Trang blog này nhằm lưu lại những bài viết của chính tác giả hoặc của những tác giả khác đã viết và công bố trên các ấn phẩm chính thức, trên phương tiện truyền thông đại chúng, và trên mạng Internet, về những vấn đề Kinh Tế, Văn hoá, Xã hội, Y tế & Giáo dục đang cần tìm hiểu...lúc tuổi già.
Không biết nói gì hơn, ngoài lời được xin phép và trân trọng cám ơn các bạn có bài đăng lại trên Blog này.
LTS. Chớp mắt mà đã 10 năm Giáo sư Trần Văn Khê, cây đại thụ của nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam, vĩnh biệt chúng ta. Nhớ Trần Văn Khê là nhớ đến người có công đầu trong việc đưa nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam ra ngoài biên giới quốc gia và nâng lên ngang tầm những nền âm nhạc cổ truyền của các nền văn minh trên thế giới, người đã điền vào chỗ trống cái tên Việt Nam trên bản đồ âm nhạc cổ truyền của hành tinh.
Mười năm vắng ông, cái khoảng trống đó không thể ngày một, ngày hai mà được lấp đầy nhưng mạch nguồn mà ông đã khơi thông vẫn âm thầm tuôn chảy trong tự tình dân tộc. Tưởng niệm 10 năm ngày mất của Giáo sư Trần Văn Khê, Người Đô Thị online xin giới thiệu bài viết "Lắng khúc tri âm" của Giáo sư - Tiến sĩ Thái Kim Lan, đã đăng trong sách Trần Văn Khê - Trăm năm Tâm và Nghiệp do nhóm thân hữu Trần Văn Khê và NXB Tổng Hợp TP.HCM ấn hành (*).
* * *
Kỷ niệm với Thầy khi nhớ lại không ít, nhưng vẫn nhớ nhất cuộc nghe đàn của hai ông tiên nhạc Trần Văn Khê và Vĩnh Bảo tại nhà nữ sĩ Tôn Nữ Hy Khương, xin chia sẻ với các bạn đoạn văn viết về buổi nghe nhạc này, trích từ tản văn Bến cũ Văn Lâu…
Buổi thơ nhạc “Lắng khúc tri âm” tại Thùy Khương Trang được anh chị Bá Thùy - Hỷ Khương tổ chức vào đầu xuân năm 1999 nhân dịp thầy Trần Văn Khê về thăm Việt Nam.
Thầy có một trí nhớ lạ kỳ về cô sinh viên gầy yếu mặc áo lụa trắng tại thành phố Munich khoảng năm 1973, trong buổi giới thiệu âm nhạc Việt Nam cho khán giả Ðức mà Giáo sư Trần Văn Khê đã làm say mê với tài bình giảng âm nhạc, với kiến thức uyên bác và lối nói cuốn hút nghe hoài không chán. Từ đó đến nay đã 25 năm, biết bao thay đổi, vậy mà những ấn tượng ngày xưa vẫn còn y chang mồn một trong trí nhớ của thầy. Chỉ khác, với tâm từ bi quảng đại, thầy đã đổi ấn tượng hôm qua thành hôm nay, khi nói Kim Lan hôm nay có phần hơn xưa.
Giáo sư Trần Văn Khê và Giáo sư Thái Kim Lan tại tư thất Thùy Khương trang của nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương, tháng 12.2005 (Ảnh tư liệu của tác giả)
Sau lời giới thiệu đầy thân ái của thầy, sự hiện diện của tôi được đón nhận ngay.
Rồi không chờ ai thêm một lời, nhạc sĩ Vĩnh Bảo đã cúi xuống cây đàn nguyệt so dây.
Thầy Khê cũng lùa tay trên phím đàn tranh, nghe ngóng tiếng tình tang nơi cây đàn nguyệt. Thầy Bảo nhìn sang phía người bạn, cười nụ cười nghệ sĩ trẻ ngông, dù đã hơn 70, mái tóc bạc phất phơ trước cần đàn: “Anh dạo trước, tôi theo”.
Người bạn chúm chím gật đầu, tay rung nhẹ trên dây đàn, ấn dây vài nhấn và âm thanh òa ra như nước chảy. Người kia lập tức đuổi theo không rời, đầu lắc lư theo nhịp, tiếng đàn réo lên quấn quít với nhau. Họ dạo chơi một khúc, dò dẫm tìm nhau, người nọ nhìn sang chăm chút hỏi bằng mắt: “Có nhanh không?”, người kia chịu chơi không kém: “Anh mau thì tôi mau theo, anh chậm thì tôi chậm!”. Cả hai đồng cười xòa, trong lúc tay vẫn thoăn thoắt trên phím đàn.
Âm thanh trầm bổng nhặt khoan xô đẩy, níu nhau, dang ra rồi lại đến gần, thoắt tới thoắt lui, lúc va chạm lúc vuốt ve, ngất ngưởng trên cao rồi xoáy tròn dưới thấp. “Cao hả, được rồi, thì theo!” “Thấp hả? Ờ, thì thấp nghen”. Họ cười với nhau qua tiếng đàn, họ nghịch với nhau qua từng dấu nhấn, thách thức, chọc ghẹo, mơn trớn vuốt ve và cùng nhau đắm chìm trong cung bậc tài hoa…
Âm thanh thánh thót nhịp nhàng tựa như chim liền cánh lơ lửng trong không gian, bay bổng, rồi bỗng nặng nề, quyến luyến rời xa, rồi lại thoắt gần, không nỡ dứt. Trong phút chốc họ không còn là Vĩnh Bảo và Văn Khê bằng xương bằng thịt, họ hòa vào tiếng đàn đang đầy ắp gian phòng, thần sắc phơi phới, họ như bay trong không gian, sảng khoái như hai ông tiên nhập cốt.
