Thứ Năm, 27 tháng 11, 2025

Cuộc thi viết "Từ trong ký ức": Những tháng ngày dạy học ở vùng kinh tế mới Sông Bé

 Tôn Thất Thọ

Tôi không thể nào quên những tháng ngày công tác ở vùng kinh tế mới Bình Long - Sông Bé. Nơi đó có những em học sinh ngoan hiền, lễ phép; nhiều đồng nghiệp yêu mến, phụ huynh tốt bụng đã giúp gia đình tôi rất nhiều trong bước đầu xa quê lập nghiệp...

Năm 1983, vợ chồng tôi là giáo viên đang giảng dạy tại một huyện phía Bắc TP Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Bấy giờ cả nước đang gặp vô vàn khó khăn của thời bao cấp. Dạy học ở đó, tôi cũng được địa phương cấp cho mấy sào đất trồng thêm khoai sắn để cải thiện đời sống. Nhưng nói chung đất đai không tốt, phân bón thiếu thốn, việc trồng trọt, tăng gia sản xuất kém hiệu quả nên đời sống khá khó khăn. Hơn nữa, vợ tôi lại bị bệnh thấp khớp, khí hậu mùa đông ở Huế ẩm ướt, giá lạnh nên bệnh thường tái phát. Do đó, chúng tôi có ý định xin chuyển đến dạy tại vùng kinh tế mới của tỉnh Sông Bé (nay là tỉnh Bình Phước).

Cuộc thi viết Từ trong ký ức: Những tháng ngày dạy học ở vùng kinh tế mới Sông Bé - Ảnh 1.

Những ngày đầu bỡ ngỡ

Quyết định là vậy nhưng suốt một tháng trời trước thời điểm năm học 1982-1983 kết thúc, bao nhiêu câu hỏi cứ mãi trăn trở trong đầu: Nên đi hay không? Nếu đi thì phía trước là cả một con đường đầy khó khăn chồng chất. Cuối cùng, vợ chồng tôi đã chính thức quyết định: hành phương Nam.

Chúng tôi giã từ cố đô vào một chiều mưa tầm tã. Dù vậy, sân ga cũng đông đúc, người đi tàu, phần đông là những người dân ra Bắc, vô Nam buôn bán để kiếm đồng vô đồng ra do cuộc sống còn khó khăn và thiếu thốn.

Chuyến tàu Thống Nhất 3 sau gần 2 ngày 2 đêm đưa chúng tôi đến ga Bình Triệu - TP HCM. Sáng hôm sau, chúng tôi đến bến xe mua vé về Bình Long - Sông Bé. Chiếc xe khách chạy bằng than ì ạch trên Quốc lộ 13 mãi hơn 4 giờ trên một quãng đường 100 km.

Chỗ chúng tôi chuyển đến là xã kinh tế mới của huyện Bình Long (nay thuộc tỉnh Bình Phước). Đây là vùng đất chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh. Ở trung tâm huyện, vẫn còn tàn tích là những ngôi nhà đổ nát vì bom đạn chưa kịp hồi sinh. Nơi đây cũng là vùng kinh tế mới của người dân TP HCM và các tỉnh miền Đông Nam Bộ.

Cuộc thi viết Từ trong ký ức: Những tháng ngày dạy học ở vùng kinh tế mới Sông Bé - Ảnh 2.

Gia đình chúng tôi ở vùng kinh tế mới Sông Bé

Chúng tôi được phân công về một trường phổ thông cơ sở hơn 20 lớp, bao gồm cả cấp I (tiểu học) và cấp II (THCS). Vợ chồng tôi được ban giám hiệu nhà trường bố trí ở trong một khu nhà tập thể lợp lá dừa, vách bằng phên tre ở đằng sau khuôn viên trường.

Là vùng kinh tế mới nên ở đây chưa có điện. Ban đêm, chúng tôi phải soạn bài dưới ánh đèn dầu leo lét. Giếng nước tập thể rất sâu vì là vùng cao. Xung quanh trường, xa xa là đồi núi, xen kẽ những khu rừng cao su xanh thẳm. Dân cư được phân bố trải dài theo hai bên Quốc lộ 13 chừng 6-7 km, hầu hết là dân lao động, một số là công nhân của các nông trường cao su. Ngôi trường ở cạnh một cái chợ xép, sáng nào cũng có đồng bào dân tộc Stiêng ra vào mua bán nông sản.

Khung cảnh nơi đây thật buồn, không như tôi tưởng. Đêm đầu tiên, chúng tôi rất khó ngủ bởi một phần do khí hậu ở vùng cao, phần vì bỡ ngỡ nhập cư nơi hoàn toàn mới mẻ. Trời chưa sáng, tiếng lộc cộc của những chiếc xe bò của đồng bào dân tộc trên con đường đất nghe thật ảo não! Đó là những chuyến xe chở nông sản như khoai, củ mì, măng, nấm mang ra bán ở chợ. Nhưng chẳng bao lâu, vợ chồng tôi cũng đã thích nghi được với nơi ở mới.

Cuộc thi viết Từ trong ký ức: Những tháng ngày dạy học ở vùng kinh tế mới Sông Bé - Ảnh 3.

Những học sinh ở vùng kinh tế mới Sông Bé

Những ngày tháng không quên

Một điều an ủi cho chúng tôi là học sinh nơi đây rất ngoan, hiền và chăm chỉ học tập. Đa số các em thuộc diện theo gia đình đi kinh tế mới, một số ở miền Bắc theo gia đình vào Nam lập nghiệp, chỉ số ít là dân địa phương trong các ấp nằm sâu ở phía trong. Các em rất quý mến thầy cô giáo từ xa đến. Sau các buổi học, cuối tuần các em rủ nhau đến vui chơi, chuyện trò cùng thầy cô. Ngày 20-11, em thì gói tiêu, em thì gói măng mang đến để tặng thầy cô giáo.

Mấy tháng sau, một em học sinh đến gặp vợ chồng tôi và nói: "Gia đình của chú em không ở đây nữa mà về miền Tây sinh sống. Căn nhà của chú không ai ở, chú em nói thầy cô cứ việc sang đó ở!".

Vậy là tự nhiên chúng tôi có được một căn nhà lá vách đất! Thấy tôi có được nhà mới, thầy hiệu phó và vài thầy giáo trẻ cùng một số em học sinh lớn vào ngày cuối tuần đã đến để sửa sang như thay mái tranh nhà, bồi đất trên vách cho đàng hoàng, chắc chắn hơn.

Cuộc sống ở vùng kinh tế mới đầy rẫy khó khăn. Học sinh ở đây ngoài giờ học, hầu hết đều phải làm công việc ruộng rẫy, trồng cây trái phụ giúp gia đình, tuy vậy nhiều em khá thông minh và học giỏi. Trong các tiết dạy của mình, tôi cố truyền đạt bài học một cách ngắn gọn và dễ hiểu nhất để các em nhanh chóng tiếp thu. Các buổi học thường diễn ra vui vẻ, sinh động chứ không quá nặng nề. Tuy vậy, cuối năm thi chuyển cấp, tỉ lệ tốt nghiệp THCS của trường tôi lúc nào cũng khá cao so với nhiều trường khác.

Địa phương cũng cấp cho gia đình tôi 2 sào đất để trồng điều. Bấy giờ hạt điều là mặt hàng chiến lược để xuất khẩu. Cây giống thì học sinh mang đến cho. Chúng tôi thuê người cày đất và tự tay trồng cùng với sự giúp đỡ của một đồng nghiệp từ miền Bắc vào, chi viện thêm một vài phụ huynh khác. Từ khi có vườn điều, chúng tôi cảm thấy công việc lao động thật sự mang lại nhiều ý nghĩa và niềm vui.

Bốn năm sau, vườn điều đến mùa thu hoạch. Gia đình tôi từ đó đã có thu nhập kha khá để mua được 1 chiếc xe máy "cánh én" cũ. Thời gian đó, vợ tôi sinh được một cháu trai, cũng là lúc căn nhà lá được thay thế bằng một ngôi nhà lợp ngói, cột gỗ khá kiên cố.

Dạy học ở đây được gần 8 năm, cha mẹ tôi cũng từ quê chuyển vào Đồng Nai sinh sống cùng với gia đình chú em. Cả hai người đều trên 80 tuổi nên cần người qua lại chăm sóc. Vì thế, vợ chồng tôi đành xin chuyển về Đồng Nai công tác để có dịp gần gũi, chăm sóc cha mẹ già trong những tháng ngày cuối đời.

