Thứ Tư, 30 tháng 4, 2025

Trận đánh golf rượt đuổi, chuyến về Việt Nam của ông Nguyễn Cao Kỳ và hải trình đặc biệt chưa từng có ra Trường Sa

 

img

Sau chiến tranh, Tổng Bí thư Lê Duẩn từng đặt ra câu hỏi: Điều gì là khó nhất?

Có người trả lời, điều khó nhất sau chiến tranh là đất nước bị tàn phá, có người nói là bao vây cấm vận, nhưng Tổng Bí thư Lê Duẩn cho rằng đó chính là hố sâu ngăn cách trong một dân tộc - ông Nguyễn Phú Bình, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài nhớ lại.

Năm 1986, chúng ta đứng trước quyết định đổi mới, mở cửa và thay đổi đầu tiên là thay đổi cục diện của đất nước. Lúc đó, một vấn đề đặt ra là phải bình thường hóa quan hệ với các nước. Điều này lại liên quan đến bộ phận người Việt Nam ở các quốc gia có đông người Việt Nam sinh sống, dẫn đến yêu cầu phải đổi mới công tác người Việt Nam ở nước ngoài.

Từ năm 1998, việc xây dựng Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài bắt đầu được thực hiện. “Giai đoạn xây dựng Nghị quyết, ông Nguyễn Dy Niên là Chủ nhiệm, tôi làm phó, có trách nhiệm đi khảo sát và báo cáo lại. Được đến đâu báo cáo Bộ trưởng, báo cáo Ban Bí thư đến đấy. Khi có dự thảo văn bản, ông Vũ Khoan chữa từng chữ cho đến dấu chấm, dấu phẩy”, ông Bình kể lại.

Đến năm 2004 thì lấy ý kiến các bộ, ngành và chính thức ban hành ngày 26/3/2004.

Đây được xem là dấu mốc rất quan trọng trong công tác hòa hợp dân tộc. Trong đó, quan trọng nhất, Nghị quyết khẳng định người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời, là nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước, nhân tố quan trọng để phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và các nước.

Trận đánh golf rượt đuổi, chuyến về Việt Nam của ông Nguyễn Cao Kỳ và hải trình đặc biệt chưa từng có ra Trường Sa - Ảnh 1.

Ngay sau khi Nghị quyết 36 ra đời, công tác hòa hợp dân tộc đã có những bước đột phá.

Khoảng những năm 2000, Ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài bắt đầu thúc đẩy cho việc chuyển nghĩa trang quân đội Biên Hòa dành cho binh lính, sĩ quan chế độ cũ thành nghĩa trang dân sự.

Kể từ sau ngày 30/4/1975, nghĩa trang quân đội Biên Hòa được giao cho Quân khu 7 thuộc Bộ Quốc phòng quản lý. Người nhà của họ muốn vào thờ cúng, thắp hương nhưng không được chính danh, ông Bình cho hay.

Thời điểm đó, đề xuất này vấp phải không ít kiến trái chiều. “Tôi phải trực tiếp bay vào làm việc nhiều lần, sự việc nhiều khi tưởng bế tắc cho đến khi có chủ trương từ chính Thủ tướng Phan Văn Khải”, ông Bình nhớ lại.

Đến tháng 11/2006, Quyết định số 1568/QĐ - TTg được ban hành, chính thức chuyển khu nghĩa trang sang sử dụng vào mục đích dân sự. Quyết định “dân sự hóa” nghĩa trang Biên Hòa được xem như một trong những bước đi có ý nghĩa trong việc hòa hợp dân tộc.

Trận đánh golf rượt đuổi, chuyến về Việt Nam của ông Nguyễn Cao Kỳ và hải trình đặc biệt chưa từng có ra Trường Sa - Ảnh 2.

Đất nước mình có cái khó, trong một gia đình có khi có cả người theo quân giải phóng, có cả người ở lại bị bắt đi lính. Những việc nhỏ thế này nếu bỏ qua sẽ khiến cho hố sâu ngăn cách thêm kéo dài, ông Bình kể lại, nhắc về nỗ lực của tập thể Ủy ban thời điểm đó.

Nghị quyết 36 ra đời đánh dấu một bước chuyển trong công tác người Việt Nam ở nước ngoài và được đánh dấu bằng một sự kiện gây được nhiều tiếng vang thời điểm đó: mời ông Nguyễn Cao Kỳ, cựu Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa về nước.

Trận đánh golf rượt đuổi, chuyến về Việt Nam của ông Nguyễn Cao Kỳ và hải trình đặc biệt chưa từng có ra Trường Sa - Ảnh 3.

Tháng 4/2001, ông Nguyễn Mạnh Hùng nhận nhiệm vụ Tổng Lãnh sự Việt Nam tại San Francisco, Mỹ. Ngay từ khi nhận nhiệm vụ, ông Hùng đã coi công tác hòa hợp dân tộc là nhiệm vụ quan trọng nhất của mình.

Trên cả nước, nhất là ở miền Nam biết bao gia đình tan nát, người thân ly tán... rất nhiều gia đình xảy ra cảnh có người trong gia đình tham gia cách mạng, nhưng người khác lại đứng trong hàng ngũ chính quyền Sài Gòn… Do đó, sau chiến tranh bên cạnh nhiệm vụ hàn gắn vết thương chiến tranh thì công tác thực hiện hòa hợp dân tộc là cấp bách và rất quan trọng, nguyên Tổng Lãnh sự Việt Nam tại San Francisco nói.

Trong chuyến thăm đầu tiên đến quận Cam ở Nam California, ông Hùng đã đến thăm nhạc sĩ Phạm Duy tại nhà riêng và một số trí thức Việt kiều khác.

“Ông Phạm Duy tiếp đãi tôi niềm nở, tặng tôi nhiều băng đĩa nhạc của ông và kể rằng gia đình ông là những người duy nhất ở hải ngoại lúc đó sinh sống được bằng nghề ca hát”, ông Hùng kể lại.

