Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

Đôi nét về lịch sử đất nước Thái Lan

 

Giới lãnh đạo Thái Lan đã khôn ngoan trong nền ngoại giao quốc tế nên có thể duy trì được nền độc lập cho xứ sở, họ đã biết tiếp thu các ảnh hưởng Tây phương đồng thời vẫn duy trì được chủ quyền quốc gia.
Sắc dân Thái
Từ thế kỷ 12 tới đầu thế kỷ 20, vùng đất này được người ngoại quốc gọi là Siam (Xiêm La) cho tới năm 1939, tên chính thức của vương quốc được gọi thành Thái Lan sau một biến cố chính trị, trong đó danh từ “Thái” có nghĩa đen là “tự do”. Nguồn gốc của dân tộc Thái được cho là từ tỉnh Vân Nam bên Trung Hoa nhưng cũng có người lại cho rằng dân tộc gốc của xứ sở này đã từ đồng bằng sông Menam Chao Phya đi lên mạn Nam Trung Hoa rồi gặp thời kỳ bành trướng của Đại Hãn Hốt Tất Liệt mà lại phải di chuyển xuống phía nam.
Trong Thế Chiến Thứ Hai, một tù binh người Hòa Lan khi làm con đường xe lửa Thái Lan – Miến Điện, đã khám phá thấy các đồ cổ thời đồ đá tại Ban Kao, thuộc tỉnh Kanchanaburi ở phía tây. Rồi các khai quật tại làng Ban Chiang gần Udon Thani phía đông bắc đã tìm ra các đồ sành, đồ sắt, đồ đồng, nữ trang… và thời đại đồ đồng của Thái Lan còn đi trước nền văn minh của thung lũng hai con sông Tigris và Euphrates, có lẽ vào khoảng 3,600 năm trước Tây Lịch. Văn Hóa Ban Chiang này đã cho thấy người dân thời đó đã biết trồng lúa, nuôi thú vật và đã có các tài khéo léo, làm và trang hoàng các bình sành, chai lọ kim loại…
Các dấu tích khảo cổ cũng cho thấy sự hiện diện của người Ấn Độ tại Thái Lan vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch. Tài liệu Phật Giáo Sinhalese là Mahavamsa còn kể lại Vua Ấn Độ Ashoka (268- 232 trước TL) đã cử hai đặc sứ tới miền Suvannabhumi, thuộc Đông Nam Á. Tới đầu kỷ nguyên Tây Lịch, đã có giao dịch buôn bán qua đường biển giữa Ấn Độ và miền nam Thái Lan. Các tượng Ấn Độ cổ đã được tìm thấy tại cả hai cửa sông miền nam Thái Lan, ghi dấu của thế kỷ thứ 4 sau Tây Lịch.
Trong các thế kỷ tiếp theo, Phật Giáo và Ấn Độ Giáo tiếp tục được du nhập vào các miền Đông Nam châu Á và đã được sửa đổi để thích hợp với các nhu cầu địa phương. Tiếng Phạn (sanskrit) được giới quý tộc dùng làm ngôn ngữ triều đình trong khi tiếng Pali là ngôn ngữ của kinh Phật Giáo. Các nhà cai trị địa phương thời bấy giờ có lẽ đã dùng các tu sĩ Bà La Môn làm cố vấn trong việc tổ chức chính quyền. Các sắc dân định cư đầu tiên của xứ Thái Lan là người Mon và người Khmer đã chịu ảnh hưởng Ấn Độ rất nhiều. Các khai quật khảo cổ tại Lopburi và Nakhon Pathom đã chứng minh miền định cư của người Mon từ thế kỷ thứ 7 và nghệ thuật Phật Giáo của thời đại Dvaravati (thế kỷ 6 tới thế kỷ 11) là của sắc dân người Mon. Người Khmer nổi tiếng vì khu vực đền đài Angkor Wat, cũng để lại nhiều ngôi đền thờ tại các tỉnh miền đông bắc Thái Lan.
Sắc dân Thái.
Có nhiều lý thuyết cắt nghĩa việc định cư của sắc dân Thái. Lý thuyết đáng tin cậy nhất cho rằng vào thế kỷ thứ 10, một dân tộc từ tỉnh Vân Nam tại phía nam của Trung Hoa đã di chuyển theo các dòng sông và thung lũng, xuống phía nam và tỏa ra thành các giống dân: người Shan còn được gọi là “Thai Yai” (Thái lớn) di chuyển về phía bắc của Miến Điện, người Ahom Thai định cư tại Assam, một nhóm khác tới đất Lào vào, số còn lại đi qua đảo Hải Nam. Nhóm dân đông nhất là “Thai Noi” (Thái nhỏ) đã thiết lập cơ sở chung quanh Chiang Saen tại miền bắc của nước Thái Lan ngày nay. Họ đã lập nên một nước nhỏ đóng đô tại Sukhothai vào năm 1238 và sắc dân gốc Thái này di chuyển dần xuống phía nam, tới Chiang Rai năm 1281 và Chiang Mai năm 1296 rồi xứ sở Thái được nới rộng tới bán đảo Mã Lai.
Vào thế kỷ 13, vương quốc Thái Sukhothai bắt đầu mở mang, đã lấn át các vương quốc Mon và Khmer. Tại phía nam và trên dải đất hẹp là ảnh hưởng của vương quốc quân sự và thương mại Srivichaiya đã hình thành từ thế kỷ 7 mà có người cho rằng vương quốc này đặt kinh đô tại Palembang ở Sumatra, hoặc Chaiya tại miền nam Thái Lan, hoặc tại Kalimantan trên đảo Borneo. Vương quốc Srivichaiya sau đó cũng bị suy tàn vì ảnh hưởng của vương quốc Sukhothai.
Danh từ Sukhothai có nghĩa là “bình minh của hạnh phúc”. Theo tài liệu cổ xưa, người dân Thái vào thời đại Sukhothai đã vui sống tự do, đây là thời vàng son của dân tộc Thái Lan với đất nước thanh bình, tài nguyên phong phú và được vị minh quân cai trị. Theo truyền thuyết, người sáng lập ra vương quốc này là vị anh hùng Phra Ruang. Vào thời đó dân tộc Thái phải triều cống cho vua Khmer đóng đô tại Angkor thứ nước thiêng lấy từ một hồ nước bên ngoài Lop Buri vì vị vua Khmer cần nước thiêng từ bốn miền biên giới. Xe bò chở nước trong các lu bằng đất nung lại đi đường xa khiến cho không tránh khỏi bị bể vỡ dọc đường, và người dân Thái đã phải chuyên chở hai hay ba lần mới nạp đủ số nước triều cống. Khi Phra Ruang tới tuổi trưởng thành, ông ta đã chế ra một thứ lu đan bằng tre và được gắn kín, nhờ đó việc chuyên chở nước thật dễ dàng. Sự sáng suốt này khiến cho vua Khmer phái một vị tướng tới để diệt trừ Phra Ruang nhưng ông này đã biến kẻ thù thành đá. Sau đó Phra Ruang kết hôn với con gái tộc trưởng miền Sukhothai rồi trở nên vị vua đầu tiên của vương quốc độc lập Sukhothai. Phra Ruang mang danh hiệu Sri Indraditya. Kể từ thời đại Sukhothai này, đạo Phật đã được truyền bá rộng rãi và đi dần vào nếp sống của dân chúng cho tới ngày nay.
Người con trai thứ hai của vị vua sáng lập kể trên có tên là Ramkamhaeng. Năm 19 tuổi, vị hoàng tử này đã theo cha ra trận và đánh thắng kẻ thù trong một trận đấu dùng voi. Vì thế vua cha đã ban cho hoàng tử thứ hai tước hiệu Phra Ramkamhaeng hay Rama, vị anh hùng.
Vương quốc Sukhothai vào thời Ramkamhaeng lên ngôi chỉ là một xứ sở nhỏ hẹp nhưng dưới triều đại này, lãnh thổ đã được mở rộng gấp 10 lần, từ Luang Prabang tại Lào qua cánh đồng trung tâm của dòng sông Chao Phya tới tận bán đảo phía nam, còn tại phía tây, sắc dân Mon của miền nam Miến Điện cũng phải thần phục.
Ramkamhaeng là nhà cai trị, nhà lập pháp và chính khách. Ông đã phát minh ra chữ Thái bằng cách phối hợp hệ thống mẫu tự Khmer với tiếng Thái. Các sắc chỉ viết bằng lối chữ mới đã được Ramkamhaeng dùng từ năm 1292 theo đó mô tả Thái Lan là một miền đất phì nhiêu, đồ ăn dư thừa, tự do buôn bán, cấm chỉ chế độ nô lệ và quyền thừa kế được bảo đảm. Cũng vào thời đại này, các trường Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) được thiết lập tại Sukhotai. Các trao đổi văn hóa với các nước ngoài được duy trì vì thế tại nơi đây mới có ảnh hưởng Sinhalese và đặc biệt nhất là đã có mối liên lạc ngoại giao với Trung Hoa. Theo sử liệu, triều đình Mông Cổ thời bấy giờ đã gửi 7 phái đoàn tới Thái Lan và có tài liệu còn ghi rằng chính vua Ramkamhaeng cũng đã qua Trung Hoa vào năm 1299. Thợ thủ công Trung Hoa đã dạy cho người Thái cách làm đồ sứ nhờ đó sản phẩm của Thái Lan được chở qua Trung Hoa và miền Sawankhalok ngày nay còn dấu tích của các lò nung.