Trước ngày chia tay, tôi gặp thầy hiệu trưởng để chuyển lại vườn điều cho nhà trường cấp cho những đồng nghiệp đến sau. Buổi chia tay đầy nước mắt của học sinh lớp 9 mà tôi là chủ nhiệm và học sinh lớp 8 của vợ tôi.

Sau này di chuyển công tác ở nhiều nơi nhưng tôi không thể nào quên được những tháng ngày công tác ở vùng kinh tế mới Bình Long - Sông Bé. Nơi đó, tôi có những em học sinh ngoan hiền, lễ phép. Nơi đó, tôi được nhiều đồng nghiệp yêu mến, phụ huynh giúp đỡ trong bước đầu xa quê lập nghiệp. Những điều đó tạo nên bước ngoặt làm thay đổi cả cuộc đời tôi...

Nơi tôi giảng dạy bây giờ là một thị trấn khá sầm uất ở trung tâm huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước. Những dãy nhà phố khang trang, san sát chạy dọc theo Quốc lộ 13. Cuộc sống người dân ở đây đã khá hơn xưa rất nhiều. Điện đã phủ sáng khắp các ngả đường. Thỉnh thoảng cứ vài ba năm, chúng tôi trở lại nơi xưa, ở đó thầy trò gặp nhau, ôn lại biết bao kỷ niệm vui buồn của gần 40 năm trước. Các em bây giờ có đứa đã có cháu ngoại, cháu nội nhưng vẫn hồn nhiên như những tháng ngày còn cắp sách đến trường.

Có hạnh phúc nào mà không đánh đổi bằng những nỗi gian truân...! 

Chủ Nhật, 23 tháng 11, 2025

Thứ Năm, 20 tháng 11, 2025

Sân bay quốc tế Bình Nhưỡng, Triều Tiên, 2018

 

 

ột vài điều cần nói về vấn đề mọi người ở Việt Nam đang tiếp cận cái gọi là "Hán học" hay "Tàu học".

Duy Huynh                                          

Sai lầm căn bản ở chỗ sau vài ngàn năm bị người Trung Quốc đô hộ thì nhiều người bị lẫn lộn rất nhiều khái niệm, có người thậm chí dùng hán ngữ hay việt-hán để viết bài phàn nàn về tại sao người ta lại chêm tiếng Anh vào câu chữ tiếng Việt, đọc bài thì thấy có rất nhiều từ không thuần việt, mà hễ dùng từ thuần việt thì phải giải thích rất dài. Tiếng hán hay cái tư tưởng Tàu là trung tâm của văn minh châu Á đã ăn sâu vào tiềm thức người Việt.
Cội nguồn tư tưởng của cả nhân loại là ở Châu Phi, sau đó cổ nhân chia 2 nhánh đi qua Ấn Độ , 1 nhánh ở lại Ai cập. Rất nhiều tư tưởng từ thời "Bách Gia, Chư Tử" là học tập ( hay chôm chỉa rồi tự nhận vơ ) từ Ấn Độ. Rất nhiểu trường phái Triết học phương tây ở Hi lạp thật ra bắt nguồn từ Ai Cập. Lầm lẫn về cội nguồn khiến nhiều người Việt đi sai trong nghiên cứu và học thuật.
'
Một vấn đề khác là người Việt và nhiều nhóm người thuộc các dân tộc gốc Sinic từ lâu đã đáng mất " linh hồn tự do" và "giải phóng tư tưởng" vì các lý do chính trị. Nhiểu người không chịu nghiên cứu chính trị, không đọc Sử cứ cắm đầu đi học theo Hán học/Tàu học một cái rất ngu độn. Ngay thời Tần Thủy Hoảng , cha con nhà thương gia Lã Bất Vi ( Vi và vua Doanh Chính) đã phá huỷ tư tưởng trăm nhà thành một hệ tư tưởng có lợi cho giới nắm quyền. Tứ thư lục kinh đã bị trảm thành tứ thư ngũ kinh, dân đen và thần tử không có quyền suy nghĩ gì khác ngoài tứ thư ngũ kinh, không được phép có tư tưởng tiến bộ hay xem " người với ngừơi đều bình đẳng" . Cốt lõi của tư tưởng " tự do, mọi sinh mệnh đều bình đẳng" đã bị Tần Thuỷ hoàng phá huỷ, tôn vinh "Nho Học" của Khổng Tử, triệt phá Pháp gia, hạn chế Đạo gia, bài trừ Âm Dương gia, Mặc gia, Danh gia . Họ Lã còn thông báo toàn thiên hạ là đã hoàn thiện tất cả các kinh điển, ai sửa thưởng 10000 lạng vàng, nhưng ai có tư tưởng khác biệt thì bị giết ngay, kết quả là tất cả mọi học thuật đều bị gò bó vào Nho gia của Khổng Tử , lấy đó làm thước đo, không ai dám có tư tưởng sai lệch... học thuật kiểu này truyền thừa mấy ngàn năm làm cản trở rất nhiều trào lưu tư tưởng mới, hơn nữa lại còn cấm nghiên cứu sáng tạo kĩ nghệ nên công nghệ Châu á về sau thua hẳn Châu Âu dù Châu âu đã trải qua " Dark age" thời kỉ đen tối do bọn làm việc ở các Nhà Thờ.
"Tự do" ở đây là quyền được " nghĩ khác"
Người theo nho gia tiêu cực đến độ ai có tư tưởng khác đều là do " học nho học chưa có thành tựu"
Tất cả những điều trên đều do Doanh Chính, ông ta là Master Mind đằng sau tất cả những chuyện này, khác ở chỗ ông ta dự định cho gia đình mình nắm quyển mấy ngàn năm chứ không phải các nhà khác nắm quyền, kế hoạch vĩ đại nhưng tổ trác ở chỗ con cháu ông ta mất quyền quá nhanh nhưng gông xiềng tư tưởng ông ta thiết kế ra đã nắm chặt mọi thứ.
Người hiện đại không còn phải nô lệ cho tư tưởng và mục đích chính trị nào nữa nên có tham khảo nho học thì tham khảo một ít, tham khảo thoát á học của nguời nhật một ít, tham khảo Phật học, tư tưởng Ai cập , hi lạp một ít rồi nghẫm nghĩ tìm tòi đạo của chính mình, tìm đường của chính mình.Đừng lên giọng kiểu người khác học nho học chưa tới , đây là cách nói rất xất xược, kiểu này y hệt ếch ngồi đáy giếng bảo người khác nhảy như thế không đúng, không sống được trong giếng.Một trong những người thầy từng dạy con là người chưa thành phật thì có chấp niệm là chuyện bình thường, nhưng nếu con chấp nhất với những người như vậy thì người ấy không toàn mạng cũng chấn thương toàn thân, du học sinh có thân phận là con quan chức hay trùm này nọ qua mỹ học nhiều lắm, nhờ vả một chút đối với con không khó.
Bỏ qua chuyện đó, Ngoài việc cản trở các hệ thống tư tưởng khác thì Nho học có rất nhiều vấn đề nội tại của nó, kiểu như phân biệt " Quân tử và Tiểu Nhân". Khái niệm này hoàn toàn đi ngược lại tư tưởng mọi sinh mệnh đều bình đẳng của triết học cổ châu á, kiểu này hệt như phân biệt giai cấp của đạo Bà la môn vậy. Trong mắt Khổng tử có Quân tử có tiểu nhân, nhưng đạo của thánh nhân theo cổ tư tuởng là tất cả thánh nhân đều dựa theo pháp Vô Vi, đây là tư tưởng được mọi ngừời thừa nhận, nhà Phật thừa nhận, bách gia chư tử thửa nhận, các đạo lớn nhỏ đều thửa nhận. Cái gọi là quân tử chi đạo, hạo nhiên chánh khí là do trong mắt khổng tử còn quân tử và tiểu nhân, tâm còn phân biệt, đặc nặng giai cấp, đặc nặng sự phân biệt giữa người với người, tuy Vua vả các quan rất khoái tư tưởng này nhưng giai cấp nó hiện hữu ( hữu vi) hẳn ra nên nó rời xa các trưởng phái "vô vi" của triết học Châu á . Nhà phật có rất nhiểu kinh kệ hay về tâm phân biệt ví dụ như đoạn này trong kinh Duy-ma-cật :"Lúc ấy, ông Xá Lợi Phất nương oai thần của Phật mà nghĩ rằng : “Nếu tâm Bồ Tát thanh tịnh chắc cõi Phật phải được thanh tịnh, vậy Thế Tôn ta khi trước làm Bồ Tát tâm ý lẽ nào không thanh tịnh, sao cõi Phật này không thanh tịnh như thế ?”. "
vì còn tư tưởng phân biệt nên người ta còn chấp niệm còn chấp nhất ô uế và thanh tịnh mà không xem tất cả pháp hữu vi là mộng huyễn là tàng ảnh, vì tâm còn phân biệt nên không bỏ "pháp hay đạo của mình" Cái khai phóng của nhà phật là pháp còn bỏ được huống chi phi pháp .Nếu nhà Phật dùnh ít kinh kệ dính dáng đến thần thông hơn thì cả nhân loại đã tiếp nhận đạo phật rồi, người hiện đại không tin phép thuật,ma pháp, thần thông... nhưng có những ý cảnh rất hay như một vị đốt tay mình rồi mọc vì nhận ra tính vô thường giả tạo" thân này không phải thân ta" , những ý cảnh này đuợc học giả phương tây nghiên cứu rất kĩ

