Y Nguyên Mai Trần
Trong văn chương, âm nhạc có nhiều mỹ từ về bông hoa cây cảnh mà mãi lúc lớn lên chúng ta mới nhận thức được, tuổi thơ là khu vườn xung quanh nhà có trồng hoa có cây ăn trái, có nắng trải thềm nhà, có mưa bong bóng phập phồng. Hoa toả hương, phô sắc làm đẹp cho cuộc đời, gần cạnh, xung quanh ta, xuất hiện trong hoài niệm, trong cuộc sống mà không bao giờ réo gọi. Cây bông gòn, cây sầu đông, cây lucuma, cây hồng quân, dây thanh long, hàng rào trà với dây tơ hồng quấn quit, đám hoa mười giờ, bông trang, bông lồng đèn, dâm bụt, dạ lý hương, ti gôn…Hoài niệm hàng cây điệp, phượng vỉ nỡ đỏ mùa hè ve kêu, thu của những tháng ngày xe lạnh gần Tết, rồi Xuân đến khi hoa Mai vàng lá và những vườn hoa cúc, vạn thọ, mồng gà…bắt đầu nở hoa, năm nào cũng vậy khoảng rằm tháng chạp là phải lặt lá mai cho Mai nở kịp Tết, kỹ niêm xưa nhớ mấy cho vừa…
Bài sưu khảo này ghi nhớ lại loài hoa nằm trong ký ức, thường được nhắc nhở nhưng không rỏ “dung nhan”, “tính tình” mang tên họ gì. Nào là chuyện hoa sim, hai sắc hoa ti gôn , hoa pensée, chuyện giàn thiên lý, hoa soan bên thềm củ, hoa hoè hoa sói, kim đồng, ngọc nữ, forget-me-not, bông gòn, tơ hồng, hoa mơ hoa mận nở … Tiện thể, thỉnh thoảng dừng chân trên bước đường xuôi ngược để cùng chiêm ngưỡng các loài hoa gần gủi chúng ta- một chút ân tình đong đầy bao nhiêu kỷ niệm êm đềm của một thời hoa mộng-luôn tiện ngắm nhìn một số kỳ hoa dị thảo.
Nguời viết cũng xin ghi nhận, một số hình ảnh và dử kiện được tham khảo hoặc trích từ “từ điển Wikipedia commons, Wikipedia” và một số thông tin từ Bloggers ở Việt Nam cũng như một số bài hát về hoa từ youtube. Tính chất dược thảo lợi ích của một số loài hoa trong bài chỉ là thông tin tổng quát, muốn áp dụng xin bạn đọc hảy điều tra và tham khảo với chuyên gia.
Tơ hồng ( Úc) Mồng Gà Dây thanh long Tơ hồng miền Tây
Dây tơ hồng, tên khoa học Cuscuta, không phải là hoa, là một chi của khoảng 100-145 loài thực vật sống ký sinh có màu vàng, da cam hay đỏ (ít khi thấy loài có màu xanh lục). Trước đây người ta coi nó như là chi duy nhất của họ tơ hồng (Cuscutaceae), nhưng các nghiên cứu sau này cho biết Tơ hồng phải đặt chính xác vào họ Bìm bìm (Convolvulaceae). Thường được tìm thấy khắp ở vùng nhiệt đới và cũng có vài loài sống ở vùng ôn đới. Ở Miền Nam vùng sông rạch miền Tây, thường thấy mọc dại trên những hàng rào trà, hay mọc ven sông.
Mồng gà thường thấy vào dịp Tết ở miền Nam, tên khoa học là Celosia Cristata thuổc họ Amaranthaceae, trồng như loại cây thực phẩm (lá và hoa) ở Ấn độ, Nam Mỹ và miền tây Phi Châu.
Thanh Long là trái của vài loài xương rồng, quan trọng nhất là loài trái ngọt (sweet Pitayas) tên khoa học là Hylecereus Undatus (vỏ đỏ, thịt trắng) được trồng nhiều nơi ở Đông Nam Á, và đặt biệt trồng xuất cảng ở Việt Nam.
Hoa nắng.
Một mỹ từ văn chương nói đến nhửng loài hoa khoe sắc thấm vào mùa hè ngày có ve kêu, đêm có đom đóm bay quanh vườn, điển hình là hoa phượng, hoa điệp- hoa nắng- len lén chui qua giàn bầu, bí, giàn mướp, giàn hoa ti gôn, giàn bông giấy xen qua cây lá trong vườn để lại những vết nắng đủ hình trạng lấm tấm trên tường vôi hay trên thềm nhà.Phượng Vĩ
Tên khoa học Delonix regia thuộc họ Caesalpiniaceae. Cây thân mộc mềm, đường kính thân cây 60-80cm,tán lá rậm hình dù cành nằm ngang dể bị sâu đục rổng có thể cao hơn 10m nhưng sống không quá 50, 60 năm. Lá kép lông chim hai lần. Tuy lá nhiều nhưng tầng trên không che khuất nắng của tầng dưới nên tàng cây mát dịu và trong sáng. Hoa màu đỏ, cam, mộc thành chùm, mỗi đóa hoa có 5 cánh – 4 cánh xòe và một cánh mọc chỉ thiên. Hoa nở rộ từ tháng 4 đến tháng 6 ở Việt Nam
Cây dễ trồng, thích ứng với nhiều đới khí hậu nên người ta trồng Phượng Vĩ ở nhiều nơi để làm cảnh và lấy bóng mát.
Điệp
Điệp là tiếng gọi trong Nam cho một loại Phượng có tên khoa học là Poinciana Pulcherrima cùng họ với Phượng Vĩ nhưng khác vì thân lùn, hoa màu đỏ hoặc vàng. Trái Điệp dẹp dài 10-15cm, tách bên trong có hột mềm ăn được, có vị ngọt.
Phượng Tím –Jacaranda
Hoa Phượng tím gốc Nam Mỹ là một loài cây thân gỗ, lá kép hai lần, hoa màu tím, tên khoa học là Jacaranda Acutifolia thuộc họ Bignoniaceae, có tên khác là J.mimosifolia, hay J.ovalifolia. Gọi là Phượng, nhưng Phượng Tím (họ Bignoniaceae) và Phượng Vĩ đỏ (họ Caesalpiniaceae) là hai họ khác nhau. !
Tùy theo môi trường sống, Phượng tím có thể cao từ 3 đến 10 mét, đường kính tán lá có thể đến 10m. Mổi cành lá dài từ 40 đến 50 cm, có lông tơ và mọc thành từng chùm. Thời gian từ khi hoa ươm nụ đến khi tàn rụng thường kéo dài từ 3 đến 5 ngày. Các chùm hoa ở đầu cành lại tiếp tục nở ra một đợt hoa mới. Vì vậy mà Phượng tím có hoa nở thường xuyên trong vòng 2-3 tháng. Ở Úc, thời gian hoa nở từ tháng 11 đến giữa tháng 2. Phượng Tím được trồng nhiếu nơi trến thế giới làm cây cảnh trong vườn nhà, ven đường hay trong công viên. Ở Đà Lạt có trồng nhiều Phượng tím.
Hoa Bông Giấy Bougainvilleas
Bông Giấy-Bougainvilleas- là loại cây trang trí rất thông dụng vùng có khí hậu ấm khắp nơi trên thế giới như Ethiopia, Nam Dương, Phi, Thái, Hồi, Ấn Độ, Đài Loan, Việt Nam, Mã Lai, Úc, Hy Lạp,Tây Ban Nha, Thổ, Singapore, vùng Địa Trung Hải, Trung Mỹ, Kuwait, United Arab Emirates, nam Hoa Kỳ, Hawaii, vùng Lucarno ở Thụy Sĩ nổi tiếng về bông giấy ở Châu Âu.
Những loại bông giấy thường thấy hiện nay là kết quả của lai giống 3 loại trong số 18 loại giống từ Nam Mỹ. Hiện có đến 300 loại khác nhau trên toàn thế giới do lai giống (hybrid) và đột biến (mutation) ,
Mức độ phát triển của bông giấy nhanh hay chậm tùy loại giống, có nơi trổ hoa cả năm như vùng nhiệt đới gần xích đạo, có nơi trổ theo mùa. Bông giấy cần ánh nắng, khí hậu không ẫm ướt, đất tốt. Hoa trổ từ 4 đến 6 tuần là tàn. Càng có phân bón hoa càng đep rực rở, không cần phải tưới nước nhiều. Tưới nước nhiếu cây không ra hoa và trút nhiều lá, có khi chết vì rể bị thối rửa. Bông giấy trồng dể dàng bằng cách chiếc cắt khúc đầu nhánh và gâm xuống đất với chút phân bón.
Hoa Xuân
Cũng là một mỹ từ văn chương nói đến những loài hoa thường thấy trong dịp Xuân về Tết đến mà điển hình phải kể đến hoa Mai trong Nam, hoa Đào (Anh đào) ngoài Bắc, hoa Cúc và Vạn thọ.Hoa Đào
Trước tiên cần phân biệt loại hoa Anh đào ở Việt Nam và hoa Anh đào của Nhât (Sakura) và loại Đào ăn trái có nguồn gốc ở Trung quốc thuộc giống Prunus Persica, loại Anh đào là loại được chọn lựa và lai giống thường chì cho hoa đẹp rực rở (flowering cherry) Prunus Jamasakura hoặc cho trái vị chua (Prunus Cerasus) . Loại Đào ra hoa có dạng thân nhỏ, như bình đựng hoa, phần duới gốc nhỏ, phần trên cành xoè ra, cò thể mọc cao đến 7-8 m, Anh đào thích hợp khí hậu lạnh. Anh đào ở cao nguyên miền Bắc Việt Nam hay ở Đà lạt không phải giống đào China cho trái để ăn, tiếng khoa học là giống Prunus Persica, mà là chủng loại hoa Anh đào Nhật .
Giống Anh đào trồng trong vườn thường là loại đào lùn 2 to 4 m thường được gép trên gốc cây lùn, chỉ trồng cho ra hoa đẹp để trang trí chứ không ăn trái. Loại hoa đào nở vào dịp Tết ở miền Bắc trong dịp Tết Việt Nam- tháng giêng đến tháng ba
Tiện đây chúng ta nên biết tuy cùng chung họ Rosaceae, cùng chi Prunus Đào (Peach) , Mận (Plum) và Mơ (Apricot) là những giống hoàn toàn khác nhau, tuy phân biệt các loài hoa cần sự chú ý và hiểu biết đặc biệt. Gần đây ở Bắc Việt Nam có trồng loại đào Tàu ở vùng Mẩu Sơn, thuộc huyện Lôc Bình, tỉnh Lạng Sơn.
Hoa Anh đào ở Việt Nam nở vào mùa xuân biểu tượng cho sự may mắn, hạnh phúc, tình bạn khắng khít, thân thiết trường tồn.
Ý Nghĩa : May Mắn, Hạnh Phúc
Hoa Mai
Hoa Mai vàng đua nở vào dịp Tết, nhà nào củng ráng chưng mai, biễu tượng cho sự may mắn, giàu thì cả cây, nghèo thì một nhánh. Mai khắp mọi nơi cũng như hoa Đào ở Bắc rất đẹp, cũng có loài Mai rừng (như trong bài hát Mùa Xuân Trên Cao của Trầm Tử Thiêng) , mọc hoang dại ở ven rừng vùng nhiệt đới. Ngày nay có nhiều loại mai nhiều hơn năm cánh do sự tiến triển của thực vật học và sinh học, nhưng phần lớn chưa có tên khoa học.
Hao Mai vàng có tên khoa học là Ochna integerrima thuộc gia đình Ochnaceae, có ít nhất khoảng 50 loài hoa Mai vàng khắp nơi trên thế giới. Ngoài Mai vàng ra còn có giống hoa Mai trắng-bạch mai, tuy nhiên giống Mai này khác hẳn với giống Mai vàng và không cùng chung một họ, Mai trắng có tên khoa học là Prunus mume sieb họ Rosacea. Hoa Mai trắng thường có 5 cánh thường thấy ở miền Trung hoa mới nở có màu đỏ hồng, sau chuyển sang màu trắng, thoảng mùi hương. Mai trắng thuộc dạng loại cây mơ (apricot) không ăn trái chỉ cho hoa đẹp mà thôi.
Nhìn chung, ở Việt Nam người ta chỉ xác định được tên khoa học của vài loài Mai là Ochna integerrima (Mai vàng năm cánh); Ochna integerrima (Mai núi) và Ochna atropurpurea (mai tứ quý). Riêng về Mai tứ quý, ngoài tên khoa học Ochna atropurpurea, chúng còn những tên khác là Ochna atropurpurea DC, Ochna serrulata hay Ochna integerrima.
Hoa Mai có màu vàng tượng trưng cho sự sang trọng, quý phái nhưng lại mang vẻ đẹp dịu dàng, đáng yêu, gần gũi với đời thường. Ai cũng có thể trồng Mai và thưởng thức Mai. Nguời miền Nam cứ sau rằm tháng Chạp (tháng 12 lịch ta) là người ta lặt mai hy vọng Mai trổ vàng rực rở sáng mồng một Tết. Người xưa quan niệm: ” Mai nở vào ngày Tết sẽ đem lại sự may mắn cho gia đình vào năm tới.”Người ta thường đem cả cây Mai vào nhà để đón xuân. Vừa uống trà vừa ngắm hoa là điều vô cùng thú vị. Hoa Mai trước đây thường gắn liền với các nhà nho. Nó được đưa vào bộ tứ mộc cao quý:”Tùng,Cúc,Trúc,Mai”.
Ý nghĩa: Xuân ước mơ hy vọng may mắn hạnh phúc, tình yêu trung thành.
Mai tứ quý
Là một loại hoa Mai vàng nhưng sau khi rụng cánh hoa còn lại đài hoa đỏ và hạt xanh (khi chín hột chuyển thành màu đen), chính vì vậy loài Mai này còn có tên là “Nhị độ mai” tức “Mai nở hai lần”.
Hoa Mai Chiếu Thủy
Mai chiếu thủy được trồng làm kiểng, trong chậu nhờ dáng cây đẹp. Hoa màu trắng, có năm cánh có hương thơm. Mai chiếu thủy có tên khoa học là Wrightia religiosa (Teijsm. et Binn.) Hook.f., thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae).Hoa có thể ra quanh năm, nhiều nhất về mùa khô, nếu nắng hạn thì cây trụi lá nhưng khi mưa thì lại trẩy lộc non. Có thể chăm sóc uốn nắn Mai chiếu thủy để hoa mọc theo ý muốn.
Hoa Cát Tường (Lisianthus)
Hoa cát tường Eustoma (Lisianthus) có tên khoa học Eustoma grandiflorum (Raf.) Shinn, thuộc họ Gentianaceae , được tìm thấy ở khu vực có khí hậu ấm àp ở miền Nam Hoa kỳ, Mexico, Caribbean và khu vực phía bắc của South America. Chúng thuộc loại cây sống một năm thân thảo, cao 15 – 60 cm, với lá xanh biếc, mảnh dẻ, mọng nước, có hoa lớn, hình phễu, dáng hoa thanh lịch, đẹp như hoa hồng mà còn có bộ lá xinh xắn, đa dạng về màu sắc và chủng loại có nguồn gốc từ miền tây nước Mỹ, có khả năng chịu lạnh tốt, nhiều chủng loại được du nhập vào Đà Lạt với màu sắc đa dạng như: trắng viền tím, tím đậm, kem, vàng, hồng, hồng phai., Cát tường không rực rỡ như hoa cúc và không lộng lẫy như hoa hồng nhưng lại thu hút khách bởi vẻ đẹp đơn sơ, e ấp.