Giáo sư Trần Văn Khê và nhạc sư Vĩnh Bảo tại tư thất Thùy Khương trang của nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương (Ảnh tư liệu của tác giả)
Tôi nghe tim mình nhảy thót. Chưa bao giờ tôi được chứng kiến một cuộc hội ngộ cầm đài thích thú đầy khoái cảm như thế. Ðã từng nghe ngón đàn tài tình của Vĩnh Bảo lừng danh miền Nam, đã từng nghe tiếng đàn tài tử của Trần Văn Khê truyền diễn trên năm châu, trong những giờ cao điểm biểu diễn nghệ thuật, trong những lúc thi thố tài năng tột đỉnh với mọi người bốn bể, nhưng cuộc trùng phùng hôm ấy cho người nghe cảm giác đang tham dự một cuộc đùa vui bằng hữu, nhẹ như tơ mà thơ thới như mây. Hình như mọi vướng bận đều được rũ sạch trong cuộc “chơi đàn” ấy, mọi hình tướng bỗng chốc nhòa đi, chỉ còn thoăn thoắt ngón tay, chỉ còn thích chí tiếng cười, chỉ còn nhột nhạt “chạm nhau” nơi từng nốt nhạc, chỉ còn đầu lắc lư, chỉ còn chân giậm nhịp, chỉ còn mê say tiếng nhạc, chỉ còn hạnh phúc cho nhau, chiều nhau, nâng nhau nơi từng tiếng tình tang.
Họ không còn là người phàm, họ là tiên hiện xuống chơi đàn! Vui, thích, sảng khoái, thong dong! Bay bổng, chơi vơi. Hầu như mọi trọng lượng chẳng còn nơi tiếng đàn ấy, trầm xuống là buông, là thả để lên cao réo rắt, lững lờ là để tự do như gió!
Họ dạo đàn không lâu trước khi ngâm thơ, không ai chuẩn bị hay phân công ai sẽ đánh bản nào, họ nghe tiếng đàn người khác để nhấn phím của mình, họ nhìn miệng người ngâm thơ để gây cung bậc… tất cả đều là ngẫu hứng ngẫu nhiên. Không ai hẹn trước một nốt nhạc, một tiếng tơ, mà nhạc chỉ chờ trào ra từ ngón tay, tưởng như liên miên, ngay cả khi dừng lại, ngón tay nghệ sĩ như vẫn còn tuôn khúc cầm ca…
Không lâu chìm trong âm thanh, tôi nghe bao muộn phiền bỗng dưng được cởi. Người tôi như được tiếng đàn nhấc bổng lên, không còn nặng trĩu những băn khoăn, tôi nghe vai mình nhẹ đi như vừa trút một gánh nặng đè nén từ muôn nghìn kiếp trước, tay chân không còn thủ thế chống đỡ, nghe như có một luồng nước chảy vào tim, dội mát, nghe như xương cốt không còn cồng kềnh trong da. Không gồng lên cố gắng xã giao như mọi khi, cùng với tiếng nhạc, tôi chuồi mình nhập vào cuộc thơ lúc nào chẳng hay. Chỉ biết, khi chị Hỷ Khương bắt đầu ngâm thơ cùng với tiếng đàn đệm trìu mến của thầy Khê, thầy Bảo, ngũ quan tôi đã bơi vào trong vùng âm thanh trầm bổng ấy.
Trong suốt cả buổi thơ, tiếng ngâm ấm dịu của chị Hỷ Khương hòa với tiếng đàn tuyệt diệu của thầy Khê và thầy Bảo đổ đầy cả không gian im lặng, bao trùm cả người nghe.
Huế, ngày 28 tháng 7 năm 2021.
Thái Kim Lan
(*) Bài viết trích từ tản văn Bến Cũ Văn Lâu trong tập tùy bút Mai rồi mưa tạnh trong xuân của Thái Kim Lan. Sách Trần Văn Khê – Tâm và Nghiệp phát hành năm 2022 nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh giáo sư Trần Văn Khê (24.7.1921 - 24.7.2021)
Trần Văn Khê – Một đời với âm nhạc dân tộc
Nhân tưởng niệm 10 năm ngày mất Giáo sư Trần Văn Khê, Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM, Hội Di sản văn hóa TP.HCM và Quỹ Học bổng Trần Văn Khê tổ chức chương trình Trần Văn Khê – Một đời với âm nhạc dân tộc.
Chương trình sẽ diễn ra lúc 16g30 ngày 28.6 tại Bảo tàng TP.HCM (65 Lý Tự Trọng, quận 1), với các phần chính: Diễn văn tưởng niệm 10 năm ngày mất Giáo sư Trần Văn Khê; Phút tưởng niệm nhà nghiên cứu âm nhạc Đặng Hoành Loan – một trong 6 người nhận Giải thưởng Trần Văn Khê lần thứ nhất 2023, từ trần năm 2025…
Các nghệ sĩ tham gia biểu diễn đờn ca tài tử và cải lương trong chương trình gồm có: ThS-Nghệ nhân Phan Nhứt Dũng, ThS. Phạm Thái Bình, NNND Thanh Tuyết, NNƯT Ngọc Đặng, NNƯT Ngọc Hậu.
Trong 10 năm qua, nhóm thân hữu của Giáo sư Trần Văn Khê đã nỗ lực thực hiện những điều ông dặn dò trong Di nguyện – với sự ủng hộ sâu sắc từ gia đình, trong đó có các con trai của ông là: GS-TS. Trần Quang Hải (1944 – 2021) và KTS. Trần Quang Minh. Nhóm đã ra mắt sách Trần Văn Khê – Tâm và Nghiệp, tổ chức chương trình kỷ niệm 99 năm ngày sinh Giáo sư và tọa đàm Những bài học văn hóa từ Giáo sư Trần Văn Khê tại Đại học Văn Lang…
Năm 2021, Quỹ học bổng mang tên Trần Văn Khê đã được ra đời. Năm 2023, Giải thưởng và Học bổng Trần Văn Khê lần thứ nhất đã được trao với 9 học bổng và 6 giải thưởng. Hiện nay, nhóm thân hữu đang tiếp tục hoạt động gây quỹ chuẩn bị cho lễ trao giải lần hai.