Thứ Bảy, 15 tháng 11, 2025

Trái đất rất buồn

 Có những người thấy cuộc sống này đang thật tươi vui. Có những người thấy cuộc sống này đang ngột ngạt. Có những người thấy cuộc sống này đang nghiêng ngửa. Và có những người thấy cuộc sống sao ngày càng khó đoán...

Em hỏi nếu thật ngắn gọn dễ hiểu thì đến thiên niên kỷ này đâu là sự khác nhau cốt yếu của thế giới loài người với thế giới các loài động vật còn lại? Thưa em, rằng loài người là loài duy nhất có tổ chức toàn loài: Liên Hợp Quốc. Mất mấy vạn năm mới bước tới được, mới nghĩ ra được mô hình Liên Hợp Quốc - United Nations, nơi kết nối loài người lại, cung cấp khuôn khổ cho đối thoại và có thể ngồi bàn những vấn đề của loài. Các loài khác làm gì nghĩ ra được một định chế toàn cầu để cùng chung sống như thế! 

Tám mươi năm tồn tại rồi đó em, từ ngày Liên Hợp Quốc ra đời (1945) ngay khi loài người kết thúc một cuộc đại chiến tàn sát nhau điên cuồng: Thế chiến II. Thế chiến II, thời người giết người bằng súng đạn và máy móc cơ khí, cũng là mốc khép dần lại gần 300 năm trước đó về làn sóng đi mở thuộc địa từ những đại cường của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất nên năm 2025 này nó nhắc nhớ quan trọng với rất nhiều nơi, nhiều nước trên địa cầu. Dĩ nhiên những thế kỷ trước các quốc gia gần xa cũng tàn sát nhau, giành đất, hủy diệt chủng tộc, hủy diệt các nền văn minh theo dạng khác mà nhân loại cũng phải “tính sổ” để rút ra bài học về nhân tính và trên hết là mang lại công bằng cho bao vạn triệu con người đã thiệt mạng oan uổng vì chiến tranh và lòng tham. 

Những đoạn phim “cực chất” 

Những tháng ngày này anh ngồi quan sát loài người bằng phương tiện thức thời nhất là internet khi nó kết nối tất cả những gì về thế giới đang gây chú ý, bàn chuyện sống còn của loài người, của mọi quốc gia, quê xứ, mọi thân phận riêng rẽ. Tĩnh tại, anh không cười, không khóc và cũng không để cảm xúc xâm chiếm linh hồn hay trí não. Anh nghe kỹ tất cả những bài phát biểu của tất cả các nguyên thủ quốc gia phát biểu trên bục của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ở New York, UNGA 80 - khóa họp lần thứ 80, từ nguồn phát truyền công khai của Liên Hợp Quốc.

Phải nghe thật nghiêm túc những lời vàng ngọc đó vì một phần nhận thức, quan điểm, chính kiến và trái tim của những con người tinh hoa bày ra ở chỗ “thiêng” nhất trong chốn ta bà. Người ta, nguyên thủ các nước, cố “phơi” ra những gì tự họ nghĩ nên “phơi”. Lời lẽ đãi bôi cũng nhiều nhưng nhiều hơn và ấn tượng hơn, trung thực quý báu là những lời chỉ thẳng những đốn mạt, đồi bại của loài người, của những quốc gia ích kỷ, dân tộc hẹp hòi, của các chính quyền trên thế giới. 

Chưa bao giờ có cuộc “hội ngôn” nào của các nguyên thủ quốc gia lại “chất” đến thế này và sòng phẳng, tự do, dân chủ, mở toang. Cứ thế, anh ngồi “chấm điểm” sự thật thà và trí tuệ của mỗi vị nguyên thủ. Mà có khi trên thế giới này vô số người cũng chấm điểm vì không có hành động hay lời nói nào của con người mà con người không hiểu, không nhận ra đúng - sai, thật - giả. Mọi thứ đang như “phim” tổng kết 80 năm tổ chức quốc tế của loài được hình thành mà các loài động vật khác không thể có.                     

Mỗi diễn giả lận lưng, mang đến đây một ít muộn phiền, trong giới hạn chân thật ở họ - vì nghề của họ là “chính trị”. Nên diễn đàn công khai Đại hội đồng Liên Hợp Quốc này khi ta với tư cách là người xem, quan sát, thưởng thức nhân thế thì vô cùng thú vị, vì nó là thứ “phim sống” siêu thật, siêu hạng, đặc sắc, thực tiễn, hay hơn mọi nội dung phim mà quanh năm suốt tháng người ta sáng tác ra, review để mời khách xem hoặc câu khách. Tám mươi năm cho một hành trình mới của nhân loại chứ đâu phải chuyện giỡn chơi. 

Một nạn nhân chiến tranh người Palestin trước bức tường mang tên Liên Hợp Quốc. Ảnh:  New York Times


“Nguyên thủ quốc gia”, có những người tinh hoa, cực chất lượng, và có những người bình thường, và cả rất bình thường. Kỳ này may thay xuất hiện nhiều nguyên thủ quốc gia khí khái, nhiệt huyết, ít hoặc nhiều trung thực, bớt giữ “miếng”, giữ “thế” khi đăng đàn diễn ngôn, và cả đôi vị “chơi lớn”: lột trần sự thật của nước khác, của “đồng nghiệp”/đồng cấp để hướng đến loài người. Nguyên thủ mà càng “thật”, công chánh, cương trực thì đau khổ, ức hiếp, thảm họa càng ít diễn ra, ở mọi xứ dân tình biết được sự thật, còn thấy “chiếc neo”, nghĩ trên đời còn “tâm hồn”. Và nhiều vị nguyên thủ cố gắng gào thét cho lương tri. Họ gào thét vào đâu? Vào chính đồng nghiệp của họ, vào mỗi quốc gia can dự. Và hình như cũng là gào thét vào chính mình!

Các quốc gia đả kích nhau, chỉ trích nhau, phản ứng, phản kháng, tuyệt vời nữa là dám hạ nhục nhau, bêu riếu nhau, loan lên cho cả loài người nghe rõ thế giới này thật sự đang như thế nào. Họ tố nhau xâm lược. Họ tố nhau gian ác. Họ tố nhau thảm sát. Họ tố nhau diệt chủng. Họ tố nhau tiếp tay. Họ tố nhau bắt nạt. Họ tố nhau gây rối loạn, làm mất trật tự thế giới. Họ tố nhau “chơi” không đẹp. Họ tố nhau độc tài, không tôn trọng con người. Họ tố nhau quan hệ cưỡng ép, ngoại giao cưỡng bức, kinh tế ức hiếp. Họ tố nhau vi phạm luật pháp quốc tế. Họ tố nhau đạo đức giả. Tố nhau thiếu trách nhiệm trong gìn giữ những nguyên tắc cơ bản của nhân loại mà Liên Hợp Quốc đã đặt ra... 

Cứ như dồn lại những kìm nén 80 năm để giờ trút hết, phả ra. Tưởng nhỏ mà lớn, tưởng lớn mà nhỏ, tưởng đơn giản mà hóa ra phức tạp, tưởng phức tạp mà hóa ra cực kỳ đơn giản. Chỉ là thế - lòng tham. 