Sau chuyến đi đó, ông Hùng kiến nghị với lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta cho ông Phạm Duy về thăm Việt Nam.

Ông Phạm Duy không phải là chính khách của chế độ Sài Gòn, nhưng ông là nhạc sĩ lớn, có ảnh hưởng lớn trong giới văn nghệ sỹ ở miền Nam trước năm 1975. Đồng thời, gia đình, họ hàng ông Phạm Duy cũng có nhiều người nổi tiếng trong giới văn nghệ sĩ ở Sài Gòn trước năm 1975.

“Lúc đó tôi cân nhắc và cho rằng nếu nhạc sĩ Phạm Duy về nước thì sẽ là minh chứng cho thấy Nhà nước ta thực sự muốn khép lại quá khứ, thực hiện hòa hợp, hòa giải dân tộc và điều đó sẽ có ý nghĩa lớn đối với cả đồng bào miền Nam cũng như cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài”, ông Nguyễn Mạnh Hùng cho hay.

Thực tế sau này chứng minh đúng như vậy. Việc ông Phạm Duy về nước và nhiều người trong gia đình ông hoạt động nghệ thuật ở Việt Nam đã mang lại kết quả tích cực.

Sau đó, vào khoảng năm 2004 - 2005, Tổng Lãnh sự quán Việt Nam ở San Francisco nhận được một số tín hiệu tích cực.

Qua theo dõi báo chí của cộng đồng người Việt tại bang California, ông Hùng nhận thấy ông Nguyễn Cao Kỳ có một số nhận định thức thời và phù hợp với thực tế.

“Ví dụ, có người hỏi ông ấy là tại sao không bao giờ tham gia vào các cuộc diễu binh của kỷ niệm ngày Quân lực Việt Nam Cộng hòa, ông ấy đã cười và trả lời rằng ngày trước có cả hơn triệu quân mà còn thua thì bây giờ diễu binh thì dọa được ai? Hay có lần ông ấy nói: ngẫm cho cùng thì mình cũng bị người Mỹ ấn súng vào tay mà đánh nhau với cộng sản thôi”, nguyên Tổng Lãnh sự Việt Nam tại San Francisco cho hay.

Từ khi còn ở Hà Nội, ông Hùng có quen và giữ liên lạc với một người Việt kiều tên là Tony Lê Đình, kinh doanh ở Chicago, nhân dịp ông về Việt Nam. Cuối năm 2003, vợ chồng ông Lê Đình mời vợ chồng ông Hùng đến Chicago chơi.

Trong câu chuyện, ông Đình có kể khi còn ở Sài Gòn đã là chỗ thân quen của ông Nguyễn Cao Kỳ. Lúc đó, ông Đình làm tại Bộ Ngoại giao của chính quyền Sài Gòn và đã có quyết định sang làm Tham tán công sứ của Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Washington D.C, nhưng ông chưa kịp đi thì ta thống nhất đất nước.

Ông Đình cũng hé lộ ý muốn về thăm Việt Nam của ông Kỳ. Ông Hùng liền đề nghị: “Thế thì anh nói với ông Kỳ rằng tôi mời vợ chồng ông ấy đến San Francisco chơi golf với tôi”.

Sau khi về lại San Francisco, ông Hùng báo cáo về “nhà” và được chấp thuận mời vợ chồng ông Kỳ đến San Francisco chơi golf.

Thông thường cuộc tiếp xúc đầu tiên dễ gượng gạo. Hiểu được điều này, ông Hùng chủ động lựa chọn hình thức là một buổi chơi golf nên việc giữ ý, gượng gạo qua đi rất nhanh và không khí trở nên thân mật, vui vẻ. Sau buổi chơi golf, ông Hùng và ông Nguyễn Cao Kỳ còn tiếp tục trò chuyện trong bữa trưa.

Trận đánh golf rượt đuổi, chuyến về Việt Nam của ông Nguyễn Cao Kỳ và hải trình đặc biệt chưa từng có ra Trường Sa - Ảnh 4.

Sau buổi chơi golf, ông Hùng và ông Nguyễn Cao Kỳ còn tiếp tục trò chuyện trong bữa trưa. Ảnh: NVCC

Ông Kỳ muốn nhận được một lời mời nhưng thời điểm đó, cơ quan trong nước không thể mời mà chỉ có thể cấp thị thực cho vợ chồng ông về thăm đất nước như mọi người Việt Nam ở nước ngoài khác.

Đầu năm 2004, ông Nguyễn Đình Bin, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài dẫn đầu đoàn đại biểu liên ngành thăm San Francisco. Nhân dịp này, Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại San Francisco đã tổ chức một buổi đánh golf nữa có sự tham gia của vợ chồng ông Nguyễn Cao Kỳ.

Theo đề nghị của bà Kim, vợ ông Kỳ, 4 người chia đội chơi cho vui và tăng tính cạnh tranh: vợ chồng ông Kỳ một đội, 2 nhà ngoại giao Việt Nam một đội. Trong 4 người thì bà Kim chơi giỏi nhất. Bà ghi được nhiều điểm và ông Kỳ nói đùa là số ông được nhờ vợ.

“Vợ chồng ông Kỳ luôn dẫn trước còn chúng tôi luôn ở thế rượt đuổi. Đến lỗ cuối cùng chúng tôi vẫn bị dẫn một lỗ. Cuối cùng, ông Bin đã gạt bóng (putt) từ xa vào lỗ. Thế là hòa. Tất cả đều vui vẻ”, ông Hùng tiết lộ.

Mặc dù khởi đầu thuận lợi, ông Hùng cho biết ông vẫn không khỏi lo lắng khi sắp xếp cho ông Nguyễn Cao Kỳ về nước. Đây là lần đầu tiên một lãnh đạo cấp cao của chế độ cũ về thăm đất nước, trong khi ông Kỳ xưa nay vốn rất nổi tiếng về những phát ngôn mạnh mẽ.

