Tương Lai
Nói như vậy, vì người
viết muốn nhìn ra ở đây "một hiện tượng lịch sử" có nghĩa biểu
tượng.
Lịch sử đi tới theo đội hình hình thoi chứ
không "dàn hàng ngang mà tiến". Bao giờ những người đi trước cũng thuộc số ít.
Càng ít hơn nữa là những ngươi có tầm mắt vượt lên phía trước, nhìn thấu được
những điều mà nhiều người đồng hành chưa nhìn ra, hoặc nhìn nhưng chưa thấy,
hoặc thấy nhưng chưa rõ. Và càng sát cái điểm đầu chóp hình thoi ấy thì càng đơn
độc! Trần Độ là một hiện tượng, đúng hơn, là một bằng chứng rất sống động về sự
"đơn độc của tia chớp" đang dẫn dắt suy tư của người viết
nhân ngày mất của ông, 9. 8. 2002.
Nhận thức là một quá trình, điều
này chẳng có gì mới đáng nói. Cái đáng nói hơn vào thời điểm này là: với sự kiểm
nghiệm của thời gian, có những con người đã trở thành một hiện tượng lịch sử vì
nó là biểu tượng sống động về sự oái oăm của lịch sử trong nhận thức về lịch sử.
Mà trớ trêu thay, chính sự oái oăm đó làm nên lịch sử. Làm nên bằng chính cái
tầm vươt lên phía trước ấy. Chẳng thế mà Voltaire từng khuyến cáo rằng "Lịch
sử không nên đề cập đến sự thăng trầm của các ông vua mà là trào lưu tiến hoá
của dân tộc, không nên đề cập đến từng quốc gia riêng rẽ mà là toàn thể nhân
loại, không nên đề cập đến chiến tranh mà là đề cập đến sự phát triển của tư
tưởng. Những trận đánh, những đoàn quân chiến thắng hoặc chiến bại, những
thành phố bị chiếm đi hoặc lấy lại là những sự kiện quá tầm thường, không nói
lên điều gì quan trọng. Điều quan trọng là con người sống và suy nghĩ như thế
nào qua các thời đại... qua những giai đoạn nào con người đi từ trạng thái man
rợ đến trạng thái văn minh”.*
Không hiểu có phải lẩn thẩn
không mà người viết bài này những cứ muốn bạo gan đặt ra câu hỏi với nhà Khai
sáng Pháp: liệu dưới tác động nào đó, trong một thời đoạn đau thương nào đó,
có thể có quá trình ngược lại, một cơ chế phi lý đẩy con người đi từ trạng thái
văn minh trở lại với trạng thái man rợ ? Trần Độ có bốn câu thơ dưới dạng "tự
bạch":
Những mơ xoá ác ở trên
đời
Ta phó thân ta với đất
trời
Ngỡ ác xóa rồi thay cực
thiện
Ai hay, biến đổi, ác luân
hồi.
Liệu nỗi niềm "ai hay, biến đổi, ác luân hồi" có chút bóng
dáng nào của cái cơ chế phi lý kia không? Vì rằng, nếu cứ nhìn về nhân thân và
sự nghiệp theo một nếp hằn rất chi là "lập trường quan điểm" từng chi phối đời
sống tinh thần xã hội gần hai phần ba thế kỷ nay, thì con người này là một mẫu
mực sáng giá, một điểm son chói lọi trong những trang sử hiện đại: Đi làm cách
mạng từ năm 16 tuổi, vào đảng năm 17 tuổi, vào tù, cắn răng chịu tra tấn trong
các nhà tù đế quốc , vượt ngục về hoạt động bí mật vào những ngày "tiền khởi
nghĩa", góp phần vào Cách Mạng tháng 8.1945, đảm nhiệm vai trò chính ủy Mặt trận
Hà Nội "cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh" những ngày Thủ đô rực lửa năm 1946, tiếp
đó là chính ủy trung đoàn, chính ủy đại đoàn, chính ủy quân khu, rồi phó chính
ủy và phó bí thư quân ủy, được phong hàm thiếu
tướng rồi trung tướng, được bầu làm Phó Chủ tịch Quốc hội, ủy viên
BCHTƯĐCSVN, Trưởng ban văn hóa văn nghệ TƯ.
Dù được quy chiếu theo những hệ
thống giá trị nào thì cuộc đời dấn thân hết mình cho tổ quốc, nằm gai nếm mật,
vào tù ra tội, luôn đứng ở mũi nhọn của cuộc chiến tranh cứu nước, con người này
có một cuộc sống thật đẹp! Càng đẹp theo kiểu "ta phó thân ta với đất
trời" chứ không chỉ vì những chức vụ, danh vọng mà ông có được bằng sự dấn
thân kia !
Ấy thế mà khi con người ấy nằm
xuống, người ta quyết không cho cuộc đời "thương tiếc" ông. Dùng một con rôbốt
vô hồn để thực hiện một công vụ táng tận lương tâm là kể tội ông trong điếu văn
đọc trước linh cữu người quá cố, người ta đã chà đạp lên truyền thống "nghĩa
tử là nghĩa tận" trong đời sống dân tộc. Cái đáng sợ nhất, khủng khiếp nhất
chính ở chỗ này đây.