Ý Nghĩa: May Mắn
Hoa Cúc-Hướng Dương
Bộ hoa Cúc hoặc bộ Hướng Dương danh pháp khoa học Asterales là một bộ thực vật có hoa trong họ Cúc Asteraceae .
Bộ này phân bổ rộng khắp thế giới và chủ yếu là các loài cây thân thảo, mặc dù có một lượng nhỏ là cây thân gỗ (chi Lobelia) và cây bụi.
Bộ Asterales bao gồm khoảng 11 họ, 1649 chi gồm khoảng 26.480 loài, trong đó các họ lớn nhất là họ Asteraceae với khoảng 23.600 loài và họ Hoa chuôngvới khoảng 2.380 loài, các họ còn lại có tổng cộng không quá 500 loài. Hai họ lớn nhất có phân bố rộng khắp thế giới với trung tâm nằm ở Bắc bán cầu, còn những họ nhỏ hơn thông thường phân bố ở Úc và các vùng xung quanh, hoặc đôi khi ở Nam Mỹ.
Cúc có khoảng 13.000 loài, là một họ lớn của thực vật học trong đó nhóm Gia cúc có khoảng 100 loại được dùng phổ biến; nhóm Dược cúc dùng làm thuốc với hai vị thường dùng nhất là Bạch cúc (Cúc trắng) và Kim cúc (Cúc vàng). Tên khoa học Cúc trắng: Chrysanthemum sinense Sabine. Cúc vàng: Chrysanthemum Indicum Lour . Nhiều loại Cúc được dùng trong dược phẩm, loại Cúc trắng Chamomile có mùi hương của trái cây được biến chế thành một loại trà Cúc (trà Chamomile).
Ý Nghĩa : Cúc vàng –Lòng kính yêu quý mến, hân hoan; Hướng Dương : Bạn là hy vọng và niềm tin
Quốc Hoa : Cúc trắng Chamomile là quốc hoa của Nga
Hoa Anh đào-Mai Anh đ ào
Chi Mận mơ hay chi Anh đào danh pháp khoa học Prunus là một chi của một số loài (khoảng 200) cây thân gỗ và cây bụi, bao gồm mận (plum), anh đào (cherry), đào (peach) ,mơ (apricot) và hạnh (almond). Thuộc họ hoa Hồng Rosaceae, phân họ Prunoideae (hay Amygdaloideae), nhưng đôi khi được đặt thành một họ riêng của chính nó là Prunaceae (hay Amygdalaceae). Chi Prunus tìm thấy trồng nhiều vùng ôn đới của Bắc bán cầu, Úc, Tân Tây Lan. Điều nên biết là hoa Anh đào chỉ một giống cây trổng cho hoa đẹp trang trí, tên khoa học là Prunus mume. Đây là loại hoa Anh Đào Nhật (Cherry blossom) và hoa anh đào ở Đà Lạt và ngoài Bắc.
Anh Đào (Cherry, tiếng Pháp Cerisier) không phải là loại Sơ ri (tên khoa học là Malpighia glabra thuộc Malpighiaceae) ở Việt Nam, chua lúc xanh, vị ngọt lúc chin đỏ.
Hoa Sơ Ri Trái Sơ Ri
Quốc Hoa: Hoa Anh Đào (Cherry blossom) là quốc hoa của Nhật
Ý nghĩa: Hạnh phúc, tâm hồn thanh cao, tình bạn thân thiết trường tồn
Hoa Anh Thảo Cyclamen
Cylamen còn gọi là hoa Anh Thảo – một loài hoa dài ngày, thích hợp ở xứ lạnh và đất có độ pH 6. 2 – 6. 5. Đây là loại hoa cao cấp sử dụng cho mục đích trưng chậu. Thân cây thẳng đứng và khỏe, cao 30 – 36cm khi trưởng thành. Trồng hoa Anh Thảo bằng củ. Anh Thảo cần được gieo và trồng trong nhà kính, trong điều kiện hoàn toàn kiểm soát được ánh sáng nhiệt độ và ẩm.
Cyclamen –Anh Thảo có khoảng 23 giống thuộc họ Myrsinaceae, có nguồn gốc Âu châu, Địa Trung Hải, Ba Tư (Iran) và một giống ở Somalia. Củ của giống Cyclamen persicum có chất độc Alkaloids gây khó tiêu, tiêu chảy, ói mửa nếu ăn phải.
Quốc hoa: Ý (Italy), San Marino. Do Thái (Israel), Cyprus
Ý Nghĩa: Sự cam chịu, chia ly
Hoa Bằng Lăng( Tử Vi)
Bằng lăng,danh pháp khoa học Lagerstroemia speciosa là một loài thực vật thuộc chi Tử Vi (Lagerstroemia – một tông chi lớn thảo mộc nước) thuộc họ Lythraceae. Tên tiếng Anh thông dụng là: Giant Crape-myrtle, Queen ‘s Crape-myrtle, Banabá Plant for Philippines, Pride of India, Queen ‘s flower.
Banabá (Bằng lăng nước) là tên gọi theo tiếng Tagalog (dân tộc lớn nhất ở Philippines) của loài cây đặc thù của Ấn Độ. Loài này có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Nam Á, hiện có nhiều ở Đông Nam Á, Ấn Độ và các vùng nhiệt đới khác. Thân cây thẳng và khá nhẵn nhụi. Lá màu xanh lục, dài từ 8 đến 15 cm, rộng từ 3 đến 7 cm, hình oval hoặc elip, rụng theo mùa. Hoa màu tím hoặc tím nhạt, mọc thành chùm dài từ 20 đến 40 cm, thường thấy vào giữa mùa hè. Mỗi bông hoa có 6 cánh, mỗi cánh dài chừng 2 đến 3,5 cm. Quả lúc tươi màu tím nhạt pha xanh lục, mềm. Quả già có đường kính 1. 5 đến 2 cm, khô trên cây.
Loài bằng lăng cho bóng mát và cho hoa đẹp nên được trồng làm hoa cảnh. Thật ra ngoài hoa tím còn có màu đậm, lợt trắng, hồng, đỏ … và cuối thu nhiều giống cũng rụng lá vàng, lá đỏ như cây phong xứ lạnh. Vài giống lùn, lùm bụi, cũng được chọn làm cây kiểng, mùa hoa nở đầy chậu. Cây gỗ lớn cao đến 20m, phân cành cao, thẳng, tán dày, lá hình bầu dục hay hình giáo dài, cụm hoa hình tháp ở ngọn các cành, mọc thẳng, nụ hoa hình cầu, hoa lớn có 6 cánh, có móng ngắn, răng reo màu tím hồng. Cây mọc mạnh, cây trồng chủ yếu bằng hạt, ươm gieo.
Ở Việt Nam cây này được gọi là Bằng lăng nước, mọc nhiều nhất ở các rừng vùng Đông Nam Bộ, đặc biệt là rừng cây gỗ toàn là bằng lăng gần thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông. Ở Cố đô Huế dọc một số đường trong thành phố Lê Lợi, Đống Đa, Lê Hồng Phong hay trong công viên cạnh dòng sông Hương, hè về bằng lăng thay cho phượng tím, thỉnh thoảng đâu đây tà áo tím mang lại cho Huế một vẻ buồn man mát, trầm lắng, suy tư.
Ý Nghĩa: Chung thủy, tình đầu ngây thơ cùa tuổi học trò, e ấp kín đáo
Hoa Bò Cạp Vàng-Muồng Hoàng Yến
Muồng Hoàng yến còn có tên là Bò cạp vàng, Bò cạp nước , Muồng hoàng hậu, Mai dây, Cây xuân muộn, Mai nở muộn, tên khoa học Cassia fistula L, họ Đậu(Fabaceae). Loài muồng này có nguồn gốc từ miền nam châu Á, từ miền nam Pakistankéo dài về phía đông qua nẤn Độ tới Đông Nam Á và về phía nam tới Sri Lanka.
Loại Muồng Hoàng yến lớn, nở rộ và sai, rực rở, dạng cành hoa rủ xuống dài 20–40 cm; cuống chung nhẵn, dài 15–35 cm hoặc có thể hơn. Cánh hình bầu dục mặt ngoài phủ lông mượt. Mỗi hoa đường kính 4–7 cm với 5 cánh hoa màu vàng tươi có hình bầu dục rộng, gần bằng nhau có móng ngắn; nhị 10, bao phấn phủ lông tơ ngắn. Bầu và vòi nhụy phủ lông tơ mượt. Quả dạng quả đậuhình trụ, hơi có đốt, dài 20–60 cm hoặc hơn, đường kính quả 15–25 mm, mang nhiều hạt trái xoan rộng, khi khô có vỏ cứng, có thể dùng làm thuốc xổ; thịt quả có mùi hôi khó chịu. Mùa hoa tháng 5-7 (Bắc bán cầu) hay tháng 11 (Nam bán cầu) Bò Cạp nước phát triển tốt nơi có nhiều nắng và thoát nước , không thích hợp với điều kiện khí hậu khô cằn hay giá lạnh; mặc dù nó chịu được hạn và mặn.
Ở Việt Nam, muồng Hoàng yến (có nơi gọi là cây Bọ cạp nước) mọc hoang dại trong các rừng thưaở các tỉnh Tây Nguyên, cũng còn được trồng như cây cảnh ở đô thị như Nha Trang, Đà Lạt, Sài Gòn.
Quốc Hoa: Bò Cạp nước là quốc hoa của Thái Lan
Hoa Dâm Bụt , Bông Bụp
Chi Dâm bụt, hay chi Phù dung (danh pháp khoa học Hibiscus) là một chi lớn chứa khoảng 200-220 loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ (Malvaceae), có nguồn gốc ở khu vực ôn đới ấm, cận nhiệt đới và nhiệt đới trên khắp thế giới. Chi này bao gồm các loại cây thân thảo một năm hay lâu năm cũng như các loại cây bụi và cây thân gỗ nhỏ. Lá mọc so le, loại lá đơn hình trứng hay hình mũi mác, thông thường với mép lá dạng răng cưa hay dạng thùy. Hoa lớn, dễ thấy, hình kèn, với 5 cánh hoa, có màu từ trắng tới hồng, đỏ, tía hay vàng và rộng từ 4-15 cm. Quả là loại quả nang năm thùy khô, chứa vài hạt trong mỗi thùy, được tung ra lúc quả nang tách ra khi chín.
Quốc Hoa :Dâm Bụt Hibiscus Syriacus, còn gọi là Rose Of Sharon là quốc hoa của Đại Hàn (South Korea) Biểu tượng Trường Cửu (Immortality) và Hibiscus-Rosa Sinesis màu đỏ là quốc hoa của Mả Lai (Malaysia) Biểu tượng Sự sống (Life) và Can đảm (Courage).
Hoa Cẩm chướng-Carnation
Cẩm chướng tên khoa học Dianthus caryophyllus (Clove Pink) là một loài Dianthus thuộc họ Caryophyllaceae. Có thể nguồn gốc Địa Trung Hải nhưng không rỏ vì loài hoa đã được trồng trên 2000 năm nay. Là giống hoang nhưng là ông tổ của các giống Cẩm chướng trồng trong vườn.
Thuộc dạng cây cỏ, sống lâu năm, có thể mọc cao đến 80m, lá xanh xám có phấn, mềm mại dài đến 15cm. Hoa mọc đơn hoặc chùm, đường kính từ 3-5cm thiên nhiên có màu tím hồng rực rở, những loại hoa lai giống sau có thể có màu đỏ, vàng, xanh lá cây hoặc trắng. Cẩm chướng thích đất khô ráo, không thích đất acid và cần nhiều ánh nắng. Colombia là sứ sản xuất Cẩm chướng lớn nhất thế giới
Quốc hoa: quốc hoa của Spain, Monaco, South Korea và Slovenia and Czech
Ý nghĩa: Cự tuyệt, từ chối tình cảm cũng tượng trưng cho tình bè bạn, lòng quí mến, tình yêu trong trắng, thanh cao
Hoa Cẩm Tú Cầu
Hydrangea
Có khoảng 100 loài giống Cẩm Tú Cầu thuộc họ Hydrangeaceae, có loài rụng lá có giống cây nhỏ, leo và bụi cây xanh quanh năm, tìm thấy ở vùng khí hậu lạnh ở châu Á, một vài loài ở châu Mỹ. Cành Cẩm tú cầu dể gãy, ruột rổng , lá xanh đậm có răng cưa . Hoa nở tuyệt, màu sắc hoa biểu hiện tùy thuộc vào ảnh hưởng của đất trồng, nói chung đất acid cho màu xanh, đất kiềm Alkaline thì cho hoa đỏ hoặc hồng. Hoa nở mùa hè hay xuân. Các loại cây giống được chia làm 2 nhóm: Hotensias khoảng 500 loài và Lacecaps khoảng 20 loài. Lá Cẩm tú cấu khô có vị ngọt có thể dung làm trà.
Lá và củ cây loài Hydrangea macrophylla có chất Hydragin-cyanogenic glycoside gây tiêu chảy, ói mửa.
Hoa Dạ Lan (Hương)-Hyacinth
Dạ lan hay Lan dạ hương có tên khoa học là Hyacinth orientalis thuộc họ Asparagaceae, có khỏang 770 đến 1000 loài . Củ Dạ Lan có độc tố Alkaloid gây vọp bẻ, đầy bụng, buồn nôn, tiêu chảy nếu ăn phải.
Lan dạ hương có xuất xứ từ Địa Trung Hải, dáng vẻ tao nhã với những bông hoa hình chuông mọc tiếp nhau, cai này trên cái kia tạo thành 1 hình tháp duyên dáng trên những cuốn hoa thanh thoát. Một nhóm các bông hoa dễ thương này, có gần như đầy đủ màu của 7 sắc cầu vồng, là một biểu tượng huy hoàng và rực rỡ. Hyacinthus orientalis (Common Hyacinth, Garden Hyacinth or Dutch Hyacinth), là một loài than thảo cho hoa nhiều năm, nguồn gốc Tây Nam Á Châu, Thổ Nhỉ Kỳ, Trung Đông. Dạ Lan còn gọi là Lan Dạ Hương cây thân thảo sống lâu năm được phát triển từ củ (bulb) thân hành sống lâu năm, đường kính khoảng 3-7cm, bao gồm một số loại cây trồng phổ biến trong vườn như Lan dạ hương (chi Hyacinthus), chuông tím (chi Hyacinthoides) và hành biển (chi Scilla).
Hoa Dạ lý hương
Tên khoa học là cestrum noeturnum murray thuộc họ cà (solanaeeae), gốc miền Tây Ấn Độ
Cây hoa dạ hương tức là cây hoa thơm về đêm. hoa có dạng bụi. Cành lá tuy mềm mại nhưng thô thiển. Hoa vàng nhạt. Thường được trồng ở góc vườn, góc sân, lá đơn, mọc cách, màu xanhnhạt, nhẵn bóng, gốc thuôn dài có cuống ngắn. Hoa nhiều, tập hợp thành chùy ở đầu cành hay nách lá. Hoa màu vànglục nhạt, hay lục nhạt, thơm ngát về đêm. Cánh tràng hợp thành ống dài, trên loe thành phễu chia thành năm thùy trái xoan nhọn. Quả mọngmàu lam hay đen nhạt, hạt dẹt. Cây rất dễ trồng bằng giâm cành, mọc khỏe đâm ra nhiều chốivà mùa hoa gần như quanh năm.