Anh cảm ơn các diễn giả - đều là tổng thống, chủ tịch nước, quốc vương hoặc thủ tướng của các quốc gia - vì người ta đã vạch mặt nhau ra. Bá tánh toàn loài cần biết các quốc gia và thế giới mình đang sống vận hành ra sao, bộ mặt của mọi thứ, mọi chuyện, mọi kẻ. Dù bằng ngôn ngữ tế nhị, bức xúc, thành tâm hay phản kháng, “tấn công” nhau, lột trần nhau thì cũng đều là quý báu. Làm ơn cứ thế đi cho cuộc sống phải được diễn ra tự nhiên mọi thứ trên cái nền của sự thật, là phải sần sùi, nham nhở, trơ trẽn, thô bỉ, đê tiện, cùng với sự lịch lãm, văn minh, tử tế. Như một cái “sân khấu sự thật”. 

Phơi bày ra các thách thức toàn cầu, thời đại, của loài, nhưng không thể giải quyết và không bao giờ thật lòng giải quyết. Mọi nước đều bất chấp, hoặc nói lịch sự hơn là chỉ cư xử như một thứ đầu môi, giao đãi.

Một nhân loại đang như thế đó. Rất nhiều quốc gia đang có chiến tranh theo những hình thức, quy mô khác nhau. Và nhiều quốc gia không đang trong chiến tranh nhưng cũng không thực sự có hòa bình, an lành. Con người không để con người được yên!
Một lịch sử chát ngắt đang diễn ra trên hành tinh này.  

Bàn cờ của các đại cường 

Từ khi Liên Hợp Quốc ra đời, loài người có xem nhau là đồng loại, huynh đệ và thực sống trong tình huynh đệ không?

Một địa cầu quá nhiều đau khổ, giết chóc, tranh đoạt, xâu xé, ức hiếp, phiền toái và bất công. Đặc điểm bất xê dịch là lòng tham đã khiến Liên Hợp Quốc có ra đời vẫn không thay đổi được con người. Nên vẫn cứ là một thế giới quá nhiều chia rẽ. 

Ở mặt đất này, đại cường nào cũng muốn mình được nể trọng, muốn là kẻ “dẫn dắt” nhân loại dù luôn nói rằng “không muốn nước (nhỏ) nào phải chọn phe!”. Các cường quốc “vật lộn” nhau bằng sách lược, chính sách, đối sách, chiêu trò cùng lúc với quân trang súng đạn, tàu ngầm, tên lửa, vũ khí hạt nhân để tranh giành vị thế, ảnh hưởng. Mọi quốc gia nhỏ trở thành những “con cờ” trong trò chơi bất tận của các đại cường về kinh tế và vũ khí. Liệu những giá trị cao cả của Liên Hợp Quốc đặt ra suốt 80 năm qua có bị từ bỏ, bóp méo đi theo hướng khác, hay thêm thắt những điều hướng mới vào để nó thành một “thứ khác”, từ đó đi theo hướng khác. “Hướng khác” là hướng từ bỏ những mục tiêu cao cả, làm giảm giá trị loài người.

*

Năm quốc gia thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc từ đâu đã trở nên đặc quyền đặc lợi với “chiếc bánh thế giới”. Họ được trao quyền phủ quyết. Trách nhiệm là phủ quyết những sự gì đi ngược lại giá trị đặt ra ở Hiến chương Liên Hợp Quốc bỗng một ngày thành “phủ quyết” những gì bất lợi cho quốc gia mình, quốc gia “bạn thân mình”. Nhiều khi loài người không còn hiểu được rốt cuộc tư cách “thường trực” của họ là để làm gì cho nhân loại. 

Nào có công bằng đâu trên thế giới này! Sự thật đã phơi ra rằng chỉ quốc gia nào ngang ngược, lì lợm, vi phạm luật pháp quốc tế càng nhiều thì mới mạnh hơn người, mới ở “chiếu trên”. Kẻ nào “có đồ chơi”, hung dữ hơn kẻ ấy ở “trên”, được “nói”, được “dọa”, được “ép” người. Thế giới này lấy đâu mà sống đúng luật, hoặc có thể chạm tới được văn minh thật. Con người bào mòn con người.

Một Trái đất đang rối như nồi canh hẹ. Bất tuân luật pháp quốc tế diễn ra ở khắp nơi, với nhiều lĩnh vực, cá nhân, tập thể. Công lý ngày càng là một cái gì đó quá xa xỉ. Thế giới ngày nay là một “cái làng lớn”. Các “nhà” trong làng tự hào, hãnh diện với các “nhà” xung quanh về sức mạnh súng đạn, kinh tế hoặc văn hóa của dân tộc mình. Một loài người chỉ có niềm tự hào dân tộc/quốc gia mà không có niềm tự hào về nhân loại. Nguyên nhân của xâu xé, tranh đoạt, hơn - thua, mặc cảm, kiêu hãnh, bất ổn...

*

Liên Hợp Quốc ra đời để kết nối các quốc gia chứ không phải để chia chác, dù cho “chia chác” luôn chỉ biểu hiện ở phần “ngầm” từ đôi kẻ nhưng nó là hiện thực sống. Biết “trận cờ” đang như vậy nhưng rõ ràng Liên Hợp Quốc cũng có những vấn đề ở cấu trúc và thể chế, thiếu cập nhật, lỗi thời, ví như cả một châu lục lớn là Phi châu mà không có một đại diện nào “thường trực”, hay sự phi lý tương tự như vậy với quốc gia đông dân nhất thế giới hiện nay là Ấn Độ... 

Dĩ nhiên Liên Hợp Quốc ra đời trong cõi ta bà này, trước một thế giới luôn chuyển biến, đổi thay, với lòng dạ con người ngày càng “khiếp” hơn 80 năm trước thì theo thời gian nó phải có những chỗ lạc nhịp, lỗi thời, phải bồi đắp, “cập nhật”. Trước một bản chất các quốc gia luôn ích kỷ, tham lam và tranh giành bất tận thì Liên Hợp Quốc đã làm được quá nhiều việc cho loài người suốt tám thập kỷ qua. Rõ ràng nhất, mà anh đố quốc gia nào có thể phủ nhận, là ít nhất chính tổ chức này đã “phanh” hãm bớt sự hung tàn của loài người, sự tham lam của các quốc gia. “Phanh”, “hãm” lại được đã là kỳ tích, dù được ít hay được nhiều, dẫu chỉ bằng miệng. “Phanh lại” nhờ các giá trị phổ quát, lương tri, lẽ phải, đạo đức dựa trên luật pháp, luật lệ. Nếu không có nó thì các quốc gia trên thế giới dĩ nhiên trở lại với “hoang dã”, vận hành theo bản chất hoang dã. 

Đúng như ai đó đã lập luận “Sự chân chính đi bằng dép lê, còn sự giả dối thì đi bằng tốc độ ánh sáng và chúng mang tên lửa”. Khi sự chân chính không còn thì niềm tin lẫn nhau không còn, ở từng người, trong từng quốc gia với nhau. Và đó là lúc sự hủy diệt bắt đầu.

Hãy cứu nhân loại khỏi địa ngục

Phải bảo vệ Liên Hợp Quốc thì mới còn loài người! Nhu cầu “cải tổ” là có thật. Nhưng “cải tổ” là soạn lại “luật chơi” để công bằng hơn nữa, hợp với ý nguyện của mọi quốc gia lớn bé, dân chúng thế giới chứ không phải theo “ý” vị kỷ của kẻ mới nổi nào nhằm “chia lại thế giới”. 

Phát ngôn ra trước thế giới, bàn dân thiên hạ, đại chúng toàn cầu là một chuyện nhưng trong lòng mình toan tính, nghĩ, thì một chuyện khác. 

Loài người mang nhiễu nhương, thương đau rải khắp nơi.

Lá cờ Liên Hợp Quốc trước tòa nhà đổ nát ở Liban gần biên giới Israel, 8.2025. Ảnh: AFP


Đường biên giới phân ranh giữa các nước chỉ là một đường kẻ quy ước giữa một thực tế chân lý rằng Trái đất này là chốn nương thân duy nhất của loài người.

Phải đối diện với sự thật là nước nào cũng vận hành, hành động vì lợi ích quốc gia riêng và ngắn hạn. Lợi ích chung loài người, sự sống còn của toàn nhân loại với họ là xa vời. Lợi ích cục bộ của quốc gia “dễ” thực hiện hơn lợi ích toàn nhân loại. Vì các nhà nước cần kíp giải quyết cái trước mắt để đảm bảo thu lợi ngay cho nước họ, nhân dân họ, hoặc cho sự duy trì triều đại, chính quyền của họ. Chả có nước nào thực thà với những mục tiêu lớn tốt lành cho toàn loài của Liên Hợp Quốc. Nghĩa là cái lợi của toàn nhân loại theo ý hướng của Liên Hợp Quốc đã không được lựa chọn, “cha chung không ai gánh lo”. Lúc “chết” cùng chết, trước hết “tôi” phải tồn tại đã. Trên bục phát biểu trước Đại hội đồng, các quốc gia không bao giờ bộc lộ ra điều “bí hiểm” cốt tử này của thâm tâm họ.

