Thiếu tướng Lê Văn Cương
Đúng vào ngày này 34 năm trước (17.2.1979), Trung Quốc bất ngờ tung hơn 60 vạn quân nổ súng xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía bắc, nhưng đã phải rút quân sau hơn một tháng gặp sự kháng cự mãnh liệt của quân và dân ta, chịu nhiều tổn thất nặng nề.
Tuy vậy cuộc chiến tranh xâm lược này cũng mở màn cho cuộc xung đột vũ trang tại biên giới giữa VN và Trung Quốc (TQ) kéo dài suốt 10 năm sau đó. Theo thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược - Bộ Công an, với độ lùi về thời gian, việc nhìn nhận lại cuộc chiến tranh này là hoàn toàn cần thiết.
- Kể từ sau khi VN và TQ bình thường hóa quan hệ (1991), hai bên dường như đều không muốn nhắc lại cuộc chiến này. Từ hơn 30 năm qua, cuộc chiến chống quân xâm lược Trung Quốc gần như không được nhắc tới. Theo ông tại sao cuộc chiến lại bị rơi vào lãng quên như vậy?
- Để trả lời câu hỏi này có lẽ cần cả một hội thảo khoa học. Tôi chỉ xin lưu ý như sau, vào những năm kỷ niệm chẵn 10, 15... hay gần đây nhất là 30 năm sau cuộc chiến tranh chống TQ xâm lược (2009), báo chí, truyền hình của VN gần như không đưa tin gì về sự kiện này. Đây là một sự thiếu sót lớn trên góc độ Nhà nước. Hơn thế nữa, đó là một sự xúc phạm đến linh hồn của những đồng bào, chiến sĩ đã bỏ mình để bảo vệ Tổ quốc trong cuộc chiến tháng 2.1979 và gần mười năm sau đó. Họ nằm dưới mộ có yên không? Gia đình vợ con bạn bè và những người thân thích của họ sẽ nghĩ gì về chuyện này? Đã có ý kiến cho rằng nhắc đến những chuyện này cũng có nghĩa là kích động chủ nghĩa dân tộc. Tôi có thể khẳng định rằng nói như vậy là ngụy biện.
Trong khi chúng ta im lặng thì những dịp đó chúng tôi đã thống kê hệ thống phát thanh, truyền hình báo chí của TQ tung ra trung bình từ 600-800 tin, bài với những cái tít gần như có nội dung giống nhau về cái mà họ gọi là “cuộc chiến tranh đánh trả tự vệ trước VN”. Có thông tin cho rằng hiện tại có tới trên 90% người dân TQ vẫn quan niệm rằng năm 1979 Quân đội VN đã vượt biên giới sang tấn công TQ và bắt buộc TQ phải tự vệ đánh trả. Từ hàng chục năm nay, hệ thống tuyên truyền của TQ đã nhồi nhét vào đầu người dân TQ rằng cuộc chiến 1979 chỉ là cuộc phản công trước sự xâm lược của VN.
Theo tôi nghĩ, trong tuyên truyền đối nội và đối ngoại, cả ở kênh nhà nước, nhân dân và trên truyền thông, chúng ta phải làm rõ và góp phần làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ bản chất của cuộc chiến tranh Việt - Trung 1979. Đồng thời góp phần làm cho hơn 1,3 tỉ người TQ biết được sự thật rằng vào ngày đó hơn 60 vạn quân TQ đã vượt biên giới xâm lược VN. Việc chúng ta im lặng hàng chục năm qua, theo tôi là không đúng. Việc nói ra cũng không liên quan gì chuyện kích động chủ nghĩa dân tộc. Hãy thử so sánh chuyện đó với việc TQ tung ra hàng nghìn bài báo xuyên tạc lịch sử từ hàng chục năm qua.
- Với độ lùi về thời gian, theo ông chúng ta có thể rút ra những điều gì từ cuộc chiến tranh này? Những điều đó có ý nghĩa thế nào trong bối cảnh hiện tại ?
- Theo tôi, khoảng thời gian 34 năm đã là khá đủ cho chúng ta nhận thức lại những vấn đề xung quanh cuộc chiến 1979. Thế nhưng đến giờ phút này tôi có cảm giác không phải lúc nào chúng ta cũng có được sự nhận thức thống nhất, nhất quán từ trên xuống dưới.
Vấn đề thứ nhất, phải xác định rõ về mặt khoa học, cuộc chiến 1979 là cuộc chiến tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề phải nhận thức rõ từ cấp cao nhất. Sự nhận thức ấy cũng phải được thống nhất trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Đây là chuyện không được phép mơ hồ.
Không chỉ nhận thức mà Nhà nước có trách nhiệm đưa câu chuyện này vào sách giáo khoa. Thực tế cho thấy phần lớn học sinh tiểu học, trung học và thậm chí đa số trong 1,4 triệu sinh viên hầu như không biết gì về cuộc chiến tranh này. Nếu để tình trạng này kéo dài, trách nhiệm thuộc về Nhà nước. Chắc chắn chúng ta sẽ không tránh được sự phê phán của thế hệ sau này. Hàng vạn người con ưu tú của chúng ta đã bỏ mình để bảo vệ từng tấc đất biên giới phía bắc của Tổ quốc, tại sao không có một dòng nào nhắc đến họ? Bây giờ đã quá muộn. Nhưng không thể để muộn hơn được. Theo quan điểm của tôi, Nhà nước phải yêu cầu đưa phần này vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Chúng ta không thể mơ hồ được, không thể lờ đi vấn đề lịch sử này được.
Tôi đã nhiều lần trao đổi với các học giả nước ngoài và họ đã thắc mắc khá nhiều chuyện tại sao sự kiện chiến tranh chống quân TQ xâm lược năm 1979 lại không được nhắc đến trong các giáo trình lịch sử của VN. Tôi đã phải chống chế với lý do rằng người VN muốn quên đi quá khứ và hướng đến tương lai. Nhiều học giả Hàn Quốc, Nhật Bản đã phản bác tôi vì “Lịch sử là lịch sử. Quá khứ là quá khứ. Tương lai là tương lai”. Họ nói rằng: “Chúng tôi biết người VN rất nhân hậu, muốn hòa hiếu với các dân tộc khác. Nhưng điều này không thể thay thế cho trang sử chống ngoại xâm này được”.
Thứ hai, trong thế giới hiện đại toàn cầu hóa, các quốc gia đều phụ thuộc lẫn nhau. Không có quốc gia nào hoàn toàn độc lập tuyệt đối. Ngay cả Mỹ nhiều lúc cũng phải nhân nhượng các quốc gia khác. Chúng ta không có quan niệm về độc lập chủ quyền tuyệt đối trong thời đại toàn cầu hóa. Nhưng trong bối cảnh này, phải nhận thức rõ cái gì là trường tồn? Theo tôi có 3 thứ là chủ quyền quốc gia, ý thức dân tộc và lợi ích quốc gia. Ở đây chúng ta phân biệt chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa dân tộc nước lớn với lòng yêu nước chân chính, ý thức tự tôn tự hào dân tộc. Hai cái đó khác nhau. Người VN có truyền thống yêu nước, có tinh thần chống ngoại xâm bất khuất, đó là điều cần được phát huy trong 92 triệu người VN trong và ngoài nước.
Chủ quyền quốc gia, ý thức dân tộc và lợi ích quốc gia là những cái “dĩ bất biến”, những cái còn lại là “ứng vạn biến”. Những chuyện “16 chữ”, “bốn tốt” trong quan hệ với TQ là “ứng vạn biến”. Bài học từ cuộc chiến chống xâm lược năm 1979 cho thấy nếu không nhận thức được điều này thì rất nguy hiểm.
Thứ ba, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, tiêu chí để phân biệt người yêu nước hiện nay là anh có bảo vệ lợi ích quốc gia hay không. Trên thế giới này không có bạn bè vĩnh viễn hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia mới là vĩnh viễn. Năm nay chúng ta chuẩn bị tổng kết Nghị quyết T.Ư 8 (7.2003) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Tôi thấy có một quan điểm bây giờ vẫn đúng, đó là: "Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh". Đồng thời, cũng phải có cách nhìn biện chứng về đối tượng và đối tác: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta, cần phải đấu tranh.
- Nhìn lại từ câu chuyện của 34 năm trước đến những căng thẳng hiện tại trong vấn đề biển Đông, theo ông có thể hy vọng gì ở tương lai trong quan hệ giữa VN và TQ ?
- Tạo ra lòng tin, sự hữu nghị chân thật giữa hai nước là con đường tất yếu nhưng đòi hỏi thời gian lâu dài và từ cả hai phía. Đây không phải là điều có thể hy vọng có được trong vài ba năm tới đây. Lịch sử mách bảo chúng ta muốn giữ được hòa bình, ổn định, giữ được độc lập tự chủ thì điều quan trọng nhất là giữ được lòng dân. Trên dưới một lòng, có được sự đoàn kết dân tộc thì chắc chắn không có kẻ xâm lược nào dám dại dột động đến chúng ta cả. Lịch sử VN đã cho thấy những lần mất nước đều bắt đầu từ việc chính quyền mất dân. Năm 179 trước CN An Dương Vương để mất nước là do mất dân. Một ông vua đứng đầu quốc gia mà tin vào kẻ thù thì chuyện mất nước là không thể tránh khỏi. Năm 1406, nhà Hồ mất nước cũng vì đã mất dân. Đến mức độ nhà Minh truy bắt cha con Hồ Quý Ly thì chính những người trong nước đã chỉ điểm cho quân Minh. Năm 1788 Lê Chiêu Thống sang cầu viện Mãn Thanh đưa 20 vạn quân sang giày xéo quê cha đất tổ cũng là ông vua đã mất dân. Đó là bài học muôn đời để bảo vệ chủ quyền quốc gia.