Cây hoa dạ hương rất dễ trồng chịu được mọi điều kiện bất thuận, cho hoa về mùa hè, toả hương thơm về đêm.
Ý nghĩa: Vui sướng nhận được tình bạn
Dã yến thảo (petunia)
Petunia là chi có khỏang 35 giống thân cỏ cho hoa có nguồn gốc Nam Mỹ, có liên hệ gần với thuốc lá và cà tô mát (tomato), khoai tây vì cùng thuộc họ Solanceae.
Dã yên thảo là cây thân cỏ, thường được trồng trong chậu để trang trí cho các khu vườn và là cây hàng năm. Phần lớn Dã Yến thảo chúng ta trồng ngày nay là Dã Yến thảo đã được lai giống từ Petunia Aillaris, P. Violacea và P. Inflata. Dã Yến thảo được chia thành 2 kiểu cây:
- Dã Yến thảo kép: cây thân leo, hoa lớn với nhiều cánh (grandiflora), đường kính của hoa có thể lên tới 13 cm.
- Dã Yến thảo đơn: cây bụi, có rất nhiều hoa nhưng hoa chỉ có một lớp cánh (mulitflora), đường kính của hoa khoảng 5 – 7.5 cm, dễ trồng và ít bị ảnh hưởng bởi sâu bọ.
Hoa Dã Yến thảo gốc có hình phễu, nhưng các loại Dã Yến thảo lai tạo có hình dáng đa dạng và phong phú hơn nhiều. Cánh có thể đơn lớp hoặc đa lớp, dạng gợn sóng. Hoa có thể có sọc, đốm hoặc viền quanh cánh với nhiều màu sắc khác nhau như đỏ tía, màu hoa cà, màu oải hương, hồng, đỏ, trắng, vàng. Khi chạm vào lá và cuống hoa thấy hơi dính và có mùi thơm rất khác biệt.
Hoa Dành Dành-Gardinia
Chi Dành dành danh phá khoa học Gardenia là một chi của khoảng 250 loài thực vật có hoa trong họ Thiên thảo (Rubiaceae), có nguồn gốc ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới ở châu Phi, miền nam châu Á và Úc.
Chúng là các loại cây xanh dạng bụi có loài thân gỗ nhỏ cao từ 1–15 m. Lá của chúng mọc đối hay thành vòng của 3 đến 4 lá, dài từ 5–50 cm và rộng từ 3–25 cm, có màu lục thẫm và bóng mặt với kết cấu giống như da thuộc. Các hoa mọc đơn hay thành cụm nhỏ, có màu trắng hay vàng nhạt, với tràng hoa hình ống có 5-12 cánh hoa đường kính 5–12 cm. Loại cây này ra hoa từ khoảng giữa mùa xuân đến giữa mùa hè và nhiều loài có mùi thơm rất mạnh.
Việc trồng cây dành dành cần có độ ẩm cao để phát triển. Chúng sinh trưởng tốt trên các loại đất chua, không úng nước .
Hoa Diên Vĩ –IRIS, Lay Ơn
Diên Vĩ tên khoa hoc là Iris thưộc chi Iris trong khi Lay ơn thuộc chi Gladiolus cùng họ Iradaceae
Iris có khoảng 300 loài, nhưng tên Iris cũng được dùng gọi cho những giống có dạng như Iris như loài Junos . Diên vĩ được trồng thương mại và rất được ưa chuộng.
Chi Diên Vĩ hay chi Lay ơn có cùng họ Iridaceae. Tên gọi Diên vĩ là lấy theo chi Diên vĩ (Iris), còn tên gọi lay ơn (lay dơn) là lấy theo chi Lay ơn (Gladiolus). Nó bao gồm một số loài cây trồng được nhiều người biết đến như Diên vĩ (Iris spp.), nghệ tây (Crocus spp.), sâm đại hành (Eleutherine spp.), rẻ quạt (Belamcanda spp.).
Quốc Hoa : Diên vĩ đen là quốc hoa của Jordan
Để phân biệt Diên Vĩ với Lay Ơn , Diên Vĩ có 3 cánh hoa mọc hướng lên và 3 hướng xuống, mỗi cuống hoa Diên Vĩ có tứ một đến 6 hoa nở một lúc trong khi hoa Lay ơn có dáng hoa kèn nở đầy, bao trùm hết đến đầu cọng hoa. Cả hai loại hoa đều có nhiều màu sắc , tuy nhiên hoa Lay ơn không có màu xanh da trời (true Blue).
Loài Diên Vĩ trồng bằng củ hoặc khúc rể (Rhizomes.) Củ ngù vùi trong đất có cấu trúc như củ hành tây, còn khúc rể thường thì sống trong đất nhưng cũng có loài ngủ cuối Hè, đầu Thu.
loại Diên vĩ củ thườg thấy là loại Diên vĩ Hòa Lan
Ý nghĩa: Lòng trung thành, sự khôn ngoan, lòng dũng cảm, niềm hy vọng, lời hứa
Hoa Đào (Peach Blossom)
Cây đào có nguồn gốc từ China, danh pháp khoa học là Prunus persica thuộc họ Rosaaceae, là một loài cây được trồng thường để lấy quả. Nó là một loài thay lá mổi năm, thân gỗ nhỏ, có thể cao tới 5–10 m. Lá hình mũi mác, dài 7–16 cm và rộng 2–3 cm. Hoa đơn hay kép nở vào đầu mùa xuân, đường kính 2,5–3 cm, màu hồng với 5 cánh hoa. Quả đào cùng với quả của anh đào(cherry) ,mận(plum) ,mơ(apricot) là các loại trái cây quả hạch (stone fruits). Trái đào có một hạt to được bao bọc trong một lớp vỏ gỗ cứng, cùi thịt màu vàng hay ánh trắng, có mùi thơm nhẹ và lớp vỏ có lông tơ mềm như nhung.
Phần đông các giống Đào thích khí hậu lành lạnh, nếu lạnh quá cũng không thích hợp, nếu quá lạnh -26 to -30c , mầm hoa bị chết và như vậy không cho trái.
Đào cần nắng để nuôi trái trưởng thành, nhiêt độ thời gian này khoảng 20 đến 30C.
Vùng sản xuất đào từ lâu gồm China,Iran, France, Italy, Spain, Greece . More recently, the United States tiểu bang trồng nhiều nhất là California and Georgia , Georgia được biết là tiểu bang Đào, Canada(British Columbia) và Australia (vùng Riverland) cũng là nơì sản xuất đào quan trọng .
Anh Đào (cherry, tiếng Pháp cerisier) không phải là loại Sơ ri (tên khoa học là Malpighia glabra thuộc Malpighiaceae ở Việt Nam)
Hoa Đổ Quyên (Azalea, Rhododendrons)
Đổ Quyên loài thân bụi trổ hoa thuộc chi Rhododendron thuôc họ Ericaceae. (Azalea là một nhánh cũng thuộc trong họ cây đỗ quyên này). Đổ quyên trổ hoa vào mùa Xuân, hoa nở kéo dài nhiều tuần. Chịu đựng bóng mát và thích sống gần hoặc dưới cây to.
Cây hoa Đổ Quyên thường lớn chậm, phát triển khá hơn trong đất hơi acid (4.5 đến 5 ph). Không cần phân bón nhiều nhưng cần nước và một vài loại phải thỉnh thoảng chăm sóc tỉa cành
Đổ Quyên mọc thiên nhiên ở Á châu, Âu châu, Bắc Mỹ châu. Được trồng nhiều như cây cảnh trang trí ở Úc và vùng đông nam nước Mỹ.
Tuy nổi tiếng vì đẹp , Đổ Quyên có độc chất cao vì chứa đụng chất andromedotoxins trong lá và cả mật hoa. Chi giống Đổ Quyên, có một thời nổi tiếng xấu vì hoa có chất độc nên nếu cho ai bó hoa để trong bình đựng hoa màu đen có ý là hăm dọa bị giết.
Quốc Hoa : Azealea là quốc hoa của Bỉ (Belgium) và Rhododendrons là quốc hoa của Nepal.
Hoa Gạo Bombax ceiba
Bombax ceiba cũng giống như các cây khác giống Bombax thường được biết là loại cây bông gòn. Bombax thuộc họ Malvaceae. Cây sống miền nhiệt đới có thân thẳng và lá rụng mùa Đông. Hoa đỏ có 5 cánh hoa trổ vào mùa Xuân trước khi mọc lá mới. Trái có hình dáng quả nang, khi chin chứa sợi trắng như bông. Thân gỗ mềm nhưng có gai để cản trở thú vật đến tấn công.
Cây bông gạo đưọc trồng nhiều ở Mã Lai, Nam Dương, Nam Trung quốc, Hong Kong, Đài Loan và Ấn Độ. Cây được trồng trong công viên và dọc đường phố vì màu hoa đỏ đẹp nở rộ khoảng tháng ba, tháng tư. Cây bông gạo khá thông thường ở New Delhi, thủ đô của Ấn Độ nhưng cây không bao giờ cao đền 60m vì đất nửa khô cằn. Những sợi bông bay trong gió vào khoảng đầu tháng năm. Cây Bông gạo được goi là cây anh hùng (hero) ở Hong kong vì bông nở đỏ lúc học sinh chuẩn bị đi thi .
Sử Tàu nói đến Chui To, vua nước Nam Viêt ( Nam Yuet) tặng hoàng đế triều đại Hán (Han dynasty) cây này khoảng thế kỹ thứ hai trước công nguyên (2nd century BC).
Bông Gòn Ceiba pentandra
Ceiba là một trong những giống cây thân to thuộc họ Malvaceae, có khoảng 10-20 loài, tìm thấy trong vùng nhiệt đới gồm cả Mexico , South America, The Bahamas, Belize and the Caribbean, West Africa, và Đông Nam Á, một vài loại có thể mọc cao đên từ 70m, thân thẳng đường kính có thể đến 3m, có gai, ít lá, ít cành. Tiêu biểu và thường được trồng là cây Bông Gòn Kapok, tên khoa học là Ceiba pentandra. Cây trưởng thành cho vài trăm seed pods, trong mổi seed pod có chứa hạt bao phủ bởi lông tơ màu hơi vàng vàng mịn mượt là một hổn hợp trộn lẩn giữa lignin và cellulose
Hoa Hải Đường
Họ Thu Hải Đường (begoniaceae)
Hải đường trong tiếng Việt không phải là tên gọi để chỉ một loài cây cụ thể. Về mặt phân loại thực vật, nó có thể là các nhóm thực vật sau:
- Trong tên gọi của chi Hải đường (Malus), bao gồm tây phủ hải đường, thùy ti hải đường.
- Tên gọi khác của một số loài trong chi Mộc qua (Chaenomeles) họ Hoa hồng (Rosaceae), bao gồm thiếp ngạnh hải đường, mộc qua hải đường, hải đường Nhật Bản.
- Thiếp ngạnh hải đường (Chaenmoeles lagenaria, Chaenomeles speciosa): còn gọi là mộc qua vỏ nhăn, mộc qua hoa, thiết cước hải đường.
- Hải đường Nhật Bản (Chaenomeles japonica).
- Mộc qua hải đường (Pseudocydonia sinensis, đồng nghĩa: Chaenomeles sinensis): còn gọi là minh trà.
- Trong tên gọi của các loài thuộc họ Thu hải đường (Begoniaceae), bộ Bầu bí (Cucurbitales), bao gồm tứ quý hải đường
- Tên gọi khác của chi Hoa vân anh (hay hoa đèn lồng-Fuchsia) họ Anh thảo chiều (Onagraceae): đăng lung hải đường, điếu chung hải đường.
- chi Tiên khách lai (Cyclamen) của họ Xay (Myrsinaceae) còn gọi là la bặc hải đường.
- Tên gọi của một loại trà có danh pháp khoa học: Camellia amplexicaulis
Hải Đường Việt Nam
Hải đường Việt Nam
Hải Đường Việt Nam có tên khoa học là Camellia Amplexicaulis, chi Camellia thuộc họ trà Theaceae. Cây có nguồn gốc Việt Nam, thân gỗ nhỏ có thể cao đến 2-3m, lá to xanh bóng láng, cuống lá mọc bao quanh cọng lá, cũng là nơi hoa trổ hoa màu đỏ tím có nhụy vàng nở vào dịp Tết. Giống Hải đường này chỉ mới khám phá được ở Việt Nam khoảng đầu thế kỹ 20, được đặt tên khoa học năm 1916, giống này thường thấy trồng từ vùng Thừa Thiên Huế ra đến Lạng Sơn.
Hoa hoè
Tên khoa học Styphnolobium japonicum thuộc họ Fabaceae, có nguồn gốc Nhật , mặc dù trồng nhiều ở Trung Quốc, là một loại cây trang trí , hoa màu trắng , nở cuối hè, được trồng ở Âu Châu, Bắc Mỹ và Nam Phi. Cây có thể cao đến 10-20m .
Hoa Hồng Môn-Athurium Spp
Anthurium thuộc chi Arum, họ Araceae, giống phát xuất từ vùng nhiệt đới Mỹ Châu gồm khoảng 900 loài, thực vật thân thảo và dây leo lưu niên xanh. Rất thông thường được xem là loại cây trồng trong nhà, nhưng cũng rât quen thuộc trong vườn cây nhiệt đới. Hoa này được trồng thương mại và là một kỹ nghệ quan trọng cuả Hawaii, xuất cảng khắp chợ hoa trên thế giới. Mặc dù có những bộ phận của Anthurium được dùng làm thuốc nhưng không đươc khuyến cáo, tốt hơn nên tránh vì tất cả các bộ phận của cây đều có độc tố.
Huệ Ta ở Việt Nam
Huệ ta còn gọi là dạ lai hương (thơm ban đêm) hoặc vũ lai hương (thơm lúc mưa), tên khoa học Polianthes tuberose, là một loài hoađặc biệt, nở về đêm, có khả năng tỏa hương về ban đêm với mùi hương ngào ngạt. Ở Việt Nam, hoa huệ dùng để cắm trong các dịp cúng, lễ, còn gọi là Hoa huệ thuộc Agavaceae, hình giáng giống cây tỏi. Cần phân biệt với hoa huệ Tây Lilium longiflorumm hay còn gọi là hoa Loa kèn thuộc họ Liliaceae.
Ý Nghĩa: Khao khát vật chất,
Hoa Huệ tây, hoa Loa kèn- Lilies
Lilium là loại hoa trồng bằng củ (bulbs), hoa to và rực rở. Huệ Tây –hay Loa kèn có khoảng 110 giống thuộc họ Liliaceae, có nguồn gốc ôn-hàn đới Bắc bán cầu, nhưng có loài cũng thích hợp với vùng ấm ôn đới. Huệ Tây là một loài hoa thường thấy trồng trong các vườn hoa, thường đề cập trong văn chương văn hoá nhiều nơi trên thế giới, nhất là phương Tây. Các giống trong chũng loại Lilium mới đúng Huệ Tây, trong khi có nhiều loại hoa cũng có chữ lily trong tên thường gọi, nhưng thật ra là hoàn toàn giống khác không phải là Lilies -Huệ Tây.