Hiện tại, tôi chưa có khả năng tạo ra video trực tiếp như một phần mềm chỉnh sửa hay một công cụ AI chuyên về video. Tôi là một mô hình ngôn ngữ, nghĩa là tôi có thể làm việc với văn bản.
Tuy nhiên, tôi có thể hỗ trợ bạn đắc lực trong rất nhiều công đoạn để tạo ra một video hoàn chỉnh.
Hãy xem tôi như một người trợ lý sáng tạo của bạn. Tôi có thể giúp bạn:
Lên ý tưởng (Brainstorming): Nếu bạn chưa biết bắt đầu từ đâu, hãy cho tôi một chủ đề, và tôi có thể gợi ý nhiều ý tưởng độc đáo cho video của bạn.
Viết kịch bản (Script Writing): Đây là thế mạnh của tôi. Tôi có thể viết kịch bản chi tiết cho video của bạn, bao gồm lời thoại cho nhân vật, lời dẫn chuyện, và mô tả các cảnh quay.
Tạo bảng phân cảnh dạng văn bản (Storyboard): Tôi có thể giúp bạn vạch ra từng cảnh quay, mô tả góc máy, hành động và nội dung chính trong mỗi cảnh.
Viết lời thuyết minh (Voiceover Script): Nếu bạn làm video dạng tường thuật, phim tài liệu, hoặc video giải thích, tôi có thể viết lời thuyết minh hấp dẫn và rõ ràng.
Tạo tiêu đề và mô tả cho video: Để video của bạn có nhiều người xem trên YouTube hoặc các nền tảng khác, tôi có thể giúp bạn tạo ra các tiêu đề thu hút và phần mô tả chuẩn SEO.
Gợi ý nhạc nền và hiệu ứng âm thanh: Dựa vào không khí và nội dung video, tôi có thể gợi ý cho bạn các thể loại nhạc hoặc âm thanh phù hợp.
Để bắt đầu, bạn chỉ cần cho tôi biết:
Bạn muốn làm video về chủ đề gì?
Video của bạn dành cho ai xem?
Bạn muốn video có phong cách như thế nào (hài hước, nghiêm túc, truyền cảm hứng,...)
Hãy cung cấp thông tin và tôi sẽ cùng bạn sáng tạo!
Sau khoảnh khắc vui mừng vì phục hồi thần kỳ, không còn yếu liệt nhờ điều trị thuốc tiêu sợi huyết kịp thời tại Bệnh viện tuyến dưới, người bệnh nữ 57 tuổi – từng nhập viện với triệu chứng yếu nửa người phải do tắc động mạch não giữa bên trái – tưởng như đã vượt qua được cơn nguy hiểm lớn nhất. Nhưng điều bất ngờ đã xảy ra.
Chỉ chưa đầy một ngày sau, khi đang được theo dõi sát tại Bệnh viện Nhân dân 115, người bệnh đột ngột tái phát đột quỵ – lần này là yếu nửa người trái. Thang điểm NIHSS lúc này từ 0 tăng vọt lên 13 điểm, cho thấy tổn thương mới tại bán cầu đối diện.
Lập tức, các bác sĩ tại Khoa Bệnh lý mạch máu não kích hoạt quy trình báo động đột quỵ nội viện. Chụp CT mạch máu não khẩn ghi nhận hình ảnh tắc động mạch não giữa bên phải – với hình ảnh huyết khối mới hình thành trong lòng mạch máu. Không để thời gian trôi qua vô ích, người bệnh được chuyển thẳng vào đơn vị can thiệp mạch máu thần kinh. Tại đây, quy trình can thiệp nội mạch được thực hiện khẩn trương và chính xác.
Ngay sau can thiệp mạch máu, tín hiệu tái thông mạch máu được xác nhận. Người bệnh phục hồi rõ rệt – sức cơ trở lại mức 5/5, không còn dấu hiệu liệt nửa người trái. Toàn bộ ê-kíp vỡ òa trong niềm vui chiến thắng – một chiến thắng của tốc độ, chuyên môn, và sự phối hợp ăn ý của ekip đột quỵ. Sau can thiệp, người bệnh được điều trị bằng kháng đông thế hệ mới (DOAC), kiểm soát hiệu quả rung nhĩ – nguyên nhân gây đột quỵ tái phát, và không còn xuất hiện biến cố nào.
Trường hợp này là một minh họa sống động cho hiện tượng đột quỵ tái phát sớm do rung nhĩ – một nguyên nhân tim mạch thường gặp nhưng dễ bị bỏ sót. Người bệnh có tiền căn rung nhĩ vĩnh viễn, nguy cơ huyết khối cao. Chính điều này dẫn đến sự hình thành nhanh chóng của huyết khối mới, gây nên đột quỵ tái phát nguy hiểm.
Từ câu chuyện này, các bác sĩ đưa ra lời cảnh báo quan trọng: bệnh lý rung nhĩ cần được tầm soát và quản lý chặt chẽ – đặc biệt ở người cao tuổi. Việc sử dụng thuốc kháng đông dưới sự theo dõi của bác sĩ chuyên khoa là yếu tố then chốt để phòng ngừa đột quỵ tái phát.
Động mạch não giữa phải được tái thông hoàn toàn sau điều trị can thiệp nội mạch (mũi tên đỏ)
💬“Không chỉ một lần, mà là hai lần chiến thắng đột quỵ trong 48 giờ – là minh chứng rõ rệt cho sự trưởng thành vượt bậc của hệ thống điều trị đột quỵ tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bắt đầu từ việc ứng dụng thành công điều trị đột quỵ cấp bằng thuốc Tiêu sợi huyết tại tuyến cơ sở và tiếp sau đó là xử trí chuyên sâu tại bệnh viện tuyến cuối – mỗi mắt xích đều đóng vai trò quyết định trong hành trình cứu người bệnh đột quỵ nguy kịch.”