NG.PHONG (THANH NIÊN ONLINE)
Đúng vào ngày này 34 năm trước (17.2.1979), Trung Quốc bất ngờ tung hơn 60 vạn quân nổ súng xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía bắc, nhưng đã phải rút quân sau hơn một tháng gặp sự kháng cự mãnh liệt của quân và dân ta, chịu nhiều tổn thất nặng nề.
Tuy vậy cuộc chiến tranh xâm lược này cũng mở màn cho cuộc xung đột vũ trang tại biên giới giữa VN và Trung Quốc (TQ) kéo dài suốt 10 năm sau đó. Theo thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược - Bộ Công an, với độ lùi về thời gian, việc nhìn nhận lại cuộc chiến tranh này là hoàn toàn cần thiết.
- Để trả lời câu hỏi này có lẽ cần cả một hội thảo khoa học. Tôi chỉ xin lưu ý như sau, vào những năm kỷ niệm chẵn 10, 15... hay gần đây nhất là 30 năm sau cuộc chiến tranh chống TQ xâm lược (2009), báo chí, truyền hình của VN gần như không đưa tin gì về sự kiện này. Đây là một sự thiếu sót lớn trên góc độ Nhà nước. Hơn thế nữa, đó là một sự xúc phạm đến linh hồn của những đồng bào, chiến sĩ đã bỏ mình để bảo vệ Tổ quốc trong cuộc chiến tháng 2.1979 và gần mười năm sau đó. Họ nằm dưới mộ có yên không? Gia đình vợ con bạn bè và những người thân thích của họ sẽ nghĩ gì về chuyện này? Đã có ý kiến cho rằng nhắc đến những chuyện này cũng có nghĩa là kích động chủ nghĩa dân tộc. Tôi có thể khẳng định rằng nói như vậy là ngụy biện.
Trong khi chúng ta im lặng thì những dịp đó chúng tôi đã thống kê hệ thống phát thanh, truyền hình báo chí của TQ tung ra trung bình từ 600-800 tin, bài với những cái tít gần như có nội dung giống nhau về cái mà họ gọi là “cuộc chiến tranh đánh trả tự vệ trước VN”. Có thông tin cho rằng hiện tại có tới trên 90% người dân TQ vẫn quan niệm rằng năm 1979 Quân đội VN đã vượt biên giới sang tấn công TQ và bắt buộc TQ phải tự vệ đánh trả. Từ hàng chục năm nay, hệ thống tuyên truyền của TQ đã nhồi nhét vào đầu người dân TQ rằng cuộc chiến 1979 chỉ là cuộc phản công trước sự xâm lược của VN.
Theo tôi nghĩ, trong tuyên truyền đối nội và đối ngoại, cả ở kênh nhà nước, nhân dân và trên truyền thông, chúng ta phải làm rõ và góp phần làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ bản chất của cuộc chiến tranh Việt - Trung 1979. Đồng thời góp phần làm cho hơn 1,3 tỉ người TQ biết được sự thật rằng vào ngày đó hơn 60 vạn quân TQ đã vượt biên giới xâm lược VN. Việc chúng ta im lặng hàng chục năm qua, theo tôi là không đúng. Việc nói ra cũng không liên quan gì chuyện kích động chủ nghĩa dân tộc. Hãy thử so sánh chuyện đó với việc TQ tung ra hàng nghìn bài báo xuyên tạc lịch sử từ hàng chục năm qua.
Bộ đội Việt Nam đánh trả quân Trung Quốc xâm lược tại Lạng Sơn năm 1979
- Với độ lùi về thời gian, theo ông chúng ta có thể rút ra những điều gì từ cuộc chiến tranh này? Những điều đó có ý nghĩa thế nào trong bối cảnh hiện tại ?
- Theo tôi, khoảng thời gian 34 năm đã là khá đủ cho chúng ta nhận thức lại những vấn đề xung quanh cuộc chiến 1979. Thế nhưng đến giờ phút này tôi có cảm giác không phải lúc nào chúng ta cũng có được sự nhận thức thống nhất, nhất quán từ trên xuống dưới.
Vấn đề thứ nhất, phải xác định rõ về mặt khoa học, cuộc chiến 1979 là cuộc chiến tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề phải nhận thức rõ từ cấp cao nhất. Sự nhận thức ấy cũng phải được thống nhất trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Đây là chuyện không được phép mơ hồ.
Không chỉ nhận thức mà Nhà nước có trách nhiệm đưa câu chuyện này vào sách giáo khoa. Thực tế cho thấy phần lớn học sinh tiểu học, trung học và thậm chí đa số trong 1,4 triệu sinh viên hầu như không biết gì về cuộc chiến tranh này. Nếu để tình trạng này kéo dài, trách nhiệm thuộc về Nhà nước. Chắc chắn chúng ta sẽ không tránh được sự phê phán của thế hệ sau này. Hàng vạn người con ưu tú của chúng ta đã bỏ mình để bảo vệ từng tấc đất biên giới phía bắc của Tổ quốc, tại sao không có một dòng nào nhắc đến họ? Bây giờ đã quá muộn. Nhưng không thể để muộn hơn được. Theo quan điểm của tôi, Nhà nước phải yêu cầu đưa phần này vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Chúng ta không thể mơ hồ được, không thể lờ đi vấn đề lịch sử này được.
Bệnh viện huyện Trùng Khánh, Cao Bằng bị quân Trung Quốc tàn phá tháng 2.1979 - Ảnh: Tư liệu
Thứ hai, trong thế giới hiện đại toàn cầu hóa, các quốc gia đều phụ thuộc lẫn nhau. Không có quốc gia nào hoàn toàn độc lập tuyệt đối. Ngay cả Mỹ nhiều lúc cũng phải nhân nhượng các quốc gia khác. Chúng ta không có quan niệm về độc lập chủ quyền tuyệt đối trong thời đại toàn cầu hóa. Nhưng trong bối cảnh này, phải nhận thức rõ cái gì là trường tồn? Theo tôi có 3 thứ là chủ quyền quốc gia, ý thức dân tộc và lợi ích quốc gia. Ở đây chúng ta phân biệt chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa dân tộc nước lớn với lòng yêu nước chân chính, ý thức tự tôn tự hào dân tộc. Hai cái đó khác nhau. Người VN có truyền thống yêu nước, có tinh thần chống ngoại xâm bất khuất, đó là điều cần được phát huy trong 92 triệu người VN trong và ngoài nước.
Chủ quyền quốc gia, ý thức dân tộc và lợi ích quốc gia là những cái “dĩ bất biến”, những cái còn lại là “ứng vạn biến”. Những chuyện “16 chữ”, “bốn tốt” trong quan hệ với TQ là “ứng vạn biến”. Bài học từ cuộc chiến chống xâm lược năm 1979 cho thấy nếu không nhận thức được điều này thì rất nguy hiểm.
Thứ ba, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, tiêu chí để phân biệt người yêu nước hiện nay là anh có bảo vệ lợi ích quốc gia hay không. Trên thế giới này không có bạn bè vĩnh viễn hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia mới là vĩnh viễn. Năm nay chúng ta chuẩn bị tổng kết Nghị quyết T.Ư 8 (7.2003) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Tôi thấy có một quan điểm bây giờ vẫn đúng, đó là: "Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh". Đồng thời, cũng phải có cách nhìn biện chứng về đối tượng và đối tác: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta, cần phải đấu tranh.
Tù binh Trung Quốc bị bắt tại Cao Bằng
- Nhìn lại từ câu chuyện của 34 năm trước đến những căng thẳng hiện tại trong vấn đề biển Đông, theo ông có thể hy vọng gì ở tương lai trong quan hệ giữa VN và TQ ?
- Tạo ra lòng tin, sự hữu nghị chân thật giữa hai nước là con đường tất yếu nhưng đòi hỏi thời gian lâu dài và từ cả hai phía. Đây không phải là điều có thể hy vọng có được trong vài ba năm tới đây. Lịch sử mách bảo chúng ta muốn giữ được hòa bình, ổn định, giữ được độc lập tự chủ thì điều quan trọng nhất là giữ được lòng dân. Trên dưới một lòng, có được sự đoàn kết dân tộc thì chắc chắn không có kẻ xâm lược nào dám dại dột động đến chúng ta cả. Lịch sử VN đã cho thấy những lần mất nước đều bắt đầu từ việc chính quyền mất dân. Năm 179 trước CN An Dương Vương để mất nước là do mất dân. Một ông vua đứng đầu quốc gia mà tin vào kẻ thù thì chuyện mất nước là không thể tránh khỏi. Năm 1406, nhà Hồ mất nước cũng vì đã mất dân. Đến mức độ nhà Minh truy bắt cha con Hồ Quý Ly thì chính những người trong nước đã chỉ điểm cho quân Minh. Năm 1788 Lê Chiêu Thống sang cầu viện Mãn Thanh đưa 20 vạn quân sang giày xéo quê cha đất tổ cũng là ông vua đã mất dân. Đó là bài học muôn đời để bảo vệ chủ quyền quốc gia.