Em biết không, trên thế giới này, quốc gia hiền lành nhất cũng có khối kẻ thù. Hiền lành cũng là cái “gai” của những kẻ hung ác, như sự “cản đường” bởi chiếc gương đức hạnh phản chiếu vô tình ấy. Và quốc gia giàu có, hùng mạnh nhất, hay quốc gia sở hữu nhiều vũ khí nguyên tử nhất cũng đầy dẫy kẻ thù.

*

Những lời “khó nghe” nhất ở một số nguyên thủ chê trách, báng bổ Liên Hợp Quốc, thì lãnh đạo Liên Hợp Quốc đều chú tâm lắng nghe, lĩnh hội cầu thị, ghi chép, bình thản, tự nhiên. Nhưng những lời “khó nghe” mà các nước sỉ vả các nước khác thì nhiều nước bỏ ra ngoài khiến cả hội trường “thiêng” nhất của loài người trống hoe. Khi chỉ mất ít phút để “nghe” nhau thôi mà người ta còn bất khả, huống chi nghị bàn đối thoại, hay cao hơn là tình thương yêu, sẻ chia nhau, hoặc cùng hành động những chuyện lớn hơn cho cả loài. Còn không thể nghe thì làm sao có thể hiểu nhau, đối diện sự thật và thật lòng với nhau. Em ơi, anh nói em nhiều rồi, không cần khám phá con người, mất thời gian và ít chính xác lắm, mà chỉ cần nhìn họ khi “đụng” tới lợi ích. Sẽ nhận ra được bản chất. Chung sống công bằng chưa bao giờ là hiện thực. Mãi mãi chỉ là ước mơ, chỉ tồn tại như một thứ thi ca, bức tranh lãng mạn, ảo vọng, an ủi trần thế. 

Theo thời gian, trải qua thêm nhiều thế kỷ, con người tiếp tục thông minh hơn, xuất sắc hơn. Chao ôi, từ vượn thành người, khi khôn lanh ra thì sinh bội bạc ngay, phản trắc lại chốn sinh dưỡng mình: Trái đất. Chúng ta đang sống theo kiểu cố tình “quên” có một tổ chức toàn cầu vì loài người gọi là Liên Hợp Quốc. Không thể để cho kẻ nào dù mạnh dữ và thâm độc đến mấy có thể làm suy yếu hay tan rã được Liên Hợp Quốc. Như một vị tổng thống đến từ Đông Âu đã nói: “Phẩm giá con người không thể chia cắt!”. Mà Liên Hợp Quốc là nơi bảo vệ điều cao cả đó, “mái nhà” đầu tiên của cả loài người, và chỉ có thể là nó.                      

Trước một loài người ngày càng mất phẩm chất nhân tính toàn diện và điên rồ đến độ này, nếu một ngày nào đó trao cho em sự lãnh đạo Liên Hợp Quốc chưa hẳn em sẽ mừng rỡ nhận làm. Đấy là gánh vác đó em! Bởi trái tim em phải yêu đủ muôn loài, thương Trái đất rất nhiều, lòng công tâm mênh mông và tích hợp trong tim óc đủ loại tri thức cùng trí huệ sáng ngời trong một bản lĩnh phi phàm. Phải từng phút giây đều đặt con người trong mối tương quan công bằng với các loài nơi mặt đất mới thấy được giá trị của Trái đất, mới thấy được giá trị quý báu của con người, thì con người may ra mới khiêm nhường, sống ít ham cầu, bớt hung dữ, tham lam, mới có lòng biết ơn và biết mình “nhỏ bé” như các loài trước tạo hóa, vũ trụ. 

Anh yêu Liên Hợp Quốc bởi chỉ có nơi cuối cùng ấy mới “che chở” (dù chỉ bằng lời) cho cái xóm nhỏ bé heo hút này của mình. Còn em, em có quyền nhớ thương loài động vật nào thiện lành, hay nguyên thủ nào đức hạnh, phân biệt được phù thủy với quái vật đội lốt. Còn nghị luận được là còn chưa tuyệt vọng, nhưng thành thật tử tế với Trái đất thì mãi mãi sẽ không bao giờ có khi mà con người vẫn là “chủ soái” duy nhất, thống trị hành tinh này.

*

“Liên Hợp Quốc ở đâu khi xung đột lan rộng, khi hành tinh chúng ta đang bị đốt cháy, khi nhân quyền bị chà đạp?” - một trong những lời của Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, bà Annalena Baerbock trong bài phát biểu đầu tiên trên cương vị chủ tịch ở khóa họp lần này có làm ai suy tư không em? Và giữa một đống lịch sử bầy nhầy của nhân loại đang như thế này anh nhớ lại lời thiết tha sâu nặng vào giữa thế kỷ mờ xa trước của một nhân lành người Thụy Điển, Dag Hammarskjold, Tổng Thư ký thứ II của Liên Hợp Quốc: “Liên Hợp Quốc được tạo ra không phải để đưa nhân loại lên thiên đường mà để cứu nhân loại khỏi địa ngục”. 

Nay thì cửa địa ngục mở ra ngày càng rộng hơn, và có vẻ đã sẵn sàng. 

Nhưng hiền nhân khuất bóng lâu rồi ấy thì không thể tái sinh... 

Nguyễn Hàng Tình

Thứ Hai, 3 tháng 11, 2025

CHỮ VÀ NGƯỜI 400 NĂM

 