Một giải pháp vô văn hóa, phản
tâm linh được thực thi một cách triệt để theo lối "đào tận gốc, trốc tận
rễ" khi người ta "trả nghĩa" cho ông "Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ Trung
ương" của đảng bằng hành động vô văn hóa đó. Một hành động được hoạch định kỹ
càng và đóng dấu ở nơi cao cấp nhất! Từ cách công bố tin ông mất sát kề ngày
tang lễ để đồng chí, đồng đội của ông không đến kịp nhằm giảm tối đa số người
"thương tiếc" ông tại nhà tang lễ đến chuyện xé bỏ những băng tang đính
trên vòng hoa nếu có chữ "vô cùng thương tiếc" và rồi bài điếu văn phản
nhân văn, ráo cạn nhân tình không tiền khoáng hậu đi vào lịch sử như một vết nhơ
không sao xóa mờ đi được!
Xin chen vào đây một mẩu chuyện:
vòng hoa của người viết bài này nhờ một người bạn vốn là lính của tướng Độ mang
đến nhà tang lễ. Hai vị CA chặn lại, yêu cầu gỡ bỏ mấy chữ "Vô cùng thương
tiếc" .Vị cựu chiến binh là thương binh chiến đấu ở chiến trường Miền Tây cố
làm nhẹ sự căng thẳng bằng một đề nghị hóm hỉnh:" thế tôi sửa lại là
"thương tiếc vừa vừa đồng chí Trần Độ nhé". CA trừng mắt, quát. Xô
xát có cơ xảy ra vì anh thương binh "quân của tướng Độ" đã xắn tay áo. Ánh mắt
đang đổ dồn về đây. Một vị đeo lon trung tá vừa lịch lãm vừa xử sự rất "có nghề"
đã nhanh chóng xin lỗi người cựu chiến binh, vừa gạt tay thuộc cấp định gỡ vòng
hoa, rồi mời người cựu chiến binh mang nó cùng đi. Nhưng khi đến gần bậc thềm
nhà tang lễ thì anh ta nói " theo quy định, chúng tôi phải trực tiếp chuyển
vòng hoa, đồng chí cứ đứng đây". Thế rồi y nhấc bổng vòng hoa đi vòng ra
phía sau, mất hút!
Gọi điện kể lại, người cựu chiến
binh tự hào là "quân của tướng Độ" đó an ủi: "thôi chú ạ, thế là mình
cũng đã thể hiện được tấm lòng và ý chí trọn nghĩa vẹn tình với ông ấy, người sẽ
đi vào lịch sử. Đến vòng hoa của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà chúng nó cũng đòi
bóc, đại tá Huyên quyết liệt đấu tranh, cuối cùng cũng đành chỉ còn hai chữ
"thương tiếc", phải bỏ hai chữ "vô cùng" trên vòng hoa tang của
bậc công thần, người anh cả của quân đội cụ Hồ gửi viếng một vị tướng từng chỉ
huy Mặt trận quyết tử của Hà Nội mở đầu cuộc chiến tranh giữ nước để rồi có mặt
trên tất cả các mặt trận nóng bỏng nhất cho đến khi kết thúc chiến tranh, mà
chú!
Có thể ai đó khi hạ lệnh gỡ bỏ
những dòng chữ "vô cùng thương tiếc" trên vòng hoa tang đã cạn
nghĩ, hoặc mê muội trong nguyên lý khủng khiếp từng thuộc nằm lòng về sự chuyên
chính đối với kẻ thù giai cấp, đã không lường trước được hệ lụy cũng khủng khiếp
không kém của quyết định dại dột bất cận nhân tình ấy. Trong tâm thức của dân
tộc, vết nhơ kia sẽ không có cách gì rửa sạch được. Và nếu như ông cha ta dạy
"gươm dơ lấy nước làm sạch, nước dơ lấy máu làm sạch" thì rồi đây
lấy gì để rửa vết nhơ lịch sử kia đây? Xét cho cùng, vết nhơ lịch sử này chính
là nỗi đau văn hóa.
Đây là điều mà M.Gorki, một thời
được mệnh danh là "nhà văn vô sản vĩ đại" từng chiếm lĩnh trọn vẹn các giáo
trình lý luận văn học của các trường đại học và sách dạy phổ thông ở nước ta đã
từng quyết liệt cảnh báo ngay từ những năm 1917-1918 [đương nhiên là người ta
dấu nhẹm sự cảnh báo này]: "Cách mạng đã đánh đổ nền quân chủ, điều đó đúng!
Nhưng điều đó có lẽ cũng có nghĩa rằng cuộc cách mạng đã mang chứng bệnh
ngoài da vào bên trong nội tạng. Người ta không được phép tin rằng cách mạng
đã chữa trị và làm phong phú cho nước Nga về mặt tinh thần". Chính vì
vậy, M.Gorki viết: “Đối với tôi, lời kêu gọi Tổ quốc lâm nguy cũng không
đáng sợ hơn lời kêu gọi “Hỡi các công dân! Văn hóa bị lâm
nguy”!**
Sư suy thoái đạo đức đích thực,
chứ không phải sự gán ghép tùy tiện do sự lú lẫn đầy ác ý, là biểu hiện dễ thấy
của "sự lâm nguy" này. Sự lâm nguy bắt đầu từ khi người ta
"đã mang chứng bệnh ngoài da vào bên trong nội tạng" của cả dân
tộc. Càng nguy hiểm hơn khi, thay vì "phải được trui rèn trong ngọn lửa
cháy không bao giờ dứt của văn hóa, tinh thần nô lệ đã hằn sâu trong nó phải bị
tẩy sạch đi", thì người ta làm ngược lại, tàn phá văn hóa.