NG.PHONG (THANH NIÊN ONLINE)
Hôm nay (17/2), ngày mồng Tám Tết, nhưng cũng là ngày kỉ niệm 34 năm Tàu xâm lăng nước ta và tàn sát hàng vạn dân ta. Cuộc chiến kéo dài chỉ có 16 ngày, nhưng đã để lại một nỗi đau khó có thể nguôi ngoai trong lòng bất cứ người dân Việt nào còn quan tâm đến sự vẹn toàn của đất nước. Ấy vậy mà báo chí, vì lí do nào đó, gần như im lặng. Năm ngoái họ cũng im lặng. Chợt nhớ đến câu those who forget the past are doomed to repeat it – những kẻ nào lãng quên quá khứ sẽ dẫm phải quá khứ.
Cuộc chiến đẫm máu ngày 17/2/1979 là hoàn toàn do Tàu chủ động, và phía Việt Nam thì hình như thiếu chuẩn bị. Thời gian đó, tôi vẫn còn ở trong nước, nhưng không nhớ chính xác đang đi công tác nơi nào. Chỉ nhớ sau 2 ngày tôi mới biết tin. Lúc đó, trong cơ quan vẫn còn “truyền thống” mà theo đó, mỗi sáng có người đọc báo cho cả nhóm cùng nghe. Báo thì chỉ là Nhân dân hay Quân đội nhân dân thôi. Tôi nhớ người đọc báo (là một anh tốt nghiệp đại học kinh tế Sài Gòn) giọng rung rung. Chúng tôi ai cũng giận dữ và quyết chí tìm cách ăn thua đủ với bọn bành trướng. Thời đó, báo chí VN gọi bọn Tàu là “bành trướng”. Sau đó thì đài radio và tivi liên tục cho phát đi những bài nhạc hùng, nhạc chống Tàu, ôn lại những trang sử hào hùng đánh Tàu. Cả cộng đồng nóng lên với quyết tâm đánh Tàu. Ai cũng xác định đây Tàu là kẻ thù truyền kiếp, và đã đến lúc phải nói lên điều này cho mọi người biết. Tàu là kẻ thù truyền kiếp chứ chẳng phải bạn bè gì cả. Trớ trêu thay, ngày nay Nhà nước và Đảng CSVN lại xem -- và bắt 90 triệu người Việt xem -- họ như là người bạn “bốn tốt” và “16 chữ vàng”! Vẫn biết chúng ta phải làm bạn với mọi người, kể cả kẻ cựu thù, và vẫn biết rất có thể Nhà nước và Đảng CSVN nói là để nói, nhưng thú thật tôi thấy rất khó nuốc cái 4 tốt và 16 chữ vàng của những kẻ lúc nào cũng lăm le xâm chiếm nước ta.
Trước khi xua quân tấn công các tỉnh phía Bắc Việt Nam, Đặng Tiểu Bình từng huyênh hoang tuyên bố ở Nhật rằng “sẽ dạy cho Việt Nam một bài học”, rằng “Việt Nam là một côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học”. Thật ngạc nhiên, một kẻ lãnh đạo một nước đông dân nhất thế giới mà nói năng rất ... côn đồ như thế. Sau này, đọc những gì các quan chức Tàu phát biểu, tôi cũng thấy họ có cách nói rất ư là … vô giáo dục. Ngôn ngữ và hành động của Đặng xứng đáng với danh hiệu lưu manh quốc tế. Điều trớ trêu là ngày nay, các nhà xuất bản Việt Nam tranh nhau xuất bản những cuốn sách ca ngợi cuộc đời và sự nghiệp của tên lưu manh quốc tế này.
Cuộc chiến 16 ngày đó gây tổn hại nặng nề cho ta. Có lẽ chúng ta không bao giờ biết được con số tử vong, nhưng vài thống kê cho thấy con số đó rất lớn. Phía Tàu (qua tướng Ngũ Tu Quyền) nói rằng có đến 20,000 quân Việt Nam bị tử vong. Nhưng bọn Tàu nói thì chúng ta không tin được, vì cái máu nói láo của họ đã được encoded vào DNA rồi. Tạp chí Time cho rằng số lính VN bị tử vong là 10,000 người, và số dân bị giết chết cũng khoảng 10,000 người. Các chuyên gia sử phương Tây thì cho rằng Tàu bị chết 26,000 quân và 46,000 bị thương. Theo sử gia này (Russell Howard) thì con số bên VN cũng tương đương. Dù còn trong vòng ước tính, những con số trên đây cho thấy rõ ràng là có ít nhất 20,000 người Việt đã chết dưới họng súng của bọn Tàu. Đó là một con số rất lớn. Tính trung bình mỗi ngày chúng ta mất ít nhất 1250 người, hay mỗi giờ có 52 người ngã xuống.
Không chỉ thiệt hại về con người, mà cuộc chiến còn gây thiệt hại rất lớn về cơ sở hạ tầng. Các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, Cam Đường bị tiêu huỷ hoàn toàn. Trường học, bệnh viên, bệnh xá, công sở, hãng xưởng, v.v. bị bị bọn Tàu tiêu huỷ hết. Bẩn thỉu và bần tiện hơn, bọn Tàu còn căn cướp cả tài sản, xe cộ, thậm chí gia cầm của người dân. Tất cả những sự thật đó nhắc nhở chúng ta rằng đối với bọn Tàu ô không chỉ là một kẻ thù, mà còn là kẻ thù dơ bẩn. Người Nhật rất khinh bỉ người Tàu vì cái tính hèn hạ và xảo quyệt của chúng, và chúng ta cũng có lí do để khinh khi những kẻ thù vừa bẩn vừa tàn bạo (nếu không muốn nói là nó thể hiện cái thú tính của những tên Tàu ô trong đội quân viễn chinh).
Nghe nói rằng sau cuộc chiến Việt Nam đã mất một số đất về tay bọn Tàu. Chẳng biết điều này đúng hay sai, nhưng Nhà nước Việt Nam không hề lên tiếng đính chính hay phản bác.
Cuộc chiến 1979 là một cuộc chiến mang tính lịch sử, và đáng được các thế hệ sau biết đến. Đã 34 năm rồi, tức đã có một thế hệ lớn lên sau cuộc chiến, nhưng hình như số người biết đến cuộc chiến chẳng bao nhiêu. Cả chục năm nay, đài báo Việt Nam không còn nhắc đến cuộc chiến như trước đây. Chẳng hạn như năm nay, dạo qua một vòng vài tờ báo, chỉ có Thanh Niên là nhắc đến cuộc chiến, còn các tờ khác thì chọn thái độ im lặng. (Nhưng phía Tàu thì họ thỉnh thoảng có nhắc đến.) Chính thái độ im lặng và cố tình lãng quên lịch sử này là lời giải thích tại sao thanh thiếu niên Việt Nam vẫn chưa biết Hoàng Sa đã bị quân Tàu đánh chiếm như Thanh Niên mới phản ảnh !
Viết đến đây tôi nhớ đến phát biểu của một ông nghị gây sốc cho nhiều người như sau: “Mỹ kiêng sợ Trung Quốc đến độ nhiều chục năm qua không bao giờ dám gọi đồng minh Đài Loan là quốc gia. Thái Lan kiêng sợ Trung Quốc. Thế giới kiêng sợ Trung Quốc. Trung Quốc không sợ bất kỳ quân đội nào của thế giới. Trung Quốc chiếm Hoàng Sa đánh tan các chiến hạm Việt Nam Cộng Hòa ngay trước mũi Đệ Thất Hạm Đội hùng hậu của Hoa Kỳ.” Ông nghị này có vẻ rất thích thú khi thấy Tàu đánh chiếm Hoàng Sa của Việt Nam? Xin nhắc lại để các bạn không lầm: người phát biểu là một đại biểu trong Quốc hội Việt Nam, chứ không phải Quốc hội China.
Tôi tự hỏi tại sao không nhắc đến cuộc chiến 1979? Hơn 30 năm cũng đủ để chúng ta có cái nhìn tỉnh táo hơn. Phải biết lịch sử và những yếu tố liên quan để tránh lặp lại vết xẻ đổ trong quá khứ. Một dân tộc không dám nhìn quá khứ là một dân tộc chưa trưởng thành.
N.V.T
Xem thêm:
- Muốn đi đến tương lai, có thể không cần mang vác một quá khứ nặng nề nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, cứ đến ngày này là muốn dừng lại để suy ngẫm, dù bằng im lặng hay qua bài viết. Bởi vì có nơi có lúc “chỉ có sự im lặng mênh mông mới không xúc phạm tới chân lý”.
Dẫu sao vẫn cám ơn nhà văn Tạ Duy Anh khi bàn về viết lách, “viết rất mệt, nhưng không viết còn mệt hơn!”. Thật khó tìm được một ý tưởng nào có tính đồng cảm cao như thế để người viết sẻ chia với nhà văn, tuy không dám nhận mình đã đọc được nhiều trang sách của Thánh hiền.