Nhà thơ Hoàng Hưng nói: ở VN có không ít trí thức nổi tiếng còn nhầm lẫn Alexandre de Rhodes chính là Bá Đa Lộc, người sinh sau Alexandre de Rhodes những 150 năm. Đó là chưa kể khi Đà Nẵng muốn đặt tên đường Alexandre de Rhodes để tôn vinh người tạo nên chữ Việt- quốc ngữ có nhiều nhà văn hoá, tiến sĩ viết thư phản đối vì coi ông là người “lính thực dân”.
Đạo diễn Trần Văn Thuỷ kể rằng, một tay bia rượu khi say, tè trên đê sông Hồng đã phát hiện ra tấm bia đá từng đặt ở đền Bà Kiệu, Bờ Hồ tôn vinh Alexandre de Rhodes. Còn tại tp HCM người ta đã gỡ bảng tên đường Alexandre de Rhodes nhưng rất may chính thủ tướng Võ Văn Kiệt đã yêu cầu gắn lại tên đường như hiện nay.
Đặc biệt, tháng 11 năm 2018 hơn 20 nhân sĩ trí thức người Việt đã đến mộ Alexandre de Rhodes tại Iran đặt tấm bia đá viết chữ Việt, tưởng nhớ và tôn vinh ông. Trong đoàn nhân sĩ trí thức ấy có nhà văn Hoàng Minh Tường.
Một ý tưởng thôi thúc nhà văn, tại sao lại không viết một cuốn tiểu thuyết về lịch sử ra đời chữ quốc ngữ- chữ Việt để tỏ lòng biết ơn những ai đã tạo nên chữ quốc ngữ- chữ Việt này?
Sáng 1.11 Sài Gòn mưa như chưa bao giờ được…mưa. Khắp các ngả đường úng ngập. Hoàng Minh Tường bồn chồn ngó mưa, không hiểu có khấn vái cầu mong cha Francisco de
Pina và cha Alexandre de Rhodes phù hộ gì không để buổi chiều ra mắt sách “Chữ và người 400 năm”của mình viết về cha Pina và cha Rhodes trời ráo tạnh.
Trời ráo tạnh thật. Nhưng tại sao lại có chuyện cầu xin cha Pina bên cạnh cha Rhodes? Vậy cha Pina là ai?
Gã kể: ngày 4.7.2018 tại Lisbon có cuộc hội thảo về vai trò của cha Francisco de Pina cùng
các giáo sĩ Bồ Đào Nha với văn hoá Việt Nam, nhà thơ Hoàng Hưng và gã từ VN xa xôi tự đến dự. Tại hội thảo gồm các nhà nghiên cứu văn hoá, lịch sử, công giáo Bồ Đào Nha ấy gã phát biểu: ở VN hầu như bạn trẻ nào cũng biết cầu thủ Ronaldo nhưng cũng hầu như không bạn trẻ nào biết cha Pina. Tôi chỉ có quyền thay mặt tôi xin lỗi đến đất nước Bồ Đào Nha nơi đã sinh ra cha Pina người có công đầu tiên và lớn nhất tạo nên chữ Việt để cha tôi viết nên câu thơ thật đẹp về mùa thu:
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
Để nhạc sĩ Phạm Duy hát lên bản giao hưởng tiếng Việt: Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi!
Thế rồi gã kể tiếp: trong thư viện Lisbon có một cuốn sách cổ mới chỉ có 9 người VN đọc. Đó là bút tích của cha Pina phiên âm tiếng Việt qua chữ La tinh có đầy đủ các dấu. Các chữ Việt ấy được chép trên các khuôn nhạc. Chưa có ngôn ngữ nào trên thế giới được coi như âm nhạc như vậy. Vâng, cha Pina giáo sĩ đến VN năm 1617 chính là người đầu tiên và có công lớn nhất tạo nên chữ Việt ấy.
Nhà văn Hoàng Minh Tường sau cuộc viếng mộ Alexandre de Rhodes đã bỏ ra 6 năm trời tìm hiểu, sưu tập tư liệu lịch sử chứng minh sự hình thành chữ Việt ở thế kỷ 17 như thế nào. Ông đã kỳ công lần theo dấu tích của các giáo sĩ Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha đến Đàng Trong và Đàng Ngoài để chứng minh sự thật lịch sử về vai trò của cha Pina và cha Rhodes sáng tạo nên chữ Việt.
Hoàng Minh Tường bằng tài năm và lòng tri ân của mình, trong tiểu thuyết 400 trang, lần đầu tiên đã khắc hoạ cả một không gian, một thời đại sinh động, bi hùng của người Việt cùng các giáo sĩ Francisco de Pina và Alexandre de Rhodes tạo nên chữ Việt như thế nào.
Tri ân và biết ơn là phẩm chất rất quý của người Việt. Chúng ta đã đem lại sự công bằng khi tôn vinh cha Alexandre de Rhodes. Hy vọng với những gì nhà văn Hoàng Minh Tường được sự đồng hành của Nxb Phụ nữ và Thái Hà book cùng sự cổ vũ của giới nghiên cứu ngôn ngữ, lịch sử văn hoá dân tộc, đã đến lúc dù quá muộn chúng ta công bằng và biết ơn, tri ân người có công đầu tạo nên chữ quốc ngữ- chữ Việt đó là cha Francisco de Pina mà ngày 15.12 sắp tới tròn đúng 400 năm ngày ngài đã mất do bị bão biển tại Quảng Nam.
Gã xin ghi lại một số cảm tưởng của người đọc sách.
Nguyễn Thuỳ Linh một bạn trẻ tham dự buổi ra mắt sách:
Dù máu các cha và các con chiên đi theo tiếng gọi của Đức Tin đã đổ, nhưng tiếng Việt được khắc họa bằng kí tự Latin vẫn còn, và cuốn kinh đầu tiên vẫn còn, với sự thật như sau:
Cha Pina là người đặt nền móng cho chữ Quốc ngữ và phương pháp ghi âm tiếng Việt bằng ký tự Latin. Cha Alexandre de Rhodes thừa nhận đã học tiếng Việt và cách ghi âm từ Cha Pina.
Dù ai đó có những nhận định khác biệt, theo nhiều góc nhìn khác biệt, tôi nghĩ lòng biết ơn dành cho các cha nên là điều bất cứ ai sử dụng chữ Việt hiện nay nên có. Nhân ngày Lễ Các Thánh, xin kính dâng lời tri ân sâu sắc đến Cha Francisco de Pina – người đã gieo hạt chữ đầu tiên để tiếng Việt được đặt để trong khuôn vàng thước ngọc, và Cha Alexandre de Rhodes – người đã vun đắp, hệ thống hóa để chữ Quốc ngữ lan tỏa. Nguyện xin các ngài được hưởng vinh quang nơi Thiên Chúa, và công lao của các ngài mãi được ghi nhớ trong tâm hồn người Việt.”
Nhà văn Dạ Ngân:
Đường Sách SG như được trời đất tri ân, sáng mưa nhưng xế chiều bỗng ráo đẹp, rất đẹp (và khi buổi toạ đàm kết thúc thì lại mưa). Có lẽ chưa khi nào cử toạ đông đủ và trang trọng suốt buổi như vậy. Dường như không thiếu ai, những anh tài, những fbker nổi tiếng, nhà văn nhà thơ dịch giả, những biên tập và nhà làm sách cùng rất nhiều sinh viên.
Cũng phải thôi. Đến để nghe cội nguồn mẫu tự latin có tự khi nào và có nhờ ai từ 400 năm trước, để tự mình điều chỉnh suy nghĩ có thể bị lệch do định kiến do cứ sử phiến diện và cứng nhắc, hoặc chỉ để lắng nghe cảm xúc ngân nga trong lòng câu hát của một nhạc sĩ tài danh - một nhà văn hoá của VN ta, rằng "Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời người ơi".
Xin được nói lời cảm ơn với Hoàng Minh Tường trong nghĩa cử tri ân này với Người xưa và với Tiếng Việt. Thật bất ngờ anh Tường à, anh đã làm một việc lớn, rất lớn cùng sự đồng hành của GS khả kính Nguyễn Đăng Hưng, nhà báo Lưu Trọng Văn, nhà thơ Hoàng Hưng và nhiều anh chị em người Việt ta trong hành trình đi tận nơi để tri ân bên mộ phần và cố quốc của những Cố đạo đã mang Đức tin đến, ở lại và làm ra những viên gạch đầu tiên cho con đường latin hoá tiếng Việt của chúng ta.
Nhà văn Nguyễn Quang Lập:
CHỮ VÀ NGƯỜI 400 NĂM…một cuốn sách thú vị, nhiều sử liệu quí, nhiều chương, nhiều trang thật hay. Qua đây tôi mới biết cha đẻ chữ quốc ngữ là Gm De Pina chứ không phải Gm d Rhodes, Gm de Rhodes có công trong việc bổ túc, hoàn chỉnh và truyền bá chữ quốc ngữ . Tuy vậy tôi vẫn tiếc phần công lao của de Rhodes được viết hơi ít, chỉ chú trọng trong truyền giao chứ không viết nhiều về việc bổ túc, hoàn chỉnh và truyền bá chữ quốc ngữ, đặc biệt việc phát triển từ từ điển Việt- Bồ sang đến từ điển Việt- Bồ- La. Dù vậy cũng quí hoá lắm rồi. Theo tôi đây là một trong những tiểu thuyết lịch sử đáng đọc nhất của văn học Việt.
Tiến sĩ vật lý Nguyễn Thế Hùng:
Một tráng ca lịch sử thấm đẫm xúc cảm. Nhà văn đã tái hiện một giai đoạn lịch sử- văn hoá cực kì quan trọng của đất nước, nhắc ta nhớ tới những ân nhân của chữ nghĩa mà 400 năm qua tưởng như đã bị lãng quên.



Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2025

Dặm dài ký ức: Lần tìm dấu xưa Trần Trung Hí Viện

 Những năm 1980, trong những lần đi công tác ở Thủ Dầu Một, buổi chiều tôi chạy xe quanh chợ Thủ và một lần đã bất ngờ khi nhìn thấy cái rạp hát xây theo kiểu Tây trên đường Hai Bà Trưng. Nó cũ kỹ, rêu phong nhưng thật sự có vẻ đẹp riêng của một phế tích không chống chọi nổi với thời gian và thiếu sự chăm sóc.

    Trong thời gian đầy khó khăn đó, hầu hết nhà cửa đều xơ xác nên dáng vẻ tiêu điều của rạp hát này không làm cho ai xốn mắt. Tuy nhiên, rạp Thanh Bình, tên của nó, mỗi tối vẫn sáng đèn diễn cải lương cho bà con xem với các đoàn cải lương như Sông Bé 1, Sông Bé 2. Nó vẫn tiếp tục hoạt động như lúc mới được chào đời từ năm 1930. Người dân Thủ Dầu Một vẫn gọi cái tên cũ là Trần Trung Hí Viện hoặc là “rạp hát Trần Trung”, “rạp hát của ông chủ Hiếu”, cho dù nó được đổi tên là rạp Thanh Bình từ năm 1954. 