Nếu vì lý do nào đó mà Nhà nước ta hoặc ông Kỳ có phát ngôn nào đó gây hiểu nhầm thì ko tốt chút nào cho công tác hòa hợp và hòa giải dân tộc, ông Hùng chia sẻ.

Trận đánh golf rượt đuổi, chuyến về Việt Nam của ông Nguyễn Cao Kỳ và hải trình đặc biệt chưa từng có ra Trường Sa - Ảnh 5.

Do đó ngay trước khi ông Kỳ lên đường về Việt Nam, ông Hùng đã gọi điện cho ông Kỳ và nói đại ý: “Chuyến đi này của ông là rất quan trọng trong việc khép lại quá khứ, thực hiện hòa hợp, hòa giải dân tộc. Vì vậy rất mong ông giữ gìn, tránh các phát biểu có thể gây hiểu nhầm. Về phía tôi, tôi bảo đảm với ông rằng Nhà nước Việt Nam thực sự muốn hòa giải”.

Thực tế là chuyến thăm Việt Nam của ông Nguyễn Cao Kỳ đã diễn ra tốt đẹp. Ông Kỳ đã được ông Phạm Thế Duyệt, lúc đó là Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tiếp.

Sau chuyến thăm đó, ông Kỳ còn về thăm Việt Nam nhiều lần nữa.

Chuyến đi về Việt Nam của ông Nguyễn Cao Kỳ đã tạo được bầu không khí tích cực và có vai trò quan trọng trong việc cho thấy nghị quyết 36 đã thực sự đi vào đời sống, ông Bình cho hay.

Sau nhiều lần về Việt Nam, ông Kỳ cởi mở hơn.

“Về nước một thời gian, ông ấy nói với tôi rằng, xưng hô ông với tôi nghe xa lạ, ông ấy bắt chước ở trong nước, xưng hô là anh với tôi có được không? Từ đấy là chúng tôi xưng hô với nhau là anh - tôi. Ông ấy sinh năm 1930, còn tôi sinh năm 1948”, ông Bình kể lại.

Trận đánh golf rượt đuổi, chuyến về Việt Nam của ông Nguyễn Cao Kỳ và hải trình đặc biệt chưa từng có ra Trường Sa - Ảnh 6.

Năm 2005, khi ông Nguyễn Phú Bình có dịp sang bang Lousianna, Mỹ, một Việt kiều tên là Nguyễn Hải có mời ông đến nhà và nói sẽ dành cho ông một sự bất ngờ. Đến nhà, vừa đỗ xe, ông Hải hô to: “Ê Tướng râu kẽm! Ra đây có khách quý”.

Thế là ông Nguyễn Cao Kỳ mặc bộ pijama chạy ra, thốt lên: “Ủa, sao không thấy ông này nói gì cả”.

Ông Hải cười: “Vậy mới là bất ngờ!”

Trận đánh golf rượt đuổi, chuyến về Việt Nam của ông Nguyễn Cao Kỳ và hải trình đặc biệt chưa từng có ra Trường Sa - Ảnh 7.

Năm 2005, nhạc sĩ Phạm Duy đến gặp ông Nguyễn Phú Bình, bày tỏ nguyện vọng muốn ở lại Việt Nam. “Ông ấy chia sẻ là đã 80 tuổi, không muốn đi đi về về giữa Việt Nam và Mỹ nữa và còn ước vọng là hoàn thành một tác phẩm kể Truyện Kiều bằng âm nhạc”, ông Bình nhớ lại.

“Tất nhiên là tôi tán thành. Đất nước mình cởi mở, mở rộng cửa với tất cả người Việt Nam ở nước ngoài”, ông nói thêm.

Ngày 25/7/2005, ông Nguyễn Phú Bình tiếp nhạc sĩ Phạm Duy tại Hà Nội và thông báo Chính phủ Việt Nam cho phép nhạc sĩ Phạm Duy cùng các con về nước sinh sống và tham gia các sinh hoạt văn hoá, nghệ thuật. Các tác phẩm âm nhạc có nội dung tích cực của nhạc sĩ cũng được phép phổ biến ở trong nước.

Thời điểm đó, trả lời báo chí về sự trở về của mình, nhạc sĩ Phạm Duy nói: “Nếu tôi không về nước mà cứ sống như 30 năm nay ở nước ngoài thì tôi không phải là Phạm Duy nữa”.

Trận đánh golf rượt đuổi, chuyến về Việt Nam của ông Nguyễn Cao Kỳ và hải trình đặc biệt chưa từng có ra Trường Sa - Ảnh 8.

Năm 2014, Đại sứ Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài thực hiện 2 hành trình đặc biệt. Đó là hải trình ra Trường Sa với thành phần trong đoàn gồm nhiều thành phần chống đối dữ dội và đến thắp hương tại nghĩa trang Nhân dân Bình An ở thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, trước đó từng là nghĩa trang quân đội Biên Hòa thời chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

Lúc đó chúng ta đã giành được rất nhiều thắng lợi trên tất cả các mặt trận kinh tế chính trị văn hóa, giáo dục, xã hội, khẳng định vị thế của Việt Nam trên thế giới rồi. Nhưng thế lực chống đối ở bên ngoài hình thành từ cộng đồng người Việt ra đi sau năm 1975, chủ yếu là những người từng làm việc với chính quyền Sài Gòn trước đây, vẫn tung các thông tin không đúng sự thật, ông Sơn cho hay.

“Các thế lực bên ngoài tung tin Việt Nam dâng hết biển đảo, vậy ta cho họ ra để họ xem tận mắt chúng ta bảo vệ chủ quyền biển đảo như thế nào”, ông Sơn kể lại ý tưởng táo bạo của mình khi đó.

Hải trình Trường Sa cho các kiều bào ở nước ngoài thực tế đã được tổ chức lần đầu tiên vào năm 2012, chuyến đi từng được nói vui là đoàn “hợp chúng quốc ra Biển Đông”. Ngay sau chuyến đi này, hoạt động biểu tình chống đối các đoàn của chúng ta sang Mỹ đã giảm đi đáng kể.