Kết thúc một chuyên luận 11.364 từ về một đề tài gai góc mà nhà văn không giấu giếm rằng, cho đến khi hạ con chữ cuối cùng của chuyên luận, anh vẫn chưa thoát khỏi cảm giác “nghĩ mãi không ra” (?)
Vòng xoáy mới?
Theo GS. Lý Tiểu Binh (Xiaobing Li), trưởng Phân khoa Sử-Địa thuộc Đại học Oaklahoma (Mỹ), khi phát động cuộc chiến biên giới phía Bắc, đối phương muốn chứng tỏ với khu vực/thế giới, họ sẵn sàng sử dụng vũ lực để giải quyết các cuộc tranh chấp lãnh thổ.
43 năm trôi qua từ ngày ấy, quan hệ Việt - Trung vẫn tiếp tục bị căng kéo. Tuy đã có một thời ngắn ngủi, dưới tác động của “Đổi mới” và “Hiện đại hóa”, cả Hà Nội lẫn Bắc Kinh dường như tạm gác các tranh chấp để tập trung cho công cuộc phát triển hòa bình.
Nhưng công cuộc phát triển ấy ngày nay đang bị đe dọa bởi hàng loạt những hành động lấn lướt của Trung Quốc, chống lại điều mà họ cho là các vi phạm đối với lãnh hải của họ trên Biển Đông, một Biển Đông mà họ đòi chiếm trên 80% diện tích.
Rồi chính tờ “Hoàn cầu thời báo”, một phiên bản chính thống từ cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc, đã không ít lần hô hào nên đánh Philippines sớm (!), vì nhờ vậy, một cuộc chiến tranh nhỏ sẽ giành thắng lợi, để tránh những cuộc chiến lớn khác sau này (!).
Các nhà quan sát cho rằng, các kiểu “võ mồm” như thế có thể làm cho quan hệ rơi vào vòng xoáy xung đột mới với các nước Đông Nam Á có yêu sách chủ quyền ở vùng biển rất quan trọng cho hoạt động thương mại của cả thế giới này.
Báo cáo của Nhóm khủng hoảng quốc tế (ICG) tại Bỉ nhận định rằng, chính các quan chức Trung Quốc cũng không biết cụ thể giới hạn những khu vực mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền trên biển Đông. Theo AP, báo cáo này còn cho biết, Trung Quốc giao trách nhiệm quản lý các khu vực trên cho không dưới 10 cơ quan khác nhau, hoạt động chồng chéo và mâu thuẫn lợi ích lẫn nhau.
Trên thực tế, cả hai bên đang tiến tới một ngã ba đường để lấy những quyết định chiến lược, có tính chất hệ trọng ảnh hưởng đến tương lai mỗi dân tộc. Trước thời khắc ấy, cả hai bên nên nhìn nhận lại lần nữa một cách kỹ lưỡng, hy vọng rút ra ít nhiều điều hữu ích để có quyết định sáng suốt.
Sống yên ổn với đại quốc
Một trong những điều đáng suy ngẫm nhất, đó là phải tìm mọi cách tránh xung đột vũ trang khi còn có thể! Bản thân Trung Quốc cũng đang làm điều tương tự với các láng giềng Nhật Bản và Hàn Quốc, mặc dù, một bộ phận dư luận ở nước họ cũng có những tuyên bố sặc mùi thuốc súng.
Tuy nhiên, tìm mọi cách để tránh, khác với tránh bằng mọi giá! Hoàn toàn đồng ý với nhà văn Tạ Duy Anh nên xin dẫn một đoạn từ chuyên luận của anh:
“Đọc lại lịch sử chúng ta đều nhận thấy ông cha ta cực kỳ nhất quán với quan điểm đó. Cố gắng hòa hiếu đến phút chót và chỉ khi không còn cách nào khác mới phải dùng đến vũ khí. Trước thế giặc quá mạnh, triều đình nhà Trần thậm chí đã nghĩ đến chuyện buông vũ khí để mong không phải chịu cảnh binh đao khốc liệt có nguy cơ hủy diệt cả dân tộc! Sửa chữa sai lầm chết người ấy chính là nhân sĩ, trí thức, tướng lĩnh và những người dân cày Đại Việt”.
Nhân ngày hôm nay, mong độc giả tham khảo bài viết của nhà văn Tạ Duy Anh “Sống với Trung Quốc” để cùng nhau chia sẻ một cách nhìn về bản chất của mối bang giao Việt-Trung, của các cuộc tranh chấp trên Biển Đông hiện nay cùng với các dự báo cho tương lai, về các hành động của Trung Quốc và sự lựa chọn nên có của Việt Nam.
Có thể đây chưa phải là một bài viết hoàn hảo, nhưng dù sao nó đã hâm nóng cái tinh thần “bóp nát quả cam”, hâm nóng cái quyết tâm “nếu bệ hạ định hàng giặc thì trước hết hãy chém đầu thần đi đã”. Chính nhờ tinh thần ấy mà triều đình nhà Trần đã kết thành một khối rắn chắc, chôn vùi huyền thoại sức mạnh Nguyên-Mông và tạo nên hào khí Đông A để tiếng thơm đến muôn đời.
Cầu hòa là văn hóa phổ quát của những đất nước và xã hội văn minh trong cộng đồng quốc tế, là cách ứng xử khôn sáng của con người có văn hóa. Chỉ có những ai còn khư khư lối sống và tư tưởng thời bộ lạc mới đòi sống mái với bộ lạc khác. Đó là văn hóa bộ lạc thời tiền sử.
Nhưng cầu hòa không đồng nghĩa với việc để cương vực và lãnh hải bị xâm phạm. Cầu hòa không đồng nghĩa với việc quá lo sợ chiến tranh mà đành ôm hận để biển đảo bị nuốt dần, dân lành bị giết hại.
Việt Nam là nước nhỏ hơn, dĩ nhiên luôn cần hòa bình, sống yên ổn bên cạnh đại quốc, nhưng đại quốc cũng cần yên bờ cõi không kém, đặc biệt là cửa ngõ phía Nam, nơi chúng ta có lợi thế về vị trí địa lý trong tác chiến.
Vị trí ấy trong thời đại ngày nay được bồi đắp thêm bởi thế “hợp tung liên hoành” mới. Thời nay, hai chiến lược hợp tung và liên hoành không đơn thuần chỉ mang tính chất quân sự như thời Chiến quốc mà trước hết ưu tiên căn bản trên cơ sở kinh tế, cơ sở của sức mạnh mềm. Sự kết nối trong khu vực và trên toàn cầu là một hy vọng khả thi để sống yên ổn.
Mong lắm thay!
Nguyễn Thiều Quang
.by Osin HuyDuc on Wednesday, February 16, 2011 at 9:21am
Tháng Hai, những cây đào cổ thụ trước cổng đồn biên phòng Lũng Cú, Hà Giang, vẫn chưa có đủ hơi ấm để đâm hoa; những khúc quanh trên đèo Tài Hồ Sìn, Cao Bằng, vẫn mịt mù trong sương núi. Sáng 7-2 nắng lạnh, vợ chồng ông Nguyễn Văn Quế, 82 tuổi, nhà ở khối Trần Quang Khải 1, thị xã Lạng Sơn, ngồi co ro kể lại cái chết 30 năm trước của con trai mình, anh Nguyễn Văn Đài. Năm ấy, Đài 22 tuổi. Ông Quế nói: “Để ghi nhớ ngày ấy, chúng tôi lấy Dương lịch, 17-2, làm đám giỗ cho con”. Năm 1979, vào lúc 5giờ 25 phút sáng ngày 17-2, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ Phong Thổ, Lai Châu, tới địa đầu Móng Cái.
“Những đôi mắt”
Hôm ấy, ông Quế không có nhà, vợ ông, bà Dự, bị dựng dậy khi bên ngoài trời hãy còn rất tối. Bà nghe tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng Sơn. Bà Dự đánh thức các con dậy, rồi 4 mẹ con dắt díu nhau chạy về xuôi. Tới ki-lô-mét số 10, đã quá trưa, bà rụng rời khi hay tin, anh Đài đã bị quân Trung Quốc giết chết. Anh Đài là công nhân đường sắt, thời điểm ấy, các anh đương nhiên trở thành tự vệ bảo vệ đoạn đường sắt ở Hữu Nghị Quan. Anh em công nhân trong đội của Đài bị giết gần hết ngay từ sáng sớm. Đài thuộc trong số 3 người kịp chạy về phía sau, nhưng tới địa bàn xã Thanh Hòa thì lại gặp Trung Quốc, thêm 2 người bị giết. Người sống sót duy nhất đã báo tin cho bà Dự, mẹ Đài.