    Ông chủ Hiếu thời cải lương thạnh trị

    “Ông chủ Hiếu” là tên người chủ xây rạp hát - Trần Trung Hiếu, còn được gọi là ông Hương chủ Hiếu, xuất thân từ danh gia vọng tộc bậc nhất vùng đất Bình Dương trù phú và hiền hòa này. 

    Theo cuốn Gia phả dòng họ Trần Thủ Dầu Một do bà Nguyễn Thị Minh Phượng là con cháu trong họ biên soạn năm 2018, ông Trần Trung Hiếu (1876 - 1944) lúc sinh tiền cai quản những trại cưa gỗ ven đường Nguyễn Tri Phương do cha là ông Trần Văn Long truyền lại.

    Ông Hiếu có bốn người con trai du học bên Pháp, trong đó ba người là bác sĩ và một là dược sĩ. Họ là những người Việt tốt nghiệp ngành y dược tại Pháp đầu tiên của tỉnh Thủ Dầu Một.

    Sau, ông Hiếu chuyển sang làm thầu xây dựng (thầu khoán). Ông có nhiều đóng góp trong giai đoạn phát triển của vùng đất Thủ Dầu Một thời gian 1920 - 1940 với các công trình kiến trúc bề thế như rạp hát Trần Trung, những dãy nhà cổ trên đường Bạch Đằng, Nguyễn Thái Học, Hai Bà Trưng… 

    Góc trái của rạp. Bộ ảnh do Ngô Kế Tựu chụp khoảng năm 2012. Một thời gian ngắn sau đó, rạp đã bị đập ra xây lại.


    Khi nhắc đến ông, nhiều người còn nhớ con rạch mang tên Hương chủ Hiếu. Thời Pháp thuộc, căn phố đầu của dãy phố cổ nhất chợ Thủ nằm trên đường Bạch Đằng và đường Điểu Ông có nóc nhà màu đỏ của bà Phạm Thị Lý do ông cho xây lại thành căn phố hai tầng, có ban công ngó ra sông Sài Gòn tại chỗ bãi tắm ngựa. Ông còn là “ông chú” của nha sĩ Trần Công Vàng học tại Pháp về (chủ ngôi nhà cổ tuyệt đẹp Trần Công Vàng đến nay đang được con cháu sử dụng và bảo tồn). 

    Ông Hiếu xây rạp hát ở cuối thời kỳ thịnh vượng nhất thời thuộc địa, trước khi khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra. Giống như nhiều biệt thự thời đó, rạp hát của ông ảnh hưởng kiểu cách kiến trúc Pháp. Rạp do kiến trúc sư người Pháp vẽ kiểu, xây xong có tên là Trần Trung Hí Viện. Vẻ đẹp của rạp nằm ở các chi tiết trang trí, ô gió, chạm trổ, đắp nổi ở mặt tiền. Nóc rạp nhô cao chính giữa, phía dưới có hàng chữ “Thủ Dầu Một” nằm trên cây đàn lyre, biểu tượng cho nghệ thuật phương Tây. Hai pho tượng thiếu nữ bằng xi măng ngồi ở hai góc cột trang trí trên nóc đang đánh đàn (có người cho là hình tượng hai cô gái phương Tây ôm đàn luth và đàn harpe). Bước qua bậc tam cấp đi qua hành lang là tới phòng bán vé ở hai bên. Trên tường treo các bức ảnh của nghệ sĩ, các tấm áp phích giới thiệu phim với nhiều tranh ảnh tài tử hấp dẫn trong phim. Cầu thang dẫn lên lầu nằm phía bên trái cửa chính.

    Hai pho tượng thiếu nữ ngồi đánh đàn trên nóc rạp. Cuốn Buồn vui đời nghệ sĩ của soạn giả Nguyễn Phương có nhắc đến một chuyện ly kỳ ma quái liên quan đến hai pho tượng ở đây khi đoàn Việt kịch Năm Châu về diễn vở Tây Thi gái nước Việt ở rạp này năm 1952.


    Rạp hát ra đời đúng thời thạnh trị của sân khấu cải lương. Năm 1931, đoàn cải lương Phước Cương của ông bầu Cương cùng các ngôi sao Năm Phỉ, Bảy Nhiêu sang biểu diễn nhiều tháng ở Pháp và thành công rực rỡ, sau đó ra diễn ở Hà Nội và các tỉnh cũng được hoan nghênh. Cả nước đều mê say xem cải lương. Là người kinh doanh nhạy bén, ông Trần Trung Hiếu nắm bắt cơ hội đó. Rạp hát của “ông chủ Hiếu” ra đời chuyên hát cải lương là niềm vui của người dân Thủ Dầu Một và các vùng lân cận. Từ nay họ không cần phải đi ghe hay đi xe điện về Sài Gòn coi cải lương nữa.

    Chiến tranh chống Pháp nổi lên khắp nơi từ 1945 - 1954 ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của rạp hát. Năm 1949, một sự kiện bi thảm đã xảy ra ở đây. Một hôm, nhiều người tụ tập tại dãy nhà bên hông sân khấu để đánh bài. Khi họ đang chơi thì có một người vào xin tiền. Người này bị đuổi ra, tức giận nên đi báo cho lính Pháp là Việt Minh tụ tập tại rạp. Hai lính Tây cầm súng đi tới, bắn xối xả vào đám người. Mấy chục người bị bắn chết, chỉ một may mắn sống sót. Câu chuyện kinh hoàng đó gây dấu ấn sâu đậm trong trí nhớ của người lớn tuổi vùng này (theo tác giả Hoàng Anh).

    Nóc rạp nhô cao chính giữa, phía dưới có hàng chữ “Thủ Dầu Một” nằm trên cây đàn lyre, biểu tượng cho nghệ thuật phương Tây.


    Rạp vẫn tiếp tục hoạt động khi ổn định trở lại. Bài viết Trần Trung Hí Viện, thanh bình thuở xưa của ông Lâm Quang Khải, cư dân cố cựu ở Thủ Dầu Một nhắc đến không khí rạp hát này qua câu chuyện của người chị: “… lúc mình học lớp Nhất trường Nguyễn Trãi 1952 - 1953 đã được má mình dẫn đi xem cải lương, có khi được bà Tám chủ rạp dẫn theo cho ngồi buồng dành riêng cho chủ rạp đó. Từ lúc ấy chị Bê đã biết “Lã Bố hí Điêu Thuyền”, biết kép hát Duy Lân, bà Phùng Há, Bích Thuận, Kim Lan, Kim Cúc... Nhớ trận bão lụt năm Thìn 1952 ở Thủ Dầu Một, trường Nguyễn Trãi có làm văn nghệ bán vé giúp bão lụt, chị có được lên sân khấu lần đầu tiên trong đời trong bài hợp xướng...”. 

    Sau năm 1954, phim ảnh Pháp và Ấn Độ là trào lưu, chủ rạp không đứng ngoài cuộc. Có thể từ lúc đó, rạp đã được cho thuê để khai thác bằng cách cho chiếu phim sau khi ông chủ Hiếu mất từ hơn mười năm trước. Rạp đổi tên thành rạp Thanh Bình. Tác giả Gia phả mô tả: “Mấy cô đào Ấn và nam tài tử Ấn thường mở màn và đóng màn bằng những pha vừa nhảy múa uốn éo vặn vẹo thân mình, vừa tay chân múa may đẩy đưa bên nhau và lả lơi liếc mắt cười tình với nhau, vừa hát... in ni ca ni ca ni ca... Con nít vừa biết đọc chữ, chưa đọc được hàng phụ đề, không hiểu gì hết thì phim chiếu sáng một cảnh khác, vậy mà cũng thích đi xem phim”. 

    Góc phải mặt tiền.


    Khoảng năm 1970 (có thông tin cho là khoảng 1967 - 1968), một rạp hát khác tên Bình Minh của gia đình ông Thái (cũng là người thuê rạp Thanh Bình) khai trương, nằm trên quốc lộ 13 cũ, chuyên chiếu phim Tây và Đài Loan. Từ đó rạp Thanh Bình quay trở lại hướng ban đầu là cho các đoàn cải lương biểu diễn. “Mỗi khi có một đoàn cải lương hoặc đại nhạc hội về Thủ trình diễn, khu vực rạp hát và thành phố sinh động và nhộn nhịp hẳn lên. Có lúc xe lam, có lúc một xe hơi nhỏ phóng loa chạy vòng vòng thành phố quảng cáo gánh hát hoặc đại nhạc hội về. Có lúc họ còn phát tờ bướm quảng cáo cho biết ai sẽ diễn và diễn mấy giờ vào ngày nào. Có lúc “đắt sô” rạp có hai suất, buổi trưa và buổi chiều tối cùng ngày”.