Tuy nhiên, hải trình Trường Sa năm 2014 vẫn rất đáng nhớ bởi đây có thể được xem là hành trình có sự tham gia của nhiều thành phần chống đối gay gắt nhất từ trước đến nay. Một trong số đó là Nguyễn Ngọc Lập, cựu Thiếu úy thủy quân lục chiến thời Việt Nam Cộng hòa.

Trận đánh golf rượt đuổi, chuyến về Việt Nam của ông Nguyễn Cao Kỳ và hải trình đặc biệt chưa từng có ra Trường Sa - Ảnh 9.

Trước đó hai năm, tại Mỹ, chính ông Nguyễn Thanh Sơn đã có cuộc gặp “một đối một” với Nguyễn Ngọc Lập. “Tôi tiếp cận Nguyễn Ngọc Lập bằng cách rất đơn giản thôi, đó là tình người. Tôi gửi lời thăm anh ấy trước”, ông Sơn kể lại.

Ông Sơn hẹn gặp Nguyễn Ngọc Lập tại khách sạn. Đến khách sạn, Nguyễn Ngọc Lập còn mang theo một nhóm “đầu gấu” ở bên ngoài vì lo bị phục kích.

Trái ngược với nỗi lo ấy, ông Sơn tiếp đón Nguyễn Ngọc Lập với một thái độ cởi mở. Nguyễn Ngọc Lập cố ý để cho nhà ngoại giao Việt Nam thấy ông ta không mang theo bất kỳ vũ khí trên người. “Anh yên tâm. Tôi đến đây gặp anh cũng chỉ có tôi và ông Tổng Lãnh sự”, ông Sơn thẳng thắn.

Cuộc nói chuyện kéo dài 2 tiếng đồng hồ. Ông Sơn chia sẻ chân thành về tình hình quê hương, đất nước, những mong muốn của những người trong nước với cộng đồng hải ngoại.

“Anh với tôi gặp nhau là hai người Việt Nam nói với nhau bằng một thứ tiếng. Chúng tôi sang tận đây tiếp xúc các anh, mong muốn các anh hiểu rõ về đất nước. Chúng tôi thiện chí, chân thành, không có hận thù, kế thừa truyền thống của ông cha ta là cưu mang đùm bọc lẫn nhau”, ông Sơn nói.

Mặc dù có lo lắng, ông Sơn vẫn vững tin vào lòng chân thành của mình. “Tôi tin vào sự chân thành của mình. Nếu thuyết phục họ không nghe mình thì họ cũng không thể tấn công mình được”, ông Sơn cho hay.

Thực tế, Nguyễn Ngọc Lập đã xúc động trước sự chân thành, câu chuyện có những lúc như tâm sự.

Trận đánh golf rượt đuổi, chuyến về Việt Nam của ông Nguyễn Cao Kỳ và hải trình đặc biệt chưa từng có ra Trường Sa - Ảnh 10.

Ông Sơn có mang theo và tặng Nguyễn Ngọc Lập chiếc cà vạt lụa bằng lụa Hà Đông. “Tôi tặng chiếc cà vạt này để anh nhớ về quê hương đất nước, đây không phải là cà vạt Anh, Mỹ, đây là cà vạt lụa Hà Đông, anh là người miền Bắc, anh hãy nhớ về cội nguồn dân tộc”, vị nguyên Thứ trưởng nói với Nguyễn Ngọc Lập.

Nhận món quà từ ông Sơn, Nguyễn Ngọc Lập nói sẽ tặng chiếc cà vạt này cho con trai để nhớ đường về Tổ quốc.

Sau chuyến hải trình ra Trường Sa năm đó, ông Sơn còn một hoạt động đặc biệt nữa. Đó là đưa đoàn kiều bào ra thăm và thắp hương tại nghĩa trang Nhân dân Bình An ở thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, trước đây là nghĩa trang quân đội Biên Hòa thời Việt Nam Cộng hòa.

Thời điểm đó, các thế lực chống phá bên ngoài tuyên truyền rằng chính quyền đang có ý định san bằng nghĩa trang Bình An để làm đường giao thông. Trước những thông tin không đúng sự thật như vậy, ông Sơn nảy ra một kế hoạch mà thời điểm đó được xem là khá táo bạo.

“Tôi đưa họ đi thăm nghĩa trang Bình An. Trước đó, tôi đưa họ đến nghĩa trang liệt sĩ của chúng ta, thắp hương cho Bác Hồ, cho các bà mẹ Việt Nam, cho các liệt sĩ của chúng ta, để họ hiểu là không có câu chuyện phá nghĩa trang, cũng không có sự phân biệt”, ông Sơn kể lại.

Lúc đó, cũng có nhiều ý kiến về việc một Thứ trưởng đi thắp hương tại nghĩa trang cho lính Việt Nam Cộng hòa nhưng may mắn là các lãnh đạo ủng hộ việc này, ông Sơn nói.

Trận đánh golf rượt đuổi, chuyến về Việt Nam của ông Nguyễn Cao Kỳ và hải trình đặc biệt chưa từng có ra Trường Sa - Ảnh 11.

 

Đoàn Lan Hương
Thanh Phạm, Đức Lâm, CP, NVCC
Bạch Quả

Tổng Bí thư: Khép lại quá khứ, tôn trọng khác biệt, hướng tới tương lai

 Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh tinh thần khép lại quá khứ, tôn trọng khác biệt, hướng tới tương lai để cùng xây dựng Việt Nam giàu, mạnh, phát triển.

Ngày 30/4, phát biểu tại lễ kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ôn lại chặng đường lịch sử đầy hy sinh, gian khổ nhưng vô cùng vẻ vang của dân tộc Việt Nam trong suốt 30 năm đấu tranh giành độc lập, đặc biệt là "Chiến thắng mùa Xuân 1975" - sự kiện lịch sử trọng đại đã chấm dứt chiến tranh, mở ra thời kỳ mới: thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Người đứng đầu Đảng cũng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, các bậc lão thành cách mạng, các Mẹ Việt Nam Anh hùng, anh hùng liệt sĩ và hàng triệu người đã hy sinh vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc.