Khi Đại Hãn Hốt Tất Liệt đánh chiếm miền nam, Ramkamhaeng đã liên kết với các hoàng tử Mengrai miền Chiang Rai và Ngam Muang miền Phayao để chống ngoại xâm. Tại miền bắc Thái, hoàng tử Mengrai đã sát nhập được đế quốc Mon cuối cùng tại Haripunjaya vào năm 1292 và đã chọn Chiang Mai vào năm 1296 làm kinh đô. Trong khi đó chuyện kể rằng vua Ramkamhaeng đã bị chết đuối tại thác nước của dòng sông Yom ở Sawakhalok. Hoàng tử kế vị là Lo Thai, trị vì từ năm 1318 tới năm 1347, ưa thích tu hành hơn nên trong thời đại này liên lạc tôn giáo giữa Sukhothai và Sri Lanka đã được tăng cường. Vua Lo Thai đã cho xây dựng nhiều tòa nhà để cất giữ các dấu tích Phật mới xin được từ Sri Lanka.
Con trai của vua Lo Thai là Li Thai lên ngôi từ năm 1347, cũng sùng đạo Phật nên đã coi trọng tôn giáo hơn quân sự, vì thế ảnh hưởng của miền chư hầu phía nam Ayutthaya lớn mạnh khiến cho Li Thai cuối cùng bỏ đi tu và các thế hệ kế tiếp trở thành các công hầu. Năm 1438, kinh đô Sukhothai suy tàn nhưng thời kỳ Sukhothai đã để lại dấu nét đặc biệt về nghệ thuật thuần Thái Lan nhất.
Thời đại Ayutthaya
Lịch sử Thái Lan đã không ghi rõ nguồn gốc của người sáng lập nên triều đại Ayutthaya nhưng truyền thuyết đã kể lại rằng vua Traitrung đã cảm thấy rất buồn khổ khi một công chúa không có chồng đã có con vì ăn phải một trái cà do tên làm vườn tưới bằng nước tiểu của hắn. Kẻ phạm tội là Nai Saen Pom đã bị tống khứ khỏi kinh thành cùng công chúa và đứa con. Thần Indra thấu hiểu cảnh khổ của cả ba người này nên đã cho Saen Pom ba điều ước. Saen Pom có cả ngàn mụn cóc trên người nên điều ước thứ nhất của Pom là các mụn xấu xa đó được biến đi. Điều ước thứ hai là xin được một xứ sở để cai trị và một cái nôi bằng vàng cho đứa con là điều ước thứ ba. Tất cả ba điều ước này đã được thực hiện. Đứa bé vì thế được gọi tên là Chao U-Thong hay hoàng tử có chiếc nôi vàng.
U-Thong là một nước nhỏ độc lập, đặt tại tỉnh Suphan Buri này nay. Vua của xứ này thuộc gia đình của các vua Chiang Saen. Trong thời kỳ vua Phya U-Thong cai trị, một bệnh dịch tả đã lan tràn khiến cho vương quốc này phải di chuyển tới Ayodhya hay Ayutthaya. Vị trí của kinh đô mới này có nhiều ưu điểm. Nơi đây là chỗ tập trung của ba dòng sông Chao Phya, Lop Buri và Pasak, lại không xa biển và nằm giữa một đồng bằng phì nhiêu nên là trung tâm lý tưởng về quản trị hành chánh và giao thông. Sau ba năm chuẩn bị, vua Phya U-Thong đã lập nên kinh đô vào năm 1350 và mang danh hiệu vua Ramathibodi I. Nhà vua này đã mở mang bờ cõi, gồm cả xứ sở Sukhothai lẫn miền nam Miến Điện và bán đảo Mã Lai, rồi sau đó còn chiếm xứ Chiang Mai và Cambốt. Vào thời kỳ này, tuy đế quốc Angkor bị suy tàn nhưng ảnh hưởng Khmer lại được phổ biến tại triều đình Ayutthaya. Quan niệm “devaraja” (vừa là vua, vừa là thần) của dân tộc Khmer đã khiến nhà vua Thái Lan vừa là người cai trị dân, vừa là vị đứng đầu giáo hội. Triều đình Thái Lan đã dùng nghi lễ và ngôn ngữ Khmer và tại các buổi đại lễ, các giáo sĩ Phật Giáo và Bà La Môn cùng hành đạo bên nhau, một việc làm còn lưu tới ngày nay.
Vua Ramathibodi đã chia quyền hành ra làm bốn khu vực: nông nghiệp, nội vụ, tài chính và hoàng gia, và nền móng này đã giữ cho vương quyền tồn tại được trong 417 năm. Ramathibodi qua đời năm 1369. Con là vua Ramesuen đã đánh chiếm Chiang Mai vào năm 1390 rồi ba năm sau, tấn công Angkor. Kinh đô Khmer này bị xâm lăng hoàn toàn vào năm 1431 sau 7 tháng vây hãm bởi đội quân của vua Boromajara II. Người Thái Lan đã thu được rất nhiều chiến lợi phẩm, bắt theo hàng chục ngàn tù binh, kể cả các nghệ sĩ và các tu sĩ Bà La Môn.
Tại Thái Lan vào thời kỳ này có hai nước với hai kinh đô là Chiang Mai và Ayutthaya, và chiến tranh đã diễn ra trong hai thế kỷ với cao điểm là vào thời đại của vua Boroma Trailokanath, hay còn được gọi là Trailok (1448- 1488). Vua Trailok đã cải tổ nền hành chánh và kiến trúc xã hội Thái Lan mà ảnh hưởng còn được duy trì tới thế kỷ 19. Vua Trailok đã tập trung quyền hành vào trung ương, quy định về sở hữu đất đai, đặt ra các cấp lương bổng và nhân viên, ấn định chế độ lao động mà người dân phải đóng góp. Đạo luật Triều Đình (Palace Law) năm 1450 của vua Trailok cũng đề cập tới thứ hạng của các người trong hoàng tộc, nhiệm vụ của các quan lại…
Vào năm 1511, Alfonso de Albuquerque người Bồ Đào Nha, chinh phục được Malacca và sau đó đã cho thuyền vào Thái Lan. Vua Ramathibodi II (1491- 1529) đã cho phép người Bồ buôn bán trên đất Thái để đổi lấy súng đạn. Đội quân đánh thuê người Bồ cũng giúp vua Thái Lan trong việc chiếm Chiang Mai và dạy cho người Thái cách đúc súng thần công và súng hỏa mai.
Tại nước Miến Điện, vua Tabinshweti của miền Pegu đã cố gắng thống nhất đế quốc Miến và đồng thời dòm ngó Thái Lan vì xứ sở này đang yếu đi do nội chiến. Năm 1549, vua Tabinshweti đem quân đánh vua Mahachakrapat của Thái Lan vừa mới lên ngôi. Hoàng hậu Thái khi đó là Suriyothai đã cải trang thành tướng nam, cưỡi voi ra trận đánh quân Miến để cứu chồng đang bị vây hãm nhưng sau đó, hoàng hậu bị tử thương. Tro tàn của hoàng hậu này còn được lưu giữ tại Ayutthaya.
Cuộc xâm lăng của vua Miến Điện thất bại. Vua Mahachakrapat củng cố vương quốc với lực lượng quân sự gồm hàng trăm con voi trận và sự giúp đỡ của người Bồ Đào Nha. Vào năm 1569, kinh đô Ayutthaya lại bị quân Miến Điện vây hãm và thất thủ bởi đội quân của vua Bayinnaung. Vua Thái Lan Mahachakrapat bị bắt và bị dẫn về Miến Điện nhưng đã chết dọc đường trước khi tới Pegu. Vị phó vương Maha Thamaraja được người Miến cho cai trị Thái Lan như một chư hầu của Miến. Con trai trưởng Naresuen của Maha cùng với em trai là Ekatotsarot đã nổi lên, về sau dùng du kích chiến đánh thắng quân Miến Điện, mang lại nền độc lập cho Ayutthya vào năm 1584. Naresuen lên ngôi vua Thái Lan vào năm 1590 và củng cố vương quốc Thái, làm suy tàn hai đế quốc Miến Điện ở phía tây và Khmer ở phía đông. Kinh đô Ayutthaya trở nên phồn thịnh và đã làm ngạc nhiên nhiều du khách người Âu vào thế kỷ 17.
Ảnh hưởng của châu Âu
Người em trai của Naresuen là Ekatotsarot lên trị vì Thái Lan từ năm 1605 tới năm 1610, đã không chú ý đến các chính sách quân sự mà lo phát triển kinh tế cho Ayutthaya. Nhà vua ban ra các đạo luật tăng thuế khiến cho dưới mắt người Âu, vua đã mang danh là “người tham lam”. Vào thời kỳ này người Hòa Lan đã tới Thái Lan và bắt đầu mở trạm mậu dịch vào năm 1608. Vua Ekatotsarot nhân dịp này đã gửi một phái đoàn đi The Hague. Rồi vào thời vua Songtham (1610- 1628), người Anh cũng đến Thái Lan, mang theo bức thư của vua James I và cũng được Thái Lan cho một mảnh đất để xây cất nơi buôn bán.