Sẽ quá dài nếu phải liệt kê ra
đây sự tàn phá đó khi mà chỉ lẩy riêng ra "một hiện tượng Trần Độ", nói
chính xác hơn, cách ứng xử với ông Trưởng Ban Văn hóa Văn Nghệ Trung Ương Trần
Độ khi ông nằm xuống, cũng đã quá đủ để minh họa một cách sống động về điều
này.
Trong một bài gần đây trên tạp
chí "Văn Hóa Nghệ An" ngày 31.7.2013, giáo sư Nguyễn Minh Thuyết lưu ý
rằng: "quan sát trong xã hội, đạo đức suy thoái, đúng là chưa bao giờ đất
nước ở vào tình trạng như hiện nay. Nói cách khác, trong lịch sử chỉ thời mạt
mới xuất hiện những chuyện như thế...". Ông dẫn trong "Hoàng Lê Nhất
thống chí" lời học trò của Lý Trần Quán trả lời thầy khi bị ông mắng về
tội bắt Chúa Trịnh Tông nộp cho Tây Sơn: “Sợ thầy không bằng sợ giặc, yêu
chúa không bằng yêu thân” để đưa ra nhận định: "Có thể nói đó là câu
nói điển hình cho sự suy thoái.... Còn về các nước, có thể nói, nếu so sánh,
phải thấy là những xã hội có hiện tượng như thế này là xã hội kém phát triển. Xã
hội văn minh cũng có những hiện tượng này nhưng nó không bệ rạc, không phổ biến
như thế"....Quả đúng vậy. Nhưng để cho trọn vẹn hơn thì xin mạo muội đề nghị
giáo sư Thuyết trích thêm một dòng nữa ở trang 106 trong sách nói trên, con
người "lừa thầy phản chúa" ấy rồi "được phong làm Tráng Nghĩa hầu
thêm chức Trấn thủ Sơn Tây"! Chính cái "được" này mới là
động cơ mãnh liệt thôi thúc những chuyện lừa thầy, phản chủ mà giáo sư gọi là
"suy thoái" kia.
Những con "rô bốt" vô hồn, dù là
cao sang quyền quý, danh gia vọng tộc hay lưu manh chính trị mạt hạng đang nhan
nhản khắp nơi, hoặc tác oai tác quái với dân, hoặc lên mặt đạo đức giả đi rao
giảng đạo đức lấy đó làm cái lá nho để che đi những xấu xa thối nát quá lộ liễu,
hoặc nói một đằng làm một nẻo mất hết liêm sỉ mà dân gian gọi là đã đứt giây
thần kinh xấu hổ ...xét đến cùng chính là vì cái được ấy! Ngay cả
những người đang theo lý thuyết "mắc-kê-nô", tạm bằng lòng với ngôi nhà vừa tậu,
chiếc ô tô đời mới hay cái công ty của con đang làm ăn yên ổn đang xua tay
"không muốn động đến chuyện chính trị" thì trong sâu thẳm tâm hồn họ, cái động
cơ mãnh liệt kia vẫn đang khởi động.
Xét đến cùng, vâng, xét đến
cùng, cái "được" kia, nói chữ nghĩa ra là lợi ích
nhận được từ cái cơ chế sản sinh ra những "rôbốt" vô hồn kia chính là chất xi
măng gắn kết chúng với nhau vì lợi ích, và cái đem lại lợi ích nhanh chóng nhất
chính là quyền lực. Trong bài viết cách đây chưa lâu, người viết
này đã nói về quy luật này: "Quyền lực thúc đẩy việc mở rộng vô hạn độ
quyền lực, và hầu như không có điểm dừng. Nhưng "quyền lực lại có xu hướng tha
hóa và quyền lực tuyệt đối thì tha hóa cũng tuyệt đối” (Power
tends to corrupt and absolute power corrupts absolutely, có người dịch từ
"corrupt" là "tham nhũng" trong những văn cảnh nhất định nào đó).
Chế độ toàn trị phản dân chủ là nguyên nhân sâu xa cho cái chuyện
"quyền lực tuyệt đối thì tha hóa cũng tuyệt đối " ấy. Liệu
lịch sử loài người đã biết có bao nhiêu thứ "quyền lực tuyệt đối" như chê độ
toàn trị hiện hành?
Thật ra thì vào cuối những năm
50 của thế kỷ trước, Milovan Dijlas, tác giả của "Giai cấp mới", một tác
phẩm viết trong tù được bí mật gửi ra nước ngoài và được in ở New York năm 1957
từng phân tích rất rành mạch về chyện này:
"Đảng sinh ra giai cấp.
Sau đó giai cấp tự phát triển bằng chính nguồn lực của mình và sử dụng đảng như
là cơ sở...Ở đây, muốn trở thành chủ sở hữu hay đồng sở hữu thì
cần phải len được vào hàng ngũ của bộ máy quan liêu chính trị".
Ông chỉ ra rằng: "Giai cấp
mới giống như một hình kim tự tháp: đáy to, càng lên trên càng hẹp dần. Để đi
lên, chỉ ý chí không chưa đủ, còn cần phải hiểu và "vận dụng lý luận nữa", cần
phải quyết liệt trong cuộc đấu tranh với kẻ thù, phải cực kỳ khôn khéo khi xảy
ra các cuộc tranh chấp trong nội bộ đảng, phải nắm được nghệ thuật, thậm chí tài
năng trong việc củng cố vị trí cho giai cấp nữa".