Tổng Bí thư điểm lại hành trình 50 năm thống nhất đất nước, từ một nước nghèo nàn, lạc hậu bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bị bao vây, cô lập, đến nay Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập tiệm cận trung bình cao, hội nhập sâu rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, có vai trò chủ động, tích cực tại nhiều tổ chức quốc tế, diễn đàn đa phương quan trọng.

Tổng Bí thư Tô Lâm đọc diễn văn tại lễ kỷ niệm. Ảnh: Đức Đồng

Tổng Bí thư Tô Lâm đọc diễn văn tại lễ kỷ niệm. Ảnh: Đức Đồng

Sau 50 năm thống nhất đất nước, gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước đã vượt qua nhiều khó khăn để có được vị thế như hôm nay. Quy mô nền kinh tế năm 2024 đứng thứ 32 thế giới và nằm trong nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài. Đời sống của người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, hiện chỉ còn 1,93% so với mức hơn 60% năm 1986.

Theo Tổng Bí thư, đất nước đang đứng trước khởi điểm lịch sử mới để đưa đất nước vươn mình, cất cánh, "sánh vai với các cường quốc năm châu". Để hiện thực hóa khát vọng xây dựng nước Việt Nam "hơn mười ngày nay", cần phải giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực, phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước để thúc đẩy mạnh mẽ phát triển kinh tế - xã hội.

"Nhận thức sâu sắc sức mạnh vĩ đại không gì sánh nổi của nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam, chúng ta quán triệt sâu sắc, thực hiện nhất quán quan điểm "dân là gốc", con người là trung tâm, là chủ thể, là mục đích của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc", Tổng Bí thư nói.

Ông yêu cầu phải triển khai mạnh mẽ chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc với tinh thần chúng ta đều mang dòng máu Lạc Hồng, đều là anh em ruột thịt, "như cây một cội, như con một nhà". Tất cả người Việt Nam đều là con dân nước Việt, đều có quyền sống, làm việc, quyền tự do mưu cầu hạnh phúc và yêu thương trên mảnh đất quê hương, đều có quyền và trách nhiệm góp sức xây dựng Tổ quốc.

Để hiện thực hóa khát vọng xây dựng nước Việt Nam "hơn mười ngày nay", theo Tổng Bí thư chúng ta cần phải giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực, phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước để thúc đẩy mạnh mẽ phát triển kinh tế - xã hội.

Tổng Bí thư khẳng định mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2045 Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao, giữ vững bản sắc văn hóa, công bằng và bền vững. Theo đó, mục tiêu năm 2025 GDP tăng trưởng 8% trở lên; giai đoạn 2026-2030 tốc độ tăng trưởng đạt mức hai con số; tập trung phát triển khoa học công nghệ, chuyển đổi số, kinh tế xanh và đổi mới sáng tạo; đưa kinh tế tư nhân thành động lực chủ lực của nền kinh tế; hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu quả bộ máy nhà nước.

Ông cũng nhấn mạnh định hướng phát triển lấy con người làm trung tâm, dân làm gốc, với nhiều chính sách an sinh xã hội sẽ tiếp tục được đẩy mạnh như: miễn học phí phổ thông; tăng cường chất lượng và khả năng tiếp cận y tế cho mọi người; xóa bỏ nhà tạm, hỗ trợ người yếu thế; tiến tới miễn phí viện phí cơ bản; chăm lo cho thế hệ trẻ, đào tạo nhân lực chất lượng cao.

Nhân kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước, Tổng Bí thư cũng gửi thông điệp đoàn kết đến toàn thể nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước, kêu gọi cùng nhau vượt qua khó khăn, tận dụng cơ hội, khơi dậy khát vọng phát triển dân tộc.

"Nhận thức sâu sắc sức mạnh vĩ đại không gì sánh nổi của nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam, chúng ta quán triệt sâu sắc, thực hiện nhất quán quan điểm "dân là gốc", con người là trung tâm, là chủ thể, là mục đích của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc", Tổng Bí thư nói.

Ông nhấn mạnh triển khai mạnh mẽ chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc với tinh thần chúng ta đều mang dòng máu Lạc Hồng, đều là anh em ruột thịt, "như cây một cội, như con một nhà". Tất cả người Việt Nam đều là con dân nước Việt, đều có quyền sống, làm việc, quyền tự do mưu cầu hạnh phúc và yêu thương trên mảnh đất quê hương, đều có quyền và trách nhiệm góp sức xây dựng Tổ quốc.

"Với chủ trương khép lại quá khứ, tôn trọng khác biệt, hướng tới tương lai, toàn đảng, toàn dân và toàn quân ta cùng ra sức phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, hạnh phúc, giàu mạnh và phát triển", Tổng Bí thư nhấn mạnh.

Theo ông, là một dân tộc đã trải qua muôn vàn đau thương và tổn thất vì chiến tranh trong quá khứ và cũng là dân tộc được thụ hưởng những lợi ích to lớn từ hòa bình, hợp tác hữu nghị trong những thập kỷ vừa qua. Việt Nam mong muốn cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một tương lai hòa bình, thịnh vượng, đoàn kết, phát triển.

"Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế", ông nhấn mạnh, đồng thời khẳng định chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa sẽ tiếp tục được kiên trì thực hiện.

Theo Tổng Bí thư Tô Lâm, kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền nam thống nhất đất nước cũng là thời điểm lịch sử để mọi người Việt Nam, mọi tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, những Đảng viên và mọi người dân trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài, muôn triệu người như một, đoàn kết, chung tay, hướng về Tổ quốc vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.

Ông cũng bày tỏ tin tưởng với bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh, Việt Nam đã làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975 thì nhất định sẽ tiếp tục giành được nhiều thành tựu vĩ đại hơn nữa, lập nên những kỳ tích trong kỷ nguyên mới.

>> Toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại lễ kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước

Lê Tuyết

Đường Phạm Ngọc Thạch, Thành phố Thủ Dầu Một, Tỉnh Bình Dương, 30 thg 4, 2014

 

Thanh minh ở Nghĩa trang Bình An

 30/04/2014 | 13:09

Ông Lê Thành Ân, Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ (trái) và ông Nguyễn Đạc Thành, Chủ tịch Sáng lập Việt Mỹ thắp hương tại Nghĩa trang Bình An
Ông Lê Thành Ân, Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ (trái) và ông Nguyễn Đạc Thành, Chủ tịch Sáng lập Việt Mỹ thắp hương tại Nghĩa trang Bình An
TP - Hơn 40 năm sau, lại chạy xe ngang hông Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa nay là Nghĩa trang nhân dân Bình An. Gặp tiết Thanh minh, người xe đến tảo mộ tấp nập, ken dày. Từ xa đã thấy nhấp nhoáng hoa và vầng nhang khói bốc.

Hoang phế và tín hiệu hòa giải

…Những năm xa, cứ ngỡ xa lộ Biên Hòa, con đường huyết mạch nối liền Sài Gòn với Biên Hòa do Hoa Kỳ xây dựng năm 1959 (khánh thành năm 1961) đổ bê-tông, dài 31km, rộng 21m là một đường băng sân bay? Thời điểm ấy ít người biết, mé bên phải xa lộ (từ Sài Gòn lên) có một nghĩa địa bề thế. Đó là Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa!

Lập ra từ năm 1965, Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa (NTQĐBH) có quy hoạch chứa 30.000 mộ phần. May mắn là đến chung cuộc năm 1975, mới chỉ khoảng 16.000 binh sĩ quân đội Việt Nam Cộng hòa (VNCH) an nghỉ nơi đây. 

Riêng thời điểm Mậu Thân và mùa hè đỏ lửa 1972, hơn 10.000 quân nhân tử trận đã được đưa về đây! NTQĐBH vốn là nơi an nghỉ không riêng gì tướng lãnh, sĩ quan và binh sĩ mà còn là chỗ chôn cất các thành viên chính phủ thuộc các ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp VNCH.

Đến và nằm ở đây có 2 viên tướng. Một trong số họ là Đại tướng Đỗ Cao Trí. Phần mộ ông đã được di dời về quê. Tháng 3/1975, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm lên thăm NTQĐBH và làm lễ đặt vòng hoa. Lúc ấy chẳng ai nghĩ đây là lần viếng sau cùng của một viên chức cao cấp.

Thời ấy chạy xe ngang hông NTQĐBH, đậm trong trí nhớ là bức tượng rất lớn người lính VNCH cầm súng trong tư thế ngồi canh gác bị kéo đổ nằm chỏng chơ một thời gian dài. Tượng có tên là Thương tiếc.

NTQĐBH do điêu khắc gia Lê Văn Mậu sáng tác và tổ chức thi công đã bước vào giai đoạn 2, kéo dài 6 năm, với ngân khoản 100 triệu đồng, tiền VNCH năm 1973.

Chạnh nghĩ những năm xa, phần âm hoang phế này đâu có cái tên Nghĩa trang nhân dân Bình An như bây giờ?

Mộ sụp. Bia vỡ. Cỏ dại lau lách mọc lan dày. Một tháp canh trơ trọi.

Nhưng không phải hoàn toàn vắng quạnh?

Chủ Tịch nước Nguyễn Minh Triết trong chuyến thăm Hoa Kỳ, tháng 6/2007 đã phát biểu về Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa… sẽ không có di dời đi nữa và sẽ đồng ý cho tất cả những người có thân nhân chôn cất ở trong đó được phép tái tạo, sửa đổi, trùng tu lại để làm cho tốt đẹp hơn.

Thời điểm những năm đầu 80, có lúc NTQĐBH đột nhiên tấp nập. Tấp nập là cách nói nhưng mà lén, vụng trộm. Cấm xâm nhập cấm chụp hình. Bảng biển đã ghi rõ. Lại có bộ đội gác. Nhưng hình như nhiều phiên gác, cánh vệ binh như có vẻ ngó lơ cho không ít thân nhân của những người đương nằm dưới mộ kia- lặng lẽ đến nghĩa trang. Họ làm gì vậy? Đốt nhang. Mang hoa trái đến cúng kiếng, hay đơn giản chỉ là đến khấn khứa - cõi âm phần phù hộ cho người thân đi vượt biên trót lọt!

Rồi đầu những năm 90, đi lẻ có, theo tốp cũng có. Họ là các cựu sĩ quan VNCH tìm đến nghĩa trang. Họ cũng năn nỉ để quân cảnh ngó lơ, lẻn vô nghĩa trang. Họ đến từ biệt người thân dưới mộ để ra nước ngoài đoàn tụ với người nhà theo diện HO.

Rồi cũng không ít những đoàn nhóm nhỏ người Việt từ hải ngoại về cố quốc tự động đến nghĩa trang…

Nhưng rồi sự sống và đời sống tâm linh vẫn vận hành theo cái cách của nó. Những năm giữa 90 gần 2000, một số đông Việt kiều vẫn về thăm viếng NTQĐBH. Và chỉn chu lẫn hoành tráng hơn, họ xin tu sửa mồ mả hoặc bốc cốt...

…NTQĐBH ngày một xuống cấp.

Tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại thành phố Hồ Chí Minh, mô tả:

“Một số mộ có bia trắng trong khi mộ khác chỉ là một gò đất với cục gạch làm dấu. Nhiều ngôi mộ có vẻ như chưa từng được đụng tới kể từ năm 1975. Những tượng đài đổ vỡ, đường đi chỉ là đất với sỏi... Bên ngoài nghĩa trang cũng không khá hơn, cửa tiệm và nhà dân lấn đất nghĩa trang, cột đá và cầu thang trước đây là lối đi vào nghĩa trang thì nay bị cây cối, dây leo quấn hoàn toàn”.