Trên tất cả, câu chuyện lần này tiếp tục khẳng định chuyên môn và nỗ lực không ngừng của Bệnh viện Nhân dân 115 trong lĩnh vực điều trị đột quỵ, đồng thời lan tỏa giá trị của đào tạo, chuyển giao kỹ thuật và sự phối hợp liên viện – để không một người bệnh nào bị bỏ lại phía sau trong cuộc chiến với đột quỵ.
Hình ảnh mạch máu đã tái thông trước đó với thuốc tiệu sợi huyết (Hình A) và tái tắc do huyết khối mới – Rung nhĩ (Hình B – mũi tên đỏ)
Quan hệ quốc phòng-an ninh giữa Việt Nam và Israel, kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức vào năm 1993, đã phát triển vượt bậc, trở thành một trong những trụ cột hợp tác quan trọng và thực chất nhất trong tổng thể quan hệ song phương. Được thúc đẩy bởi nhu cầu cấp thiết về hiện đại hóa quân đội, đa dạng hóa nguồn cung vũ khí và nâng cao năng lực tự chủ công nghiệp quốc phòng của Việt Nam, mối quan hệ này đã đi từ các giao dịch mua sắm đơn lẻ đến hợp tác sâu rộng về chuyển giao công nghệ, đào tạo và đối thoại chiến lược. Hợp tác không chỉ giới hạn trong lĩnh vực quốc phòng truyền thống mà còn mở rộng sang các lĩnh vực an ninh phi truyền thống mang tính thời đại như an ninh mạng và chống tội phạm công nghệ cao. Báo cáo này sẽ tiến hành phân tích toàn diện các khía cạnh của mối quan hệ đối tác chiến lược này, bao gồm nền tảng lịch sử, các động lực thúc đẩy, những lĩnh vực hợp tác cụ thể, đồng thời đưa ra đánh giá về triển vọng và các thách thức trong tương lai.
Phần 1: Nền tảng Lịch sử và Khuôn khổ Chính sách
Mối quan hệ quốc phòng-an ninh hiện nay giữa Việt Nam và Israel không phải là một sự phát triển ngẫu nhiên, mà được xây dựng trên một nền tảng được vun đắp cẩn trọng qua nhiều thập kỷ, thể hiện tầm nhìn chiến lược và sự kiên trì của cả hai phía. Quá trình này cho thấy một lộ trình được tính toán kỹ lưỡng, bắt đầu từ việc xây dựng nền tảng biểu tượng, tiến tới thiết lập các kênh chính thức, và cuối cùng là thể chế hóa bằng các khuôn khổ pháp lý và cơ chế hoạt động thực chất.
1.1. Giai đoạn khởi nguồn: Từ cuộc gặp lịch sử đến thiết lập quan hệ ngoại giao
Nền tảng tinh thần cho quan hệ Việt Nam-Israel được cho là bắt nguồn từ cuộc gặp gỡ mang tính biểu tượng vào năm 1946 tại Paris giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và ông David Ben-Gurion, người sau này trở thành Thủ tướng đầu tiên của Nhà nước Israel. Tại cuộc gặp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ngỏ lời mời ông Ben-Gurion đến Việt Nam và sẵn sàng tạo điều kiện để người Do Thái thành lập một chính phủ lưu vong. Mặc dù lời đề nghị này không trở thành hiện thực, sự kiện này đã để lại một di sản hữu nghị độc đáo và được xem là "vốn chính trị quý báu", tạo ra một cơ sở thiện chí đặc biệt cho việc phát triển quan hệ trong tương lai.
Sau nhiều năm, hai nước đã chính thức hóa mối quan hệ bằng việc thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 12 tháng 7 năm 1993. Ngay sau đó, Israel đã mở Đại sứ quán tại Hà Nội vào tháng 12 năm 1993, thể hiện sự coi trọng mối quan hệ với Việt Nam. Về phía Việt Nam, sau một thời gian chuẩn bị, Đại sứ quán tại Tel Aviv đã được mở vào năm 2009, đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ và toàn diện trong quan hệ chính trị, tạo tiền đề cho việc thúc đẩy hợp tác trên mọi lĩnh vực.
1.2. Thể chế hóa hợp tác: Các thỏa thuận và cơ chế đối thoại
Bước ngoặt trong việc cấu trúc hóa quan hệ quốc phòng là việc ký kết Bản Ghi nhớ (MoU) về Hợp tác Quốc phòng song phương vào ngày 2 tháng 3 năm 2015. Sự kiện này diễn ra tại Hà Nội giữa Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, và ông Dan Harel, Tổng Vụ trưởng Bộ Quốc phòng Israel. Văn bản này đã tạo ra một khuôn khổ pháp lý chính thức, đưa mối quan hệ hợp tác quốc phòng từ các thương vụ riêng lẻ sang một giai đoạn hợp tác có cấu trúc, chiều sâu và hiệu quả hơn.
Trên cơ sở của MoU, hai bên đã thiết lập cơ chế Đối thoại Chính sách Quốc phòng cấp Thứ trưởng, một diễn đàn chiến lược để trao đổi quan điểm, rà soát hợp tác và định hướng cho tương lai.
Đối thoại lần thứ nhất (Tháng 10/2018): Diễn ra tại Hà Nội, do Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh và Tổng Vụ trưởng Udi Adam đồng chủ trì, cuộc đối thoại đầu tiên đã đi vào các nội dung thực chất. Hai bên đã chia sẻ quan điểm về an ninh khu vực và thế giới, đánh giá kết quả hợp tác và thống nhất các định hướng quan trọng. Đáng chú ý, cuộc đối thoại đã xác định các lĩnh vực hợp tác cụ thể cần ưu tiên, bao gồm công nghiệp quốc phòng, đào tạo, an ninh mạng và khắc phục hậu quả chiến tranh. Việc thiết lập cơ chế này là minh chứng cho sự tin cậy chính trị cao và cam kết hợp tác lâu dài.