Cùng thời gian ấy, ở bên núi Trà Lĩnh, Cao Bằng, chị Vương Thị Mai Hoa, một giáo viên cấp II, người Tày, mới ra trường, cũng bị giật dậy lúc nửa đêm rồi theo bà con chạy vào hang Phịa Khóa. Hàng trăm dân làng trú trong hang khi pháo Trung Quốc gầm rú ở bên ngoài, rồi lại gồng gánh theo nhau vào phía Lũng Pùa, chạy giặc. Chị Hoa không bao giờ có thể quên “từng đôi mắt” của dòng người gồng gánh ấy. Giờ đây, ngồi trong một cửa hàng bán băng đĩa trên phố Kim Đồng, thị xã Cao Bằng, chị Hoa nhớ lại: “Năm ấy, tôi 20 tuổi. Tôi nghĩ, tại sao mình lại chạy!”. Chị quay lại, sau khi thay quần áo giáo viên bằng bộ đồ chàm vì được những người chạy sau cho biết, rất nhiều người dân ăn mặc như cán bộ đã bị quân Trung Quốc giết chết. Từ trên đồi, chị Hoa thấy quân Trung Quốc gọi nhau ý ới và tiến vào từng đoàn.
“Cuộc Chiến 16 Ngày”
Ngày 15-2-1979, Đại tá Hà Tám, năm ấy là trung đoàn trưởng trung đoàn 12, thuộc lực lượng Biên phòng, trấn ở Lạng Sơn, được triệu tập. Cấp trên của ông nhận định: “Ngày 22 tháng 2, địch sẽ đánh ở cấp sư đoàn”. Ngay trong ngày 15, ông ra lệnh cấm trại, “Cấp chiến thuật phải sẵn sàng từ bây giờ”, ông nói với cấp dưới. Tuy nhiên, ông vẫn chưa nghĩ là địch sẽ tấn công ngay. Đêm 16-2, chấp hành ý kiến của Tỉnh, ông sang trại an dưỡng bên cạnh nằm dưỡng sức một đêm bởi vì ông bị mất ngủ vì căng thẳng sau nhiều tháng trời chuẩn bị. Đêm ấy, Trung Quốc đánh.
Ở Cao Bằng, sáng 16 tháng 2, tất cả các đồn trưởng Biên phòng đều được triệu tập về thị xã Cao Bằng nhận lệnh, sáng hôm sau họ tìm về đơn vị triển khai chiến đấu khi Trung Quốc đã tấn công rồi. Sáng 17-2, Tỉnh Cao Bằng ra lệnh “sơ tán triệt để khỏi thị xã”; đại đội 22 của thị xã Cao Bằng được trang bị thêm 17 khẩu súng chống tăng B41. Ngày 18-2, một chiếc tăng Trung Quốc có “Việt gian” dẫn đường lọt tới Cao Bằng và bị tiêu diệt. Nhiều nơi, chỉ khi nhìn thấy chữ “Bát Nhất”, người dân mới nhận ra đấy là tăng Trung Quốc. Đại tá Hà Tám công nhận: “Về chiến lược ta đánh giá đúng nhưng về chiến thuật có bất ngờ”. Tuy nhiên, Đại tá Hoàng Cao Ngôn, Tỉnh đội trưởng Cao Bằng thời kỳ 17-2, nói rằng, cho dù không có bất ngờ thì tương quan lực lượng là một vấn đề rất lớn. Phần lớn quân chủ lực của Việt Nam đang ở chiến trường Campuchia. Sư đoàn 346 đóng tại Cao Bằng nhiều năm chủ yếu làm nhiệm vụ kinh tế, thời gian huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trở lại chưa nhiều. Lực lượng cầm chân Trung Quốc ở tuyến một, hướng Cao Bằng, chủ yếu là địa phương quân, chỉ có khoảng hơn 2 trung đoàn.
Trong khi, theo tài liệu từ Trung Quốc, chỉ riêng ở Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung Quốc sử dụng tới 6 sư đoàn; ở Lạng Sơn 3 sư và Lào Cai 3 sư. Hôm sau, 18-2, Trung Quốc tăng cường cho hướng Cao Bằng 1 sư đoàn và 40 tăng; Lạng Sơn, một sư và 40 tăng; Lào Cai, 2 trung đoàn và 40 tăng. Lực lượng Trung Quốc áp sát Biên giới vào ngày 17-2 lên tới 9 quân đoàn chủ lực. Ngày 17-2, Trung quốc tiến vào Bát xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Đồng Đăng; 24-2, Trung Quốc chiếm thị xã Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc đánh vào thị xã.
Thế nhưng, bằng một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều, các đơn vị Biên giới đã nhanh chóng tổ chức chiến đấu. Theo cuốn “10 Năm Chiến Tranh Trung Việt”, xuất bản lần đầu năm 1993 của NXB Đại học Tứ Xuyên, quân Trung Quốc đã gọi con đường tiến vào thị xã Cao Bằng của họ là những “khe núi đẫm máu”. Đặc biệt, tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau ngày 17-2, chỉ cần đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua đèo Tài Hồ Sìn, cũng đã khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía. Những người dân Biên giới cho đến hôm nay vẫn nhớ mãi hình ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị những cánh quân của ta cơ động liên tục, đánh cho tan tác. Đầu tháng 3-1979, trong khi hai sư đoàn 346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đòn vu hồi. Từ Campuchia, sau khi đuổi Pol Pốt khỏi Phnompênh, hai quân đoàn tinh nhuệ của Việt Nam được điều ra phía Bắc. Ngay sau khi Quân đoàn II đặt những bước chân đầu tiên lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn; Quân Đoàn III tới Na Rì; Chủ tịch Nước ra lệnh “Tổng Động viên”… ngày 5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân về nước.
Lào Cai, Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn… bị phá tan hoang. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc phá sạch sẽ từng ngôi nhà, từng công trình, ốp mìn cho nổ tung từng cột điện. Nếu như, ở Bát Xát, Lao Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Thì, tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút lui, quân Trung Quốc đã giết 43 người, gồm 21 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pốt. Mười người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối.
Lặng Lẽ Hoa Đào
Ngồi đợi ông Nguyễn Thanh Loan, người trông giữ nghĩa trang Vị Xuyên, Hà Giang, chúng tôi nhìn ra xa. Tháng Hai ở đây mới là mùa hoa đào nở. Nghĩa trang có 1680 ngôi mộ. Trong đó, 1600 mộ là của các liệt sỹ hy sinh trong cuộc chiến tranh từ ngày 17-2. Ở Vị Xuyên, tiếng súng chỉ thật sự yên vào đầu năm 1990. Năm 1984, khi Trung Quốc nổ súng trở lại hòng đánh chiếm hơn 20 cao điểm ở Thanh Thủy, Vị Xuyên, bộ đội đã phải đổ máu ở đây để giành giật lấy từng tấc đất. Rất nhiều chiến sỹ đã hy sinh, đặc biệt là hy sinh khi tái chiếm đỉnh cao 1509. Ông Loan nhớ lại, cứ nửa đêm về sáng, xe GAT 69 lại chở về, từng túi tử sỹ xếp chồng lên nhau. Trong số 1600 liệt sỹ ấy, chủ yếu chết trong giai đoạn 1984, 1985, có người chết 1988, còn có 200 ngôi mộ chưa xác định được là của ai. Sau khi hoàn thành việc phân giới cắm mốc, cái pháo đài trên đỉnh 1509 mà Trung Quốc dành được và xây dựng trong những năm 80, vẫn còn. Họ nói là để làm du lịch. Từ 1509, có thể nhìn thấu xuống thị xã Hà Giang. Năm 1984, từ 1509 pháo Trung Quốc đã bắn vào thị xã.
Trên đường lên Mèo Vạc, sương đặc quánh ngoài cửa xe. Từng tốp, từng tốp trai gái H’mông thong thả cất bước du xuân. Có những chàng trai đã tìm được cho mình cô gái để cầm tay. Một biên giới hữu nghị và hòa bình là vô cùng quý giá. Năm 1986, vẫn có nhiều người chết vì đạn pháo Trung Quốc nơi đoạn đường mà chúng tôi vừa đi, nơi các cô gái, hôm nay, để cho các chàng trai cầm tay kéo đi với gương mặt tràn trề hạnh phúc.
Quá khứ, rất cần khép lại để cho những hình ảnh như vậy đâm chồi. Nhưng cũng phải trân trọng những năm tháng đã thuộc về quá khứ. Tháng Hai, đứng ở bên này cửa khẩu Chi Ma, Lạng Sơn, nhìn sang bên kia, thấy lừng lững một tượng đài đỏ rực mà theo các sỹ quan Biên phòng, Trung Quốc gọi là “ đài chiến thắng”. Trở lại Lạng Sơn, những chiếc xe tăng Trung Quốc bị quân và dân ta bắn cháy hôm 17-2 vốn vẫn nằm bên bờ sông Kỳ Cùng, giờ đã được bán sắt vụn cho các khu gang thép. Ở Cao Bằng, chúng tôi đã cố nhờ mấy người dân địa phương chở ra kilomet số 3, theo hướng đèo Tài Hồ Sìn, tìm tấm bia ghi lại trận đánh diệt 18 xe Trung Quốc của tiểu đoàn đặc công 45, nhưng không thấy. Trở lại Tổng Chúp, phải nhờ đến ông Lương Đức Tấn, Bí thư Chi bộ, nguyên huyện đội phó Hòa An, đưa ra cái giếng mà hôm 9-3-1979, quân Trung Quốc giết 43 thường dân Việt Nam. Ông Tấn cũng chính là một trong những người đầu tiên trở về làng, trực tiếp đỡ từng xác phụ nữ, trẻ em, bị chặt bằng búa, bằng dao rồi quăng xuống giếng. Cái giếng ấy bây giờ nằm sâu trong vườn riêng của một gia đình, không có đường đi vào. Hôm ấy, anh Tấn phải kêu mấy thanh niên đi theo chặt bớt cành tre cho chúng tôi chụp hình bia ghi lại sự kiện mà giờ đây đã chìm trong gai tre và lau lách.
