(TNO) Nhà thơ, soạn giả cải lương Kiên Giang (Hà Huy Hà) vừa bị một cơn đột quỵ và lâm vào tình trạng hôn mê sâu tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương (TP.HM).
Nhà thơ Kiên Giang - Ảnh: Đào Trung Phụng |
Chị Ngọc Thùy, con gái lớn của nhà thơ, cho biết do đọc được trên báo có tin một bé sơ sinh bị bỏ rơi ngoài đường, nhà thơ đã gom chút tiền hưu, đón xe từ TP.Long Xuyên (nơi ông an dưỡng cuối đời) lên TP.HCM để giúp đỡ cho trường hợp này. Tuy nhiên, vừa tới TP.HCM, chưa kịp thực hiện ý định thì ông bị đột quỵ vào xế trưa 28.10. Người nhà của cố nhà báo Phong Vân đã đưa ông vào cấp cứu tại Bệnh viện Quận 8, sau đó chuyển ông qua Bệnh viện Nguyễn Tri Phương (Q.5), và từ đó đến nay ông chưa tỉnh lại.
Nhà thơ Kiên Giang tên thật là Trương Khương Trinh, sinh ngày 17.2.1929 tại làng Đông Thái, huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá. Năm 17 tuổi (1946), đang là học sinh, Trương Khương Trinh đã có dịp tiếp xúc và gần gũi với nhà thơ Nguyễn Bính tại Rạch Giá và tôn Nguyễn Bính là thầy dạy làm thơ của mình (bài thơ Tiền và lá của ông chịu ảnh hưởng rõ nét của Nguyễn Bính). Sau này, ông làm thơ lấy bút danh là Kiên Giang (bài thơ nổi tiếng của Kiên Giang là Hoa trắng thôi cài lên áo tím được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ nhạc).
Ông còn là một soạn giả cải lương nổi tiếng với bút danh Hà Huy Hà, cùng thời với Năm Châu, Viễn Châu và được coi là thầy của cặp soạn giả Hà Triều - Hoa Phượng. Những vở cải lương mang dấu ấn Hà Huy Hà là Áo cưới trước cổng chùa, Người vợ không bao giờ cưới (vở này đã đưa cô đào Thanh Nga đoạt giải Thanh Tâm năm 1958). Ngoài làm thơ, soạn kịch bản cải lương, Kiên Giang còn là ký giả kịch trường của nhiều tờ báo lớn ở Sài Gòn trước 1975 như: Tiếng chuông, Tiếng dội, Lập trường, Điện tín…Ông từng bị tù vì là một trong những người tổ chức Ngày ký giả ăn mày, phản đối Luật báo chí sửa đổi của chính quyền Sài Gòn năm 1974.
Chúng tôi sẽ tiếp tục thông tin đến bạn đọc tình trạng sức khỏe của nhà thơ Kiên Giang.
Hoa trắng thôi cài trên áo
tím
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa cháy quê hương Khói bom che lấp chân trời cũ Che khuất người thương nóc giáo đường
Mười năm trước em còn đi học
Áo tím điểm tô đời nữ sinh Hoa trắng cài duyên trên áo tím Em là cô gái tuổi băng trinh
Quen biết nhau qua tình lối xóm
Cổng trường đối diện ngó lầu chuông Mỗi lần chúa nhật em xem lễ Anh học bài ôn trước cổng trường
Thuở ấy anh hiền và nhát quá
Nép mình bên gác thánh lầu chuông Để nghe khe khẽ lời em nguyện Thơ thẩn chờ em trước thánh đường
Mỗi lần tan lễ, chuông ngừng đổ
Hai bóng cùng đi một lối về E lệ em cầu kinh nho nhỏ Thẹn thùng, anh đứng lại không đi
Sau mười năm lẻ anh thôi học
Nức nở chuông trường buổi biệt ly Rộn rã từng hồi, chuông xóm đạo Tiễn nàng áo tím bước vu quy
Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ
Chiếc áo tang liệm khối tuyệt tình! Hoa trắng thôi cài trên áo tím Vẫn còn ấp ủ mộng băng trinh
Em lên xe cưới về quê chồng
Dù cách đò ngang cách mấy sông Vẫn nhớ bóng vang thời áo tím Nên tình thơ ủ kín trong lòng
Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương Giữ tà áo tím, màu hoa trắng Giữ cả trường xưa, nóc giáo đường
Giặc chiếm lầu chuông xây gác súng
Súng gầm rung đổ gạch nhà thờ Anh gom gạch đổ, xây tường lủng Chiếm lại lầu chuông, giết kẻ thù
Nhưng rồi người bạn trang lứa ấy
Đã chết hiên ngang dưới bóng cờ Chuông đổ ngân vang lời tiễn biệt Tiễn anh ra khỏi cổng nhà thờ
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Mà cài trên nắp áo quan tài Điểm tô công trận bằng hoa trắng Hoa tuổi học trò, mờ thắm tươi
Xe tang đã khuất nẻo đời
Chuông nhà thờ khóc đưa người ngàn thu Từ đây tóc rũ khăn sô Em cài hoa trắng lên mồ người xưa.