Người Âu đã bị thu hút đến Thái Lan bởi vì họ coi nơi này là cửa ngõ dẫn tới việc thương mại với Trung Hoa. Gió mùa tại châu Á không cho phép các tầu thuyền của thời đại này đi thẳng tới Trung Hoa, vì thế Ayutthaya đã trở nên một cảng chuyển tiếp giữa châu Âu, Ấn Độ, Trung Hoa và Nhật Bản. Nền hòa bình dưới thời vua Naresuen đã mang lại sự thịnh vượng cho người dân Thái và do đó, làm tăng lên nhu cầu xa xỉ của xã hội Thái Lan như lụa và đồ gốm. Ngoài ra người Nhật Bản cũng tới Thái Lan để mua các hàng hóa như gỗ quý, thiếc, đường mía và da thú vật cùng các sản phẩm của châu Âu. Một nhà mạo hiểm người Nhật của thời bấy giờ là Yamada Nagamasa đã có được tước vị cao trong triều đình Thái nhờ đó nhiều người Nhật Bản khác đã trở nên vệ sĩ cho nhà vua. Năm 1628, đội quân đánh thuê người Nhật đã giúp vị Nhiếp Chính là Prasat Thong tiếm vương quyền của vị vua trẻ. Nhưng rồi Tướng Quân của miền Edo nước Nhật đã không cộng tác với vương quyền đó khiến cho Prasat Thong nổi giận, trả thù và giết các người Nhật và nhóm người này phải bỏ chạy qua Cambốt. Prasat Thong trị vì Thái Lan cho đến năm 1655, đã đặt ra độc quyền của hoàng gia theo đó mọi ngoại thương đều bị kiểm soát trực tiếp bởi nhà vua và do bộ Tài Chính đảm trách.
Từ năm 1641 người Hòa Lan lấn át được người Bồ Đào Nha tại Viễn Đông và 7 năm sau, họ đã biểu dương lực lượng hải quân trong vịnh Thái Lan để yêu cầu vua Thái Lan cho họ đặc quyền kinh tế. Con trai của vua Prasat Thong là vua Narai, trị vì từ năm 1656 tới năm 1688, đã hợp tác với người Anh để cân bằng ảnh hưởng của Hòa Lan nhưng sau đó cuộc phong tỏa của Hòa Lan tại cửa sông Chao Phya đã khiến cho Thái Lan phải dành cho người Hòa Lan độc quyền mua da thú vật và một số biệt đãi khác.
Tại Thái Lan, các giáo sĩ Dòng Tên người Pháp đã đến triều đình tại Ayutthaya vào năm 1665 và được phép mở một trung tâm thờ phượng. Cảm tình của nhà vua Thái Lan khiến cho các giáo sĩ kể trên tưởng rằng nhà vua muốn cải theo đạo Thiên Chúa. Do các báo cáo của các giáo sĩ người Pháp gửi về, vua Louis 14 đã gửi một bức thư tay tới vua Narai vào năm 1673.
Sự liên lạc giữa Thái Lan và Pháp lại được gia tăng khi xuất hiện một người Hy Lạp tên là Constantine Phaulkon. Anh này khởi đầu là một người dọn phòng của công ty Đông Ấn thuộc Anh. Phaulkon tới Thái Lan năm 1678 và do có năng khiếu về ngôn ngữ, sau hai năm học anh ta đã nói thông thạo tiếng Thái. Phaulkon được mướn làm người thông ngôn cho Bộ Trưởng Tài Chính Barcalon hay Phra Klang. Nhờ khôn khéo, Phaulkon đã leo lên các nấc thang của xã hội Thái, tới bậc Phya Vijayendra nên được thường xuyên gặp mặt vua Thái Narai. Sau khi bị thất sủng với công ty Đông Ấn, Phaulkon đã cải sang đạo Thiên Chúa La Mã để lấy một người đàn bà Nhật theo đạo đó. Do Phaulkon thường xuyên liên lạc với người Pháp nên nhờ vậy ảnh hưởng của Pháp đã gia tăng đối với vua Narai. Đã có các trao đổi đại sứ giữa triều đình của vua Loui 14 và vua Narai Thái Lan và do lời khuyên của Phaulkon, vua Thái Lan đã chấp thuận cho một đội quân tinh nhuệ Pháp gồm 500 người, dưới quyền chỉ huy của tướng Desfarges, được đổ bộ lên Thái Lan. Phaulkon vì thế được phong bá tước và hiệp sĩ của nước Pháp.
Ảnh hưởng của Phaulkon, một người Hy Lạp bên cạnh vua Thái, đã khiến cho một số vị quan cao cấp triều đình Thái lo ngại. Cách ăn xài hoang phí của Phaulkon cũng làm cho nhiều người tức giận. Dinh thự của Phaulkon tại Lop Buri đêm nào cũng đãi tiệc trên 40 thực khách, số rượu vang tiêu thụ rất lớn. Sự hiện diện của người Pháp và quân đội Pháp cùng với ý định xúi giục vua Thái cải sang đạo Thiên Chúa đã là những mối nghi ngờ. Vào năm 1688 khi vua Narai bị bệnh, một nhóm người quốc gia đã đứng lên, cầm đầu là Phra Phetracha, tư lệnh liên đoàn voi trận của hoàng gia. Vua Narai bị giữ trong lâu đài và Phaulkon bị bắt vì tội phản bội và bị hành quyết vào tháng 6 bên ngoài Lop Buri. Một tháng sau, vua Narai cũng băng hà. Phra Phetracha lên ngôi. Đòi hỏi đầu tiên của vị vua mới này là quân đội Pháp phải rút đi hết.
Nước Thái Lan dưới thời vua Narai được người Âu gọi là Xiêm La (Siam). Những người này đã so sánh kinh đô Ayutthaya đẹp như thành phố Venice của nước Ý và đã ca tụng đây là thành phố đẹp nhất của miền Viễn Đông. Các lâu đài hoàng gia cùng hàng trăm đền đài huy hoàng đã tụ tập bên trong bức tường thành được xây dựng trên hòn đảo lớn của kinh đô.
Các vị vua kế nghiệp vua Narai đã chấm dứt chính sách mở cửa. Các giáo sĩ ngoại quốc tuy còn được phép ở lại và việc buôn bán với nước ngoài vẫn được duy trì nhưng trong giới hạn. Thái Lan từ đây ở vào vị thế cô lập trong 150 năm và các nhà vua đã tập trung vào việc xây dựng nội bộ và tôn giáo. Hệ thống giao thông thủy lộ được phát triển.
Thời đại của vua Boromakot (1733- 1758) được coi là giai đoạn vàng son của kinh đô Ayutthaya. Văn sĩ, thi sĩ, nghệ sĩ tập trung về triều đình; văn chương và nghệ thuật đã phát triển mạnh. Xứ Tích Lan (Ceylon) đã phải mời một phái đoàn sư tăng của Thái Lan qua đó để chấn chỉnh đạo pháp.
Vào năm 1758, con của vua Boromakot lên ngôi sau khi tranh giành ngôi báu rồi sau đó đã đam mê cung tần mỹ nữ. Vào thời kỳ này, đế quốc thứ ba của Miến Điện do vua Alaungpaya đã tấn công Thái Lan vào năm 1760 nhưng bị đẩy lui. Bẩy năm sau, con của vua Alaungpaya là Hsinbyushin mang quân vây hãm Ayutthaya trong 14 tháng và đã thành công. Người Miến khi rút ra vội vã, đã cướp đi tất cả tài sản, đốt sạch kinh đô Ayutthaya kể cả các ngôi chùa và bắt theo tất cả hoàng gia Thái cùng 90 ngàn người, dẫn về Miến Điện. Nền văn minh của Thái Lan trong 4 thế kỷ đã bị hủy diệt.
Kinh đô Bangkok
Trong khi kinh đô Ayutthaya bị vây hãm, một vị tướng trẻ tên là Phya Taksin đã tụ tập được một số quân sĩ, phá vòng vây và chạy về Chantaburi ở bờ biển phía đông nam của vịnh Thái Lan. Bẩy tháng sau khi Ayutthaya thất thủ, Taksin đã đem quân về kinh đô và đánh đuổi được người Miến. Taksin đã kể cho mọi người nghe giấc mơ được gặp các vị tiên vương Thái Lan và được bảo nên dời kinh đô về một nơi mới.
Taksin đã thiết lập kinh đô mới tại Thonburi, bên bờ phía tây của dòng sông Chao Phya và lên ngôi vua. Sau khi thấy vương quốc Thái Lan sụp đổ, trách nhiệm của vua Taksin là thống nhất lại đất nước và chống trả cuộc xâm lăng của quân Miến Điện. Taksin đã trị vì tới năm 1782 nhưng trong 7 năm cuối, quyền uy được giao phó cho hai vị tướng tin cẩn và cũng là anh em, là Chao Phya Chakri và Chao Phya Sarisih. Hai vị tướng này đã chiếm lại Chiang Mai, mở mang bờ cõi Thái Lan tại phía bắc, tràn qua Cambốt và Lào ở phía đông. Chính trong chiến dịch tràn quân qua Lào mà đội quân Thái chiếm được bức tượng Phật Ngọc Bích (the Emerald Buddha) rất nổi tiếng. Tượng Phật này được tạc từ khối ngọc thạch lớn và thờ tại Chiang Ray vào năm 1436. Người Thái từ lâu đã coi bức tượng này là linh thiêng nhất và là biểu tượng cho nền độc lập và thịnh vượng của xứ sở.