Vì thế, "cùng với việc
củng cố giai cấp mới, khi bộ mặt của nó càng thể hiện rõ, thì vai trò của đảng
cũng ngày càng giảm đi. Hạt nhân và cơ sở của giai cấp mới đã hình thành ở bên
trong cũng như trên đỉnh quyền lực của đảng cũng như của bộ máy nhà nước. Cái
đảng từng có lúc là một tổ chức sinh động đầy sáng kiến, thì nay, đối với những
người cầm đầu của giai cấp mới, đảng đã biến thành một vật trang trí, càng ngày
chỉ càng kéo vào hàng ngũ của mình những kẻ hãnh tiến, những kẻ muốn nhập vào
hàng ngũ của giai cấp mới và đẩy những người vẫn còn tin vào lý tưởng
ra".***
"Hiện tượng Trần Độ" liệu có
phải là minh chứng sống động về"những người vẫn còn tin vào lý
tưởng" bị đẩy ra một cách quyết liệt, quá sức phũ phàng, cạn tàu ráo
máng? Mà phải đẩy ra bằng được, vì lý tưởng cao đẹp của con người ấy đang là vật
cản cho quá trình "củng cố giai cấp mới ở bên trong cũng như trên đỉnh
quyền lực của đảng, cũng như của bộ máy nhà nước".
Chẳng có gì khó hiểu và ví ẩn
trong chuyện phũ phàng, cạn tàu ráo máng với Trần Độ. Đây là diễn biến logic về
sự tha hóa của quyền lực. Nó đồng thời cảnh báo một nguyên lý sẽ được đẩy tới
ngày càng hung dữ và bất chấp đạo lý cũng như luật pháp: quyền lực tuyệt đối thì
tha hóa cũng tuyệt đối! Chuyện chà đạp lên đời sống tâm linh trong đạo lý nghĩa
tình dân tộc chẳng là gì so với chuyện củng cố bộ máy quyền lực khi "cần
phải quyết liệt trong cuộc đấu tranh với kẻ thù, phải cực kỳ khôn khéo khi xảy
ra các cuộc tranh chấp trong nội bộ đảng, phải nắm được nghệ thuật, thậm chí tài
năng trong việc củng cố vị trí cho giai cấp mới đang nắm
quyền"!***
Thế thì làm sao chấp nhận được
một ủy viên trung ương đảng, một phó chủ tịch Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất, lại đòi hỏi:" Đảng Cộng sản phải tự mình từ bỏ chế độ độc
đảng, toàn trị, khôi phục vai trò, vị trí vốn có của Quốc hội, Chính phủ. Phải
thực hiện đúng Hiến pháp, tức là sửa chữa các đạo luật chưa đúng tinh thần Hiến
pháp. Đó là phải có những đạo luật ban bố quyền tự do lập hội, lập đảng, tự do
ngôn luận, luật báo chí, xuất bản. Sửa chữa các luật bầu cử ứng cử tự do, từ bỏ
quyền quyết định của cơ quan tổ chức Đảng...".
Càng không thể nào dung nạp được
một cách tư duy quyết liệt khi vạch ra rằng:" Không nên lạm dụng chữ cách
mạng. Ta bây giờ không phải là cách mạng chống ai cả, không phải đánh đổ ai cả.
Xây dựng hoà bình thì phải đoàn kết, có gì trở ngại thì hoá giải nó để tiến
lên...không thể lúc nào cũng phải có chương trình hoạt động cách mạng, lúc nào
cũng phải hành động cách mạng...
Chính quyền bây giờ không
phải là chính quyền cách mạng. Điều đó chỉ có ý nghĩa khi cách mạng vừa mới
thành công...Ngày nay chính quyền phải là
chính quyền xây dựng. Chính quyền xây dựng thì phải có những chủ trương, chính
sách làm cho mọi người dân đều được tự do làm ăn. Và từ đó người dân phải có tự
do nói, tự do tìm thông tin và trao đổi thông tin. Như thế tự do
làm ăn mới thực hiện được... Ở rất nhiều nơi, nhiều lúc, không cần
đến cách mạng. Nhưng ở tất cả các nơi đều cần có tự do, và lớn
nhất là “tự do làm ăn” phải có tự do hưởng lợi ích của kết quả sự làm ăn
đó.
Nhân dân chỉ muốn tiến
hoá, chứ không muốn cách mạng bạo lực! Đất nước ta đã trải qua một thời kỳ lịch
sử kéo dài gồm những cuộc chiến đấu chống xâm lược giành độc lập, hoà bình xây
dựng, rồi lại bị xâm lược. Và lại chiến tranh chống xâm lược. Qua quá trình đó
mà đất nước ta trưởng thành và phát triển. Cho đến nay, đất nước đã được hoà
bình độc lập, thống
nhất.