Đối thoại lần thứ hai (Tháng 6/2022): Cũng được tổ chức tại Hà Nội, do Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến và Tổng Vụ trưởng Amir Eshel đồng chủ trì, cuộc đối thoại lần thứ hai đã khẳng định tính bền vững của mối quan hệ. Việc duy trì cơ chế đối thoại quan trọng này, ngay cả sau giai đoạn bị ảnh hưởng bởi đại dịch toàn cầu, cho thấy quyết tâm của cả hai bên trong việc thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc phòng phát triển thiết thực và hiệu quả, không ngừng được tăng cường.
Bảng 1: Các Mốc son trong Quan hệ Quốc phòng-An ninh Việt Nam-Israel
Ngày/Năm
Sự kiện
Tầm quan trọng/Ý nghĩa chiến lược
Nguồn
1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp David Ben-Gurion tại Paris
Tạo nền tảng tinh thần và "vốn chính trị" cho quan hệ tương lai, gieo mầm cho tình hữu nghị.
12/07/1993
Chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao
Mở ra kỷ nguyên hợp tác chính thức trên mọi lĩnh vực, bao gồm quốc phòng và an ninh.
02/03/2015
Ký Bản Ghi nhớ (MoU) về Hợp tác Quốc phòng
Tạo khuôn khổ pháp lý chính thức đầu tiên, chuyển hợp tác quốc phòng sang giai đoạn có cấu trúc và chiều sâu.
10/2018
Đối thoại Chính sách Quốc phòng lần thứ nhất
Thể chế hóa cơ chế tham vấn chiến lược cấp cao, đi vào các lĩnh vực hợp tác thực chất và cụ thể.
06/2022
Đối thoại Chính sách Quốc phòng lần thứ hai
Khẳng định sự bền vững của quan hệ đối tác và cam kết tiếp tục hợp tác sâu rộng sau giai đoạn gián đoạn.
Phần 2: Động lực Chiến lược và Bối cảnh Địa chính trị
Sự phát triển mạnh mẽ của quan hệ quốc phòng Việt Nam-Israel được thúc đẩy bởi những tính toán chiến lược sâu sắc từ phía Việt Nam, đặt trong bối cảnh môi trường an ninh khu vực và toàn cầu có nhiều biến động.
2.1. Nhu cầu Hiện đại hóa và Tự chủ Quốc phòng của Việt Nam
Động lực cốt lõi nhất thúc đẩy hợp tác là chương trình hiện đại hóa quân đội của Việt Nam, với mục tiêu xây dựng quân đội "tinh gọn, vững mạnh, tiến lên hiện đại". Trong bối cảnh đó, Israel nổi lên như một đối tác lý tưởng vì nhiều lý do:
Đa dạng hóa nguồn cung vũ khí: Việt Nam có lịch sử phụ thuộc lớn vào các hệ thống vũ khí của Liên Xô/Nga. Các diễn biến địa chính trị gần đây, đặc biệt là cuộc xung đột tại Ukraine, đã bộc lộ rõ những rủi ro của việc phụ thuộc vào một nhà cung cấp duy nhất, từ đó thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa nỗ lực đa dạng hóa nguồn cung. Israel đã nhanh chóng trở thành nhà cung cấp vũ khí lớn thứ hai cho Việt Nam, chỉ sau Nga, cung cấp các giải pháp công nghệ cao mà Việt Nam cần.
Tiếp cận công nghệ cao và đã qua thực chiến: Các hệ thống vũ khí của Israel, từ tên lửa phòng không SPYDER đến các loại máy bay không người lái (UAV), nổi tiếng toàn cầu về độ tin cậy, công nghệ tiên tiến và quan trọng nhất là đã được kiểm nghiệm hiệu quả qua thực chiến. Yếu tố "battle-proven" này mang lại sự tin cậy rất cao cho các nhà hoạch định chính sách quốc phòng Việt Nam.
Mục tiêu tự chủ công nghiệp quốc phòng: Đây là động lực chiến lược sâu xa và quan trọng nhất. Việt Nam không chỉ muốn mua sắm vũ khí mà còn khao khát "làm chủ công nghệ quốc phòng". Israel là một trong số rất ít đối tác trên thế giới sẵn sàng chuyển giao công nghệ sản xuất vũ khí hiện đại. Sự sẵn sàng này hoàn toàn tương thích với mục tiêu dài hạn của Việt Nam là xây dựng một nền công nghiệp quốc phòng tự lực, tự cường và hiện đại.
2.2. Sự Tương thích với Chính sách Quốc phòng "Bốn Không"
Hợp tác với Israel hoàn toàn phù hợp với chính sách quốc phòng "Bốn Không" nhất quán của Việt Nam: không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; và không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Israel là một cường quốc về công nghệ quốc phòng nhưng không phải là một siêu cường toàn cầu có các cam kết liên minh bao trùm. Do đó, việc hợp tác với Israel giúp Việt Nam tăng cường năng lực phòng thủ một cách thực chất mà không bị lôi kéo vào các cuộc cạnh tranh địa chính trị của các nước lớn, qua đó bảo toàn tối đa sự độc lập, tự chủ trong đường lối đối ngoại của mình.
2.3. Cân bằng Ngoại giao: Lập trường trong Xung đột Israel-Palestine
Việt Nam đã thể hiện sự khéo léo trong chính sách ngoại giao khi duy trì được mối quan hệ hợp tác chiến lược ngày càng sâu rộng với Israel, đồng thời vẫn giữ vững lập trường truyền thống ủng hộ nhân dân Palestine. Việt Nam công nhận Nhà nước Palestine từ năm 1988 và luôn kêu gọi giải pháp hai nhà nước cho cuộc xung đột.