Tại Thonburi, vua Taksin sau này trở nên bất thường và tàn bạo. Chứng bệnh hoang tưởng (paranoid), có lẽ do quá lo lắng về chiến trận, đã khiến nhà vua tưởng mình là một bồ tát trong khi đó lại hành hạ các sư tăng, các vị quan cao cấp cùng trẻ em, bắt buộc họ phải thú nhận phạm phải các tội giả tưởng.
Vào tháng 3 năm 1782, một cuộc nổi dậy đã xẩy ra khiến cho vua Taksin phải thoái vị và vào sống trong một tu viện. Vị tướng đảo chính đã mời Chao Phya Chakri làm vua sau chiến dịch tại Cambốt. Tướng Chakri đã lên ngôi vua vào ngày 6 tháng 4, lập nên triều đại Chakri và ngày nay người Thái Lan còn kỷ niệm ngày 6 tháng 4 này. Vua cũ Taksin vì bị coi là một nguồn đe dọa cho sự ổn định nội bộ Thái nên đã bị hành quyết theo tục lệ hoàng gia trước các giọt nước mắt đau buồn của vua mới Chakri.
Khi lên ngôi, vua Chakri lấy danh hiệu là Ramathibodi mà sau này người Thái gọi là vua Rama I, đã ngự trị Thái Lan từ 1782 tới năm 1809. Nhà vua đã dời kinh đô từ Thonburi qua một nơi rộng rãi hơn ở gần đó gọi là Bangkok.
Thời kì Rama ( từ Rama I-Rama IX)
Vua Rama V
Rama V, cũng được gọi là Chulalongkorn Đại đế (tên hoàng gia: Phra Chula Chomklao Chaoyuhua; tiếng Thái: พระบาทสมเด็จพระจุลจอมเกล้าเจ้าอยู่หัว) (20 tháng 9 năm 1853 – 23 tháng 10 năm 1910) là vị vua thứ năm của nhà Chakri trong lịch sử Thái Lan. Ông được xem là một trong những ông vua kiệt xuất của vương quốc Xiêm La và cũng được thần dân gọi là “Đức vua vĩ đại kính yêu”.
Chulalongkorn sinh ngày 20 tháng 9 năm 1853 tại kinh đô Bangkok, là con trai trưởng của vua Mongkut (Rama IV) và hoàng hậu Debsirinda. Ông được vua cha cho học rộng, bao gồm cả học vấn từ những gia sư người châu Âu như Anna Leonowens.
Chulalongkorn kế vị cha mình ngày 1 tháng 10 năm 1868, nhưng thừa tướng Chao Praya Si Suriyawongse làm nhiếp chính vương trong 4 năm do Chulalongkorn vẫn còn quá trẻ để cai trị đất nước. Trong thời gian này, ông đã đi qua các thuộc địa phương tây, bao gồm Singapore, Java và Ấn Độ, để học chính trị, hành chính, lối sống và chính sách thực dân phương Tây. Sau này trong thời gian trị vì, ông cũng đi thăm châu Âu hai lần vào năm 1897 và 1907, là vua Xiêm đầu tiên viếng thăm châu Âu.
Ngày 16 tháng 11 năm 1873, ông đã lên ngôi lần thứ hai. Trong thời gian đi thăm các nước, ông đã học được nhiều chính sách cải cách để hiện đại hóa đất nước mình. Với sự giúp đỡ của một người Bỉ tên là Gustave Rolin-Jaequemyns, ông đã có thể giữ độc lập cho đất nước mình dù Pháp và Anh đang thuộc địa hóa phần lớn các nước Đông Nam Á và đế quốc Anh lúc đó đã tiếp tục chính sách đối nghịch và gây hấn trong quan hệ đối với Xiêm. Ông cũng đã phải nhượng một số lãnh thổ cho hai cường quốc thực dân này, đáng chú ý là các tuyên bố quyền ở nhiều khu vực ngày nay là Lào, Campuchia và một số khu vực phía bắc của Malaysia.
Chulalongkorn đã hiện đại hóa triều đình Xiêm thông qua việc du nhập một chế độ Nội các, và hệ thống hành chính tỉnh bán Phong kiến được đổi qua thành tỉnh (changwat) và huyện (amphoe) như ngày nay vẫn áp dụng. Ông đã tuyên bố ân xá cho tất cả tù nhân chính trị và dần bỏ chế độ nô lệ.
Sự giải phóng nô lệ này thường bị hiểu sai nhưng chủ ý của ông là giảm quyền lực của Bunnag, một gia đình quý tộc kiểm soát chặt chẽ triều Chakri vào lúc đó. Ngoài ra, động thái này cũng làm yếu đi các thủ hiến địa phương và trung lập hóa đất nước.
Tuyến đường sắt đầu tiên của Thái Lan đã được khai trương năm 1896 nối Bangkok với Ayutthaya. Trong thời kỳ trị vì của ông, lịch phương Tây đã thay thế âm lịch. Năm 1896, nhà ngoại giao người Anh là Alfred Mitchell-Innes đã được bổ nhiệm làm Cố vấn tài chính cho nhà vua trong 3 năm và ông này đã du nhập hệ thống giấy bạc cho Xiêm. Chulalongkorn cũng tuyên bố tự do tôn giáo, cho phép Ki-tô giáo và Hồi giáo được hành đạo trong vương quốc Phật giáo này.
Người ta thường hiểu nhầm rằng vua Chulalongkorn đã ban hành sắc lệnh năm 1909 trong thời kỳ trị vì của ông, bắt buộc một số lượng dân số người Thái gốc Hoa trên thực tế đồng hóa dân tộc khác vào xã hội Xiêm La và làm giảm căng thẳng dân tộc và tội phạm bạo động. Sắc lệnh này yêu cầu tất cả dân thường trú phải dùng họ Thái. Tuy nhiên, trên thực tế thì Đạo luật Họ được con trai ông là vua Rama VI ban hành năm 1913.
Vua Chulalongkorn có 4 hoàng hậu và phi (พระมเหสี), Hoàng hậu Saovabha Bhongsi, Hoàng hậu Savang Vadhana, Hoàng hậu Sunandha Kumariratana và Hoàng hậu Sukumalmarsri. Ông có ít nhất 77 người con, trong đó 33 con trai. Con trai thứ hai của ông, Vajiravudh, đã kế vị ông làm vua Rama VI. Ngày qua đời của ông, 23 tháng 10 năm 1910, được làm ngày nghỉ lễ trong năm của dân Thái Lan
Vua Rama IX
Bhumibol Adulyadej hoặc Phumiphon Adunyadet (Thái Lan), phiên âm tiếng Việt là Phu-mi-phôn A-đun-da-đệt, chính thức được gọi là “Đại đế” (tiếng Thái:ภูมิพลอดุลยเดช; IPA: pʰu:mipʰon adunjadeːd; nghe (trợ giúp•chi tiết)) (sinh ngày 5 tháng 12 năm 1927), còn được gọi là Vua Rama IX, là vua Thái Lan đăng cơ ngày 9 tháng 6 năm 1946. Bhumibol Aduladej được xem là một trong số những vị quân vương trị vì lâu nhất thế giới. Mặc dù Thái Lan theo thể chế quân chủ đại nghị, vị quốc vương này đã vài lần can thiệp vào chính trường, gần đây nhất là trong cuộc khủng hoảng chính trị năm 2005 – 2006. Bhumibol Adulyadej được coi là có công lớn trong nỗ lực kiến tạo tiến trình chuyển đổi dân chủ ở Thái Lan trong thập niên 1990, mặc dù trong giai đoạn đầu của vương triều, ông đã ủng hộ các chính phủ quân sự. Ông sử dụng tài sản to lớn của mình để cung cấp tài chính cho nhiều đề án phát triển, đặc biệt là ở nông thôn. ông được người dân Thái Lan hết sức yêu kính. Đối với nhiều người dân Thái, nhà vua được sùng bái gần như một thần linh. Những người chỉ trích (hầu hết bên ngoài Thái Lan) xem điều này là hệ quả của chính sách đàn áp bất kỳ sự chỉ trích nào nhắm vào hoàng gia.
Bhumibol tham gia tích cực vào đời sống kinh tế và xã hội của đất nước, chủ yếu là qua một loạt các đề án phát triển kinh tế mà ông đề xuất, tổ chức và tài trợ. Mặt nam và tây của Điện Chitralada, hầm ủ, nhà máy và nông trang chế biến chỉ là phần nhỏ của chương trình phát triển gọi là “những đề án hoàng gia”, từ các đề án nghiên cứu (thường là thuộc lĩnh vực nông nghiệp), trường học xen ca, huấn nghiệp, bảo tồn nước đến các dự án phát triển điền địa (không thể liệt kê hết). Có hơn 3.000 đề án khởi xướng bởi quốc vương và được triển khai trên toàn quốc, nhắm vào mục tiêu cải thiện điều kiện sống của dân nghèo ở vùng nông thôn Thái Lan.
Hoạt động trong nhiều lĩnh vực từ giới thiệu giống cây trồng đến bảo tồn nước, từ thoát nước vùng đầm lầy đến bảo vệ rừng, trong mục tiêu phát triển bền vững, Dự án Phát triển Hoàng gia được chia thành tám thể loại phụ thuộc vào khu vực kinh tế mà nó nhắm vào: nông nghiệp, môi trường, y tế, huấn nghiệp, tài nguyên nước, truyền thông, phúc lợi xã hội và những lĩnh vực khác.
Theo NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ

3 Year Old Drummer ~ Howard Wong



Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

Lặng người suy ngẫm từ clip 'Chuyện nhỏ'





âu chuyện được bắt đầu bằng hình ảnh một người thanh niên đến đón một cô bé trước cổng trường. Ăn được nửa quả bắp ngô, chàng thanh niên vứt nó xuống vỉa hè. Ngay lập tức, một cậu bé học sinh chạy đến nhặt lại quả bắp...

Rồi, cậu gặp một bạn mập học chung trường. Cậu mập vô tư vứt rác ngay trước mặt cậu bé nhưng cậu bé vẫn cặm cụi nhặt rác bỏ vào thùng. Tức giận, cậu mập liền lấy chân đá đổ thùng rác và đánh cậu bé nhặt rác.

Liền lúc đó mẹ cậu mập và ba cậu bé nhặt rác đến. Ba cậu bé liền xin lỗi và nhắc nhở cậu bé. Sau khi nghe đầu đuôi sự việc, mẹ cậu bé mập cảm thấy xấu hổ liền dắt con trai về. Cuối phim là hình ảnh hai cha con đẩy xe rác đi trong mưa. Cậu bé cũng chỉ muốn giúp đỡ người cha của mình (là một công nhân rác) và thực hiện lời dạy của cô giáo- bỏ rác vào thùng.

Phim ngắn đã chuyển tải thông điệp về môi trường đầy ý nghĩa. Hành động của cậu bé đã khiến nhiều người lớn phải khâm phục và giúp họ hiểu rằng, bảo vệ môi trường chính là những việc làm rất nhỏ nhưng thiết thực như thế. Bên cạnh đó còn là tình cảm gia đình chan chứa từ cậu bé cũng tạo nên sự đồng cảm, xúc động trong mỗi người khi xem clip này.

Ngay sau khi được tung lên Youtube, phim ngắn có tên "Chuyện nhỏ" đã gây được sự chú ý trong cộng đồng mạng. Phim ngắn này do nhóm W.A.O đến từ TP. Hồ Chí Minh thực hiện.

Theo DÂN TRÍ / YOUTUBE

 

Ai đã ăn cắp nỏ thần của An DươngVương?

Trong giờ Lịch Sử, kiểm tra bài cũ, Thầy giáo gọi Tèo lên bảng và hỏi:
- Ai đã ăn cắp nỏ thần của An Dương Vương?
- Dạ thưa thầy, em không biết. Nhưng em thề là em không lấy.
Thầy bực quá nên đuổi Tèo về chỗ và hỏi cả lớp:
- Cả lớp, ai đã ăn cắp nỏ thần của An Dương Vương?
Không cánh tay nào giơ lên. Thầy gọi:
- Lớp trưởng nào. Ai đã ăn cắp nỏ thần của An Dương Vương?
Lớp trưởng rụt rè đứng dậy:
- Dạ thưa thầy, em xin cam đoan với thầy là lớp em không ai lấy đâu ạ.
Thầy giáo bèn yêu cầu Tèo mời phụ huynh đến gặp để bàn về việc học của Tèo. Nhưng, khi gặp phụ huynh, thầy chưa kịp lên tiếng thì phụ huynh đã nói:
- Thầy xem xét lại cho, chứ thằng Tèo nhà tôi ngoan ngoãn, hiền lành, chưa ăn trộm, ăn cắp cái gì của ai bao giờ cả. Mong thầy suy xét.


Buồn quá, thầy giáo đem chuyện này nói với hiệu trưởng. Nào ngờ thầy hiệu trưởng phán:

- Hư thật, mới học lớp 10, mà đã ăn trộm, ăn cắp rồi. Bé thì trộm cái nỏ thần, lớn lên, thế nào cũng tham ô, tham nhũng. Phải đuổi học ngay!!!

Phụ huynh của Tèo biết chuyện, bèn vác đơn kiện lên Sở. Mọi người trên Sở cười lăn, cười bò. Duy chỉ có Giám đốc là mặt tái đi:

- Hiệu trưởng như thế không được. Có mỗi cái nỏ thần mà cũng định đuổi học con nhà người ta. Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực gì mà lại làm như thế! Bảo với ''anh'' Dương Vương làm báo cáo, nỏ thần hết bao nhiêu tiền thì trích ra mua, mà đền, có gì mà phải làm ầm ĩ lên!


Không biết kẻ nào mách lẻo, chuyện đến tai Bộ. Các chuyên viên trên Bộ cười ha hả. Nhưng bà Vụ trưởng Vụ Kế hoạch tài chính thì cau mày:

- Giám đốc như thế không được! Bạ cái gì cũng lấy ngân sách ra mà đền thì tiền đâu cho đủ! Phải bắt nhà học sinh đền. Nếu không, ''đồng chí'' Dương Vương phải tự đi mua cái mới. Có mỗi cái nỏ, mà cũng không giữ nổi, lại còn báo cáo cấp trên.


Thứ Năm, 19 tháng 9, 2013

Đi học "nghệ thuật chuyển hóa khổ đau" giữa lòng nước Mỹ


Radiovietnam- Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có những chia sẻ ý nghĩa trong buổi nói chuyện có chủ đề “nghệ thuật chuyển hóa khổ đau” tại Khách sạn Boston Park Plaza (Mỹ) ngày 12/9 vừa qua.
Buổi nói chuyện của thiền sư Thích Nhất Hạnh_radiovietnam.vn
Làm thế nào để chế ngự được những âu lo, sợ hãi? Bằng cách nào để chuyển hóa được những nỗi khổ, niềm đau? Con đường nào đưa ta đến cuộc sống thảnh thơi, an lạc, ngập tràn hạnh phúc và tình yêu thương? Chỉ có một con đường duy nhất, đó là nghệ thuật chánh niệm, là ý thức hơi thở, là nghệ thuật lắng nghe sâu và sử dụng ngôn từ ái ngữ…

Với thiền sư Thích Nhất Hạnh, đó chính là những phương pháp chánh niệm có công năng trị liệu đặc biệt, mang lại cho chúng ta tuệ giác và tình yêu thương đối với chính bản thân mình và đối với mọi người, mọi loài mà thiền sư đã chia sẻ trong buổi nói chuyện về chủ đề “nghệ thuật chuyển hóa khổ đau” tại Khách sạn Boston Park Plaza (Mỹ) ngày 12 tháng 9 vừa qua...

Nghe nội dung chi tiết tại đây: http://radiovietnam.vn/van-hoa-the-thao/2013/09/di-hoc-nnghe-thuat-chuyen-hoa-kho-daun-giua-long-nuoc-my/

Ý thức hơi thở - Hạnh phúc hiện ra ngay bây giờ và ở đây.

Buổi nói chuyện của Thiền sư Thích Nhất Hạnh do trường Đại học danh tiếng hàng đầu nước Mỹ Harvard tổ chức tại tiền sảnh của Khách sạn Boston Park Plaza đã thu hút đông đảo giới mộ điệu nước Mỹ, trong đó, phần lớn là giới trí thức, thượng lưu, doanh nhân, chính trị gia, trong đó, có cả gia đình cố Tổng thống Mỹ John F.Kennedy.

1.200 vé đã bán hết veo trong vòng 3 ngày với giá cao ngất ngưởng: 450 đô-la/vé đã chứng tỏ sức hút đặc biệt của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Song điều đó cũng cho thấy phần nào tảng băng chìm trong đời sống tâm linh nước Mỹ.
Dường như người Mỹ cũng đang phải đối diện với những khổ đau, những căng thẳng, âu lo và sợ hãi. Dường như chính họ cũng đang bế tắc trong việc truy tìm bến bờ của hạnh phúc, của an lạc.

Một bác sĩ tâm lý trị liệu tham dự buổi nói chuyện tâm sự với tôi: “Tôi đã tư vấn, trị liệu thành công cho hàng ngàn bệnh nhân mắc bệnh trầm cảm, u uất, đau khổ. Nhưng chính tôi nhiều lúc cũng bị căng thẳng, lo sợ, hoang mang. Tôi đến đây là để nghe một trong những vị thiền sư danh tiếng nhất thế giới nói về phương pháp chánh niệm để vận dụng trong công việc tâm lý trị liệu. Song trước tiên, tôi muốn trị liệu tâm lý cho chính tôi”.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Thiền sư Thích Nhất Hạnh ngồi an nhiên trong tư thế kiết già trên bục giảng sân khấu. Khuôn mặt thầy bình thản, đôi mắt sáng, tinh anh, giọng thầy nhỏ nhẹ, đều đều như hơi thở. Thầy bắt đầu câu chuyện bằng việc theo dõi hơi thở.

Mọi người ở dưới ồ lên. “Tưởng thiền là điều gì khó khăn ghê gớm chứ theo dõi hơi thở của mình thì đơn giản quá”. Thầy mỉm cười. Cái cười độ lượng, nhân từ. “Ta thở vào và theo sát hơi thở xuống dưới bụng. Trong khi thở, ta nhủ thầm “Con đã về”. Rồi ta theo dõi hơi thở ra từ đầu cho đến cuối trọn vẹn, thỏa mái, đồng thời nhủ thầm “Con đã tới”. Chỉ bằng một động thái đơn giản như thế, tâm ta lập tức sẽ trở về với thân, tiếp xúc với một sự thật màu nhiệm tuyệt vời là ta đang còn sống trong giây phút hiện tại và đây là giây phút hạnh phúc”. Thiền sư Thích Nhất Hạnh gọi đó là hơi thở có ý thức, hơi thở chánh niệm.

Mọi người ở dưới chậm rãi thực hành theo. Thân thể thả lỏng, mắt từ từ nhắm lại. Chậm rãi theo dõi hơi thở. Thở vào: “con đã về”. Thở ra: “con đã tới”. Và ngay lập tức, dường như mọi người đã nhanh chóng thoát ra khỏi những lo toan, ồn áo huyên náo trong đầu, và bước vào một trạng thái thức tỉnh khác lạ. Khuôn mặt ai cũng trở nên thư thái. Có lẽ, họ đã hiểu, thế nào là giây phút hiện tại.