Không biết tương lai loài
người sẽ phát triển, tiến bộ thế nào và do đó đất nước ta sẽ gặp những tình
huống thế nào ? Nhưng chắc chắn là những bước đi sắp tới của ta cũng không có
thể lặp lại y nguyên những tình hình trước đây
"Động trời" hơn nữa khi Trần Độ
tuyên bố không úp mở: " Chiến tranh lớn và các hoạt động bạo lực, lật đổ
càng ngày càng trở nên lạc hậu lỗi thời...Để có tự do và hạnh phúc, không nhất
thiết phải có bạo lực, không nhất thiết phải đánh đổ ai. Thậm chí ngày nay có
những nền độc lập giành được cũng không cần có bạo lực và chiến
tranh"!
Và rồi, người đứng đầu cơ quan
lãnh đạo văn hóa văn nghệ mà lại công khai nói thẳng cái sự thật nghiệt ngã mà
hơn nửa thế kỷ qua người ta cố né tránh, bưng bít: "Văn hóa mà không có tự
do là văn hóa chết. Văn hóa mà chỉ còn có văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa
chết. Càng tăng cường lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu, càng
hiếm có những giá trị văn hóa và những nhà văn hóa cao đẹp".
Cách chức, khai trừ đảng là
chuyện quá dễ hiểu, không thế mới lạ! Thì chẳng phải đã có một ví dụ quá rõ nét
khi Đảng và nhà nước Nam Tư đã bỏ tù tác giả của "Giai cấp mới", người đã
từng được bầu làm Phỏ Tổng thống Liên bang Nam Tư, "cây lý luận hàng đầu" của
Đảng Cộng sản Nam Tư đó sao?
Milovan Dijlas từng tuyên bố:
"Tôi, một trí thức đã đi trọn con đường mà một đảng viên cộng sản có thể
đi. Từ những chức vụ thấp nhất, từ các tổ chức cơ sở cho đến quốc gia và quốc
tế, từ việc thành lập một đảng cộng sản chân chính, chuẩn bị cách mạng, đến việc
tham gia xây dựng cái gọi là chế độ xã hội chủ nghĩa. Không ai buộc tôi phải
tham gia hay từ bỏ chủ nghĩa cộng sản cả. Tôi đã tự quyết, theo niềm tin của
mình, một cách tự do...Càng rời xa chủ nghĩa cộng sản, tôi càng tiến gần đến lý
tưởng của chủ nghĩa xã hội dân chủ"...
Tư tưởng bình đẳng và bác
ái tồn tại cũng lâu như chính loài người, được chủ nghĩa cộng sản ủng hộ trên
lời nói, vốn mang trong mình nó sức hấp dẫn vĩnh hằng đối với những chiến sĩ
tranh đấu cho tự do và tiến bộ. Sức hấp dẫn mang tính nhân bản của những lý
tưởng đó đã làm cho việc phê phán chúng trở thành không chỉ phản động mà còn
trống rỗng và vô nghĩa nữa".
Chính vì thế, người trí thức
"đã đi trọn con đường mà một đảng viên cộng sản có thể đi" ấy đã
"tập trung mô tả đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản hiến đại...Tất cả chỉ là
sản phẩm của thế giới mà tôi đang sống và đang phê phán. Tôi đã thấy và đã trình
bày tất cả mà không ngượng ngùng khi thú nhận rằng mình đã là sản phẩm của nó,
có lúc đã là người tham gia xây dựng nó và bây giờ là người phê phán
nó". ***
Phải chăng đây là sự" phê
phán nó" khi "nó" đã tự tha hóa, tự biến mình thành công
cụ trong tay "giai cấp mới" với lợi ích của chính nó, củng cố chế độ toàn
trị phản dân chủ, quay lưng lại với nhân dân? Trong những bức thư Trần Độ gửi
lãnh đạo của, đặc biệt là bức thư viết vào cuối năm 1974 dưới bút danh Chín
Vinh, đã có bóng dáng của sự phê phán nói trên:" nhiều hiện tượng tiêu cực
trong xã hội và trong tất cả các tổ chức Đảng, trong bộ máy chính quyền...Điều
đó ai cũng thấy. Thế nhưng vấn đề là tại sao nó lại chuyển biến chậm chạp. Sự
biến chuyển chậm chạp này đã tạo ra một tình trạng giảm sút lòng tin trong cán
bộ, đảng viên, trong nhân dân và đáng ngại nhất là trong thanh niên...Những hiện
tượng tiêu cực của xã hội ( và trong Đảng, trong chính quyên) làm vẩn đục sự
trong sáng và đẹp đẽ của những lý tưởng, đầu độc những lòng say mê hăng hái có
tính chất lãng mạn cách mạng, "sống tiêu cực", tạo nên "một thế lực xã hội" bao
vây và xua đuổi những tâm hồn trung thực"...mọi người trung thực đều nóng lòng
mong đó một cái gì đổi mới, chuyển biến gì mạnh
mẽ...".****
Phải chuyển nhanh, phải đổi mới
nhanh để khỏi phải chứng kiến những điều đau lòng mà ông nghe được từ người bạn
cũ cùng xóm lần ông từ chiến trường về quê sau mười năm xa cách:"cuộc sống
ở nhà thật khốn khổ, khốn khổ nhưng không ai dám kêu. Đói đấy phải bảo là no. Có
ai hỏi đều nói " cám ơn bác cũng đủ ăn. Nếu kêu đói tức là thành phần xấu.
Ông hỏi người bạn cũ: Được mấy cháu rồi?- Nhờ ơn cách mạng được ba
đứa- Sao lại nhờ ơn cách mạng?- Ở chiến trường không biết chứ ở nhà cái
gì chả nhờ ơn cách mạng. Nuôi được con lợn to, cưới được vợ cho con, nhất nhất
là ơn của cách mạng cả"!