Quốc Hoa: Pháp Fleur de lis
Lily of the valley là quốc hoa của Phần Lan (Finland) và Serbia
Ý Nghĩa: Trong trắng, tinh khiết, tình bạn thật lòng
Hoa Kim Đồng Tristellateia australasiae
Tên khoa học Tristellateia australasiae , thuộc họ Malpighiaceae
Nguồn gốc Châu Á nhiệt đới, tìm thấy ở Miền Nam Việt Nam, cây leo thân gỗ, phân cành nhánh nhiều. Lá đơn mọc đối dạng trái xoan, dày, nhẵn, màu xanh bóng có hai tuyến ở gốc. Cụm hoa màu vàng ở đầu cành, tràng 5 tỏa rộng, nhị màu vàng khi chín chuyển nâu đỏ.
Tốc độ sinh trưởng nhanh thích ánh sáng, không cần nhiều nước. Nhân giống từ hạt.
Hoa Kim Ngân-honeysuckle
Kim Ngân – honeysuckles -dạng bụi cây hoặc dây quấn tên khoa học là Lonicera Caprifolium thuộc họ Caprifoliaceae, nguồn gốc Bắc bán cầu. Có khoảng 180 loài , mà 100 loài tìm thấy ở China, Europe, India và Bắc Mỹ . Chim Hummingbirds thích hoa Kim Ngân nhất là loại Kim Ngân màu vàng Lonicera ciliosa.
Lá Kim Ngân đối nghịch, bầu dục dài khỏang 1-10cm. phần đông lá rụng, một ít xanh quanh năm, phần đông hoa hình chuông có mùi vị ngọt, mật hoa ăn được , nhánh bị bẻ cũng thoát ra mùi vị ngọt. Trái nhỏ máu đỏ, xanh hay đen phần đông có độc tố chỉ có trái của loài Lonicera caerulea ở Nhật , Nga là ăn được.
Ý nghĩa : Người bạn trung thành
Hoa Lạc Tiên-Chùm bao-Passion Flower
Chi Passifloraceae thuộc họ Malpighiales có khoảng 530 loài cây có hoa hình dáng cây, bụi, dây, tìm thấy nhiều nơi trên thế giới nhất là vùng nhiệt đới ngoại trừ Âu Châu, Nam Cực và Phi Châu.
Chi Passifloraceae như các loại dây có trái ăn được và có hoa màu tím- trắng hay màu xanh- trắng giống như mặt đồng hồ rất đẹp. Người Anh gọi những trái đó là Passion fruit Passiflora Edullis
Thân thuộc của dòng Passiflora là dây chùm bao Passiflora Foetida L có ở Việt Nam.
Dược tính độc đáo của loài Maypop:
• Lá Maypop xanh hay khô có thể làm trà uống trị bịnh mất ngủ, đau, động kinh, cuồng loạn (hysteria).
• Một vài loài Maypop được tìm thấy có chứa chất chống trầm cảm beta-carboline harmala alkaloids
Hoa Lồng Đèn-Vân Anh-Hoa Đăng (Fuchsia)
Hoa đăng hay hoa Lồng đèn hay hoa Vân anh, gọi là Fuchsia, tên khoa học là Fuchsia x hybrida, ở còn có tên là hoa bông tai (lady eardrops) hoặc , giọt nước mắt (teardrops) vì hoa rực rỡ và vì hoa hướng thòng xuống đất. Màu sắc thay đổi từ trắng, đỏ hồng, tím hay pha lẫn lộn giữa các màu này.
Hoa đăng Fuchsia gồm khoảng 110 loài, mọc như lùm bụi cao từ .2m đến 4m và thuộc họ thực vật Onagraceae. Đa số hoa có nguồn gốc Nam Mỹ nhưng phát triển tốt vùng nhiệt đới (tropical and sub-tropical climates). Đặc biệt ở Tân Tây Lan có loài thân cây hoa đăng cao từ 12m đến 15m
New Zealand Kotukutuku (Fuchsia excorticata),
Hoa Lưu Ly –Forget-Me-Not
Myosotis là loài thực vật trổ hoa thuộc họ Boraginaceae mọc nhiều ở vùng ôn đới, được gọi là Forget-me-nots -Đừng quên tôi, có nguồn gốc tiếng Pháp ne m’oubliez pas và dịch sang tiếng thời khoảng 1532. Những tên này thường tìm thấy trong nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Forget me not sống 1, 2 năm thân thẳng mọc, hoa mọc sai nhỏ màu xanh da trời, giữa có mắt màu vàng kéo dài cuối Đông đến đầu Hạ. Tán lá mềm có lông, lá dài 1 dến 5cm dọc theo cọng cây. Cây có thể sống lâu trong vườn vì hạt rớt rồi nẩy mầm trở lại trên đất. Loại Lưu Ly có tên khoa học là Myosotis Scorpioides có hương thơm mát.
Quốc hoa: Denmark
Ý Nghĩa : Xin đừng quên tôi
Hoa Lục Bình- Eichhornia crassipes
Tên khoa học là Eichhornia crassipes thuộc họ Pontederiaceae. Tất cả các bộ phận của cây đều có độc gây chứng ăn không tiêu, ói mửa trên chó, mèo và một số vật nuôi khác khi ăn phải.
Water hyacinth, Lan dạ hương nước là loại thực vật có hoa nổi trên nước, thích hợp với ao hồ. Kích thước lớn nhỏ tùy trong nước có chất bổ và mực độ ánh sang trên mặt ao hồ. Ở Việt Nam , lục bình mọc tự nnhiên ở sông rạch miền Nam, nhất là miền Tây, trổ hoa màu tím. Lục bình mọc hoang không kiểm soát là một hiểm họa vì nó phủ cả mặt nước tai hại cho những sinh vật khác.
Hoa Lục bình trôi dạt trên sông, màu tím rất đẹp nhưng cánh hoa rất mong manh, đem ra khỏi nước đôi ba phút thì héo rủ vì thế không được dung trang trí cắm hoa. Hoa Lục bình có thể ăn được như dùng nấu canh chua.
Hoa Mai Địa thảo- Bóng Nước Impatiens
Mai dạ thảo hoặc Mai địa thảo, Impatiens, Busy Lizzie, tên khoa học Impatiens walleriana thuộc họ Balsaminaceae, phân bố rộng rải ở Bắc bán cầu và vùng Nhiệt đới, có khoảng 850 đến 1000 loại.
Mai dạ thảo thuộc giống cây bóng nước với đặc điểm hình thái rất đa dạng. Tuy nhiên khi nói đến Mai dạ thảo với tên khoa học là Impatiens walleriana thì đấy là loài có xuất xứ từ vùng Đông Phi; thân cỏ mọng nước cao từ 15-60cm; lá hình mác có răng cưa dài từ 3-12cm, rộng từ 2-5cm. Hoa có 5 cánh với cánh hoa xòe rộng, phẳng. Màu sắc hoa có khi đơn sắc như đỏ tía, cam, hồng, tím nhưng có khi pha thêm một màu khác như trắng hồng, hồng tía… Hạt cây hình trái xoan rất dễ bung nếu chạm phải. Đây là hình thức phát tán hạt giống độc đáo của các loài cây thuộc họ Balsaminaceae.
Cây rất thích hợp để trồng trong luống và trong chậu. Cây ưa sáng nhưng có thể bị héo nếu bị phơi dưới ánh nắng trực tiếp. Nhu cầu nước tưới và phân bón ở mức độ trung bình. Nếu mật độ trồng thưa, thân cây sẽ phát triển thêm nhiều nhánh và cho nhánh to, nhiều bông.
Cây cho hoa màu sắc rực rỡ. Hoa nở hầu như quanh năm, nhưng chóng tàn và dể bị dập, ít bị sâu bệnh. Thích hợp để trang trí ở các khu vực ban công, vĩa hè, lối đi. Cây dễ nhân giống bằng hạt hoặc cắm cành. Thường được trồng để buôn bán vào dịp Tết ở các xứ Tây phương.
Hoa Mận (Plum)
Trống vùng Đà lạt Lâm đồng và cao nguyên Bắc hà
Prunus salicina (còn gọi là Prunus triflora hay Prunus thibetica), thường được gọi là mận Trung quốc hay mận Nhật Bản là loại cât trút lá có nguồn gốc ở Tàu. Bây gìờ được trồng trong vườn cây ăn trái ở Đại Hàn, Nhật, Mỹ và Úc
Không nên lẩn lộn giữa Prunus salicina với Prunus mume, vì loại này cốt chỉ cần cho trổ hoa đẹp trang trí, cũng được trồng ở China, Japan, Việt Nam, Lào, Đài Loan and Korea. Prunus mume, cũng như gọi là mận Trung quốc hay mận Nhật Bản có nguồn gốc Á Châu thuộc chi Prunus họ Rosaceae cho hoa rất đẹp, thường được thông dịch là hoa mận Plum blossom. Giống này liên hệ đến hai giống Mận và Mơ. Loại hoa này tìm thấy ở vùng rừng thưa, hai bên dòng suối , triền núi hoặc nơi có độ cao từ 1700 đến 3100m.
Hoa mận nở trong khoảng thời gian không dài, chỉ kéo dài từ 2 đến 3 tuần lễ.
Ở Việt Nam, vùng Lào Cai , Lai Châu , Mộc Châu có trồng loại mận gọi là Mận Tam Hoa
Quốc Hoa: Hoa Mận ( Plum blossom) là quốc hoa của China
Trong Nam, Mận là loại cây trái khác có nguồn gốc miền Nam Việt Nam , Mã Lai và Nam Dương, còn gọi là táo Mả Lai hay Pommerac, tên khoa học là Syzygium malaccense, thuộc họ Myrtaceae , Bắc gọi là quả Roi
Mận là cây thường xanh nhiệt đới, cao đến 15m , lá dài 10–25 cm và rộng 5–10 cm . Hoa màu trắng, đỏ hoa mọc thành ngù 5-30 hoa ở ngọn hay nách lá đã rụng đường kính 3-4cm . Trái mọng, hình chuông, ăn được, màu xanh, trắng đến đỏ đậm, màu tía. Hoa và trái không chỉ mọc từ nách lá mà có thể mọc ở gần như bất kỳ điểm nào trên thân cây và nhánh cây. Thịt mận trắng chin thì ngọt và dòn trong chứa 1-4 hột màu nâu. Mận có thể làm mức .
Cây Mận hoa trắng được trồng nhiều ở Việt Nam, Đài Loan, Thái, Â Độ, Hồi, Bangladesh và Tích Lan. Giống Mận đỏ (gốc Nam Dương) cũng được trồng nhiều ở Viêt Nam, Nam Dương và Thái Lan. Ờ miến Tây, có Mận Trung Lương nổi tiếng ngon ngọt nhất miền Nam. Trái mận lớn, da ửng hồng và có sọc, ăn dòn và ngọt lịm hoặc màu xanh, trái to, vừa ngọt vừa dòn.
Hoa Mẫu đơn
Loại hoa thuộc chi Thược dược, danh pháp khoa học Paeonia là chi duy nhất trong họ Mẫu đơn (Paeoniaceae). Các loài trong chi này có nguồn gốc ở châu Á, miền nam châu Âu và miền tây Bắc Mỹ.
Phần lớn các loài là cây thân thảo thường xanh, cao khoảng 0,5–1,5 m, nhưng một số loài là cây bụi thân gỗ cao tới 1,5–3 m. Chúng có các lá phức, xẻ thùy sâu và hoa lớn, thường có mùi thơm, có màu từ đỏ tới trắng hay vàng, hoa nở vào cuối mùa xuân hay đầu mùa hè. Trong quá khứ, các loài mẫu đơn/thược dược này đã được phân loại trong họ Ranunculaceae, cùng với các loài cỏ chân ngỗng Animone
Hoa Mộc Lan magnolia sprengeri họ Magnoliaceae
Mộc lan có khoảng 210 giống có hoa thuộc họ Magnoliaceae. Được đạt tên theo nhà thực vật học ngưới Pháp Pierre Magnol.
Môc Lan là một chi giồng cổ xưa, tiến hóa trước loài ong xuất hiện, hoa phát triển để khuyến khích bọ cánh cứng ( beetles) thụ phấn. Tránh hoa bị hủy hoại bởi bọ, lá noãn carpels của hoa rất dai cứng. Người ta đã tìm thấy những mẩu hoá đá của giống Magnolia acuminate khoảng 20 triệu năm trước đây và nhửng loại cây thực vật thuôc họ Magnoliaceae cách đây khoảng 95 triệu năm. Diện mạo sơ khai là hoa không có đài hoa (sepals) hơặc cánh hoa (petals) .
loại giống thiên nhiên của Mộc lan được phân bô tách rời, với trung tâm chính ở Đông và Đông Nam Á và trung tâm phụ ở vùng đông Bắc Mỹ châu, Trung Mỹ châu, vùng West Indies và vài chủng loại ở Nam Mỹ Châu. Mộc lan được trồng làm cây cảnh trong vườn và trong công viên.
Hoa mơ-Apricot Prunus armeniaca Linn
Mơ tiếng Anh là Apricot (Hán Việt: hạnh) danh pháp khoa học Prunus armeniaca) là một loài thực vật thuộc chi Prunus, họ Rosaceae
Cây mơ có gốc gác ở miền Trung Á hay Đông Á (Miền Hoa Bắc, Mông Cổ. Nay ở Trung Đông, vùng Địa Trung Hải có trồng rất nhiều cây mơ. Ở Thổ Nhĩ Kỳ ,Úc và ở Hoa Kỳ, nhất là ở tiểu bang California có trồng nhiều mơ.
Hoa Mua
Melastoma malabathricum, cũng gọi là Malabar Melastone, Indian Rhododendron and Singapore Rhododendron là loài thực vật ra hoa thuộc họ Melastomataceae.
Được tìm thấy ở Trung Quốc, Nhật, Miến Điện, Miên, Lào, Ấn Độ, Mã Lai, Thái , Phi, Úc, Việt Nam và Nepal . Thuộc loại thân gỗ bụi, không cao 2-5m, hoa rực màu tím đậm hay mọc ở đồng cỏ cao nguyên hay rừng thưa. Ở Mỹ đây là cỏ độc hại. Cây mua ở Việt Nam thường sống ở những nơi ẩm như ven sông hoặc bờ ruộng ở khắp Việt Nam. Hoa mua có nhiều loại như mua bà, mua ông, mua đa hùng, mua thường, mua lông … và có nhiều màu khác nhau nhưng chủ yếu là màu tím. Màu tím của mua cũng có nhiều loại: tím thẫm, tím pha hồng, và nhiều khi chúng bị lầm tưởng là hoa sim. Dù hoa rất đẹp nhưng cây mua không được chuộng làm cây cảnh vì cành rất giòn và khó đâm tược. Theo thống kê trong sách Cây cỏ Việt Nam, họ hoa mua ở Việt Nam có hơn 135 loài, kể cả những loài nhập nội.
Hoa Mười Giờ
Hoa mười giờ hay rau sam hoa lớn tên khoa học Portulaca grandiflora một loài cây thân mọng nước, nhỏ, nhiều nhánh và lớn nhanh trong họ Rau sam (Portulacaceae). Tên gọi mười giờ là do hoa thường chỉ nở từ khoảng 8/9 giờ đến 10 giờ sáng rồi lại khép lại vào buổi chiều trong ngày. Là loại cây thân thảo, mọc bò trên đất hay chậu, cao khoảng 10–15 cm. Lá hình dải hơi dẹt, dài 1,5–2 cm, mép nguyên, thân có màu hồng nhạt, lá có màu xanh nhạt, trái hình cầu đường kính 3-4 mm.