Thiền sư giảng giải: “Chúng ta thường bị mắc kẹt trong những ưu sầu vì nuối tiếc quá khứ và lo lắng, sợ hãi cho tương lai. Chúng ta cho rằng hạnh phúc chưa thể có trong hiện tại và chúng ta cần phải có nhiều điều kiện hơn nữa mới thực sự có hạnh phúc. Đó chính là lý do khiến chúng ta khổ. Theo lời dạy của Đức Thế Tôn, tất cả những gì chúng ta đang cần tìm đều có mặt trong giây phút hiện tại. Nếu chúng ta biết thực tập hơi thở ý thức và định tâm thì chúng ta có thể đi ra khỏi những khổ đau này và chạm tay vào những màu nhiệm của sự sống ngay trong giây phút này. Quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới, chỉ có duy nhất giây phút mà ta có thể thực sự sống. Đó là giây phút hiện tại.

Trong Kinh quán niệm hơi thở, Bụt đã chỉ dạy cho chúng ta những bài tập cụ thể để tạo dựng niềm vui, hạnh phúc, an lạc. Đó là một giáo pháp rất rõ ràng và sâu sắc. Nếu chúng ta biết cách tạo ra năng lượng niệm và định thì chúng ta có thể tiếp xúc với vô vàn hạnh phúc đang có mặt với ta ở đây, ngay bây giờ.

Chẳng hạn như chúng ta tiếp xúc với hai mắt. “Tôi đang thở vào và ý thức về hai mắt của tôi. Tôi đang thở ra và mỉm cười với hai mắt của tôi”. Khi ta thực tập như vậy thì tuệ giác sẽ nảy sinh. Chỉ trong hai, ba giây là ta có thể nhận thấy rằng: đôi mắt của mình vẫn còn sáng. Một thiên đường của màu sắc, hình ảnh đang hiện ra trước mặt. Đối với những người bị khiếm thị, thiên đường ấy, chưa một lần họ nhìn thấy. Vì vậy mà đôi mắt là một trong những điều kiện căn bản để có hạnh phúc. Ta chỉ cần thở vào thể thắp sáng ý thức rằng, mình đang có một đôi mắt sáng.

Buổi nói chuyện đã thu hút đông đảo giới mộ điệu nước Mỹ.
Ta cũng có thể thực tập tiếp xúc với trái tim mình: “Tôi đang thở vào và ý thức về trái tim của tôi. Tôi đang thở ra và tiếp xúc với trái tim của tôi”. Khi chúng ta sử dụng năng lượng chánh niệm, chúng ta sẽ khám phá ra rằng: trái tim mình đang đập bình thường trong khi biết bao người bị hở van tim, rối loạn động mạch vành. Họ có thể bị đột quỵ bất cứ lúc nào. Nếu ta cứ tiếp tục thực tập như vậy thì ta sẽ tiếp xúc được với vô vàn hạnh phúc đang có mặt trong ta, quanh ta. Đó là tập chánh niệm, nghĩa là đem tâm trở về với thân và an trú trong giây phút hiện tại.

Nếu mình hoàn toàn có mặt trong giây phút này, mình có thể nhìn sâu hơn để bước một bước chân ý thức trên hành tinh đẹp đẽ này hay thở vào một hơi để ý thức là ta đang sống trong cõi niết bàn, tịnh độ. Và khi ta ở trong cõi thiên đàng thanh tịnh đó rồi thì ta đâu cần phải mệt nhọc chạy theo những danh tiếng, tiền tài, địa vị hay những dục lạc khác. Bình an, niềm vui, hạnh phúc có thể đạt tới ngay. Và sự thực tập này đủ đơn giản cho tất cả mọi người”.

Không có bùn, không có sen và nghệ thuật chuyển hóa khổ đau

Sảnh khách sạn đông nghẹt người mà im phăng phắc. Có thể nghe thấy tiếng thở chánh niệm đều đều của những người ngồi kề bên. Trên bục giảng, thiền sư Thích Nhất Hạnh vẫn thuyết pháp với giọng điệu nhẹ nhàng, thong dong.
Những lời giảng của ngài như những giọt sương trong vắt cứ nhẹ nhàng rơi, nhẹ nhàng thấm từng giọt, từng giọt vào những tâm hồn cằn khô vì lo toan, phiền muộn, sầu khổ. “Ai trong chúng ta cũng chẳng có ít nhiều khổ đau. Nhiều người thường sợ phải đối diện và chìm đắm trong biển khổ đau của mình nên tìm mọi cách trốn chạy. Đọc sách báo, xem ti vi, uống rượu, hút thuốc phiện… hoặc vùi đầu trong công việc chồng chất.

Chúng ta không biết làm cách nào để đối diện và chuyển hóa những khổ đau ấy. Chính vì điều này mà trong Kinh quán niệm hơi thở, Bụt khuyên chúng ta trở về và nhận diện những khổ đau trong ta.

Nếu chúng ta biết cách thực tập hơi thở có ý thức, thực tập đi chánh niệm, lái xe chánh niệm và ăn chánh niệm mỗi ngày thì năng lượng chánh niệm trong ta sẽ đủ mạnh để giúp ta trở về, ôm ấp, vuốt ve những lo lắng, sợ hãi, buồn khổ trong lòng và chỉ vài phút sau, những niềm đau, nỗi khổ sẽ vơi đi nhiều. Giống như một bà mẹ bỗng nghe tiếng con khóc. Bà sẽ chạy đến, ôm đứa con vào lòng với tất cả sự trìu mến. Bà mẹ chưa biết chuyện gì xảy ra với đứa bé nhưng cử chỉ yêu thương ấy sẽ làm cho nó hết khóc, hết khổ ngay lập tức. Năng lượng chánh niệm cũng vậy. Chúng ta chưa biết gốc rễ của những niềm đau, nỗi khổ trong ta nhưng nếu ta ôm lấy niềm đau ấy một cách dịu dàng với năng lượng chánh niệm, ta có thể làm dịu đi nhanh chóng cơn đau nhức ấy.
Trong Kinh về Bốn sự thật mầu nhiệm (Tứ Diệu Đế), Bụt đã chỉ cho ra cho ta sự thật thứ nhất là khổ. Sự thật thứ hai là bản chất của khổ. Nếu chúng ta biết cách lắng nghe sâu những khổ đau trong chính mình và nhìn sâu vào bên trong với năng lượng của chánh niệm và chánh định thì chúng ta sẽ hiểu được những gốc rễ đưa tới khổ đau đó và thoát khỏi nó. Cái hiểu sẽ làm phát khởi tình thương ngay trong trái tim ta.

Nếu ai đó hỏi tôi rằng: “Làm thế nào để chế tác tình thương yêu?”. Tôi sẽ nói rằng: Chỉ có một cách duy nhất là hãy nhìn sâu vào niềm đau, nỗi khổ của chính mình và tìm cách hiểu chúng. Nếu không, ta không thể hiểu được những khổ đau của người khác và không thể thương yêu ai được”.

Trong các phương pháp tu tập mà Bụt chỉ dạy, có một phương pháp gọi là lắng nghe với tâm từ bi và sử dụng ngôn từ hòa ái. Lắng nghe với tâm từ bi có thể giúp nối lại sự truyền thông.

Nhiều người trong chúng ta luôn tìm cách trốn chạy khỏi chính mình, bởi vì chúng ta không biết cách lắng nghe nỗi khổ của chính mình. Khi chúng ta bắt đầu hiểu được niềm đau của chính mình thì chúng ta có thể truyền thông được với chính mình dễ dàng hơn, nhờ đó, chúng ta sẽ dễ dàng truyền thông với người khác.

Ta có thể nói với người vợ đang khổ đau của ta rằng: “Em ơi! Anh biết em đã chịu nhiều đau khổ. Vậy mà, nhiều năm qua, anh đã làm những điều không phải khiến em khổ thêm bởi anh đã không hiểu được những khổ đau của chính anh và cả của em nữa. Hãy giúp anh em nhé! Hãy nói cho anh biết tất cả những khó khăn của em. Ạnh không muốn tiếp tục phạm phải những sai lầm trước đây và làm cho em khổ thêm nữa”. Nếu mình có thể nói với người thương của mình bằng ngôn ngữ như vậy thì người đó có cơ hội mở lòng mình ra. Khi đó ta có thể áp dụng phương pháp lắng nghe với tâm từ bi. Người thương của ta sẽ bớt khổ liền.

Khi ta đau khổ, ta có xu hướng nghĩ rằng khổ đau của ta là do một người khác gây ra. Chúng ta muốn trừng phạt người đó bởi vì họ đã làm cho ta khổ. Nhưng khi chúng ta thực tập hơi thở có ý thức và nhìn sâu vào nỗi khổ, niềm đau của người đó thì ta sẽ thấy rằng người đó cũng chỉ là nạn nhân của chính khổ đau trong lòng họ nên họ cần được giúp đỡ chứ không đáng bị trừng phạt.

Hoa sen không thể mọc và tỏa hương nếu không có bùn. Hạnh phúc và khổ đau cũng vậy, chúng nương vào nhau. Chúng ta không thể thấy được hạnh phúc ngọt ngào nếu như chưa nếm trải vị cay đắng của khổ đau. Nếu ta chưa bao giờ bị đói, ta sẽ không biết trân quý món ăn. Nếu ta chưa bao giờ thấy chiến tranh, ta sẽ không thấy được giá trị của hòa bình. Nếu chúng ta biết áp dụng sự thực tập chánh niệm vào đời sống hàng ngày thì chúng ta có thể tạo ra hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây. Năng lượng chánh niệm là suối nguồn của hạnh phúc nhưng năng lượng đó không thể mua được trong siêu thị mà chỉ có thể do chính bản thân ta tự chế tác ra”.