Lập trường thực dụng và cân bằng này được thể hiện rõ qua cách Việt Nam bỏ phiếu tại Liên Hợp Quốc liên quan đến cuộc xung đột Israel-Hamas gần đây. Việt Nam đã bỏ phiếu thuận cho nghị quyết kêu gọi ngừng bắn vì lý do nhân đạo, nhưng đã không tham gia vào cuộc bỏ phiếu về một sửa đổi có nội dung lên án cụ thể Hamas. Cách tiếp cận này giúp Việt Nam vừa thể hiện quan điểm nhân đạo, vừa tránh đối đầu trực tiếp với bất kỳ bên nào, qua đó bảo vệ được lợi ích quốc gia đa chiều và không để vấn đề này cản trở mối quan hệ đối tác quan trọng với Israel.
Mối quan hệ với Israel không chỉ đơn thuần là một kênh để đa dạng hóa nguồn cung vũ khí. Nó đóng vai trò như một "chất xúc tác" và một "mô hình" để Việt Nam thúc đẩy toàn bộ chiến lược hiện đại hóa và tự chủ công nghiệp quốc phòng. Giá trị của mối quan hệ này vượt xa giá trị của các hợp đồng mua bán. Các dự án hợp tác, đặc biệt là những dự án có yếu tố chuyển giao công nghệ, đã mang lại những bài học kinh nghiệm quý giá, nâng cao năng lực của đội ngũ kỹ sư và công nhân quốc phòng, đồng thời tạo ra một hình mẫu thành công để Việt Nam có thể áp dụng trong việc hợp tác với các đối tác khác trong tương lai.
Phần 3: Các Trụ cột Hợp tác Quốc phòng
Hợp tác quốc phòng Việt Nam-Israel được triển khai trên nhiều lĩnh vực, tạo thành các trụ cột vững chắc, trong đó nổi bật là mua sắm khí tài hiện đại, chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực.
3.1. Mua sắm và Hiện đại hóa Khí tài Chiến lược
Việt Nam đã lựa chọn nhiều hệ thống vũ khí công nghệ cao của Israel để hiện đại hóa quân đội, đặc biệt trong các lĩnh vực có vai trò then chốt.
Phòng không-Không quân: Hệ thống tên lửa phòng không SPYDER do tập đoàn Rafael sản xuất là một trong những thương vụ nổi bật nhất. Việt Nam đã mua cả hai phiên bản: SPYDER-SR (tầm ngắn) và SPYDER-MR (tầm trung). Hệ thống này có khả năng tiêu diệt đa dạng mục tiêu từ máy bay, trực thăng, UAV cho đến tên lửa hành trình ở cự ly từ 15-50 km và độ cao từ 9-16 km. Việc trang bị SPYDER giúp tạo ra một lưới lửa phòng không đa tầng, hiện đại, có khả năng bảo vệ các mục tiêu trọng yếu, bổ sung hiệu quả cho các hệ thống tầm xa như S-300. Việc công khai trưng bày hệ thống này tại Triển lãm Quốc phòng Quốc tế Việt Nam đã gửi đi một thông điệp mạnh mẽ về sự minh bạch chính sách và năng lực phòng thủ.
Trinh sát và Tình báo (ISR): Nâng cao năng lực nhận thức tình huống là một ưu tiên hàng đầu. Việt Nam đã đưa vào biên chế máy bay không người lái (UAV) trinh sát tầm gần Orbiter 2 do hãng ADS sản xuất từ năm 2014. Đồng thời, Việt Nam cũng thể hiện sự quan tâm đặc biệt đến các UAV tầm xa, thời gian bay dài như Heron của IAI, vốn được xem là lựa chọn lý tưởng cho nhiệm vụ tuần tra, giám sát trên các vùng biển rộng lớn như Biển Đông. Gần đây, truyền thông quốc tế đưa tin Việt Nam đã ký hợp đồng mua 2 vệ tinh do thám quân sự OPTSAT từ Israel Aerospace Industries (IAI) với trị giá lên tới hàng trăm triệu USD. Nếu được triển khai, đây sẽ là một bước nhảy vọt về năng lực ISR chiến lược, cho phép Việt Nam giám sát độc lập, chủ động các khu vực quan trọng, giảm sự phụ thuộc vào các nguồn tin bên ngoài.
3.2. Chuyển giao Công nghệ và Hợp tác Công nghiệp Quốc phòng
Đây là lĩnh vực thể hiện rõ nhất chiều sâu và sự tin cậy trong quan hệ đối tác.
Case study điển hình - Súng trường Galil ACE: Dự án hợp tác với công ty IWI của Israel để sản xuất súng trường tiến công Galil ACE 31/32 tại nhà máy Z111 là minh chứng thành công nhất. Đây không chỉ là một hợp đồng mua giấy phép mà là một dự án chuyển giao toàn bộ dây chuyền công nghệ hiện đại trị giá 100 triệu USD. Kết quả là, ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam đã tự sản xuất thành công các mẫu súng trường STV, từng bước thay thế súng AK-47 đã lỗi thời và tiến tới tiêu chuẩn hóa vũ khí cho bộ binh.
Tiềm năng nâng cấp các hệ thống khác: Israel có kinh nghiệm dày dạn trong việc nâng cấp, tích hợp các hệ thống vũ khí có nguồn gốc khác nhau. Việt Nam đã hợp tác với Israel để thử nghiệm hiện đại hóa xe tăng T-54/55. Mặc dù phương án nâng cấp toàn diện có chi phí cao, kinh nghiệm thu được đã giúp Việt Nam tự nghiên cứu, phát triển các giải pháp nâng cấp phù hợp hơn. Khả năng tích hợp các hệ thống vũ khí chuẩn Nga và phương Tây của Israel cũng mở ra một hướng hợp tác quan trọng trong tương lai, khi Việt Nam tiếp tục đa dạng hóa nguồn mua sắm.
