rồi, nhiều người vẫn cho là sơ sài. Thượng hoàng Trần Thánh Tông bèn dụ rằng:
- Nếu các khanh biết chắc là giặc Hồ không vào cướp nữa thì nói rõ cho trẫm biết, dù có thăng đến cực phẩm trẫm cũng không tiếc. Nếu không thế mà đã vội thưởng hậu, vạn nhất giặc Hồ trở lại, và các khanh lại lập công nữa thì trẫm lấy gì mà thưởng để khuyến khích thiên hạ
Xét tới những người từng theo hàng quân Nguyên khi quân Nguyên đang mạnh, quan viên phạm tội thì xử tử hoặc bắt đi đày, còn quân dân thì đều miễn tội nhưng bị bắt phải chịu phu dịch, chuyên chở gỗ đá để xây dựng cung điện. Cận thần rất được tin dùng của vua Trần Nhân Tông là Đặng Long trước đây vua đã định phong làm Hàn Lâm học sĩ nhưng Thượng hoàng ngăn cản, Đặng Long bất mãn nên hàng giặc. Khi Long bị bắt, vua sai đem chém đầu làm răn. Trần Ích Tắc theo nhà Nguyên, bị đổi gọi là Ả Trần (ý nói "nhát như phụ nữ"). Trần Kiện và Trần Văn Lộng tuy đã chết nhưng vào năm 1289, vua Trần ra sắc lệnh bắt con cháu hai người cũng bị tịch thu gia sản và đổi sang họ Mai (枚).
Những hương sớm hàng giặc là Bàng Hà, Ba Điểm thì bắt dân ở đó đời đời chỉ được làm lính, làm nô, không được đi thi hay tiến cử làm quan, làm tướng.
Khi quân Nguyên thua chạy, bỏ lại một tráp công văn. Quân Trần bắt được, có nhiều giấy tờ của các quan lại tư thông với quân Nguyên. Đình thần muốn mang đối chiếu để trị tội, nhưng thượng hoàng Trần Thánh Tông làm theo gương Hán Quang Vũ Đế, cho rằng trị tội kẻ tiểu nhân cũng vô ích, rồi sai đốt hết đi.[32]
Chiến thuật và ý nghĩa[sửa | sửa mã nguồn]
Trong trận chiến lần thứ ba, giữa quân Trần và quân Nguyên đã đụng độ dàn trải trên nhiều địa bàn ở hầu hết miền bắc Đại Việt. Quân Trần đã chủ động nhằm vào những điểm yếu của quân Nguyên để đánh tiêu hao lực lượng địch.
Khi quân Nguyên tiến vào, quân Trần không rút lui co cụm hoàn toàn về phía sau mà vẫn chủ động bố trí lực lượng chặn đánh địch trên nhiều tuyến. Ngoài mặt trận chính ở Lạng Sơn, Vạn Kiếp và Thăng Long mà quân Nguyên chiếm ưu thế, quân Trần vẫn có được hai trận thắng ở phía sau lưng quân chủ lực Thoát Hoan: trận Cao Lạng đánh tan hậu đội của Lê Tắc và đặc biệt là trận Vân Đồn cắt đứt hoàn toàn lương thực của quân Nguyên khiến Thoát Hoan buộc phải điều quân tản rộng ra để cướp của người Việt. Chiến thắng Vân Đồn được các sử gia đánh giá có tầm quan trọng rất lớn, quyết định bước ngoặt chiến trường, vì đạo quân đông đảo của Thoát Hoan không có lương thực sẽ rất nhanh rơi vào tình trạng nguy khốn. Nếu số lương của Trương Văn Hổ tới được tay Thoát Hoan thì đã có thể giúp cho quân Nguyên kéo dài chiến sự và gây thêm nhiều khó khăn cho Đại Việt.[33]
Nhà Trần một lần nữa lại lập võ công đẩy lui được một cuộc xâm lược quy mô của nhà Nguyên, giữ vững được bờ cõi. Trận Bạch Đằng, 1288 cũng được ghi nhận là một trong những trận đánh nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, thắng lợi lần thứ ba chưa thực sự chấm dứt được chiến tranh. Sau cuộc chiến, nhà Trần đã chủ động dùng biện pháp ngoại giao để lập lại hoà bình; Hốt Tất Liệt vẫn muốn tiếp tục động binh trong những năm sau nhưng chưa có cơ hội thuận lợi. Năm 1294, Hốt Tất Liệt qua đời, Thiết Mộc Nhĩ lên ngôi ngừng việc phát động chiến tranh với Đại Việt. Khi đó chiến tranh mới thực sự chấm dứt.
Thất bại của Mông Cổ trong trận chiến này mang sự tự tin cho các quốc gia châu Á nhỏ xung quanh về các cuộc chiến của họ chống lại quân Mông Cổ sau này, đồng thời cũng đè bẹp tham vọng chinh phục toàn bộ Đông Nam Á của nhà Nguyên.
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
- Kháng chiến chống Nguyên Mông
- Kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất
- Kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Sách tham khảo chung[sửa | sửa mã nguồn]
- Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, bản in lại năm 2003.
- Trần Xuân Sinh (2006), Thuyết Trần, Nhà xuất bản Hải Phòng
- Quốc Chấn chủ biên (2006), Những danh tướng chống ngoại xâm thời Trần, Nhà xuất bản Giáo dục.
- Lê Văn Siêu (2004), Việt Nam văn minh sử cương, Nhà xuất bản Thanh niên.
Chú thích cụ thể[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ a b c d Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 214
- ^ a b Anderson 2014, tr. 127.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 265-269.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 266-267 và 276-277.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 277-279.
- ^ a b Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 216
- ^ a b Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 217
- ^ a b Quốc Chấn, sách đã dẫn, tr 67
- ^ Quốc Chấn, sách đã dẫn, tr 68
- ^ a b Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 221
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972) trang 298 dẫn lại ghi chép của Từ Minh Thiện trong Thiện Nam hành ký.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 294-297.
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 222
- ^ a b Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 223
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 300-304.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 303.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 308.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 309-310.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 316-317.
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 234
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 235
- ^ Khoảng huyện Đình Lập tỉnh Lạng Sơn ngày nay
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972) dẫn Nguyên sử, quyển 129 và quyển 133.
- ^ Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 318-323.
- ^ a b Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 237
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 240
- ^ a b Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 241
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 242
- ^ Lê Văn Siêu, sách đã dẫn, tr 385
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 240, 242
- ^ Phủ Khoái châu, Hưng Yên
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 244
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 227