Hơn ngàn quan khách đồng loạt đứng dậy vỗ tay tán thưởng. Khuôn mặt ai cũng ngời lên niềm xúc động, hạnh phúc, hoan hỉ. Trên bục giảng, thiền sư Thích Nhất Hạnh nở nụ cười rạng rỡ.

Ngài giơ đôi bàn tay lên vẫy vẫy – cách tán thưởng của ngài, trông đôi tay như hoa nở. Cả ngàn người bên dưới cũng giơ tay lên vẫy theo trông như một rừng hoa. Rồi ngài chậm rãi bước xuống, hướng dẫn mọi người đi bộ trong chánh niệm. Ngài đi trước, bước từng bước chậm rãi, thảnh thơi. Hàng ngàn người thong thả bước theo. Họ đi trong im lặng. Mỗi bước chân là một niệm cho an lạc, hòa bình, hạnh phúc, thương yêu.

Những bước đi thong dong, an nhiên như sen nở đưa dòng người chảy ra đường, hướng đến công viên Boston. Xe ô tô đang rầm rập chạy trên đường bỗng dừng lại. Những hành khách đang hối hả sải bước trên hè cũng dừng lại, nhường đường cho dòng người thiền hành trong im lặng chuyên chở biết bao năng lượng yên bình, hạnh phúc…

H.A.S

Harvard vinh danh Thiền sư Thích Nhất Hạnh

 

image
“Trường Đại học Sức khỏe Cộng đồng Harvard bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Thiền Sư Thích Nhất Hạnh về những lời dạy và pháp môn thực tập của Thiền sư nhằm thúc đẩy một hướng đi chánh niệm phục vụ cho sức khỏe và hạnh phúc của cộng đồng; cũng như về những đóng góp nhiều mặt của Thiền Sư với tư cách một học giả và một nhà hoạt động vì hòa bình cho thế giới."
Trong chuyến đi giảng dạy và hướng dẫn thực tập ở Bắc Mỹ năm 2013 của tăng thân Làng Mai, trường Đại Học Harvard đã tổ chức một khóa học hai ngày trong chương trình giáo dục thường xuyên (continuing medical education) dành cho các nhà tâm lý trị liệu. Các bác sĩ phải trả 475 đô-la Mỹ để tham dự khóa học hai ngày này; đối với các giới khác như các nhà tâm lý học, giáo chức, nhà văn, tác giả, khảo cứu gia, v.v. thì chỉ cần trả 395 đô-la Mỹ. Số người ghi tên tham dự lên tới 1100 người cho nên khoá học đã được tổ chức tại thính đường lớn của Boston Park Plaza Hotel, vào các ngày 11 và 12 tháng 9 năm 2013. Các giáo sư Christopher Germer, Judy Reiner Platt và Ronald D. Siegel là những vị phụ trách đứng ra tổ chức. Ban giảng huấn gồm có 14 vị: Thiền Sư Nhất Hạnh, Lilian Cheung, Alice Domar, Elissa Ely, Christopher Germer, Devon E. Hinton, Judith V. Jordan, Jon Kabat-Zinn, David Leisner, Judy Reiner Platt, Susan M. Pollak, Ronal Siegal, David A. Sieberweig và Barent Walsh. Chủ đề của khoá học là Thiền Tập và Tâm Lý Trị Liệu (Meditation and Psychotherapy). Trường Đại Học Y Harvard (Harvard Medical School) đã đứng ra tổ chức khoá tu với sự cộng tác của tổ chức Cambridge Health Alliance Physicians.
Ngày đầu, 11-09-2013, học viên được nghe các giáo sư thuyết trình; ngày thứ hai, 12-09-2013, là một ngày thực tập do tăng đoàn Làng Mai hướng dẫn, trong đó có thiền toạ, thiền hành, pháp thoại, động tác chánh niệm, ăn cơm chánh niệm, buông thư và vấn đáp.
Sáng ngày 12-09-2013, lúc 8:30 trước giờ pháp thoại, cả lớp được thực tập thiền hướng dẫn. Trước giờ pháp thoại, giáo sư Julio Frenk, Trưởng khoa Sức khỏe Cộng đồng của trường Đại Học Harvard đã lên giới thiệu Thầy Nhất Hạnh.
Tiếp đó Giáo sư Julio Frenk - đại diện trường Đại Học Y Khoa Harvard và tổ chức Cambridge Health Alliance đã trao tặng Thầy tấm biển đồng danh dự, công nhận Thầy là một người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình (to the most Venerable Thich Nhat Hanh for your pioneering and tireless efforts in cultivating compassion, wisdom and peace). Tấm biển đồng được ký tên bởi hai vị: Giáo sư Caroline Shields Walker, Trưởng khoa Y (Faculty of Medicine), và Giáo sư Jack D. Burke, Trưởng khoa Tâm Lý Trị Liệu của trường Đại Học Y Harvard.
Biển đồng danh dự do đại học Harvard kính tặng
Trong lời đáp từ, Thầy đã nói: “Cảm ơn sự tin tưởng và thương yêu của quý vị. Chúng tôi, tăng thân Làng Mai, luôn luôn học hỏi, thực tập và phụng sự như một đoàn thể, một cộng đồng, một tăng thân, nên sự tin tưởng, niềm thương yêu và vinh dự này là dành cho tất cả mọi thành phần của tăng thân, trong đó có hàng trăm vị đang ngồi trong thính chúng.”
Cũng vào ngày hôm đó, Giáo sư Julio Frenk, Trưởng khoa trường Đại học Y tế Công cộng Harvard (Harvard School of Public Health) cũng trao tặng cho Thầy một chứng thư công nhận Thầy là một nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng (Harvard School of Public Health hereby recognizes Zen Master Thich Nhat Hanh as a global leader for peace, human rights, and health). Chứng thư có nội dung như sau:
Trường Đại học Sức khỏe Cộng đồng Harvard bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Thiền Sư Thích Nhất Hạnh về những lời dạy và pháp môn thực tập của Thiền sư nhằm thúc đẩy một hướng đi chánh niệm phục vụ cho sức khỏe và hạnh phúc của cộng đồng; cũng như về những đóng góp nhiều mặt của Thiền Sư với tư cách một học giả và một nhà hoạt động vì hòa bình cho thế giới."
Ngày thực tập chánh niệm đã diễn ra thật tốt đẹp, và năng lượng của chánh niệm, của niềm vui sống và của tình huynh đệ được chế tác rất hùng hậu.
Chứng thư do giáo sư Julio Frenk, Trưởng khoa của Đại học Sức khỏe Cộng đồng Harvard trao tặng

Julio Frenk tặng TS. Thích Nhất Hạnh tấm biển đồng danh dự

Đại chúng niệm danh hiệu Bồ Tát Avalokiteshvara

Jon Kabat Zinn đặt câu hỏi với Thầy

Lắng lòng nghe, lắng lòng nghe, tiếng chuông huyền diệu đưa về quê hương

Ngồi đây ngồi cội Bồ Đề

Đi trong chánh niệm

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013

Tiến trình một bé gái hóa bà lão 60 tuổi chỉ trong 5 phút




(K23) - Video về một bé gái biến thành phụ nữ 60 tuổi khiến nhiều người xem phải kinh ngạc.

Video ngắn mang tên "Danielle", được dàn dựng bởi đạo diễn và biên tập phim Anthony Cerniello, nhằm mục đích diễn tả sự thay đổi của cơ thể con người từ khi còn trẻ đến lúc già, sự mù lòa và cả cái chết. 
Tác giả Cerniello cho biết, tác phẩm lấy nguồn cảm hứng từ người bạn Danielle và những bức hình chụp cô em họ của bà. Video mở đầu với hình ảnh một bé gái người châu Á nhìn chằm chằm vào màn hình camera, chỉ thỉnh thoảng chớp mắt.

Đoạn phim chạy theo liền mạch thời gian, người xem chứng kiến những sự biến đổi trên khuôn mặt của một phụ nữ từ khi còn trẻ đến lúc về già. Khuôn mặt dần dần dài thêm, cấu trúc xương được định hình rõ nét, những nếp nhăn xuất hiện và cuối cùng là màu tóc trở nên bạc dần. Tập trung liên tục vào hình ảnh, người xem vẫn khó có thể nhìn ra được những sự thay đổi rõ nét trong tiến trình biến đổi ấy.

Video trên đã tạo nên một 'cơn sốt" trong cộng đồng mạng và nhận được hơn 100.000 lượt chia sẻ. "Thật là một đoạn phim đáng kinh ngạc", một cư dân mạng phát biểu sau khi xem. Người khác cho biết: "Tôi ý thức được quá trình tiến tới cái chết như thế nào. Đây đúng là một video tuyệt vời".

Chia sẻ trên trang ibtimes, tác giả Cerniello cho biết, ông nảy ra ý tưởng làm video này khi tham gia buổi họp mặt gia đình cùng người bạn Danielle và nhiếp ảnh gia Keith Sirchio. Cả hai đã chụp lại những bức hình chân dung của những người họ hàng nữ của Danielle ở nhiều độ tuổi khác nhau. Sau đó, họ xem xét tỉ mỉ từng bức ảnh và tìm kiếm những điểm tương đồng về cấu trúc xương để tạo ra một chuỗi lão hóa liên tục. Tiếp đó, họa sĩ Nathan Meier và Edmund Earle kết nối những bức hình với nhau, thêm vào đó những cử động của nét mặt và cổ. 

George Cuddly, chuyên gia về hiệu ứng 3D, đã hoàn tất đoạn video bằng việc làm "mịn" những sự khác biệt trong màu mắt, màu tóc và da. Cuối cùng, nó được chạy trên nền một nhạc phẩm của Mark Revely. 