Là người lăn lộn ở chiến trường
cùng với chiến sĩ, lặng lẽ ghi những hiện thực thất đáng buồn ở hậu phương, câu
chữ ngọn bút ghi lại chạy trên trang giây mỏng hoàn toàn là sự thật, tướng Trần
Độ day dứt: "Nếu sự thật này ở tiền tuyến người lính biết được hoàn cảnh
sống của cha mẹ vợ con thì cấp trên biết nói thế nào với họ"? **** Trung
thực với chính mình, trung thực với cuộc sống, trung thực với lịch sử, chính cái
đó tạo ra "hiện tượng Trần Độ", ở đây "sức hấp dẫn vĩnh hằng đối với những
chiến sĩ tranh đấu cho tự do và tiến bộ. Sức hấp dẫn mang tính nhân bản của
những lý tưởng đó" bị chính sự dối trá lọc lừa của "quyền lực bị
tha hóa" làm cho băng hoại. Bằng sự trải nghiệm của cả cuộc đời dấn thân
trọn vẹn cho lý tưởng nhân văn cao đẹp, Trần Độ tỉnh táo nhận ra sự băng hoại
khủng khiếp đó.
Trong Nhật ký viết vào những năm
cuối đời mà ông gọi "đây là một tấc lòng “để tặng người đời và cuộc đời”.
Đây là những ý nghĩ nung nấu trong những tháng cuối năm Rồng và đầu năm Rắn, và
cũng là những ý nghĩ nung nấu trước đó hàng chục năm và sẽ còn nung nấu tiếp đến
cả khi sang thế giới bên kia. Đây là nỗi niềm cay đắng của một cuộc cách mạng,
và của một kiếp người".
Vấn đề Trần Độ đặt ra đâu chỉ là
ý nghĩ của riêng ông. Một xã hội mà
công dân không được quyền sống thật, nói thật, nhà văn cũng không được quyền bộc
bạch tâm sự riêng tư của mình trên trang giấy là một xã hội không có chân
móng. Câu này Nguyễn Khải viết trong "Đi tìm cái
tôi đã mât". Thật đau đớn khi "một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện
Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng long rom như một
kẻ bại trận. Quả thật dân tộc Việt Nam đã thắng lớn trong phong trào chiến tranh
giải phóng nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do và dân
chủ. Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học
thuyết đã mất hết sức sống. Dân mình sao lại phải chịu một số phận nghiệt ngã
đến vậy! Vẫn là Nguyễn Khải dăn vặt trong "Đi tìm cái tôi đã
mất".
Mà đâu chỉ nhà văn Nguyễn Khải
có nỗi dắn văt đó, nhà thơ Chế Lan Viên trong bài "Trừ Đi"
cũng từng nói lên nỗi đau dằng xé tâm can:
Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu! Một nửa
Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi
Giết một tiếng đau - giết một tiếng cười
Giết một kỷ niệm - giết một ước mơ - tôi giết
Cái cánh sắp bay - trước khi tôi viết
Tôi giết bão ngoài khơi cho được yên ổn trên
bờ
Và giết luôn mặt trời lên trên biển - Giết mưa
Và giết cả cỏ trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gầy còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của
mình
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi.
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi - Người có lỗi
Đã phải giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình
Chính vì thế, Trần Độ thẳng thắn
chỉ rõ:
"Tự do là chìa khoá của
phát triển.
Tôi nghĩ thế này: nước
Việt Nam ta hiện nay, sau bao nhiêu năm đấu tranh và chiến tranh gian khổ, cần
phải hoà bình phát triển và cần phải phát triển nhanh, để bù lại những thời gian
đã mất, và để theo kịp các nước chung quanh. Đó là mục đích và yêu cầu quan
trọng nhất của đất nước. Những cái khác là phụ. Do đó, để phát triển đất nước
thì rõ ràng ta phải tìm đường lối nào, học thuyết nào phục vụ được yêu cầu đó.
Nếu thật sự coi phát triển đất nước là quan trọng nhất thì Đại đoàn kết dân tộc
là quan trọng hơn đấu tranh giai cấp; trí thức quan trọng hơn công nhân và nông
dân; phát triển sức sản xuất là quan trọng hơn mọi thứ; để dân làm chủ mọi lĩnh
vực quan trọng hơn các trò chuyên chính đàn áp; nghe và thu thập được nhiều ý
kiến khác nhau và trái ngược nhau kể cả về đường lối chính sách, quan trọng hơn
là bắt mọi người phải tuân theo một quan điểm, một ý kiến".
Cho nên, đúng là không có gì khó
hiểu khi người ta phải khai trừ Trần Độ ra khỏi đảng, rốt raó đến độ khi ông mất
lại cạn tào ráo máng cấm không được "thương tiếc ông". Đây là kế
tục thực hiện một nguyên lý cai trị. Thì chẳng thế sao ? Từ những năm 1955,
ngay sau giải phóng Thủ đô, thay vì "Khi đoàn quân tiến về là đêm tan
dần" như Văn Cao mơ ước, người ta đã "...đem bục công anh đặt giữa tim
người/ Bắt tình cảm ngược xuôi/ theo luật đi đường nhà nước". [Thơ Lê
Đạt] Chẳng những thế, "phải tạo ra một tình hình
chính trị luôn căng thẳng (một cuộc chiến tranh có thể xảy ra, một cuộc bạo loạn
có thể xảy ra) để buộc các công dân phải sống trong những quy chế nghiêm ngặt
của thời chiến, ở các chế độ toàn trị chỉ có hai cơ quan mà quyền uy bao trùm cả
xã hội. Đó là cơ quan tư tưởng, tuyên truyền và cơ quan công an. Một để chặn,
một để chống.