Loài thực vật này có nguồn gốc Nam Mỹ, nhưng được trồng rộng rãi trong các khu vực ôn đới. Hoa sặc sỡ, với màu sắc đỏ, cam, hồng, trắng hay vàng.
Theo tạp chí Birds & Blooms, tháng 6 năm 2006 thì “Hoa mười giờ được đưa vào các khu vườn của châu Âu khoảng 300 năm trước…nhanh chóng thu được sự phổ biến vì các tính chất y học của nó, bao gồm làm mất đi tiếng nghiến răng, co thắt cơ và làm dịu vết bỏng do thuốc súng”.
Loài cây thích hợp với chỗ đất ráo nước và nhiều nắng.
Tại Việt Nam, hoa được trồng làm một loại cây cảnh. Trong Đông y người ta cũng dùng hoa trong điều trị một số bệnh như viêm họng, eczema, ghẻ, mụn nhọt…
Hoa Ngọc Nữ -Clerodendrum thomsoniae
Ngọc nữ (hay Rồng nhã ngọc) là một loài của 400 loài Clerodendrum thuộc họ: Verbenaceae có nguồn gốc nhiệt đới ở phía tây châu Phi, từ tây Cameroon sang Senegal, được trồng nhiều nơi trên thế giới làm cảnh trang trí. Cây Ngọc nữ là dây leo xanh, cao tới 4 m, với lá hình trứng thuôn dài 8-17 tới cm. Các hoa được sản xuất từng cụm 8-20 hoa, phần hoa màu trắng- chính ra là đài hoa đường kính khoảng 5 cm – bao bọc lấy đóa hoa năm cánh nhỏ xíu màu đỏ máu, đường kính khoảng 2 cm
Hoa còn tượng trưng cho vẽ đẹp tinh khiết như ngọc của thiếu nữ
Ngọc Nữ có các tên Anh như Glory-bower, Bagflower, Bleeding Glory-bower, hay Bleeding Heart Vine
Hoa Ngải tiên-White Ginger Lily
Ngải tiên tên khoa học Hedychium coronarium Koenig, thuộc họ Zingiberaceae (Gừng)
Thân giống cây Gừng cao khoảng 1-2m, lá không cuống, hình mũi mác, nhọn cả hai đầu, nhẵn ở mặt trên, có lông mặt dưới, dài tới 60cm, rộng 12cm, thon. Cụm hoa nở màu trắng, rất thơm từ tháng 6 đến tháng 10 ở Việt Nam.
Tìm thấy ở Nam Trung Quốc, Việt Nam (Ngải tiên phân bố tự nhiên ở một số vùng núi có độ cao 1400 – 1800m tại một số tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang), Mã Lai, Úc. Cây mọc vùng có khí hậu lạnh, ẩm ươt, thân rể và quả có mùi thơm, vị cay, ấm được dùng làm dược thảo chửa nóng lạnh, phong thấp, đau bụng, trừ giun
Ở Hawaii và các hải đảo Thái Bình dương, ngải tiên được dùng làm lẳng hoa, hoa được đeo trên tóc phụ nữ ở phía sau lổ tai.
Quốc Hoa: Cuba
Hoa Ngọc Trâm –Primula
Primula là một trong 400-500 loài cỏ thảo (herb) trong họ Primulaceae, gồm các loài primrose, auricula, cowslip and oxlip. Thường được trồng làm hoa cảnh, mọc ở vùng có khí hậu lạnh hay lành lạnh như Đà Lạt. Có nguồn gốc ôn đới Bắc bán cầu, vùng lạnhNam Phi Châu. Ngọc Trâm sống lâu, lưu niên, trổ hoa suốt mùa Xuân, có đủ sắc màu tím, đỏ, vàng, hồng, trắng và không thích ánh nắng chiếu thẳng. Có nhiều loại Ngọc Trâm thích ứng với khí hậu vùng núi cao.
Hoa Oải Hương –Lavender
The lavenders tên khoa học Lavandula) là một chi giống có 39 loại thực vật ra hoa thuộc họ Bạc Hà (mint) Lamiaceae. Được tìm thấy từ Cape Verde và Canary Islands, southern Europe qua phía Bắc và Đông Bắc Phi Châu , Địa trung hải, tây nam Á Châu đến đông nam Ấn độ. Nhiều loại Lavender được canh tác qui mô ở vùng Ôn đới như hoa cảnh trang hoàng và trích dầu thương mại ( the extraction of essential oils).
Ý nghĩa: Sự ngờ vực
Quốc hoa : Bồ đào nha (Portugal)
Hoa Ô Môi
Cây gỗ trung bình, cao 10 – 20 m, phân cành lớn, mọc ngang thẳng, vỏ thân nhẵn, những cành non có lông màu rỉ sắt, cành già màu nâu đen. Lá kép lông chim với 8 – 20 đôi lá phụ dạng thuôn dài tròn cả hai đầu, dài 7–12 cm, rộng 4–8 cm, có phủ lông mịn, màu xanh bóng, gân rõ. Cụm hoa nở rộ khi lá rụng, dạng chùm dài mang hoa lớn, xếp thưa, màu hồng đậm, thõng xuống. Hoa màu hồng tươi mọc thành chùm ở những kẽ lá đã rụng. Quả hình trụ dẹt dài 40–60 cm, cong như lưỡi liềm, đường kính 3–4 cm, có 50-60 ô, mỗi ô chứa một hạt dẹt màu vàng cứng, quanh hạt có cơm màu nâu đen, vị ngọt, mùi hắc.
Hoa Ô Môi rất đẹp, thường trồng làm cây cảnh vì hoa đẹp.
Cơm quả dùng ăn chơi hoặc ngâm rượu làm thuốc có tác dụng giúp ăn ngon miệng, tiêu hóa tốt, chữa đau lưng, đau xương, nhức mỏi.
Hạt ô môi ngâm nước nóng tới khi lớp vỏ cứng bong mềm ra, lấy nhân bên trong, đem nấu với nước đường cho mềm, dùng trong chè giải khát, tương tự như các loại hạt trong sâm bổ lương.
Lá ô môi dùng tươi đem giã nát, xát vào những vết hắc lào, lở ngứa, có thể chữa khỏi. Lá ô môi sắc nước làm thuốc cũng có công dụng chữa đau lưng, nhức mỏi.
Với nhiều công dụng làm thuốc, cây ô môi còn được ví như là Canh ki na (Cinchona succirubra Pavon) của Việt Nam, khiến nhiều người lầm tưởng cây ô môi là cây Canh ki na. Nguồn gốc Nam Mỹ được trồng lấy bóng mát, hoa đẹp trồng nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, Ô môi trồng ở miền Nam. Vỏ cây Canh kina có chất kí ninh dùng làm thuốc trị sốt rét
Hoa Ông Lảo (Clematis)
Tên khoa học là Clematis uncinata, thuộc họ Ranunculaceae, có nguồn gốc Trung Quốc. Dây leo, nhánh tròn, có khía, không lông, cao từ 7 – 15 cm. Cụm hoa có cuống dài, ở nách lá, cánh hoa dẹt, trắng, đỏ sẫm hay tím , ra hoa tháng 5 tháng 6. Đặt biệt loài Ông Lảo miền lạnh thì trúc lá, nhưng ở miền nóng thì vẩn xanh quanh năm
Phần lớn các chủng là loại cây lưu niên cần có nắng, thích khí hậu mát lạnh. Ở Việt Nam loại này thường gặp tại Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh và Ninh Bình mọc ở bìa rừng , trong lùm bụi
Rễ, thân được dùng làm thuốc trị phong thấp đau xương, đau răng, thân dùng trị tiểu tiện bất lợi.
Ý Nghĩa : Tài khéo léo, mưu mẹo
Hoa Pensée (Viola tricolor)
Tên tiếng Việt là Hoa Bướm, Păng-xê, Tử La Lan. Tên tiếng Anh: Pansy Tên tiếng Pháp: Pensée, Tên khoa học là Viola Tricolor, thuộc họ Violaceae. Loại hoa lai giống (hybridized), thường trồng làm cảnh trong vườn, có nhiều màu sắc, đường kính khoảng 5cm-8cm, có thể sống đến 2 năm nhưng chỉ cho hoa vào năm thứ hai, nên người mua hoa chỉ trưng được có một mùa .
Hoa không thích hợp với khí hậu nóng, trong điều kiện thích hợp cây hoa có thể cao đến 25cm.
Ý nghĩa : Tương tư, nghỉ về em (thinking of You); Người đã chiếm giữ mọi ý nghĩ của tôi.
Hoa Phong Lan (Orchids)
1-Bulbophyllum hay chi Lan lọng, chi Lan
2- Chi Cát lan hay chi Lan hoàng hậu Cattleya. Cũng là quốc hoa của Ba Tây (Brazil)
3- Lan hoàng thảo-Dendrobium
4-Epidendrum
5-Oncidum
6- Chi Lan hồ điệp (danh pháp: Phalaenopsis ),
7-Pleurothallis
8-Vanda
9-Vanilla
Họ Phong Lan, hay họ Lan, danh pháp khoa học Orchidaceae là một họ thực vật có hoa , thuộc bộ Măng tây (Asparagales), lớp thực vật một lá mầm. Họ Orchideceae là một trong những họ lớn nhất của thực vật và có các thành viên mọc trên toàn thế giới, ngoại trừ Nam Cực; có cây hoa lan sống dưới mặt đất và chỉ nở hoa trên mặt đất cũng như có cây hoa lan sống tại vùng cao nguyên của dãy núi Himalaya hoa lan có thể tìm thấy tại các vùng có khí hậu nhiệt đới như trong rừng già của Brasil đến các vùng có tuyết phủ trong mùa đông như tại bình nguyên của Manitoba, Canada Các loài lan chủ yếu mọc trên cây cao, sống biểu sinh lâu năm. Chúng được gọi chung là phong lan. Bên cạnh đó cũng có các loài mọc trong đất, tức là địa lan và có một số loài mọc trên đá tức thạch lan.
Vườn thực vật hoàng gia Kew liệt kê 880 chi và gần 22.000 loài được chấp nhận, nhưng số lượng chính xác vẫn không rõ (có thể nhiều tới 25.000 loài) do các tranh chấp phân loại học. Số lượng loài lan cao gấp 4 lần số lượng loài động vật có vú hay hơn 2 lần số lượng loài chim. Nó chiếm khoảng 6–11% số lượng loài thực vật có hoa. Khoảng 800 loài lan mới được bổ sung thêm mỗi năm. Các chi lớn nhất là Bulbophyllum (khoảng 2.000 loài), Epidendrum (khoảng 1.500 loài), Dendrobium (khoảng 1.400 loài) và Pleurothallis (khoảng 1.000 loài). Họ này cũng bao gồm chi Vanilla (chi chứa loài cây vani), Orchis (chi điển hình) và nhiều loài được trồng phổ biến như Phalaenopsis hay Cattleya.
Ngoài ra, kể từ khi du nhập các loài từ khu vực nhiệt đới vào trong thế kỷ 19 thì các nhà làm vườn châu Âu và Bắc Mỹ đã bổ sung thêm khoảng 100.000 loại cây lai ghép và giống cây trồng.
Hoa lan được người tiêu dùng ưa chuộng vì vẻ đẹp đặc sắc và các hình thức đa dạng của chúng. Cũng giống như cây lan, hoa lan hầu như có tất cả các màu trong cầu vòngvà những kết hợp của các màu đó. Hoa lan nhỏ nhất chỉ bằng hạt gạotrong khi hoa lan lớn nhất có đường kính khoảng 1m.
Đa số các loại hoa lan được bán rộng rãi trên thị trường thường không có hương thơm nhưng trong tự nhiên có rất nhiều loại hoa lan có mùi thơm đặc trưng. Vanilla là một loại hoa lan mà hương thơm được dùng trong các loại ẩm thực của thế giới và có nguồn gốc từ Mexico; trong khi đó có các loại hoa lan tỏa ra mùi như thịt bị hỏng để hấp dẫn các côn trùng.
Quốc Hoa : Phong Lan là quốc hoa của Mexico, Venezuela; giong Vanda Miss Joaquim là quốc hoa của Singapore; Cát Lan (Cattleya) của Argentina và Brazil
Ý Nghĩa: Giàu sang, tình yêu và vẻ đẹp hiếm có
Hoa Phù Dung
Phù dung có tên khoa học Hibiscus mutabilis, hay còn gọi là phù dung thân mộc, mộc phù dung, địa phù dung, phù dung núi, hoa phù dung, mộc liên, là một loài thực vật có hoa thân nhỏ hoặc bụi thuộc Malvaceae.
Cành phù dung mang lông ngắn hình sao. Lá có năm cánh, cuống lá hình tim, mép có răng cưa, đường kính có thể tới 15 cm, mặt dưới nhiều lông hơn, 5 thùy hình 3 cạnh ngắn có 7 gân chính. Hoa lớn, có 2 loại: hoa đơn (có 5 cánh), hoa kép (có nhiều cánh); hoa nở xoè to bằng cái bát, chất cánh xốp, trông như hoa giấy; hoa thay đổi màu sắc từ sáng đến chiều (sáng trắng, trưa hồng, chiều đỏ) vì trong cánh hoa có chất anthoxyan bị oxi hoá dần khi tiếp xúc với không khí, kích thước hoa 10–15 cm. Giống ‘Rubra’ có hoa màu đỏ. Quả hình cầu, có lông vàng nhạt. Hạt hình trứng, có nếp nhăn nhỏ mang lông dài.
Cây được trồng ở Trung Quốc, Ấn Độ, Phi Luật Tân, Nhật Bản, Hoa Kỳ. Cây mọc tốt trong điều kiện có nắng và thích hợp với loại đất giàu chất dinh dưỡng.
Ý nghĩa : Hồng Nhan bạc phận
Hoa Quỳnh (Night Blooming Cereus-Epiphyllum grandilobum)
Hoa quỳnh tên khoa học là Epiphyllum grandilobum thuộc chi Epiphyllum họ Cactaceae có nguồn gốc Trung Mỹ (Panama, Costa Rica). Thực tế hoa Quỳnh được nhận định có 19 loại chính thiên nhiên và hàng ngàn loại lai giống cho nhiều màu sắc khác nhau. Hoa Quỳnh cũng được gọi là “nữ hoàng của bóng đêm, Queen of the Night “
Trước đây trong các tác phẩm văn chương hoa Quỳnh đã được đề cập đến như một huyền thoại dành cho giới thượng lưu và tao nhân mặc khách thưởng lãm vì sự quý hiếm và chăm sóc rất công phu. Bởi thứ hoa nầy mỗi năm chỉ nở một lần vào dịp cuối năm và đúng nửa đêm. Do đó nhiều người cho là hoa hiếm quý nhất trong các loại hoa nở về đêm, có duyên mới được ngắm nhì hoa nở.
Sấu trắng (Dracontomelon duprreanum)
Tên khoa học là Dracontomelon duprreanum thuộc chi Dracontomelon thuộc họ Anacardiaceae.
Cây thuộc loại đại mộc sống lâu năm, lớn, xanh lưu niên, có thể cao 30-40m. Vỏ thân màu nâu. Cành nhỏ có cạnh và có lông nhung màu tro ; cành non mập màu hơi xám, có lông. Tán lá tròn và rậm. Lá kép hình lông chim, mọc so le, gồm 19 đến 23 lá chét hình trái xoan mọc đối, có gốc lệch, đầu nhọn. Lá ở gần gốc dài 5-6 cm, rộng 1-2 cm; lá ở ngọn lớn hơn : 10-14 cm x 3-4 cm. Hai mặt nhẵn. Lá vò ra có mùi thơm.