"Tôi vẫn luôn suy nghĩ rất nhiều về cái chết, nó mang đến sự sợ hãi và hoảng loạn cho nhiều người, và tôi muốn khám phá nó. Đó là cách tôi làm việc trong suốt cuộc đời của mình, tôi cố gắng tạo ra một người để mô phỏng lại quá trình lão hóa", Cerniello cho biết.

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2013

Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới



Dạo bước trên những con đường này, bạn sẽ cảm nhận được rõ nét hơn vị thu ấm nồng...
Không biết từ bao giờ, mùa thu được coi là mùa lãng mạn nhất trong năm, xuất hiện nhiều trong thơ ca, âm nhạc hay nhiếp ảnh và tranh vẽ. Mùa thu với những con đường trải đầy lá vàng rơi, hàng cây phong đỏ lung linh trong nắng vàng ruộm làm se lòng người mỗi sớm thu về từ khắp mọi nơi trên thế giới.
Cùng điểm lại một vài với con đường ngập tràn lá vàng dưới đây để cảm nhận rõ nét hơn hương vị mùa thu về...
1. Con đường Thủy sam, Hàn Quốc

Nếu bạn là fan trung thành của những bộ phim lãng mạn của xứ sở Kim chi thì hẳn bạn đã nhìn thấy con đường này trên màn ảnh. Đây chính là con đường Thủy sam nổi tiếng - một trong những con đường đẹp nhất Hàn Quốc.
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 1
Con đường này dài khoảng 8,5km, chạy dọc theo Quốc lộ 24 và là một trong những tuyến đường chạy xe phổ biến nhất ở xứ Hàn.
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 2
Con đường Thủy sam khi còn xanh mướt...
Những cây thủy sam ở đây đã hơn 40 tuổi và cao hơn 20m. Những tán cây đan vào nhau, che chắn ánh nắng Mặt trời. Vào mùa hè, tán cây thủy sam như cao vút hơn với màu xanh mướt.
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 3
... rực rỡ khi vào thu...
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 4
Nhưng mùa thu mới là lúc con đường đẹp nhất, khi những cây thủy sam bắt đầu thay màu lá. Chúng tạo thành một con đường tuyệt đẹp và kỳ lạ khiến người đi có cảm giác như đang đi trên con đường trong một câu chuyện cổ tích vậy.
2. Đường cây bạch quả, Nhật Bản
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 5
Không ồn ào như đường bạch quả (ginkgo) nổi tiếng ở Icho Namiki (Aoyama), con đường cây bạch quả ở công viên Showa Kinen (Tachikawa) mang nét tĩnh lặng hơn. Có lẽ vì thế mà khung cảnh ở đây càng trở nên thơ mộng và quyến rũ.

Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 6
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 7
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 8
Hai đường cây bạch quả nổi tiếng này nằm ngay lối vào của công viên, được ngăn cách giữa một con kênh nhân tạo. Vào mùa thu, hơn 100 cây bạch quả thi nhau chuyển mình thay màu lá vàng rực rỡ. Con đường ngập tràn trong sắc lá thu vàng tạo thành một bức tranh vô cùng nên thơ.
3. Đại lộ Diaoyutai, Trung Quốc
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 9
Mùa thu đến, đại lộ Diaoyutai Ginkgo, Bắc Kinh (Trung Quốc) lại bước vào mùa du lịch đẹp nhất trong năm với sắc vàng kỳ diệu, lung linh, óng ả của những hàng cây bạch quả ngàn năm tuổi.

Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 10
Con đường này nằm gần Diaoyutai State Guesthouse và được mệnh danh là con đường tình yêu của thành phố Bắc Kinh. Nơi đây thu hút rất nhiều cặp tình nhân bởi vẻ đẹp thơ mộng, lãng mạn của nó.
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 11
Còn đối vối giới văn nghệ sĩ, đặc biệt là nhiếp ảnh và hội họa, Diaoyutai lại được coi là thiên đường nghệ thuật, nơi thỏa sức sáng tạo, đem đến nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho tâm hồn yêu nghệ thuật.
4. Đại lộ Blue Ridge, Mỹ
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 12
Blue Ridge Parkway là một con đường nổi tiếng về cảnh đẹp tự nhiên và được cho là một trong những con đường đẹp nhất nước Mỹ. Tuyến đường trải dài thơ mộng này bắt đầu ở công viên quốc gia Shenandoah, thuộc tiểu bang Virginia kéo dài xuống tận công viên quốc qua Great Smoky Moutains của tiểu bang North Carolina.

Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 13
Với chiều dài gần 755km, Blue Ridge Parkway được mệnh danh là “con đường xanh” bởi những tán cây xanh mượt bao phủ khắp con đường. Nhưng thực sự Blue Ridge Parkway đẹp nhất lại chính là vào mùa lá đổi màu.
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 14
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 15
Trong mùa thu, hơn 100 loài cây khác nhau trải dài theo con đường núi cùng “rủ” nhau “rực cháy” với đủ các màu vàng, đỏ, nâu…tạo nên một bức tranh sắc thu khổng lồ ngây ngất lòng người.
5. “Con đường văn học”, Mỹ
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 16
Literary Walk (tạm dịch: Con đường văn học) là một con đường xinh đẹp nằm trong khuôn viên Central Park, New York (Mỹ). Cứ mỗi mùa thu sang, Literary Walk lại khoác lên mình một tấm áo vàng tươi tắn.

Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 17
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 18
Con đường êm ái trải đầy lá vàng này là địa điểm lý tưởng nếu bạn muốn vừa thả bộ vừa ngắm cảnh. Hoặc bạn cũng có thể thư giãn ngồi trên ghế và thưởng thức một cuốn sách hay.
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 19
Literary Walk không chỉ nổi tiếng là con đường mùa thu lãng mạn nhất nhì Central Park mà còn nổi tiếng là khu vực đặt nhiều pho tượng các tác gia và nhà thơ nổi tiếng thế giới như William Shakespeare, Sir Walter Scott, Robert Burns…
6. Đại lộ Niagara, Canada
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 20
Canada là điểm đến tuyệt vời cho những ai yêu thích mùa thu. Sắc màu ấn tượng của rừng thu với những con đường êm ái trải đầy lá phong đỏ có thể được tìm thấy ở tất cả những khu rừng của Canada vào tháng 9 và tháng 10.

Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 21
Thủ tướng Anh Winston Churchill trong một lần tới thăm đại lộ Niagara thuộc bang Ontario, Canada đã thốt lên rằng: “Nơi đây là con đường đẹp nhất thế giới trong một chiều Chủ nhật mùa thu”.
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 22
Chạy men theo con sông Niagara, phân cách nước Mỹ và Canada, quả thực đại lộ Niagara chính là con đường đẹp nhất Canada trong sắc thu thơ mộng với rừng cây lá đỏ tuyệt đẹp. Dọc theo đại lộ, bạn cũng có thể ghé vào thị trấn nhỏ Queenston để thưởng thức thứ rượu Niagara thơm nức như mùi nhựa thông.
7. Đường phố ở Vancouver, Canada
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 23
Miền Đông Canada thường được nói đến nhiều nhất nếu bạn muốn khám phá các màu sắc mùa thu ở đất nước có biểu tượng lá phong này. Nhưng thậm chí nếu bạn đang ở một vùng khác, bạn vẫn có thể tận hưởng cảm giác tuyệt vời này. Vancouver là một ví dụ điển hình. Nằm ở miền Tây của Canada, nhưng mùa thu ở đây cũng vô cùng thơ mộng.

Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 24
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 25
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 26
Từ giữa tháng 9 đến giữa tháng 10, những con phố ở Vancouver lại ngập tràn trong những tán lá phong mùa thu tuyệt đẹp. Điều đặc biệt là những con phố ở đây không mang một màu sắc giống nhau mà đa dạng trong với các sắc vàng, đỏ, nâu…
8. Đường kênh đào Midi, Pháp
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 27
Kênh đào Midi (Canal du Midi) đem lại cho du khách cảm giác của một miền Tây Nam nước Pháp thật yên bình, trong sáng và đầy thơ mộng. Khác với cảnh tượng hoành tráng của con sông lớn nhất nước Pháp - Garonne - nằm liền kề, dòng kênh Midi thật nhỏ xinh và gợi lên chút gì đó rất riêng tư, tĩnh lặng.

Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 28
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 29
Đây chính là nơi để bạn thoát khỏi cái ồn ào của thành phố, để đắm chìm trong dòng nước xanh trong. Bạn có thể tảo bộ trên con đường trải đầy lá phong đỏ dọc con kênh, hay lang thang trên những cây cầu nhỏ xinh rồi ngồi thư giãn tại chiếc ghế đá ven đường…
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 30
Các con đường mùa thu lãng mạn vòng quanh thế giới 31
Kênh đào Midi hiện lên thật xinh đẹp và bình dị trong sắc thu huyền ảo. Kênh đào Midi đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới năm 1996.
Lính thủy, sưu tầm.
Nguồn : P.B- theo tríthứctrẻ.
HAVE A NiCE DAY.
* Bài viết có sử dụng tư liệu tham khảo từ các nguồn: Amazing View, All Travels, Japan Guide, Hapi Mag, Wikipedia...

Nếu bạn là fan trung thành của những bộ phim lãng mạn của xứ sở Kim chi thì hẳn bạn đã nhìn thấy con đường này trên màn ảnh. Đây chính là con đường Thủy sam nổi tiếng - một trong những con đường đẹp nhất Hàn Quốc.