Còn khi đã có chuyện bất
thường xảy ra thì chỉ có một biện pháp: đàn áp, bắt giữ, lập toà án xét xử những
kẻ cầm đầu. Cách giải quyết vừa nhanh gọn lại mau ổn định, không dây dưa, phiền
toái vì có quá nhiều luật lệ, qua nhiều lý lẽ như ở các nước tư bản. Những rối
loạn vặt vãnh thật ra là nước là không khí của các nhà cầm quyền độc tài.
Họ đâu có sợ loạn. Họ còn
bày ra những cuộc chiến cung đình như ở Liên Xô và các nước Đông Âu, hay một
cuộc chiến giữa nhân dân với nhau như đã làm ở Trung Quốc. Không có mùi vị của
thuốc súng, của máu người và những tiếng la hét cuồng nộ của đám đông thì người
cầm quyền biết thở bằng gì"...Những câu này là của
tác giả "Đi tìm cái tôi đã mất".
Chính vì thế mà phải "
Nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói không biết xấu
hổ, không biết run sợ vì người nghe không có thói quen hỏi lại, không có thói
quen lưu giữ các lời giải thích và lời hứa để kiểm tra. Hoặc giả hỏi lại và kiểm
tra là không được phép, là tối kỵ, dễ gặp tai hoạ nên không hỏi gì cũng là một
phép giữ mình. Người nói nói trong cái trống không, người nghe tuy có mặt đấy
nhưng cũng chỉ nghe có những tiếng vang của cái trống không. Nói để giao tiếp đã
trở thành nói để không giao tiếp gì hết, nói để mà nói, chả lẽ làm người lại
không nói .
Thật ra nói thế mà vẫn
hiểu nhau cả. Người cầm quyền thì biết là nhân dân đang rất bất bình về nhiều
chuyện, nhân dân thì biết người cầm quyền đang nói dối, nhìn vào thực tiễn là
biết ngay họ đang nói dối. Nhưng hãy mặc họ với những lời lẽ dối trá của họ, còn
mình là dân chả nên hỏi lại nói thế là thật hay không thật...
Mọi cái khác với chính
thống đều bị lên án, mọi cái giống nhau đều được tuyên dương. Vì những cái khác
nhau rất khó tạo ra sự nhất trí, còn những cái giống nhau sẽ dễ nghe theo, làm
theo mọi mệnh lệnh.
Nhà văn Nguyễn Khải đau đớn đặt
ra một câu hỏi: "một môi trường xã hội ngột ngạt vì
cái bóng quyền lực phủ lên tất cả, quyết định tất cả thì số phận những cá nhân
sẽ ra sao? Vị tướng Trần Độ trả lời câu hỏi đó
trong những trang Nhật ký viết ở chặng sắp kết thúc một cuộc đời dấn thân trọn
vẹn cho lý tưởng cao cả từ thuở đầu xanh cho đến lúc tóc bạc để đúc kết vào chỉ
mỗi một câu thôi:
" Đây là nỗi niềm cay đắng
của một cuộc cách mạng, và của một kiếp người".
Tôi mượn câu này làm một nén
hương lòng thắp trước di ảnh của ông nhân ngày Giỗ của người mà tôi kính mến.
Tôi là kẻ hậu sinh, quen biết ông quá muộn, được ông xem là bạn vong niên đã là
một niềm cảm kích lớn, xin chỉ gợi lại một kỷ niệm nhỏ với ông. Hôm ông đến
chơi, ông trách tôi: "anh tệ thật, không thèm gửi sách cho tôi", vừa nói ông vừa
đến bên giá sách và chỉ vào cuốn "Khảo sát xã hội học về phân tầng xã
hội" đã in cách đó 5 năm. Tôi choáng người, vội xin lỗi và thanh mình:
"Chết tôi rồi, tôi đã gửi biếu anh ngay sau khi nhận được từ nhà xuất bản về.
Tôi còn nhớ rõ, cuốn đánh số 4". "Sao? Đánh số? lại số 4", ông ngạc
nhiên hỏi.
"Vâng, chính vì thế mà tôi nhớ
rõ mà. Duyên do là cuốn sách ấy chỉ là toàn bộ bản báo cáo về cuộc khảo sát xã
hội học ở Thái Bình mà Anh đã hỏi chuyện tôi khi gặp anh tại nhà khách tỉnh ủy
sau đó một năm nay hoàn chỉnh lại về văn phong, câu chữ để đưa in. Tuy đã được
Hội đồng nghiệm thu cấp Nhà nước chấp thuận, nhưng khi đưa in thì Nhà xuất bản
đòi bỏ một số đoạn. Tôi từ chối. Giằng co mãi, cuối cùng anh Nguyễn Duy Quý xử
lý một cách rất cao tay: in và lưu hành nội bộ. Tôi đồng ý ngay. Chỉ cần in, còn
lưu hành nội bộ thì càng tốt, đó là một cách quảng cáo cho sách. NXB chơi chua:
chỉ in 100 cuốn và đánh số từ 1 đến 100, gửi cho ai thì phải ghi tên người đó và
số của cuốn sách (!). Cuốn này, tôi gửi cho anh HTK, sau khi anh ấy mất, tình cờ
đến chơi nhà, thấy cuốn sách nằm lăn lóc trong đống sách cũ, tôi xin lại đem về
đặt vào đây, cuốn sách mà anh đang cầm trong tay đó, vì còn cuốn cuối cùng trên
giá sách này thì một người bạn thân cầm về rồi "quên" chưa
trả".