Huy Đức
Bài đăng trên Sài Gòn Tiếp Thị ngày 9-2-2009, bản đưa lên báo online bị rút xuống ngay trong buổi sang.
.
Cuộc chiến đẫm máu ngày 17/2/1979 là hoàn toàn do Tàu chủ động, và phía Việt Nam thì hình như thiếu chuẩn bị. Thời gian đó, tôi vẫn còn ở trong nước, nhưng không nhớ chính xác đang đi công tác nơi nào. Chỉ nhớ sau 2 ngày tôi mới biết tin. Lúc đó, trong cơ quan vẫn còn “truyền thống” mà theo đó, mỗi sáng có người đọc báo cho cả nhóm cùng nghe. Báo thì chỉ là Nhân dân hay Quân đội nhân dân thôi. Tôi nhớ người đọc báo (là một anh tốt nghiệp đại học kinh tế Sài Gòn) giọng rung rung. Chúng tôi ai cũng giận dữ và quyết chí tìm cách ăn thua đủ với bọn bành trướng. Thời đó, báo chí VN gọi bọn Tàu là “bành trướng”. Sau đó thì đài radio và tivi liên tục cho phát đi những bài nhạc hùng, nhạc chống Tàu, ôn lại những trang sử hào hùng đánh Tàu. Cả cộng đồng nóng lên với quyết tâm đánh Tàu. Ai cũng xác định đây Tàu là kẻ thù truyền kiếp, và đã đến lúc phải nói lên điều này cho mọi người biết. Tàu là kẻ thù truyền kiếp chứ chẳng phải bạn bè gì cả. Trớ trêu thay, ngày nay Nhà nước và Đảng CSVN lại xem -- và bắt 90 triệu người Việt xem -- họ như là người bạn “bốn tốt” và “16 chữ vàng”! Vẫn biết chúng ta phải làm bạn với mọi người, kể cả kẻ cựu thù, và vẫn biết rất có thể Nhà nước và Đảng CSVN nói là để nói, nhưng thú thật tôi thấy rất khó nuốc cái 4 tốt và 16 chữ vàng của những kẻ lúc nào cũng lăm le xâm chiếm nước ta.
Trước khi xua quân tấn công các tỉnh phía Bắc Việt Nam, Đặng Tiểu Bình từng huyênh hoang tuyên bố ở Nhật rằng “sẽ dạy cho Việt Nam một bài học”, rằng “Việt Nam là một côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học”. Thật ngạc nhiên, một kẻ lãnh đạo một nước đông dân nhất thế giới mà nói năng rất ... côn đồ như thế. Sau này, đọc những gì các quan chức Tàu phát biểu, tôi cũng thấy họ có cách nói rất ư là … vô giáo dục. Ngôn ngữ và hành động của Đặng xứng đáng với danh hiệu lưu manh quốc tế. Điều trớ trêu là ngày nay, các nhà xuất bản Việt Nam tranh nhau xuất bản những cuốn sách ca ngợi cuộc đời và sự nghiệp của tên lưu manh quốc tế này.
Cuộc chiến 16 ngày đó gây tổn hại nặng nề cho ta. Có lẽ chúng ta không bao giờ biết được con số tử vong, nhưng vài thống kê cho thấy con số đó rất lớn. Phía Tàu (qua tướng Ngũ Tu Quyền) nói rằng có đến 20,000 quân Việt Nam bị tử vong. Nhưng bọn Tàu nói thì chúng ta không tin được, vì cái máu nói láo của họ đã được encoded vào DNA rồi. Tạp chí Time cho rằng số lính VN bị tử vong là 10,000 người, và số dân bị giết chết cũng khoảng 10,000 người. Các chuyên gia sử phương Tây thì cho rằng Tàu bị chết 26,000 quân và 46,000 bị thương. Theo sử gia này (Russell Howard) thì con số bên VN cũng tương đương. Dù còn trong vòng ước tính, những con số trên đây cho thấy rõ ràng là có ít nhất 20,000 người Việt đã chết dưới họng súng của bọn Tàu. Đó là một con số rất lớn. Tính trung bình mỗi ngày chúng ta mất ít nhất 1250 người, hay mỗi giờ có 52 người ngã xuống.
Không chỉ thiệt hại về con người, mà cuộc chiến còn gây thiệt hại rất lớn về cơ sở hạ tầng. Các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, Cam Đường bị tiêu huỷ hoàn toàn. Trường học, bệnh viên, bệnh xá, công sở, hãng xưởng, v.v. bị bị bọn Tàu tiêu huỷ hết. Bẩn thỉu và bần tiện hơn, bọn Tàu còn căn cướp cả tài sản, xe cộ, thậm chí gia cầm của người dân. Tất cả những sự thật đó nhắc nhở chúng ta rằng đối với bọn Tàu ô không chỉ là một kẻ thù, mà còn là kẻ thù dơ bẩn. Người Nhật rất khinh bỉ người Tàu vì cái tính hèn hạ và xảo quyệt của chúng, và chúng ta cũng có lí do để khinh khi những kẻ thù vừa bẩn vừa tàn bạo (nếu không muốn nói là nó thể hiện cái thú tính của những tên Tàu ô trong đội quân viễn chinh).
Nghe nói rằng sau cuộc chiến Việt Nam đã mất một số đất về tay bọn Tàu. Chẳng biết điều này đúng hay sai, nhưng Nhà nước Việt Nam không hề lên tiếng đính chính hay phản bác.
Cuộc chiến 1979 là một cuộc chiến mang tính lịch sử, và đáng được các thế hệ sau biết đến. Đã 34 năm rồi, tức đã có một thế hệ lớn lên sau cuộc chiến, nhưng hình như số người biết đến cuộc chiến chẳng bao nhiêu. Cả chục năm nay, đài báo Việt Nam không còn nhắc đến cuộc chiến như trước đây. Chẳng hạn như năm nay, dạo qua một vòng vài tờ báo, chỉ có Thanh Niên là nhắc đến cuộc chiến, còn các tờ khác thì chọn thái độ im lặng. (Nhưng phía Tàu thì họ thỉnh thoảng có nhắc đến.) Chính thái độ im lặng và cố tình lãng quên lịch sử này là lời giải thích tại sao thanh thiếu niên Việt Nam vẫn chưa biết Hoàng Sa đã bị quân Tàu đánh chiếm như Thanh Niên mới phản ảnh !
Viết đến đây tôi nhớ đến phát biểu của một ông nghị gây sốc cho nhiều người như sau: “Mỹ kiêng sợ Trung Quốc đến độ nhiều chục năm qua không bao giờ dám gọi đồng minh Đài Loan là quốc gia. Thái Lan kiêng sợ Trung Quốc. Thế giới kiêng sợ Trung Quốc. Trung Quốc không sợ bất kỳ quân đội nào của thế giới. Trung Quốc chiếm Hoàng Sa đánh tan các chiến hạm Việt Nam Cộng Hòa ngay trước mũi Đệ Thất Hạm Đội hùng hậu của Hoa Kỳ.” Ông nghị này có vẻ rất thích thú khi thấy Tàu đánh chiếm Hoàng Sa của Việt Nam? Xin nhắc lại để các bạn không lầm: người phát biểu là một đại biểu trong Quốc hội Việt Nam, chứ không phải Quốc hội China.
Tôi tự hỏi tại sao không nhắc đến cuộc chiến 1979? Hơn 30 năm cũng đủ để chúng ta có cái nhìn tỉnh táo hơn. Phải biết lịch sử và những yếu tố liên quan để tránh lặp lại vết xẻ đổ trong quá khứ. Một dân tộc không dám nhìn quá khứ là một dân tộc chưa trưởng thành.
N.V.T
Xem thêm:
Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979 (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
Suy ngẫm nhân ngày này
- Muốn đi đến tương lai, có thể không cần mang vác một quá khứ nặng nề nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, cứ đến ngày này là muốn dừng lại để suy ngẫm, dù bằng im lặng hay qua bài viết. Bởi vì có nơi có lúc “chỉ có sự im lặng mênh mông mới không xúc phạm tới chân lý”.
Dẫu sao vẫn cám ơn nhà văn Tạ Duy Anh khi bàn về viết lách, “viết rất mệt, nhưng không viết còn mệt hơn!”. Thật khó tìm được một ý tưởng nào có tính đồng cảm cao như thế để người viết sẻ chia với nhà văn, tuy không dám nhận mình đã đọc được nhiều trang sách của Thánh hiền.
Kết thúc một chuyên luận 11.364 từ về một đề tài gai góc mà nhà văn không giấu giếm rằng, cho đến khi hạ con chữ cuối cùng của chuyên luận, anh vẫn chưa thoát khỏi cảm giác “nghĩ mãi không ra” (?)
Vòng xoáy mới?