Tiền và lá
Ngày xưa, hớt tóc "miểng rùa”
Ngây thơ, mẹ bắt đeo "bùa cầu ông". Đôi ta cùng học vỡ lòng, Dắt tay qua những cánh đồng lúa xanh. Đôi nhà cũng một sắc tranh, Chia nhau từ một trái chanh, trái đào . Đêm vàng soi bóng trăng cao, Ngồi bên bờ giếng đếm sao trên trời . Anh moi đất nắn "tượng người", Em thơ thẩn nhặt lá rơi làm tiền. Mỗi ngày chợ họp mười phiên, Anh đem "người đất" đổi tiền "lá rơi". Nào ngờ mai mỉa cho tôi, Lớn lên em đã bị người ta mua.
Kiếp tôi là kiếp làm thơ,
Vốn riêng chỉ có muôn mùa lá rơi. Tiền không là lá em ơi! Tiền là giấy bạc của đời in ra. Người ta giấy bạc đầy nhà, Cho nên mới được gọi là chồng em.
Bây giờ những buổi chiều êm,
Anh gom lá đốt, khói lên tận trời
Người mua đã bị mua rồi,
Chợ đời họp một mình tôi vui gì!
Kiên
Giang
|
Hà Đình Nguyên
>> Những bóng hồng trong thơ nhạc - Kỳ 6: Hoa trắng thôi cài
trên áo tím
>> Nửa thế kỷ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím”
>> Hoa trắng thôi cài lên áo tím" 50 tuổi
Ông (hưởng thọ 87 tuổi) tên thật là Trương Khương Trinh, gia đình cho biết tuy nhiều tài liệu ghi ông sinh năm 1929 nhưng chính xác ngày sinh của ông là 17-2-1927 tại làng Đông Thái, huyện An Biên, Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Khi bước chân vào văn đàn, ông đã lấy tên quê hương để đặt bút hiệu cho mình là Kiên Giang.
Thưở sinh thời, nhà thơ Kiên Giang từng tâm sự khi vừa hết lớp 12 ông tham gia kháng chiến chống Pháp, làm báo cho tờ Tiếng súng chống địch ở chiến khu 9. Khoảng năm 1955, ông về Sài Gòn viết cho các tờ Dân chủ mới, Tiếng chuông, Dân ta, Dân tiến…
Thơ của Kiên Giang được nhiều người yêu mến và thuộc nằm lòng cho đến ngày nay. Ông nổi tiếng với bài Hoa trắng thôi cài trên áo tím, lấy cảm hứng từ mối tình đầu sâu đậm, trong sáng với cô nữ sinh xóm Đạo vùng đất Tây đô. Bài thơ này sau đó được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ nhạc và rất được công chúng yêu thích.