Có một dạo ầm cả lên dư luận cho rằng, rồi cuối cùng trong việc quản trị đất nước, nhà nước Việt Nam rồi sẽ cho di dời những phần mộ trong NTQĐBH bởi nghĩa trang ấy ít nhiều dính dáng liên hệ đến quá khứ và nhất là tâm linh với chế độ VNCH!

Người ta vẫn lén tới, vẫn năn nỉ xin được viếng, cất bốc… Trong một cuộc gặp thân mật, ông Nguyễn Cao Kỳ, năm 2005 đã bộc bạch với Thủ tướng Phan Văn Khải rằng nên hòa giải với người chết trước nghĩa là không xóa bỏ NTQĐBH, không di dời khu mộ mà tạo điều kiện cho thân nhân người nằm dưới mộ tới cúng kiếng chăm sóc phần mộ.

Mạch ngầm của đời sống tâm linh vẫn âm thầm vẫn nối mạch bằng những nghĩa cử tử tế này khác…

Dân sự hóa

Ngày 27/6/2006 Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhậm chức Thủ tướng Chính phủ, thì đến ngày 27/11/2006, đã ký Quyết định 1568/QĐ-TTg về việc bàn giao đất khu vực Nghĩa địa Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Thanh minh ở Nghĩa trang Bình An ảnh 1

Cây hương chính ở Nghĩa trang Bình An

Đồng ý chuyển mục đích sử dụng 58 ha đất Khu nghĩa địa Bình An huyện Dĩ An tỉnh Bình Dương do Quân khu 7 Bộ Quốc Phòng đang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triển KTXH tỉnh Bình Dương.

Đầu năm 2007, sau quyết định của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ít ngày đã có một sự lạ diễn ra ở NTQĐBH khi ấy được đổi thành Nghĩa trang Bình An là dân quanh Nghĩa trang tự động tổ chức phân lô khu nghĩa trang A, B, C, D, F… theo cách của họ, rồi chia nhau làm công tác tự nguyện trông coi, rẩy mả. Rồi họ lập danh sách những người được chôn cất ở đây để phòng khi thân nhân tới viếng thăm thì dễ bề tìm kiếm. Họ sẵn sàng hướng dẫn cho thân nhân dễ dàng tìm thăm mộ. Nếu thân nhân thông cảm và biếu cho họ chút đỉnh tiền thì họ nhận, còn không có cũng không sao, họ vẫn niềm nở hướng dẫn.

…Lần ấy trong nhóm báo chí tháp tùng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong chuyến thăm và làm việc ở Hoa Kỳ. Chặng bay xuyên đại dương dài dặc, nhóm báo chí chúng tôi đã có cuộc tiếp xúc với Thủ tướng, hỏi về việc dân sự hóa Nghĩa trang quân đội Biên Hòa.

Tôi nhớ có một đồng nghiệp hỏi Thủ tướng, thời điểm ông ký quyết định chuyển NTQĐBH thành Nghĩa trang dân sự Bình An, Thủ tướng có tâm trạng gì? Có bị hối thúc chi phối bởi sức ép gì không? Tôi nhớ Thủ tướng cười, cởi mở rằng, không có một áp lực nào cả mà sự day dứt nhiều năm đã hối thúc mình. Day dứt bởi chúng ta có hàng trăm ngàn liệt sĩ đã hy sinh trong các cuộc chiến tranh giữ nước mà hiện vẫn chưa tìm thấy hài cốt hoặc có tìm thấy nhưng không biết danh tính. Rồi Việt Nam nhiệt thành góp sức trong việc tìm kiếm hài cốt lính Mỹ trong chương trình PAO/MIA tại sao chúng ta lại không nghĩ đến những người lính VNCH từng một thời lầm lạc theo quân đội viễn chinh bắn vào đồng bào đồng chí mình bị chết trong cuộc chiến, hài cốt còn vất vưởng nghĩa địa này nghĩa trang khác mà dồn tụ là NTQĐBH? 

Rồi các tâm trạng, các cung bậc tình cảm của thân nhân tử sĩ từng hướng về hoặc từng đã luẩn quẩn trước hàng rào quân sự bao quanh hồn cốt người lính đang nằm trong nghĩa trang? Họ từng chịu nỗi đau mất mát người thân giờ lại dai dẳng chịu tiếp những mất mát day dứt về tinh thần? 

Ông bà mình dạy lấy ân cởi oán chứ không lấy oán cởi oán càng chất chồng thêm oán. Những gì làm được trong tầm tay của mình để góp phần xóa bỏ hận thù, hòa hợp dân tộc hướng về tương lai phía trước tại sao lại phải chần chừ?

Rồi cũng có ý kiến của một số cựu chiến binh không đồng tình với việc Nhà nước lại tôn tạo, chăm sóc một nghĩa trang cho quân đội VNCH một cách trang trọng như các nghĩa trang liệt sĩ ở khắp nơi trong nước.

Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn, dịp đến Nghĩa trang Bình An thắp hương đã bộc bạch trong một phỏng vấn vừa thẳng thắn vừa như nhắn nhủ rằng? Tại sao tôi - quan chức cao cấp của Chính phủ Việt Nam, lại đến viếng nghĩa trang của những người bên kia chiến tuyến trước đây của Quân đội Nhân dân Việt Nam - những người đã cầm súng chống lại lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam, dựa vào sức mạnh của đế quốc Mỹ hòng xâm chiếm cả miền Bắc Việt Nam?

Nhưng tôi tâm niệm rằng, những anh em của binh lính Việt Nam Cộng hòa - những người nằm ở nghĩa trang Biên Hòa cũ và nay là nghĩa trang Bình An, không phải họ không mong muốn hòa bình. Rất nhiều người cũng mong muốn hòa bình, không muốn chiến tranh.

Cho nên bây giờ, thời gian đã qua đi, chúng ta đã là người chủ của đất nước. Nhà nước Việt Nam hiện nay đang hội nhập với thế giới rất vững vàng, vị thế và uy tín thì chúng ta không thể không nghĩ đến những người đã khuất của cả hai phía.