Cụm hoa mọc thành chùm ở ngọn hay gần ngọn, có lông mềm. Lá bắc to và thuôn hình mác. Hoa nhỏ, lưỡng tính, màu xanh lục-trắng nhạt.
Quả hạch, hình cầu đường kính khoảng 2cm, khi chín màu vàng hay vàng-cam. cùi màu trắng đục giòn có vị chua, quả chứa một hạt to, vi đắng.
Cây trổ hoa trong các tháng 5-7, ra quả các tháng 8-10. Việc ra quả tùy thuộc vào thời tiết lúc trổ hoa , nếu lúc trổ hoa trời mưa nhiều, cây sẽ cho it quả. Cây trồng có thể cho quả sau 7-8 năm, sản lượng quả tăng dần đến khi đạt 50 tuổi..
Cây sâu trắng phân bố trong vùng nhiệt đới Đông Nam Á, tại vùng Nam Trung Hoa, Thái Lan, Lào, Việt Nam mọc tự nhiên và được trồng tại những vùng cao độ đến 600m.
Tại Việt Nam, cây mọc tự nhiên và được trồng nhiều từ Lạng Sơn xuống đến vùng Quảng Nam, Cao nguyên như Ban Mê thuột Tại Hà Nội, đường Phan đình Phùng (gọi là Phố Sấu) có rất nhiều cây sấu hai bên đường.Vườn Cúc Phương có những cây sấu đại thụ, cao đến 45m.
Hoa Sen (Lotus) Hoa Súng (Water Lilies).
Hoa sen có tên khoa học là Nelumbo nucifera, thuộc họ Nelumbonaceae. Hoa sen là loại thực vật sống trong nước lâu năm. Hột sen có thể sống được rất lâu hàng trăm năm. Sen có rất nhiều công dụng, hạt sen thường để nấu chè, tâm sen nhị sen để ướp trà, làm thuốc an thần, ngó sen dùng làm gỏi, lá sen dung để gói bánh, làm thuốc an thần và thuốc trị bệnh về máu. Sen (Lotus) thường bị lầm lẩn với Súng (Waterlily). Nhìn từ tâm của hoa, sẽ nhận ra sự khác biệt vì sự hình thành của đài sen trong tâm của hoa sen
Quốc Hoa: Hoa Sen là quốc hoa của Ấn Độ, Ai Cập. Loài hoa sen đỏ là quốc hoa của Việt Nam
Ý Nghĩa: Độ lượng, từ bi, cung kính, hân hoan
Hoa SÚNG
Họ Súng (Waterlily) có tên khoa học là Nymphaeaceae) là một họ trong thực vật có hoa. Đối với một số nền văn hóa phương Tây thì nó là loài hoa biểu tượng của những người sinh vào tháng 7.
Các loài súng sinh sống ở các khu vực ao, hồ và đầm lầy, với lá và hoa nổi lên trên mặt nước. Lá súng hình tròn, các chi Nymphaea (có 35 loài ở Bắc Bán cầu) và Nuphar có lá bị khía chữ V nối từ mép lá tới phần cuống lá, nhưng chi Victoria (có hai loài) lại có lá rất to, ,hoàn toàn tròn và không bị khía. Lá đơn, mọc cách. Hoa xếp xoắn vòng: lá đài 4 – 12 (thường 5 – 6) đôi khi có màu và lớn hơn cánh hoa như ở chi Nuphar. Cánh hoa nhiều, xếp lợp (ở chi Nuphar cánh hoa rất nhỏ và có dạng vảy). Nhị nhiều, xếp xoắn. Bộ nhụy gồm 5 – 35 lá noãn, hợp nguyên lá noãn với bầu thượng, trung hoặc hạ. Tổng cộng 4-6 chi và khoảng 60-80 loài (tùy theo hệ thống phân loại), phân bố rộng khắp thế giới. Ở Việt Nam có 3 chi là Nymphaea, Euryale và Barclaya với khoảng 5 loài.
Theo phân loại của nghề làm vườn thì các loài súng bao gồm 2 thể loại chính là: súng chịu rét và súng nhiệt đới. Các loài súng chịu rét chỉ nở hoa vào ban ngày còn các loài súng nhiệt đới có thể nở hoa vào ban ngày hoặc ban đêm cũng như là nhóm duy nhất có chứa các loài súng với hoa có màu xanh lam.
Khả năng tồn tại của hạt súng cũng như hạt sen rất lâu có đến 2000 năm (nguồn nghiên cứu ở China).
Hoa súng có thể có mùi thơm (chẳng hạn loài súng thơm Nymphaea odorata). Hiện nay tồn tại khoảng vài trăm giống hoa súng khác nhau.
Họa sĩ người Pháp Claude Monet đã có một loạt các tranh vẽ về cây và hoa súng.
Quốc Hoa: Hoa Súng xanh tím là quốc hoa của Tích Lan (Sri Lanka), hoa Súng trắng là quốc hoa của Bangladesh
Hoa Sim
Tên khoa học Rhodomyrtus tomentosa, họ Myrtaceae. Thuộc loại cây hoang dã mọc ở vùng gò đồi khô cằn châu Âu, châu Á, châu Úc, nhiều nhất là vùng Đông Nam Á. Ở Philippine, người ta trồng sim để hái trái. Ở Việt Nam sim mọc ở nhiều tỉnh miền Bắc, miền Trung, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Sim hoang dã chỉ cao chừng 2m. Sim trồng làm cảnh lâu năm có thể cao hơn 5m.
Hoa sim mọc thành chùm. Trong một chùm có thể có hoa màu tím thẩm, tím hồng và màu trắng. Trái sim chín mọng có mầu tím than, vị thơm và ngọt. Trái chưa chín có mầu nâu tươi, vị chát. Trái và lá có dược tính, trị bệnh tiêu chảy và viêm nhiễm. Ở vùng gò đồi tỉnh Quảng Trị có 3 giống sim cho trái lớn nhỏ, vị ngọt nhạt khác nhau. Đặc biệt giống sim ngân ba, cho trái lớn nhất. Cây sim tính lành, có sức thu hút các loài chim bướm và những đàn ve rừng. Qua đầu mùa mưa, dưới gốc thường có nấm mối là loại nấm ngon nhất. Ở huyện đảo Phú Quốc, trái sim được chế biến thành rượu ngọt màu tím – là một đặc sản quí hiếm, rất được du khách ưa thích)
Hoa Soan (Xoan, Sầu đông, Thầu đâu)
Sầu Đông còn có nhiều tên gọi khác, Bắc gọi là cây X(S) oan, ở miền Nam gọi là Thầu Đâu. Cây Sầu Đông thân thẳng, cao lại mau lớn (15-20m hay hơn nữa) được trồng để lấy gỗ hoặc làm vị thuốc, được trồng khắp nơi trong vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới, lá cây thường xanh nhưng rụng lá vào mùa Đông hoặc gặp khi hạn hán. Nở hoa mùa nắng, màu tim tím, trăng trắng.
Hoa Soan có tên khoa học Azadirachta indica, thuộc chi Azadirachta thuộc họ Meliaceae, nguồn gốc ở Ấn, Miến Điện và Hồi.
Hoa Sói
Họ hoa Sói tên khoa học Chloranthaceae, tên đồng nghĩa: Hedyosmaceae Caruel thuộc họ Chloranthaceae, là một họ trong thưc vật có hoa. Họ này chứa 4 chi, với khoảng 75 loài cây thân thảo hay thân gỗ chủ yếu sinh sống trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới nhưng không có ở Phi châu đại lục. Tại Madagascar chỉ có chi Ascarina. Các thành viên của họ này có hương thơm và các lá thường xanh, mọc đối với mép lá khía răng cưa đặc biệt và các lá kèm bao quanh cuống lá (tương tự như các lá kèm ở các loài trong họ Rubiaceae) cùng các đốt phồng to. Hoa nhỏ, không dễ thấy, mọc thành các cụm hoa. Hoa không có cánh hoa và đôi khi các lá đài cũng không có. Hoa có thể lưỡng tính hay đơn tính, tùy theo loài. Quả là dạng quả hạch, bao gồm một lá noãn. Gỗ mềm. Hoa sói pha trộn với trà có mùi thơm đặc biệt (nhất là trà Bảo Lộc)
Hoa Sống Đời
Sống đời còn gọi là cây thuốc bỏng, lạc địa sinh căn, thổ tam thất, trường sinh, tên khoa học là Kalanchoe thuộc họ Crassulaceae có khoảng 125 loài khác nhau. Sống đời rất dể trồng và không cần nhiều nước, nhiều màu sắc khác nhau nên hay dùng như loại hoa cảnh trang trí , hoa mọc thành chùm trên đầu lá. Hoa sống đời với 2 loại hoa cánh kép và hoa cánh đơn. Hoa sống đời ở Việt Nam cũng được dùng làm thuốc Nam.
Hoa sửa
Hoa sữa, hay còn gọi là mò cua, mù cua (danh pháp khoa học: Alstonia scholaris L. R. Br.; đồng nghĩa: Echites scholaris L. Mant., Pala scholaris L. Roberty) là một loài thực vật nhiệt đới thường xanh thuộc chi Hoa sữa, họ La bố ma (Apocynaceae).
Hoa sữa có mùi thơm nếu trồng với mật độ vừa phải và nồng nặc khi trồng với mật độ cao. Ở Việt Nam, một số tỉnh như Quảng Bình, Quảng Trị , Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng , vào năm 1994, người dân đã gửi đơn “kiện” hoa sữa do nó được trồng dày đặc trên các đường phố, gây ảnh hưởng đến sức khỏe hoặc xem bài Lạng sơn khốn khổ vì hoa sữa
Cây hoa sữa không có mùa trút lá, chỉ lác đác rụng lá vàng, nên suốt năm cây luôn xanh tốt. Hoa sữa nở vào độ cuối thu đầu đông, những cụm hoa nhỏ xíu chen chúc từng đám mầu trắng phớt. Ðộ hoa nở, những ngày lặng gió, không gian xung quanh như được ướp bằng mùi hương hắc thơm ngào ngạt, một mùi hương như mơ như thực, bởi hoa nở trên cao không nhìn thấy, còn cái mùi hương nồng nàn quyến rũ ấy cứ lan xa, dưới gốc cây rơi rắc những chấm hoa nho nhỏ, như tấm voan mỏng mịn màng còn phảng phất mùi hương.
Thạch Thảo (Bắc) Cúc cánh mối (Nam)
Hoa Thạch thảo (Aster amellus L) thuộc họ Cúc (Asteraceae). Tại Việt Nam, người miền Nam hay gọi là Cúc Sao, Cúc Cánh mối, người Bắc gọi là Thạch thảo. Thạch thảo hay mọc thành bụi, nhiều bông với cánh đơn xoè rộng ra. Hoa Thạch thảo có ba màu chính: tím, hồng, trắng. Thạch thảo ngày nay được lai tạo thêm thành loại hoa cánh kép. Hoa Thạch thảo cánh mối cũng như các loại hoa cúc thường nở vào mùaThu, khi mà đa số các loại hoa khác đã tàn.
Như vậy, hoa Thạch Thảo (hay cúc Sao, cúc Nhật, cúc Cánh Mối) là 1 tên Việt của loài Aster amellus L. thuộc họ Cúc (Asteraceae), tên Anh ngữ là Aster và Pháp là Astère. Nhóm Cúc (cả trồng làm hoa hay mọc hoang) thường được gọi chung là Chrysanthemum/Aster, trong đó các loài mọc hoang thường có 1 chùm lông ở cuối mỗi hột (khi trái chín) và phát tán nhờ gió (nên mọc hoang, rải rác vào mùa xuân khi có nắng ấm ở Âu châu, hoa chỉ sống trong vài tháng!). Các loài cúc trồng thì không phát tán tự nhiên được vì hột không có lông như Vạn Thọ (marigold), cúc Giấy (zinnia). Có loại được trồng từ hột, có loại trồng bằng củ, cúc Thạch Thảo (cúc sao/Aster), và nói chung loại nhiều loại cúc thường trồng từ cây con nhảy chồi (do mọc thành bụi, hoa thường bất thụ).
Hoa Thạch Thảo ở Ấu Châu-(calluna vulgaris )
Hoa Thạch thảo Ấu châu là thuộc cây Bruyère (tiếng Pháp) hay Heather (tiếng Anh) còn gọi là Common Ling hay Briar.
Từ điển Sinh Học Anh Việt và Việt Anh, nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật dịch heather là cây Thạch nam. Erica. Trung hoa gọi là Hồng phương bách hay thạch nam. Từ điển phổ thông Pháp Việt gọi là cây thạch thảo.
Tất cả các loại thạch thảo đều trong gia đình Ericaceae có khoảng 4000 giống , có một loại hoa thạch thảo duy nhất thuộc giống Calluna, ngoài ra là loại Erica.
Loại Calluna vulgaris là loại thạch thảo thật sự (true heather), loại cây nhỏ, có hoa nhỏ hình chuông màu tím, hay hồng nhạt.
Loại Erica thuộc họ Ericaceae gồm nhiều giống khác nhau từ giống cây nhỏ mọc từng bụi nhỏ hoặc có thể là cây lớn, không thích đất có vôi (calcufuge) màu sắc có đỏ , hồng , tím , trắng, cam. Có nhiều loài rất thông dụng và có giá trị kinh tế quan trọng mà nguời ta thường biết đến như các giống việt quất (như blueberry, cranberry, huckleberry) hay đổ quyên (như azalea, rhododendron).
Hoa Thiên Điểu Strelitzia reginae
Hoa thiên điểu hay hoa chim thiên đường tê khoa học Strelitzia reginae là một loại cây thân thảo sống nhiều năm, thuộc họ Strelitziaceae Chuối rẻ quạt. Cây này có nguồn gốc từ các nước miền nam châu Phi và Châu Mỹ nhiệt đới. Tên khoa học của nó là để tưởng nhớ tới Charlotte của Mecklenburg-Strelitz, hoàng hậu của vua George III của Anh.
Thân cây cao khoảng 2 m (6,5 ft), rễ chùm, thân lá to hình bầu dục, hình kim hoặc hình trứng, có cuống dài, mọc đối xếp thành 2 hàng, dài khoảng 25–70 cm (10-28 inch), phiến lá rộng 10–30 cm (4-12 inch), cuống lá dài tới 1 m (40 inch). Các lá thường xanh này tạo thành một tán lá hình quạt. Hoa mọc phía trên tán lá, trên đỉnh của một cuống dài. Bao hoa gần như vuông góc với thân cây, làm cho bề ngoài của nó giống như đầu và mỏ chim, tạo thành chỗ đậu vững vàng cho các loài chim hút mật thụ phấn cho hoa. Hoa bao gồm ba lá đài màu da cam rực rỡ, ba cánh hoa màu lam ánh tía. Tràng hoa màu lam sẫm, nhụy màu trắng. Hai trong số ba cánh hoa hợp cùng nhau tạo thành tuyến mật hình mũi tên.
Hoa thiên Lý
Thiên lý là loại cây dây leo, ra hoa thành từng chùm tên khoa học Telosma cordata (Burn F.) Merr, thuộc họ Asclepiadacaceae. Hoa thiên lý có thể dùng để nấu canh cua, ăn với lẩu hoặc xào với các loại thịt. Thiên lý còn có tác dụng làm cảnh và cho bóng mát.
“Tóc em dài, em cài bông hoa lý,
Thấy em cười, anh để ý… anh thương!”