Theo GS. Lý Tiểu Binh (Xiaobing Li), trưởng Phân khoa Sử-Địa thuộc Đại học Oaklahoma (Mỹ), khi phát động cuộc chiến biên giới phía Bắc, đối phương muốn chứng tỏ với khu vực/thế giới, họ sẵn sàng sử dụng vũ lực để giải quyết các cuộc tranh chấp lãnh thổ.
43 năm trôi qua từ ngày ấy, quan hệ Việt - Trung vẫn tiếp tục bị căng kéo. Tuy đã có một thời ngắn ngủi, dưới tác động của “Đổi mới” và “Hiện đại hóa”, cả Hà Nội lẫn Bắc Kinh dường như tạm gác các tranh chấp để tập trung cho công cuộc phát triển hòa bình.
Nhưng công cuộc phát triển ấy ngày nay đang bị đe dọa bởi hàng loạt những hành động lấn lướt của Trung Quốc, chống lại điều mà họ cho là các vi phạm đối với lãnh hải của họ trên Biển Đông, một Biển Đông mà họ đòi chiếm trên 80% diện tích.
Rồi chính tờ “Hoàn cầu thời báo”, một phiên bản chính thống từ cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc, đã không ít lần hô hào nên đánh Philippines sớm (!), vì nhờ vậy, một cuộc chiến tranh nhỏ sẽ giành thắng lợi, để tránh những cuộc chiến lớn khác sau này (!).
Các nhà quan sát cho rằng, các kiểu “võ mồm” như thế có thể làm cho quan hệ rơi vào vòng xoáy xung đột mới với các nước Đông Nam Á có yêu sách chủ quyền ở vùng biển rất quan trọng cho hoạt động thương mại của cả thế giới này.
Báo cáo của Nhóm khủng hoảng quốc tế (ICG) tại Bỉ nhận định rằng, chính các quan chức Trung Quốc cũng không biết cụ thể giới hạn những khu vực mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền trên biển Đông. Theo AP, báo cáo này còn cho biết, Trung Quốc giao trách nhiệm quản lý các khu vực trên cho không dưới 10 cơ quan khác nhau, hoạt động chồng chéo và mâu thuẫn lợi ích lẫn nhau.
Trên thực tế, cả hai bên đang tiến tới một ngã ba đường để lấy những quyết định chiến lược, có tính chất hệ trọng ảnh hưởng đến tương lai mỗi dân tộc. Trước thời khắc ấy, cả hai bên nên nhìn nhận lại lần nữa một cách kỹ lưỡng, hy vọng rút ra ít nhiều điều hữu ích để có quyết định sáng suốt.
Sống yên ổn với đại quốc
Một trong những điều đáng suy ngẫm nhất, đó là phải tìm mọi cách tránh xung đột vũ trang khi còn có thể! Bản thân Trung Quốc cũng đang làm điều tương tự với các láng giềng Nhật Bản và Hàn Quốc, mặc dù, một bộ phận dư luận ở nước họ cũng có những tuyên bố sặc mùi thuốc súng.
Tuy nhiên, tìm mọi cách để tránh, khác với tránh bằng mọi giá! Hoàn toàn đồng ý với nhà văn Tạ Duy Anh nên xin dẫn một đoạn từ chuyên luận của anh:
“Đọc lại lịch sử chúng ta đều nhận thấy ông cha ta cực kỳ nhất quán với quan điểm đó. Cố gắng hòa hiếu đến phút chót và chỉ khi không còn cách nào khác mới phải dùng đến vũ khí. Trước thế giặc quá mạnh, triều đình nhà Trần thậm chí đã nghĩ đến chuyện buông vũ khí để mong không phải chịu cảnh binh đao khốc liệt có nguy cơ hủy diệt cả dân tộc! Sửa chữa sai lầm chết người ấy chính là nhân sĩ, trí thức, tướng lĩnh và những người dân cày Đại Việt”.
Nhân ngày hôm nay, mong độc giả tham khảo bài viết của nhà văn Tạ Duy Anh “Sống với Trung Quốc” để cùng nhau chia sẻ một cách nhìn về bản chất của mối bang giao Việt-Trung, của các cuộc tranh chấp trên Biển Đông hiện nay cùng với các dự báo cho tương lai, về các hành động của Trung Quốc và sự lựa chọn nên có của Việt Nam.
Có thể đây chưa phải là một bài viết hoàn hảo, nhưng dù sao nó đã hâm nóng cái tinh thần “bóp nát quả cam”, hâm nóng cái quyết tâm “nếu bệ hạ định hàng giặc thì trước hết hãy chém đầu thần đi đã”. Chính nhờ tinh thần ấy mà triều đình nhà Trần đã kết thành một khối rắn chắc, chôn vùi huyền thoại sức mạnh Nguyên-Mông và tạo nên hào khí Đông A để tiếng thơm đến muôn đời.
Cầu hòa là văn hóa phổ quát của những đất nước và xã hội văn minh trong cộng đồng quốc tế, là cách ứng xử khôn sáng của con người có văn hóa. Chỉ có những ai còn khư khư lối sống và tư tưởng thời bộ lạc mới đòi sống mái với bộ lạc khác. Đó là văn hóa bộ lạc thời tiền sử.
Nhưng cầu hòa không đồng nghĩa với việc để cương vực và lãnh hải bị xâm phạm. Cầu hòa không đồng nghĩa với việc quá lo sợ chiến tranh mà đành ôm hận để biển đảo bị nuốt dần, dân lành bị giết hại.
Việt Nam là nước nhỏ hơn, dĩ nhiên luôn cần hòa bình, sống yên ổn bên cạnh đại quốc, nhưng đại quốc cũng cần yên bờ cõi không kém, đặc biệt là cửa ngõ phía Nam, nơi chúng ta có lợi thế về vị trí địa lý trong tác chiến.
Vị trí ấy trong thời đại ngày nay được bồi đắp thêm bởi thế “hợp tung liên hoành” mới. Thời nay, hai chiến lược hợp tung và liên hoành không đơn thuần chỉ mang tính chất quân sự như thời Chiến quốc mà trước hết ưu tiên căn bản trên cơ sở kinh tế, cơ sở của sức mạnh mềm. Sự kết nối trong khu vực và trên toàn cầu là một hy vọng khả thi để sống yên ổn.
Mong lắm thay!
Nguyễn Thiều Quang
Biên Giới Tháng Hai (2009-1979)
.by Osin HuyDuc on Wednesday, February 16, 2011 at 9:21am
Tháng Hai, những cây đào cổ thụ trước cổng đồn biên phòng Lũng Cú, Hà Giang, vẫn chưa có đủ hơi ấm để đâm hoa; những khúc quanh trên đèo Tài Hồ Sìn, Cao Bằng, vẫn mịt mù trong sương núi. Sáng 7-2 nắng lạnh, vợ chồng ông Nguyễn Văn Quế, 82 tuổi, nhà ở khối Trần Quang Khải 1, thị xã Lạng Sơn, ngồi co ro kể lại cái chết 30 năm trước của con trai mình, anh Nguyễn Văn Đài. Năm ấy, Đài 22 tuổi. Ông Quế nói: “Để ghi nhớ ngày ấy, chúng tôi lấy Dương lịch, 17-2, làm đám giỗ cho con”. Năm 1979, vào lúc 5giờ 25 phút sáng ngày 17-2, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ Phong Thổ, Lai Châu, tới địa đầu Móng Cái.
“Những đôi mắt”
Hôm ấy, ông Quế không có nhà, vợ ông, bà Dự, bị dựng dậy khi bên ngoài trời hãy còn rất tối. Bà nghe tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng Sơn. Bà Dự đánh thức các con dậy, rồi 4 mẹ con dắt díu nhau chạy về xuôi. Tới ki-lô-mét số 10, đã quá trưa, bà rụng rời khi hay tin, anh Đài đã bị quân Trung Quốc giết chết. Anh Đài là công nhân đường sắt, thời điểm ấy, các anh đương nhiên trở thành tự vệ bảo vệ đoạn đường sắt ở Hữu Nghị Quan. Anh em công nhân trong đội của Đài bị giết gần hết ngay từ sáng sớm. Đài thuộc trong số 3 người kịp chạy về phía sau, nhưng tới địa bàn xã Thanh Hòa thì lại gặp Trung Quốc, thêm 2 người bị giết. Người sống sót duy nhất đã báo tin cho bà Dự, mẹ Đài.
Cùng thời gian ấy, ở bên núi Trà Lĩnh, Cao Bằng, chị Vương Thị Mai Hoa, một giáo viên cấp II, người Tày, mới ra trường, cũng bị giật dậy lúc nửa đêm rồi theo bà con chạy vào hang Phịa Khóa. Hàng trăm dân làng trú trong hang khi pháo Trung Quốc gầm rú ở bên ngoài, rồi lại gồng gánh theo nhau vào phía Lũng Pùa, chạy giặc. Chị Hoa không bao giờ có thể quên “từng đôi mắt” của dòng người gồng gánh ấy. Giờ đây, ngồi trong một cửa hàng bán băng đĩa trên phố Kim Đồng, thị xã Cao Bằng, chị Hoa nhớ lại: “Năm ấy, tôi 20 tuổi. Tôi nghĩ, tại sao mình lại chạy!”. Chị quay lại, sau khi thay quần áo giáo viên bằng bộ đồ chàm vì được những người chạy sau cho biết, rất nhiều người dân ăn mặc như cán bộ đã bị quân Trung Quốc giết chết. Từ trên đồi, chị Hoa thấy quân Trung Quốc gọi nhau ý ới và tiến vào từng đoàn.