Mạch nguồn tâm linh

Sau Quyết định của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, những gì đến đã đến.

Thanh minh ở Nghĩa trang Bình An ảnh 2

Nghĩa trang QĐ Biên Hòa năm 1970

Tỉnh Bình Dương đã khởi đầu một lộ trình nghĩa tử nghĩa tận. Địa phương này đã lên quy hoạch và giao 32 trong số 58 hecta đất nghĩa trang cho huyện Dĩ An làm nghĩa trang nhân dân và ông Phó Chủ tịch Bình Dương đã khẳng khái “Tỉnh Bình Dương ủng hộ việc bà con tiến hành chỉnh trang, sửa sang lại những phần mộ ở đây để có một nghĩa trang nhân dân đẹp đẽ”.

Dư luận còn khắc ghi điểm nhấn về hòa hợp dân tộc, xóa bỏ hận thù trong cuộc trả lời phỏng vấn của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt với Đài BBC ngày 17/4/2007. Ông đã nói rằng người Cộng sản không độc quyền yêu nước.

Trả lời về việc nghĩa trang Biên Hòa được dân sự hóa, cố Thủ tướng chia sẻ: “Có những cái vô lý, người sống đố kỵ nhau nên nó khổ liên quan đến người chết, trước đây coi như không thừa nhận nghĩa trang đó nên quân sự hóa mấy chục năm. Bây giờ thấy nó vô lý. Có một quyết định tuy trễ nhưng dù sao cũng rất tốt. Ông Nguyễn Tấn Dũng đã làm tốt cái đó, làm hơn tôi cái đó, lúc tôi làm thì chưa làm được cái này, quyết định giao lại cho dân sự. Tôi cho quyết định đó là đúng”.

Rồi sự hiện diện và các cuộc thăm viếng của Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Jim Webb (năm 2007). Rồi Tổng Lãnh sự Mỹ tại Saigon, ông Lê Thành Ân tại Nghĩa trang Bình An. Ông Ân là một người gốc Việt, sang Hoa Kỳ từ năm 1965 lúc mới 10 tuổi, và có lẽ ông là người gốc Việt Nam đầu tiên hiện đang nắm chức vụ cao trong ngành ngoại giao Hoa Kỳ. 

Cùng đi trong phái đoàn của Tổng Lãnh sự Lê Thành Ân có ông Nguyễn Đạc Thành, Chủ tịch Sáng Hội Việt Mỹ thành lập năm 2003 tại Hoa Kỳ danh xưng chính thức là Vietnamese American Foundation- VAF) ông Thành là cựu thiếu tá Quân lực VNCH. Và cũng chính ông Nguyễn Đạc Thành cùng với Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn tới thắp hương ở nghĩa trang Bình An.

Những việc cùng sự kiện ấy nói lên điều gì, thông điệp gì ngoài âm hưởng chủ đạo là hòa hợp, là xóa bỏ hận thù?

Một Việt kiều ở Chicago đã bộc bạch trên mạng “Không những ra vào nghĩa trang dễ hơn trước đây mà trong việc tu bổ, dựng lại bia mộ họ còn cho phép để cả hình nhà tôi mặc quân phục, cấp bậc cũ...”.

Rất nhiều những tu bổ sửa sang lớn nhỏ, phần của nhà nước của địa phương trong đó có sự góp sức của bà con Việt kiều. Đặc biệt là ông Lê Thành Ân, Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ tại TPHCM và ông Nguyễn Đạc Thành, người khởi xướng tổ chức Sáng Hội Việt Mỹ.

Phần đầu bài, tôi có nhắc đến bức tượng Thương tiếc từng bị kéo đổ cuối năm 1975. Tác giả bức tượng ấy là Nguyễn Thanh Thu. Tượng được dựng ở mặt tiền Nghĩa trang QĐBH năm 1966. Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, quê Gia Định, sinh 1934, nguyên là lính kiểng Sài Gòn. Năm 1987 vượt biên.

Năm 1992 về thăm quê nhà. Năm 2004, về việt Nam lần thứ 2 với mục đích đưa vợ con sang Mỹ nhưng cả gia đình không chịu đi. Ông ở lại và vẫn tiếp tục đam mê sáng tác tranh tượng. Tại quê nhà ông đang miệt mài thực hiện công trình điêu khắc hoành tráng có cái tên Cửu Long được mùa.

Tôi đã có dịp ghé cái cơ ngơi khá bề thế, bề bộn sân vườn tượng đài của ông ở Gò Vấp. Tư gia ông Thu cũng là địa điểm thường xuyên hội tụ gặp gỡ của giới trí thức văn nghệ sĩ thành phố.

Nghĩa trang Bình An đã vời vợi sau lưng…

Chợt cộm trong trí nhớ về một Nghĩa trang ở thủ đô nước Mỹ mà mình từng ghé. Đó là Nghĩa trang Arlington ở Washington D.C nơi an nghỉ hàng vạn binh sĩ của cả hai miền, của cả hai phía trong cuộc nội chiến Nam Bắc Hoa Kỳ kéo dài từ năm 1861-1863.

Năm 1863, Tổng thống Mỹ Abraham Lincohn đã trực tiếp đến khánh thành nghĩa trang Quốc gia Hoa Kỳ và ban dòng chữ sau

Tất cả những tử sĩ ở đây đều là đồng bào.

Tiết Thanh minh năm Ngọ

Theo tài liệu của UBND huyện Dĩ An (Bình Dương) trước 2006, khu nghĩa địa dân sự xã Bình An (tức NTQĐBH trước đây) có đến 17 ngàn ngôi mộ, một số còn giữ nguyên trạng ngôi mộ xây bằng xi-măng; đa phần còn lại, rất nhiều ngôi mộ bị mất nắp xi măng có đến 12 ngàn ngôi mộ đã bị lấy mất nắp mộ. Có khoảng 13 ngàn tử sĩ VNCH tạm thời còn giữ nguyên trạng mộ địa.