Hoa Thiết Mộc Lan
Thiết mộc lan hay phát lộc, phát tài hoặc phất dụ thơm (danh pháp khoa học: Dracaena fragrans, đồng nghĩa: Dracaena deremensis) là một loài thực vật có hoa trong họ Tóc tiên (Ruscaceae). Nó là loài bản địa của Tây Phi, Tanzania và Zambia nhưng hiện nay được trồng làm cây cảnh ở nhiều nơi. Dracaena fragrans có các lá mọc thành hình nơ (hoa thị), bóng và sẫm màu, phiến lá có sọc rộng nhạt màu hơn và ngả vàng ở phần trung tâm. Nó là loại cây bụi phát triển chậm với các lá có thể dài tới 1 m (3 ft) và rộng 10 cm (4 inch). Khi trồng trong đất nó có thể cao tới 6 m (20 ft) nhưng sự phát triển bị hạn chế khi trồng trong chậu. Thiết mộc lan có hoa trắng-nâu tím với hương thơm, vì thế mà trong tên gọi khoa học có từ fragrans (nghĩa là hương thơm).
Ý nghĩa : Quý phái
Hoa thủy Tiên(Daffodil)
Chi Thủy tiên Narcissus, họ Amaryllidaceae, là tên gọi để chỉ một nhóm cây dạng thân hành cứng, chủ yếu ra hoa về mùa xuân, trong tiếng Việt có tên gọi chung là thủy tiên. Có một vài loài thủy tiên ra hoa vào mùa thu. Các loài cây này chủ yếu có nguồn gốc ở khu vực Địa Trung Hải, nhưng một số loài được tìm thấy tại Trung Á và Trung Quốc. Các giống cây thủy tiên khá nhiều và nói chung chúng đã được biến đổi và mở rộng rất nhiều, với các giống mới được đưa ra từ các vườn ươm mỗi năm.
Tất cả các loài thủy tiên có bao hoa hình loa kèn trompet ở trung tâm được bao quanh bằng một vòng các cánh hoa. Các loài hoa thủy tiên truyền thống có màu vàng kim, nhưng bao hoa thường có màu tương phản. Các nhà nhân giống đã tạo ra một số loại thủy tiên với 2 hoặc 3 hàng cánh hoa, làm cho chúng trông giống như một quả cầu nhỏ màu vàng. Các giống khác có các cánh hoa xếp nếp hoặc bao hoa trung tâm được kéo dài hay nén nhỏ.
Củ và thân thủy tiên chứa chất độc Alkaloids có thể gây chóng mặt, buồn nôn, tiêu chảy, run rẩy toàn thân, hôn mê, có thể dẫn đến tử vong khi ăn phải.
Hoa của thủy tiên là loại hoa trang trí phổ biến trong ngày Tết cổ truyền Trung Hoa.
Quốc Hoa : Hoa thủy tiên là quốc hoa của Wales. Một loài , “Narcissus obvallaris“, chỉ được trồng tại một khu vực nhỏ xung quanh Tenby. Tại Wales, theo truyền thống người ta đeo hoa thủy tiên vào ngày lễ Thánh David (1 tháng 3).
Ý Nghĩa: Tính khí kiêu căng, hợm hỉnh, kiêu hảnh
Hoa thược dược DAHLIA
Thược dược còn là tên gọi của một vài loài mẫu đơn (chi Paeonia).
Thược dược có danh pháp khoa học Dahlia, họ là Asteraceae có đến 30 loài, 20,000 giống sếp vào những chi tùy hình dáng của hoa đơn, trang trí, hình cầu, chân ngỗng (anemone) , viền đăng ten (collerette), như bông súng, xương rồng…Hoa nở mùa Hè và mùa thu, có nguồn gốc ở Mexico và là quốc hoa của Mexico.
Năm 1872một hộp cây thược dược non đã được gửi từ Mexico tới Hà Lan. Chỉ có một cây sống sót sau chuyến đi, nhưng nó đã tạo ra các bông hoa đỏ ngoạn mục với các cánh hoa nhọn. Các vườn ươm đã nhân giống (hybridise) loài cây này tên khoa học là Dahlia juarezii với các loài thược dược được phát hiện sớm hơn và những giống này là tổ tiên của tất cả các loại thược dược lai ngày nay. Kể từ đó, các nhà nhân giống thực vật đã tích cực trong việc nhân giống thược dược để tạo ra hàng ngàn giống mới, cho ra các bông hoa có màu sắc lộng lẫy
Tên gọi Dahlia được đặt theo tên của một nhà thực vật học người Thụy Điển thế kỷ 18 là Anders Dahl.
Hoa thược dược cũng là loài hoa chính thức của thành phố Seattle, bang Washington.
Quốc Hoa : Mexico
Hoa Thược Dược -Mẩu Đơn Tàu
Danh pháp khoa học Paeonia là chi duy nhất trong họ Mẫu đơn Paeoniace. Các loài trong chi này có nguồn gốc ở châu Á, miền nam châu Âu và miền tây Bắc Mỹ.
Phần lớn các loài là cây thân thảo thường xanh, cao khoảng 0,5–1,5 m, nhưng một số loài là cây bụi thân gỗ cao tới 1,5–3 m. Chúng có các lá phức, xẻ thùy sâu và hoa lớn, thường có mùi thơm, có màu từ đỏ tới trắng hay vàng, hoa nở vào cuối mùa xuân hay đầu mùa hè. Trong quá khứ, các loài mẫu đơn/thược dược này đã được phân loại trong họ Mao lương (Ranunculaceae), cùng với các loài cỏ chân ngỗng và lê lư.
Hoa Mẩu Đơn (peony) là quốc hoa của Mông Cổ (Mongolia)
Hoa Ti Gôn
Hai sắc hoa Ti Gôn
Ti-gôn hay Ăng-ti-gôn là tên gọi chung để chỉ các loài dây leo thuộc chi có danh pháp khoa học: Antigonon, một chi thực vật thuộc họ Rau răm (Polygonaceae), có nguồn gốc từ Trung Mỹ.
Ti-gôn có thể bám vào giàn hoặc bất cứ vật gì ở gần để leo lên độ cao 9-12 m, là loại cây thường xanh tại các vùng khí hậu không có băng giá, lá hình trái tim kích thước khoảng 4 cm, mùa hè ra hoa thành chùm với các sắc độ từ trắng đến hồng và đỏ san hô.
Ti-gôn dễ trồng, cần nhiều ánh nắng để ra được nhiều hoa, ưa đất ẩm nhưng cũng chịu được đất khô hạn.
Tại Việt Nam loài du nhập là A. leptopus, thường được trồng leo tường rào hoặc giàn cho đẹp và lấy bóng mát.
Hoa tóc tiên
Tên phổ thông: Tóc tiên, móng lan, lan đất, hoa vũ , tên tiếng Anh: Rain lily
Tên khoa học: Zephyranthes carinata Herb Họ: Amaryllidaceae (Thủy tiên)
Tóc tiên có màu tím, hồng diễm lệ, tóc tiên vàng, trăg rực rỡ , sáng trong.
Tóc tiên được trồng từ củ. Cây dễ sống, nhảy nhiều cây con. Trồng lâu lâu rồi lại tách bớt củ ra để nhân thêm cây mới. Nếu trồng tóc tiên viền quanh bồn hoa hay men theo các lối đi, khi hoa nở hàng loạt trông rất đẹp.
Hoa Trang
Bông Trang có tên khoa học là Ixora coccinea, thuộc họ Rubiaceae (Cà Phê) là loại cây bụi rậm , có nhiều nhánh, lá xanh quanh năm hình bầu dục hơi nhọn đầu, mọc đối cao khoảng 1 đến 2m , có khi đến 3-4m, dáng bụi gọn tròn có thể xòe ra hơn chiều cao. . Hoa hợp thành cụm khá lớn ở ngọn cành, đài 4, tràng 4, ống tràng hẹp , hoa có thể ra suốt cả năm, nhưng thường là mùa hè. Bông có mật ngọt, ở Miền Nam , trước đây hay trồng gần bàn Thiên.
Miền Bắc còn gọi là hoa Mẫu đơn hay hoa Đơn. Trang có nhiều màu : Trang đỏ, Trang trắng, Trang cam, Trang thái, Trang son, Trang lùn, Trang hường, Trang đen. Giống cho hoa màu đỏ thấp cây, hoa nhỏ gọi là đơn Thái Lan, giống hoa to gọi là giống Nhật Bản. Hoa Trang có nguồn gốc nhiệt đới, đều thuộc họ cà phê (Rubiaceae). Giống hoa đỏ thường mọc dại ở vùng đồi núi trung du.
Hoa Trà (Camellia)
Chi Trà tên khoa học là Camellia là chi thực vật có hoa trong họ Trà/chè Theaceae, có nguồn gốc ở khu vực miền Nam và Đông Á, chạy dài từ Nepal đến Nhật và Indonesia. Hiện vẫn còn mâu thuẫn liên quan tới số lượng loài đang tồn tại, với khoảng 100–250 loài được chấp nhận tùy theo hệ thống phân loại.
Các loài trong chi này là các cây bụi hay cây thân gỗ nhỏ và thường xanh, cao khoảng 2–20 m. Lá sắp xếp theo kiểu so le, lá đơn, dày, mép lá có khía, thông thường có mặt ngoài bóng láng, dài 3–17 cm. Hoa lớn và dễ thấy, đường kính 1–12 cm, với 5–9 cánh hoa; có màu từ trắng tới hồng hay đỏ, còn màu vàng có ở một số loài. Quả là loại quả nang khô được chia thành 1–5 ngăn, mỗi ngăn chứa 1–8 hạt.
Các loài trong chi này nói chung thích nghi với các loại đất chua, và không thích hợp với các loại đất giàu vôi. Phần lớn các loài đòi hỏi có lượng mưa lớn và không chịu được khô hạn. Có nhiều giống được trồng làm cây cảnh vì có hoa đẹp; khoảng 3.000 giống và thứ lai ghép đã được chọn lọc, nhiều giống có hoa kép, như trong thư viện ảnh dưới đây. Camellia japonica (tên thông thường trà mi, trà Nhật Bản) là loài nổi tiếng nhất trong nuôi trồng cây cảnh, với trên 2.000 giống có tên gọi; kế tiếp là C. reticulata với trên 400 giống có tên gọi, và C. sasanqua với trên 300 giống có tên gọi.
Giống trà/chè (Camellia sinensis) là loài cây có giá trị thương mại chính do trà được sản xuất từ lá của nó. Dầu trà, một loại gia vị ngọt và dầu ăn được sản xuất bằng cách ép hạt của cây chè Camellia sinensis hay trà dầu (Camellia oleifera).
Các loại cây lai ghép có C. × hiemalis (C. japonica × C. sasanqua) và C. × williamsii (C. japonica × C. salouenensis). Chúng được giới chơi cây cảnh đánh giá cao vì ra hoa sớm, thông thường trong số các loại hoa đầu tiên xuất hiện vào cuối mùa đông. Các trận băng giá muộn có thể làm tổn thương hoa. Các loài cây này có tốc độ tăng trưởng chậm. Thông thường chúng chỉ cao thêm khoảng 30 cm mỗi năm cho đến khi trưởng thành mặc dù điều này phụ thuộc vào từng loài và từng khu vực.
Camellia japonica là loài hoa biểu tượng của bang Alabama, Hoa Kỳ cũng như của thành phố Trùng Khánh, Trung Quốc.
Ý nghĩa : Đề Phòng, dè dặt
Hoa Trâm Ổi, Ổi, Ngủ Sắc
Cây bông ổi tên khoa học Lantana camara, còn gọi là Trâm ổi, cây hoa ngũ sắc, trâm hôi, cây hoa cứt lợn, tứ thời, tứ quý là một loài thực vật thuộc họ Verbenaceae . Bông ổi là loài cây nhỏ, nhiều cành ngang, có lông và gai nhỏ. Lá hình bầu dục, nhọn, mặt lá xù xì, mép lá có răng cưa; mặt trên có lông ngắn cứng, mặt dưới lông mềm hơn; phiến lá dài 3–9 cm, rộng 3–6 cm; cuống lá ngắn, phía trên cuống có dìa. Hoa không cuống, nhiều giống màu trắng, vàng, vàng cam, tím hay đỏ mọc thành bông dạng hình cầu; hoa có lá bắc hình mũi giáo. Đài hình chuông, có hai môi. Tràng hình ống có bốn thùy không đều. Quả hình cầu, màu đỏ nằm trong lá đài, chứa hai hạch cứng, xù xì.
Hoa trâm ổi , có mùi thơm như trái ổi chín, có người không thích cái mùi nồng nầy nên còn gọi là hoa cứt lợn. Đây là loại hoa có nhiều màu sắc, nở quanh năm góp phần làm đẹp sân nhà đường phố, còn được gọi là hoa ngũ sắc hoặc hoa tứ quý. Hoa xuất thân từ những xứ Trung Mỹ rồi phát triển nhanh chóng qua các xứ nhiệt đới, dễ sống trong nhiệt độ nóng, khô hoặc ẩm, và có lẽ do điều kiện sống quá dễ dàng mà ở VN hầu như nó không được để ý tới. Ở Mỹ, Úc loại hoa nầy cũng được bày bán vào đầu Xuân ở chợ.
Hoa Trinh Nữ-Mimosa
Mimosalis, một trong 400 giống cây thuôc loại bụi cây hay cây gia vị, thuôc họ Fabaceae. Có hai loài chinh thức, một là loài Mimosa pudica, loái này lá khép lại khi bị đụng đến hoặc bị nắng gắt , có nguồn gốc ở Trung, Nam Mỹ nhưng được trồng nhiều nơi vì đặc điểm của nó. Nhiều nơi nhất là ở vùng nhiệt đới mọc tràn lan biến thành cỏ dại, nhất là loại bò trên mặt đất. Loài khác là Mimosa tenuiflora, được biết có chứa chất thuốc phiện Dimethyltryptamine (DMT) tìm thấy trong vỏ của rể loại cây này. Hoa màu trắng có hương thơm, cụm hoa hình trụ, lá tựa như lá dương sỉ, mọc dài đến 5 cm. Cây có thể cao đến 4m.
Một loại hoa Mimosa đặc biệt, tên khoa học là Acacia pycnantha, cũng thuộc họ Fabaceae, lá xanh, bông vàng, hình cầu, kết thành chùm ( là loại hoa mimosa ở Việt Nam), gọi là Golden Wattle và là quốc hoa của Úc Đại Lợi (Australia)
Quốc Hoa: hoa Mimosa chùm vàng (Golden Wattle) là quốc hoa của Úc Đại Lợi (Australia)
Ý nghĩa : tình yêu vừa chớm nở, e ấp, kín đáo
Hoa Trúc Đào- Nerium Indicum
Trúc đào tên khoa học là Nerium Indicum Mill, giống Nerium, còn gọi là Nerium Oleander thuộc họ Apocynaceae, loại thân cây hoa nhỏ, cao từ 2 đến 6m , lá xanh đậm, dày và dài từ 5-21cm, mọc chùm đôi, ba, hoa nhiều màu sắc rực rở đỏ, hồng, vàng , trắng , có nguồn gốc ở Mauritania, Morocco, và Portugal và đươc phát hiện nhiều nơi trên thế giới.