3.3. Hợp tác Đào tạo và Trao đổi Chuyên môn
Hợp tác đào tạo được cả hai bên xác định là "cầu nối" quan trọng để tăng cường hiểu biết lẫn nhau và đảm bảo việc làm chủ các công nghệ mới. Phía Israel đã nhiều lần khẳng định sẵn sàng đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo. Các nội dung hợp tác bao gồm đào tạo, huấn luyện kíp chiến đấu vận hành các hệ thống vũ khí mới, chia sẻ kinh nghiệm tác chiến, kỹ thuật tình báo, tìm kiếm cứu nạn và đặc biệt là an ninh mạng.
Bảng 2: Tổng quan Khí tài Israel trong Biên chế hoặc được Việt Nam quan tâm
Lĩnh vực
Hệ thống
Nhà sản xuất Israel
Tình trạng
Vai trò chiến lược đối với Việt Nam
Nguồn
Phòng không
SPYDER-SR/MR
Rafael
Đã xác nhận trong biên chế, trưng bày công khai
Tạo lưới lửa phòng không tầm trung-thấp hiện đại, bảo vệ các mục tiêu trọng yếu.
Vũ khí bộ binh
Galil ACE 31/32 (STV)
IWI
Chuyển giao công nghệ, sản xuất nội địa tại Z111
Tiêu chuẩn hóa vũ khí bộ binh, xây dựng năng lực tự chủ sản xuất vũ khí cá nhân.
UAV
Orbiter 2
ADS
Đã xác nhận trong biên chế
Cung cấp khả năng trinh sát chiến thuật tầm gần, linh hoạt.
UAV
Heron
IAI
Được quan tâm đặc biệt
Nâng cao năng lực tuần thám hàng hải chiến lược tầm xa trên Biển Đông.
Tên lửa chống tăng
Spike NLOS
Rafael
Được quan tâm
Tạo ra năng lực chống tăng tự hành tầm xa, tận dụng các khung gầm cũ.
Vệ tinh
Vệ tinh do thám (OPTSAT)
IAI
Có thông tin đã ký hợp đồng
Tạo bước nhảy vọt về năng lực ISR chiến lược, giám sát độc lập Biển Đông.
Phần 4: Mở rộng Hợp tác sang Lĩnh vực An ninh
Quan hệ đối tác Việt Nam-Israel đã vượt ra khỏi khuôn khổ quốc phòng truyền thống để mở rộng sang các lĩnh vực an ninh toàn diện, đáp ứng các thách thức của thế kỷ 21. Sự phát triển này cho thấy một nhận thức chiến lược sâu sắc rằng trong kỷ nguyên số, an ninh quốc gia và an ninh kinh tế là hai mặt không thể tách rời.
4.1. An ninh mạng: Xây dựng Năng lực Phòng thủ trên Không gian ảo
Với vị thế là một "siêu cường an ninh mạng" , Israel là đối tác quan trọng giúp Việt Nam xây dựng năng lực phòng thủ trên không gian ảo.
Hợp tác cấp chính phủ: Bộ Công an Việt Nam và các cơ quan chức năng của Israel đã xác định an ninh mạng là lĩnh vực hợp tác trọng tâm. Phía Việt Nam đã đề nghị Israel hỗ trợ đào tạo chuyên gia, chia sẻ kinh nghiệm và chuyển giao các công nghệ, thiết bị an ninh mạng tiên tiến để bảo vệ hệ thống thông tin quốc gia.
Hợp tác cấp doanh nghiệp: Sự hợp tác đã lan tỏa sang khu vực tư nhân. Điển hình là việc Tập đoàn FPT của Việt Nam hợp tác với Cymotive, một công ty an ninh mạng hàng đầu của Israel, để cung cấp các giải pháp bảo mật toàn diện cho ngành công nghiệp ô tô. Điều này cho thấy một tư duy an ninh toàn diện, chủ động bảo vệ các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước trước các mối đe dọa ngày càng tinh vi.
Hợp tác xã hội: Hai bên còn phối hợp tổ chức các hội thảo chung về các vấn đề an ninh xã hội, như hội thảo về "Phòng chống bắt nạt trên môi trường mạng", cho thấy sự quan tâm đến an toàn của người dân trên không gian số.
4.2. Hợp tác giữa Bộ Công an và các Cơ quan Chức năng Israel
Quan hệ hợp tác giữa Bộ Công an Việt Nam và các đối tác Israel được đánh giá là đạt nhiều kết quả tích cực và ngày càng đi vào chiều sâu. Hai bên duy trì thường xuyên các hoạt động trao đổi đoàn cấp cao, trong đó có kế hoạch tổ chức Hội nghị Thứ trưởng Bộ Công an Việt Nam - Israel lần thứ 2. Các lĩnh vực hợp tác cụ thể bao gồm:
Trao đổi thông tin, tình báo về tình hình khu vực và công tác phòng chống khủng bố.
Phối hợp trong công tác phòng chống các loại tội phạm xuyên quốc gia như ma túy, mua bán người.
Hợp tác về hậu cần, kỹ thuật nghiệp vụ.
Phối hợp đảm bảo an ninh cho các cơ quan đại diện ngoại giao và công dân của mỗi nước.
Để tạo cơ sở pháp lý vững chắc hơn cho hợp tác, hai bên đang thúc đẩy việc đàm phán các hiệp định quan trọng như Hiệp định về dẫn độ và Hiệp định về chuyển giao người bị kết án phạt tù.