“Cuộc Chiến 16 Ngày”
Ngày 15-2-1979, Đại tá Hà Tám, năm ấy là trung đoàn trưởng trung đoàn 12, thuộc lực lượng Biên phòng, trấn ở Lạng Sơn, được triệu tập. Cấp trên của ông nhận định: “Ngày 22 tháng 2, địch sẽ đánh ở cấp sư đoàn”. Ngay trong ngày 15, ông ra lệnh cấm trại, “Cấp chiến thuật phải sẵn sàng từ bây giờ”, ông nói với cấp dưới. Tuy nhiên, ông vẫn chưa nghĩ là địch sẽ tấn công ngay. Đêm 16-2, chấp hành ý kiến của Tỉnh, ông sang trại an dưỡng bên cạnh nằm dưỡng sức một đêm bởi vì ông bị mất ngủ vì căng thẳng sau nhiều tháng trời chuẩn bị. Đêm ấy, Trung Quốc đánh.
Ở Cao Bằng, sáng 16 tháng 2, tất cả các đồn trưởng Biên phòng đều được triệu tập về thị xã Cao Bằng nhận lệnh, sáng hôm sau họ tìm về đơn vị triển khai chiến đấu khi Trung Quốc đã tấn công rồi. Sáng 17-2, Tỉnh Cao Bằng ra lệnh “sơ tán triệt để khỏi thị xã”; đại đội 22 của thị xã Cao Bằng được trang bị thêm 17 khẩu súng chống tăng B41. Ngày 18-2, một chiếc tăng Trung Quốc có “Việt gian” dẫn đường lọt tới Cao Bằng và bị tiêu diệt. Nhiều nơi, chỉ khi nhìn thấy chữ “Bát Nhất”, người dân mới nhận ra đấy là tăng Trung Quốc. Đại tá Hà Tám công nhận: “Về chiến lược ta đánh giá đúng nhưng về chiến thuật có bất ngờ”. Tuy nhiên, Đại tá Hoàng Cao Ngôn, Tỉnh đội trưởng Cao Bằng thời kỳ 17-2, nói rằng, cho dù không có bất ngờ thì tương quan lực lượng là một vấn đề rất lớn. Phần lớn quân chủ lực của Việt Nam đang ở chiến trường Campuchia. Sư đoàn 346 đóng tại Cao Bằng nhiều năm chủ yếu làm nhiệm vụ kinh tế, thời gian huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trở lại chưa nhiều. Lực lượng cầm chân Trung Quốc ở tuyến một, hướng Cao Bằng, chủ yếu là địa phương quân, chỉ có khoảng hơn 2 trung đoàn.
Trong khi, theo tài liệu từ Trung Quốc, chỉ riêng ở Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung Quốc sử dụng tới 6 sư đoàn; ở Lạng Sơn 3 sư và Lào Cai 3 sư. Hôm sau, 18-2, Trung Quốc tăng cường cho hướng Cao Bằng 1 sư đoàn và 40 tăng; Lạng Sơn, một sư và 40 tăng; Lào Cai, 2 trung đoàn và 40 tăng. Lực lượng Trung Quốc áp sát Biên giới vào ngày 17-2 lên tới 9 quân đoàn chủ lực. Ngày 17-2, Trung quốc tiến vào Bát xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Đồng Đăng; 24-2, Trung Quốc chiếm thị xã Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc đánh vào thị xã.
Thế nhưng, bằng một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều, các đơn vị Biên giới đã nhanh chóng tổ chức chiến đấu. Theo cuốn “10 Năm Chiến Tranh Trung Việt”, xuất bản lần đầu năm 1993 của NXB Đại học Tứ Xuyên, quân Trung Quốc đã gọi con đường tiến vào thị xã Cao Bằng của họ là những “khe núi đẫm máu”. Đặc biệt, tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau ngày 17-2, chỉ cần đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua đèo Tài Hồ Sìn, cũng đã khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía. Những người dân Biên giới cho đến hôm nay vẫn nhớ mãi hình ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị những cánh quân của ta cơ động liên tục, đánh cho tan tác. Đầu tháng 3-1979, trong khi hai sư đoàn 346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đòn vu hồi. Từ Campuchia, sau khi đuổi Pol Pốt khỏi Phnompênh, hai quân đoàn tinh nhuệ của Việt Nam được điều ra phía Bắc. Ngay sau khi Quân đoàn II đặt những bước chân đầu tiên lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn; Quân Đoàn III tới Na Rì; Chủ tịch Nước ra lệnh “Tổng Động viên”… ngày 5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân về nước.
Lào Cai, Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn… bị phá tan hoang. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc phá sạch sẽ từng ngôi nhà, từng công trình, ốp mìn cho nổ tung từng cột điện. Nếu như, ở Bát Xát, Lao Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Thì, tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút lui, quân Trung Quốc đã giết 43 người, gồm 21 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pốt. Mười người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối.
Lặng Lẽ Hoa Đào
Ngồi đợi ông Nguyễn Thanh Loan, người trông giữ nghĩa trang Vị Xuyên, Hà Giang, chúng tôi nhìn ra xa. Tháng Hai ở đây mới là mùa hoa đào nở. Nghĩa trang có 1680 ngôi mộ. Trong đó, 1600 mộ là của các liệt sỹ hy sinh trong cuộc chiến tranh từ ngày 17-2. Ở Vị Xuyên, tiếng súng chỉ thật sự yên vào đầu năm 1990. Năm 1984, khi Trung Quốc nổ súng trở lại hòng đánh chiếm hơn 20 cao điểm ở Thanh Thủy, Vị Xuyên, bộ đội đã phải đổ máu ở đây để giành giật lấy từng tấc đất. Rất nhiều chiến sỹ đã hy sinh, đặc biệt là hy sinh khi tái chiếm đỉnh cao 1509. Ông Loan nhớ lại, cứ nửa đêm về sáng, xe GAT 69 lại chở về, từng túi tử sỹ xếp chồng lên nhau. Trong số 1600 liệt sỹ ấy, chủ yếu chết trong giai đoạn 1984, 1985, có người chết 1988, còn có 200 ngôi mộ chưa xác định được là của ai. Sau khi hoàn thành việc phân giới cắm mốc, cái pháo đài trên đỉnh 1509 mà Trung Quốc dành được và xây dựng trong những năm 80, vẫn còn. Họ nói là để làm du lịch. Từ 1509, có thể nhìn thấu xuống thị xã Hà Giang. Năm 1984, từ 1509 pháo Trung Quốc đã bắn vào thị xã.
Trên đường lên Mèo Vạc, sương đặc quánh ngoài cửa xe. Từng tốp, từng tốp trai gái H’mông thong thả cất bước du xuân. Có những chàng trai đã tìm được cho mình cô gái để cầm tay. Một biên giới hữu nghị và hòa bình là vô cùng quý giá. Năm 1986, vẫn có nhiều người chết vì đạn pháo Trung Quốc nơi đoạn đường mà chúng tôi vừa đi, nơi các cô gái, hôm nay, để cho các chàng trai cầm tay kéo đi với gương mặt tràn trề hạnh phúc.
Quá khứ, rất cần khép lại để cho những hình ảnh như vậy đâm chồi. Nhưng cũng phải trân trọng những năm tháng đã thuộc về quá khứ. Tháng Hai, đứng ở bên này cửa khẩu Chi Ma, Lạng Sơn, nhìn sang bên kia, thấy lừng lững một tượng đài đỏ rực mà theo các sỹ quan Biên phòng, Trung Quốc gọi là “ đài chiến thắng”. Trở lại Lạng Sơn, những chiếc xe tăng Trung Quốc bị quân và dân ta bắn cháy hôm 17-2 vốn vẫn nằm bên bờ sông Kỳ Cùng, giờ đã được bán sắt vụn cho các khu gang thép. Ở Cao Bằng, chúng tôi đã cố nhờ mấy người dân địa phương chở ra kilomet số 3, theo hướng đèo Tài Hồ Sìn, tìm tấm bia ghi lại trận đánh diệt 18 xe Trung Quốc của tiểu đoàn đặc công 45, nhưng không thấy. Trở lại Tổng Chúp, phải nhờ đến ông Lương Đức Tấn, Bí thư Chi bộ, nguyên huyện đội phó Hòa An, đưa ra cái giếng mà hôm 9-3-1979, quân Trung Quốc giết 43 thường dân Việt Nam. Ông Tấn cũng chính là một trong những người đầu tiên trở về làng, trực tiếp đỡ từng xác phụ nữ, trẻ em, bị chặt bằng búa, bằng dao rồi quăng xuống giếng. Cái giếng ấy bây giờ nằm sâu trong vườn riêng của một gia đình, không có đường đi vào. Hôm ấy, anh Tấn phải kêu mấy thanh niên đi theo chặt bớt cành tre cho chúng tôi chụp hình bia ghi lại sự kiện mà giờ đây đã chìm trong gai tre và lau lách.
Huy Đức
Bài đăng trên Sài Gòn Tiếp Thị ngày 9-2-2009, bản đưa lên báo online bị rút xuống ngay trong buổi sang.
.