Trúc Đào là loại cây độc từ rễ, thân, lá cho đến hoa, và đặc biệt là mủ trúc đào (chất độc Oleandrin, Nerin) Người ta có thể bị ngộ độc do chạm vào cây hoặc nuốt phải. Nhẹ thì gây buồn nôn, ói mửa, tiêu chảy, rối loạn nhịp tim, nặng thì có thể mất kiểm soát cơ thể, hôn mê. Nếu không xử lý kịp thời sẽ dẫn đến tử vong. Trúc Đào thường được trồng trang trí dọc lề đường, trong công viên và phát triển tốt nơi có khí hậu ấm, nhiều nước trên thế giới cấm trồng nơi công cộng và khuyến cáo dân chúng về tính cách độc hại của Trúc Đào.
Ờ Việt Nam , Trúc đào được thấy trồng nhiều nơi ở Hà Nội.
Ý Nghĩa: cảnh cáo điều tai hại
Hoa tuyết cầu (Snow Ball)
Hoa này có tên khoa học là Viburnum opulus Roseum, chi Viburnum thuộc họ Adoxaceae, có nguồn gốc Á Châu v à Âu Châu. Hình dạng thân cây gỗ bụi, nhỏ, dáng tròn, tàn khoảng 2.5 m, cao 3m, mùa thu lá rụng, hoa là một quả cầu biến từ xanh sang trắng muốt, trước khi tàn đổi sang hồng nhạt , hoa phủ toàn cây rất đẹp, thích vùng có ánh nắng, đất không úng nước, thoáng không cần nước nhiều, trổ hoa đầu Xuân đến giữa Xuân.
Hoa Tử Đằng-Wisteria
Chi Tử Đằng Wisteria l à chi th ực v ật c ó hoa thu ộc h ọ Đ ậu Fabaceae, gồm 10 loài dây leo cây có nguồn gốc phía Đông Mỹ (giống Wisteria frutescens), Trung Quốc giống (Wisteria sinensis), Hàn Quốc, and Nhật (Wisteria floribunda). Tử Đằng Nhật nở vào dịp giữa tháng 4 đến giữa tháng 5, chỉ nở trong 1 đến 2 tuần rồi tàn. Các giống hoa Wisteria có đủ màu, từ tím, hồng, xanh, vàng cho đến trắng. Dây Tử Đằng có thể leo cao đến 20m và trải ngang ra đến 10m, thích hợp với đất ẩm, nhưng thông thoáng.
Ý Nghĩa : Hoa Tử đằng Fuji, theo quan điểm của người Nhật có nghĩa là tình yêu bất diệt. Nếu đem tặng ai đó hoa tử đằng màu tím thì có nghĩa là “Tôi chờ đợi sự đáp ứng của em!”
Hoa Tường Vi-Hoa Hồng Leo
Hoa hồng leo
Tên khoa học: Rosa spp, Họ Rosaceae có hơn 100 giống được trồng khắp nơi trên thế giới. Thân thực vật ra hoa , có nhiều gai nhọn. Có một số loại hoa hồng có khả năng leo như hồng tường vi, hồng dây hoa trắng nhỏ thường thấy ở Việt Nam.
Hoa hồng thích ứng với khí hậu nhưng phát triển tốt ở vùng không có ẩm độ và nhiệt độ cao. Hoa hồng là loài hoa được ưa chuộng khắp nơi và được lai giống để tìm ra màu sắc đặc biệt
Hoa tường vi, tên khoa học là “Rosa multiflora thunb”, là một giống hoa hồng leo (climbing rose) của họ Rosaceae.
Quốc hoa : Hoa hồng là quốc hoa của Anh quốc, Mỹ, Ý, Turkey ; hoa Hồng đỏ có tên khoa học là “Rosa Gallica L” cũng là quốc hoa của Iraq và Bulgaria.
Ý nghĩa : Tương kính, yêu thương, ngưỡng mộ
Hoa Uất Kim Hương (Tulip)
Đây là loài hoa sống lâu năm trồng bằng củ, giống Tulipa gồm có 109 loại thuộc họ Liliaceae. giống Tulip phát hiện thiên nhiên khắp nơi từ miền Nam Âu Châu, Bắc Phi Châu, Iran đến Tây Bắc Trung Quốc. Có nhiều giống, lai giống được trồng trong vườn, trong chậu, trồng để bán.
Tùy loại hoa tulip có thể cao từ 10cm đến 70cm. Chỉ có một hoa trổ trên đầu một cọng cây hoa, nhưng cũng có một vài loại đặc biệt có hơn một hoa như loài Tulipa turkestanica
Hoa Tulip có nhiều màu, ngoại trừ màu xanh (blue) thực sự, có một vài loại có màu tím xanh. Khi nói đến Tulip người ta hay nghỉ đến xứ Hoà Lan-Hà Lan- vì người Hoà Lan rất thích và nổi tiếng về cách trồng Tulip) nhưng thật sự Tulip đưọc trồng kỹ nghệ bắt đầu thời đế quốc Ottoman (area includes now Iran và Turkey). Sau đó được truyền bá trồng khắp nơi Ngày nay hàng năm, ngày hội Tulip được tổ chức nhiều nơi trên thế giới, đặt biệt nơi có người Hoà Lan lập nghiệp như Albany (New York); Ottawa (Ontario); Gatineau (Quebec); Montreal (Quebec); Holland (Michigan); Lehi (Utah); Orange City (Iowa); Pella (Iowa); Mount Vernon (Washington); and Woodburn (Oregon), and in other countries such as Australia (Melbourne), India và Anh Quốc.
Củ cây có chất Tulipene, ăn phải sẽ gây chóng mặt, buồn nôn.
Quốc Hoa: Hoa Uất Kim hương là quốc hoa của Ba Tư (Iran), A Phú Hản (Afghanistan) và Hung Gia Lợi (Hungary), Thổ ( Turkey) và Hòa Lan.
Ý Nghĩa: Tỏ bày tình yêu
Hoa Ý Lan Zantedeschia aethiopica
Zantedeschia aethiopica còn có tên là Lily of the Nile, Easter lily, Arum lily, Varkoor ( tiếng gọi của người Nam Phi có nghỉa là lổ tai heo-an Afrikaans name meaning pig’s ear), là một giống thuộc họ Araceae có nguồn gốc ở vùng Nam Phi Châu. Loài này đã được tự nhiên hóa (naturalised) ở Úc, đặc biệt Tây Úc ở những vùng mà mực nước ngầm theo chu kỳ lên cao, đất có cát. Ý Lan được xem như loài cỏ có chất độc và gây hại.
Là loại thuộc dạng thân cỏ sống lâu năm, xanh nếu có mưa và nhiệt độ ấm, lá rụng nếu bị khô hạn. Thích hợp nơi gần ao, hồ, bờ sông rạch, có thể mọc cao đến 0.6-1m, chùm lá rộng xanh đậm có thể dài đến 45cm. Hoa to nở suốt năm trừ mùa đông, với mo hoa trắng tinh cao đến 25cm và bông mo vàng có thể dài đến 90 mm
Zantedeschia có chứa đựng chất calcium oxalate, nếu ăn sống có thể gây ra cảm giác đốt cháy nặng và sưng môi, lưởi, cuống họng, đau bụng và ỉa chảy.
Loại hoa quý hiếm
Lunaria annua (Cây Đồng Tiền)
Lunaria Annua –Cây Đồng Tiền thuộc họ Brassicacease gồm có hai giống mà thôi, Lunaria Annua and Lunaria Rediviva. Tiếng Anh có nhiều tên gọi như Honesty, Silver dollar, Penny flower, Money plant, Moneywort, Moonwort
Loại hoa này có nguồn gốc miền Trung và Nam Châu Âu, thích ứng với nhiếu vùng khí hậu, loại hoa trang trí trong vườn.
Đây là loại cây chỉ sống từng năm có khi hai năm, hoa màu tím, nhánh có thể cao đến 1m, vỏ có đựng hạt bên trong , lúc nhỏ màu xanh, khi chin và khô thì có màu bạc rất đẹp, được dùng để trưng với các loài hoa khô trang trí.
Ở Việt Nam còn có một loại hoa cũng gọi là Đồng tiến Gerbera – hoa này là một loài hoa Cúc thuộc họ Asteraceae (được đặt theo tên nhà tự nhiên học người Đức Traugott Gerber). Còn gọi là cúc Phi Châu (African Daisy) Một loài hoa rất phổ biến, được dùng để trang trí trong những khu vườn do màu sắc rực rỡ đỏ, hồng, trắng,cam.
Ý nghĩa : Hoa Đồng tiền Việt Nam may mắn, sôi nổi nhiệt tình, tin tưởng.
Rafflesia arnoldii
Rafflesia arnoldii là một thành viên thuộc họ Rafflesia, nổi tiếng với khả năng tạo ra những bông hoa đơn lớn nhất thế giới. Loài hoa này chỉ xuất hiện ở những khu rừng nhiệt đới Sumatra và Borneo ở Nam Dương (Indonesia).
Theo Guiness book of records, sách ghi những kỹ lục trên thế giới, đây là loại hoa lớn nhất thế giới với đường kính khoảng .7m, dày 1.9cm và cân nặng . Đặc biệt Raflesia arnoldii là loài cây hoa ký sinh không có lá, rể hay cuống hoa.
Cây hoa không có diệp lục tố, sống bằng cách hút chất dinh dưởng của dây bị kí sinh như Tetrastigma thường bò trên mặt đất trong rừng nhiệt đới. Sauk hi hoa nở một tuần thì tàn, cây lại nằm ẩn trong than dây bị ký sinh. Hoa có mùi thối kỳ lạ.
Quốc Hoa : Hoa Rafflesia là một trong ba quốc hoa của Indonesia, bên cạnh Moon Orchids và Dạ lý hương Ả Rập
Drosera capensis-Gọng Vó
Cây Gọng Vó, tên khoa học là Drosera capensis, thuộc họ Droseraceae có nguồn gốc ở vùng Mủi (Cape) ở Nam Phi (South Africa). Họ Droseraceae có hơn 170 loài cây ăn thịt phổ biến trên thế giới, được tìm thấy ở khắp nơi, trên hầu hết các châu lục (ngoại trừ nam cực).
Cây Gọng Vó sống trong các đầm lầy hay các bãi than bùn. Lá có rất nhiều lông tuyến (tentacles) có thể mọc dài đến 15cm, ngang 1cm , ở đầu lông tuyến này có một chất dính lỏng giống như một giọt nước giúp thu hút các loài côn trùng. Nếu như một con côn trùng bị thu hút bởi giọt nước sáng lấp lánh dưới ánh nắng, đậu lên chiếc lá và chạm vào các lông tuyến, các lông tuyến này lập tức co lại, bao phủ và làm cho con mồi bất động.
Con mồi không ngừng kháng cự và sẽ chết trong vòng 15 phút do kiệt sức và do các chất nhầy bao quanh khiến chúng bị ngạt thở. Những chiếc lông tuyến này bắt đầu tiết ra chất tiêu hoá và con mồi sẽ bị ăn hoàn toàn trong vòng 1 đến 2 ngày. Trong thời gian đó, những chiếc lông tuyến sẽ không thực hiện bất kỳ kích thích hoá học nào khác và trở lại vị trí ban đầu của chúng. Sau khi nhấm nháp con mồi, những phần còn lại không được tiêu hoá của con mồi sẽ bị những luồng gió thổi bay.
Venus Flytrap- Hoa bẩy ruồi
Venus Flytrap tên khoa học Dionaea muscipula thuộc họ Droseraceae, loài thực vật ăn thịt , hoa bắt và tiêu hóa mồi phần đông là côn trùng và loài nhện. Trên mặt bẩy lá có lông và khi lông này bị đụng đến thì bẩy sập trong vòng 20 giây, nhưng đặc điểm là có thể phân biệt con mồi sống và những gì không phải là mồi như giọt nước rơi. Tốc độ mở đóng bẩy tùy thuộc ánh sang, ẩm độ, kích thước con mồi, điều kiện được trồng và là dấu hiệu biểu lộ sức lành mạnh của cây. Hoa Venus Flytrap không tùy thuộc nhiều về ẩm độ như những cây ăn thịt khác như các loài Nepenthes, Cephalotus, Heliamphora, và vài loại Drosera.
Amorphophallus titanum
Amorphophallus titanum chỉ có một bông hoa khổng lồ duy nhất nổi lên trên mặt đất, hoa có thể cao đến 3m, lá hoa đến 6m. Cùng với đặc điểm hình dạng kì dị này là một mùi hôi thối không thể tả nổi được tỏa ra khiến nó trở thành một trong những loài hoa quý hiếm và kì lạ bậc nhất trên hành tinh này, hoa tỏa nhiệt (có thể lên đến 37 độ) lúc trổ hoa. Có nguồn gốc ở rừng nhiệt đới ở đảo Borneo, Indonesia. Đặc biệt hoa chỉ trổ vài lần trong suốt khoảng thời gian 40 năm!
Hoa nở trong khu bảo tồn rừng nhiệt đới Princess of Wales Conservatory, England , cây được trưng bày tại nhà kiếng nhiệt đới (tropical glasshouse) trong Vườn Thảo Mộc (botanical garden) in Melbourne, Australia
Dracuunculus vulgaris
Dracuunculus vulgaris, cây chân bê thuộc họ Araceae, thân cây thảo có ít lá (2 đến 4) có khi cao đến 2m , l á to có cụm bông hoa màu tím mọc thẳng ở giữa hoa có một nhụy thanh mảnh màu sẫm tím nhô ra có khi đến 1m và bao quanh là những lá xanh sọc trắng rẩt ngoạn mục..
Hoa rồng (Dracunculus vulgaris) có màu đỏ tía hay màu tím. Lá th ường ch ết khi hoa trổ . Loài hoa này toả mùi hương thối rất khó chịu, thiên nhiên tạo ra để hấp dẩn ruồi tới để thụ phấn. Loài này thích đất ẩm và phì nhiêu có nguồn gốc ở vùng Balkans, dàn ra đến Hy Lap, Crete và Aegean Islands .Dracuunculus vulgaris được đưa vào Mỹ và phát hiện ở nhiều tiểu bang như Oregon, California, Camano Island, Washington và Tennessee cũng như ở Puerto Rico.
Nepenthes Tanax
Nepenthes, là loài thực vật ăn thịt tìm thấy ở Á Châu, thuộc họ Nepenthaceae. Động vật bò trong hoa bị rớt vào bẩy có nước bị chết chìm. Ở Ấn Độ có loài ăn cả chuột con. Nepenthes Tenax đặc biệt có thể cao đến 1m, chiều dài (cao) của bầu hoa (bẩy) có đến 15cm so với những loài khác trong họ.
Nepenthes được gọi là loài cây Nấp Ấm , tiếng Anh là Tropical Pitcher Plants.
Tacca chantrieri
Loại hoa dơi , loài thực vật có hoa , tên khoa học Tacca chantrieri thuộc họ Dioscoreaceae , khác thường vì hoa màu đen hay nâu đậm giống hình dạng của dơi, bề ngang có thể đến 30cm và có râu mọc dài đến 70cm cũng màu xám đen. Loài này mọc hoang vùng rừng nhiệt đới ở tỉnh Hồ Nam (Yunnan China), được phát hiện Mã Lai, Ân Độ, Đông Á thích hợp đẩt thoát nước và ẩm độ cao nơi có bóng mát, không chịu được khí hậu lạnh. Người Trung Quốc dùng rể cây này trị chứng cao máu, phỏng (bỏng), viêm gan và lở loét dạ dày.
Y Nguyên Mai Trân Mùa Xuân-Thu 2012.