Bảng 3: Các Lĩnh vực Hợp tác An ninh giữa Việt Nam và Israel
Lĩnh vực Hợp tác
Cơ quan/Đối tác tham gia
Nội dung/Hoạt động chính
Mục tiêu chiến lược
Nguồn
An ninh mạng (Chính phủ)
Bộ Công an VN, các cơ quan Israel
Đào tạo chuyên gia, chia sẻ kinh nghiệm, đề xuất chuyển giao công nghệ.
Nâng cao năng lực phòng thủ không gian mạng quốc gia.
An ninh mạng (Doanh nghiệp)
FPT, Cymotive (Israel)
Cung cấp giải pháp bảo mật cho ngành công nghiệp ô tô.
Bảo vệ các ngành kinh tế mũi nhọn, thúc đẩy kinh tế số an toàn.
Chống khủng bố & Tội phạm xuyên quốc gia
Bộ Công an VN, các cơ quan Israel
Trao đổi thông tin, tình báo, phối hợp nghiệp vụ.
Ngăn chặn các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
Hợp tác pháp lý
Bộ Công an VN, Bộ Tư pháp Israel
Đề xuất đàm phán Hiệp định dẫn độ, chuyển giao người bị kết án.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hợp tác phòng chống tội phạm.
Phần 5: Đánh giá Toàn diện, Triển vọng và Khuyến nghị
5.1. Đánh giá Tổng quan: Một Quan hệ Đối tác Chiến lược Thành công
Quan hệ quốc phòng-an ninh Việt Nam-Israel là một mô hình hợp tác thực dụng, hiệu quả và cùng có lợi. Vượt qua những khác biệt về địa lý và chính trị, mối quan hệ này đã phát triển vững chắc để trở thành một "trụ cột hợp tác quan trọng" , đóng góp trực tiếp và đáng kể vào việc nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia của Việt Nam. Nó không chỉ giúp Việt Nam tiếp cận các công nghệ quốc phòng hàng đầu thế giới mà còn hỗ trợ đắc lực cho mục tiêu chiến lược dài hạn là xây dựng một nền công nghiệp quốc phòng tự chủ, hiện đại.
5.2. Triển vọng Phát triển
Tiềm năng hợp tác trong tương lai là rất lớn và được kỳ vọng sẽ phát triển lên "một tầm cao mới" , cả về chiều sâu và chiều rộng.
Về chiều sâu: Hợp tác có thể tiến xa hơn từ việc chuyển giao công nghệ sang các dự án nghiên cứu và phát triển (R&D) chung, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ cao như UAV, radar, tác chiến điện tử và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong quân sự. Việc hiện thực hóa hợp đồng vệ tinh sẽ mở đường cho hợp tác sâu rộng hơn trong lĩnh vực không gian.
Về chiều rộng: Dựa trên nền tảng tin cậy đã được xây dựng từ hợp tác quốc phòng, hai nước có thể mở rộng hợp tác sang các lĩnh vực công nghệ cao dân sự có tính lưỡng dụng như nông nghiệp thông minh, quản lý tài nguyên nước, y tế và công nghệ sinh học.
5.3. Thách thức và Rủi ro cần Quản trị
Bên cạnh những triển vọng tích cực, mối quan hệ cũng đối mặt với một số thách thức cần được quản trị một cách khéo léo:
Nhạy cảm địa chính trị: Tình hình căng thẳng ở Trung Đông luôn tiềm ẩn những biến động phức tạp. Việt Nam cần tiếp tục kiên trì chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và cân bằng để không bị ảnh hưởng bởi các cuộc xung đột trong khu vực.
Chi phí và ngân sách: Các công nghệ và vũ khí của Israel rất tiên tiến nhưng cũng đi kèm với chi phí cao. Việt Nam cần có sự tính toán, cân đối ngân sách quốc phòng một cách hợp lý để đảm bảo tính bền vững của các chương trình mua sắm và hiện đại hóa.
Năng lực hấp thụ công nghệ: Đây là một thách thức nội tại. Việc tiếp nhận, vận hành, bảo dưỡng và tiến tới làm chủ hoàn toàn các hệ thống công nghệ phức tạp đòi hỏi một nguồn nhân lực chất lượng rất cao, cần được đầu tư đào tạo bài bản và dài hạn.
5.4. Khuyến nghị Chính sách
Để tiếp tục phát huy hiệu quả và đưa mối quan hệ đối tác đi vào chiều sâu, có thể xem xét một số định hướng chính sách sau:
Ưu tiên chiều sâu công nghiệp: Dần dịch chuyển trọng tâm từ mua sắm trang bị hoàn chỉnh sang các dự án hợp tác sản xuất, nội địa hóa và R&D chung, tập trung vào các lĩnh vực mà Việt Nam có nhu cầu cấp thiết và có khả năng tiếp thu như UAV, radar, và các hệ thống chỉ huy-điều khiển.
Thể chế hóa hợp tác đào tạo: Xây dựng các chương trình trao đổi, đào tạo sĩ quan, kỹ sư dài hạn và có cấu trúc với các học viện, viện nghiên cứu quốc phòng của Israel. Mục tiêu là tạo ra một đội ngũ chuyên gia nòng cốt, có khả năng làm chủ công nghệ và tham gia vào các dự án phát triển trong tương lai.
Tăng cường cơ chế phối hợp liên ngành: Cần có một cơ chế phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các bộ, ngành liên quan như Quốc phòng, Công an, Khoa học và Công nghệ, và Ngoại giao để tối ưu hóa các hoạt động hợp tác với Israel, đảm bảo lợi ích quốc gia tổng thể và tránh chồng chéo.
Chủ động phát huy ngoại giao quốc phòng: Tiếp tục duy trì đều đặn và nâng cao hiệu quả của cơ chế Đối thoại Chính sách Quốc phòng. Đây phải là kênh then chốt để định hướng chiến lược, giải quyết các vướng mắc và tìm kiếm các cơ hội hợp tác mới, đảm bảo mối quan hệ phát triển ổn định, bền vững và ngày càng thực chất.