Ông trầm ngâm đưa trả cuốn sách
không nói gì. Một lần khác, cùng ông lên chơi nhà Thu Bồn ở "Suối Lồ Ồ", đến nơi
thì đã tối tròi, khi bước xuống xe thấy ánh đèn flash lóe sáng. Ông cầm tay tôi
nói to với các bạn cùng xuống xe: "đứng lại để người ta chụp ảnh đã, chụp
xong rồi hãy vào nhà", mọi người cười ồ. Lúc ăn cơm, tôi nhắc với ông để in
lỗi vì chưa đi photo cuốn sách để gửi đến ông nhưng nói thêm là sách lạc hậu
rồi, anh đứng mất thì giờ đọc làm gì. Ông cười và yêu cầu gửi gấp, câu này ông
nói hơi to. Thế là, sáng hôm sau, một người học trò cũ của tôi, nay là "nhà
báo", người ngồi cạnh tôi tối qua ở nhà Thu Bồn và bả lả vui vẻ: "em tình cờ
thấy thầy và theo vào đây, vui quá, thầy cho phép em ngồi chứ", bỗng bất ngờ
đến chơi. Thầy trò gặp nhau vui vẻ, anh ấy xuống bếp mươn mấy cái đĩa, lôi từ
trong túi giấy ra mấy thứ bánh lá "em biết thầy vẫn thích loại bánh này nên
mang đến thấy dùng bữa sáng". Vừa ăn bánh, vừa hàn huyên bao chuyện cũ, anh
học trò hạ giọng, "thầy ơi, cuốn sách thầy đinh photo biếu bác Độ, thấy có thể
cho em xem được không ạ".Biết việc anh ấy phải làm và mục đích của bữa ăn sáng,
tôi kéo anh ta đến giá sách, lôi cuốn sách ra đưa cho anh và nói: "Mình nhờ
cậu đi photo giúp mình, quả thật mình cũng đang định làm chuyện này nhưng bận
quá. Cậu photo cho mình 2 cuốn, một mình giữ lại, một đưa biếu ông Độ, còn lại
cậu muốn photo ấy bản đủ cho công việc của cậu thì tùy"! Người ta "chăm sóc"
ông Độ thật chu đáo.
Nhưng rồi bộ sách"Trần Độ. Tác
Phẩm tập 1, 2,3" do NXB Hội Nhà Văn in rất đẹp cũng đã ra mắt bạn đọc. Dành thì
giờ đọc lướt qua mấy nghìn trang sách, nhưng những lời, những đoạn tôi trích ra
trong bài viết này thì không có ở trong đó.Thôi thì chăc là ai đó đang sực nghĩ
đến những bước đi của lịch sử và sự sòng phẳng của lịch sử. Ngạn ngữ phương tây
có câu: “Không có vĩ nhân dưới con mắt của kẻ hầu phòng". Người hầu phòng
mẫn cán và thông thạo nghiệp vụ chỉ cần đánh giá khách hàng của anh ta thông qua
đẳng cấp căn phòng mà khách thuê và số tiến bo anh ta sẽ nhận được từ hầu bao
của vị khách.
Sực nhớ đến "Lời"
trong "Bơ vơ Đông đảo" của Việt Phương:
Những người lính trẻ ngã
xuống ở Lạng Sơn
không
liên quan gì đến ngày hôm nay nữa
Chỉ còn lo toan những ghế
nhỏ lên ghế to
xe cúp
lên ô tô chung cư lên biệt thự
trong cuộc đòi bơ sữa mà thôi.
Vậy thì người lính Trần Độ,
tướng Trần Độ, nhà văn hóa Trần Độ liệu có "bơ vơ" giữa cuộc đời "đông
đảo" này không nhỉ?
Tôi tìm thấy trong tâp thơ
"Nắng" của Việt Phương với đề từ "đời đang đón đợi để đong
đầy" vừa nhận được hôm qua hai câu:
Mong sao được là người mê
muội
Lặn xuống sâu đắm đuối gặp
chân trời
Sài Gòn
8.8.2013
_______________________
* Roger
Pearson, (2005), Voltaire Almighty, London: Bloombury Publishing. Tr. 66 –
67.
** Maxim Gorky
Những ý tưởng không hợp thời đăng trên nhật báo Novaja Žizn (Đời
Mới) trong những năm 1917-1918. NXB
Surkamptaschenbuch của Đức ấn hành năm 1974.
***Những đoạn có ***
đều trích trong "Giai Cấp Mới" của Milovan Dijlas
**** Những đoạn có
**** đều trích trong "Chuyện Tướng Độ" của Vũ Bá Cường. NXB Quân Đội
Nhân dân
Tác giả gửi
cho viet-studies ngày 8-8-13