    Bà Nguyễn Thị Minh Phượng mô tả không khí chung quanh rạp: “… các con đường dẫn đến rạp hát có xe sinh tố góc đường trước tiệm may đồ tây và vắt sổ, xe nước đá bào đậu đỏ bánh lọt, xe bán bò vò viên bên kia đường trước nhà thầy giáo Minh nhìn thẳng vào rạp hát. Những sạp nhỏ bán bánh củ cải, mì xào, hủ tiếu xào... toàn những thứ đồ ăn vặt của vợ chú Gấu trước tiệm sửa xe Honda... Đi xem cải lương xong, thấy đói thì đi thẳng đến chợ trên đường Đoàn Trần Nghiệp, trước tiệm vàng Nhựt Hưng có xe hủ tiếu mì hoành thánh và một xe bán bánh mì, hoặc có khi là quầy bán khô mực nướng…”.

    Ký ức của cô bé Lành con bà soát vé

    Bà Cao Thị Lành năm nay 70 tuổi, có mẹ làm nhân viên gác cửa, xé vé rạp hát nên từ 9, 10 tuổi đã đi theo mẹ quét rạp và phụ lặt vặt. Bà gắn bó với rạp hát từ năm 1965 đến 1983, sau lớn lên tiếp tục buôn bán quanh đó nên còn nhớ nhiều về những ngày bên rạp hát. Nhớ nhất là tấm bảng “Trần Trung Hí Viện” trên cao và bức tượng hai cô ngồi hai bên ôm đàn. 

    Bây giờ hồi tưởng lại, ấn tượng sâu đậm trong đầu bà Lành chính là hình ảnh các nghệ sĩ lui tới diễn tại rạp suốt những năm trước và sau 1975. Lành say mê ngắm nhìn các cô đào đẹp lộng lẫy, các anh kép oai phong trong vai tướng quân, dũng sĩ hay hào hoa lịch lãm trong các tuồng xã hội trên sân khấu rồi so sánh khi họ bỏ lớp trang điểm và trang phục diễn. 

    Mặt tiền Trần Trung Hí Viện. Ảnh theo bài Trần Trung Hí Viện, thanh bình thuở xưa của ông Lâm Quang Khải.


    Bà nhớ cô Thanh Nga nhỏ nhắn, tóc dài đi xe hơi chung với mẹ là bà Bầu Thơ lên diễn xong rồi về. Cô Mỹ Châu hát xong cũng về bằng xe hơi, khi nào có mẹ đi cùng mới ở lại qua đêm. Cô Lệ Thủy ở đoàn Kim Chung 5, lúc đó chưa nổi tiếng, đi xe đò từ Sài Gòn đến bến xe Phú Cường ở Thủ Dầu Một, rồi đi xe ngựa đến rạp. Kép Thanh Sang đang có người vợ đầu là cô đào Diệp Tuyết Anh tuy đã nổi tiếng nhưng thường ở lại chứ không về Sài Gòn, ăn cơm hội với đoàn cùng nghệ sĩ Diệp Lang. Hai nghệ sĩ Hùng Cường và Thành Được đẹp trai, hát hay ai cũng mê. Thành Được mũi cao, đi hát bằng xe hơi, bận pa-đờ-suy bước xuống xe là dân quanh đó bu lại nhìn mê mẩn. Kép Dũng Thanh Lâm cũng đẹp và cao lớn. Nghệ sĩ Minh Cảnh rất được ái mộ, thường hát tuồng kiếm hiệp có cảnh bay trên sân khấu. Đoàn Dạ Lý Hương với Hùng Cường - Bạch Tuyết rất thu hút khán giả. 

    Thời đó, khi diễn phải mắc micro trên sân khấu thành ba hàng chạy qua chạy lại, mỗi hàng có người kéo đến chỗ nghệ sĩ, kéo rất nhanh và rất khớp. Bàn thờ tổ đặt bên trong do đoàn mang đến đặt phía hậu trường. Mỗi nghệ sĩ khi ra hát phải vái bàn thờ tổ.  

    Dấu vết rêu phong và vẻ đẹp riêng của một phế tích không chống chọi nổi với thời gian và thiếu sự chăm sóc.


    Khoảng năm 1965, Đoàn Kim Chung với Minh Phụng, Minh Vương, Lệ Thủy, Kiều Tiên… chở theo cả nồi niêu xoong chảo, phông màn cảnh trí đến từ 4 giờ sáng để chuẩn bị diễn tối. Diễn xong, các đào kép ở lại đi ăn khuya. Họ ra chợ Thủ Dầu Một, khu đèn Năm Ngọn ăn hủ tíu, uống sinh tố, cà phê. Ban ngày, nhiều đào kép đánh bài dưới hội trường. Tối ngủ dưới sân khấu, có cái hầm xuống khoảng chục bậc cấp, mỗi gia đình một ô giăng màn che chắn. Lúc ăn cơm thì đánh kẻng cho mọi người tụ về. Cơm do bốn bà nấu bếp đi chợ mua về nấu. Các bà này kiêm luôn việc giúp bận trang phục cho đào kép, được trả lương hằng tuần. Mâm cơm của các nghệ sĩ đơn giản, chủ yếu ba món mặn, xào và canh. Một số nghệ sĩ mang theo chén đũa cho riêng mình, ăn xong tự rửa rồi cất, không dùng chung...

    Năm Mậu Thân 1968, đoàn Minh Cảnh mới hát ngày mùng một thì chiến sự nổi lên. Dân chúng ở miệt Chánh Nghĩa (khu lò chén) chạy bom đạn đến ở đầy kín rạp hát, chung chỗ với các nghệ sĩ. Họ được các nghệ sĩ hát cho nghe miễn phí. Ai cũng nói mình may mắn.

    Khi đoàn hát về diễn, luôn có chuyện một vài nam nữ trong vùng mê hát, bỏ đi theo đoàn. Khi thấy con cái bỗng dưng mất tích, cha mẹ biết ngay là có đoàn hát vừa rời rạp đi diễn nơi khác. Họ truy tìm, hỏi han xem đoàn hát đi đâu để tìm con mình về. Thời đó, có đoàn Sao Ngàn Phương về diễn rất đắt khách, dựng sân khấu kéo dài ra tận ghế khán giả để múa nên ai cũng mê. Một bà bị mất con, biết đoàn đang ở Vũng Tàu nên ra đó tìm. Đến nơi, bà thấy con đang đi mua… chai nước mắm cho đoàn bèn lôi ngay về. Có một số thanh niên trốn quân dịch đến xin các đoàn đang diễn vào đóng vai phụ, như quân sĩ. Họ được chấp nhận nếu biết ca vài câu vọng cổ, không biết ca thì làm soát vé.

    Người phụ nữ bán vé số mỗi ngày đi qua đây.


    Bên hông rạp, ông Tư Mạnh là người quản lý có nuôi một con nai lông vàng. Nai dạn người, ai cũng vuốt ve được. Con nai hiền lành đó trở thành ký ức đáng nhớ khi hồi tưởng về rạp hát này, nhất là ở các chú bé thời đó nay đang tuổi bảy mươi. 

    Sau năm 1975, các đoàn tiếp tục diễn ở đó là đoàn Sông Bé 1, Sông Bé 2, Sông Bé 3 (từ đoàn Dạ Lý Hương tách ra). Lúc đó, nghệ sĩ Vũ Linh hát cho đoàn cải lương Sông Bé 1 chưa qua hát Hồ Quảng nên chưa nổi tiếng. Cải lương Hồ Quảng có Thanh Bạch, Bạch Lê về diễn rất được ái mộ. Sau 1975, rạp xuống cấp dần. Trên la-phông có nhiều dơi cư ngụ. Người đi xem hát phải mang tấm nylon theo để ngồi vì sợ rệp cắn.

    Cách nay hơn chục năm rạp hát bị dỡ bỏ, trở thành Trung tâm Văn hóa cộng đồng phường Phú Cường. Hai bức tượng bên trên đưa đi đâu không rõ. Trần Trung Hí Viện - rạp hát Thanh Bình, sân khấu cải lương rực rỡ một thời đã kết thúc sau hơn 70 năm tồn tại, chứng kiến những đổi thay thăng trầm của Thủ Dầu Một. Không biết các nghệ sĩ từng diễn ở đó có còn nhớ Hí Viện Trần Trung? 

    Bài: Phạm Công Luận - Ảnh: Ngô Kế Tựu