Ông đã xuất bản các tập thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím, Lúa sạ miền Nam, Quê hương thơ ấu…
Ngoài làm thơ, làm báo, Kiên Giang còn viết nhiều tuồng cải lương rất nổi tiếng với bút danh Hà Huy Hà như: Người đẹp bán tơ, Người vợ không bao giờ cưới, Ngưu Lang Chức Nữ, Áo cưới trước cổng chùa, Phấn lá men rừng, Dòng nước ngược, Trương Chi Mỵ Nương…
Ông được xem là soạn giả nổi tiếng cùng thời với NSND Năm Châu, NSND Viễn Châu, Quy Sắc…, và là thầy của cặp đôi soạn giả Hà Triều - Hoa Phượng. Vở Người vợ không bao giờ cưới của soạn giả Kiên Giang - Hà Huy Hà thời đó đã giúp NSƯT Thanh Nga đoạt giải Thanh Tâm danh giá và trở thành ngôi sao cải lương sáng rực thời bấy giờ.
Soạn giả Kiên Giang - Hà Huy Hà cũng viết rất nhiều bài tân cổ giao duyên như: Trái gùi Bến Cát, Đội gạo đường xa, Ngồi trâu thổi sáo, Ánh đèn soi ếch, Trái tim cò trắng, Cô gái miền Tây…
Sau 1975, nhà thơ Kiên Giang làm phó đoàn cải lương Thanh Nga, làm việc tại phòng nghệ thuật sân khấu. Ông cũng từng là ủy viên ban chấp hành Hội sân khấu TP.HCM qua ba nhiệm kỳ.
Gia đình sẽ tổ chức khâm liệm nhà thơ - soạn giả Kiên Giang vào lúc 5g ngày 1-11, linh cữu của ông sẽ được quàn tại nhà tang lễ Thành phố số 25, Lê Quý Đôn. Lễ động quan lúc 7g ngày 3-11, sau đó đưa đi an táng tại nghĩa trang Bình Dương (Chánh Phú Hòa, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương).
>> Nửa thế kỷ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím”
>> Hoa trắng thôi cài lên áo tím" 50 tuổi
TTO - Sau một cơn đột quỵ, nhà thơ Kiên Giang nổi tiếng với bài Hoa trắng thôi cài trên áo tím đã trút hơi thở cuối cùng tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương (TP.HCM) lúc 6g30 sáng ngày 31-10.
Soạn giả Kiên Giang và nghệ sĩ Phượng Liên, tháng 3- năm 2014 - Ảnh: T.T.D |
Nhà thơ - soạn giả Kiên Giang - Hà Huy Hà trong chương trình thơ nhạc mừng thượng thọ 81 tuổi của ông tại Trung tâm văn hóa Phú Nhuận, TP.HCM, năm 2008 - Ảnh tư liệu Tuổi Trẻ |
Nhà thơ - soạn giả Kiên Giang - Ảnh tư liệu |
Thưở sinh thời, nhà thơ Kiên Giang từng tâm sự khi vừa hết lớp 12 ông tham gia kháng chiến chống Pháp, làm báo cho tờ Tiếng súng chống địch ở chiến khu 9. Khoảng năm 1955, ông về Sài Gòn viết cho các tờ Dân chủ mới, Tiếng chuông, Dân ta, Dân tiến…
Thơ của Kiên Giang được nhiều người yêu mến và thuộc nằm lòng cho đến ngày nay. Ông nổi tiếng với bài Hoa trắng thôi cài trên áo tím, lấy cảm hứng từ mối tình đầu sâu đậm, trong sáng với cô nữ sinh xóm Đạo vùng đất Tây đô. Bài thơ này sau đó được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ nhạc và rất được công chúng yêu thích.
Ông đã xuất bản các tập thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím, Lúa sạ miền Nam, Quê hương thơ ấu…
Ngoài làm thơ, làm báo, Kiên Giang còn viết nhiều tuồng cải lương rất nổi tiếng với bút danh Hà Huy Hà như: Người đẹp bán tơ, Người vợ không bao giờ cưới, Ngưu Lang Chức Nữ, Áo cưới trước cổng chùa, Phấn lá men rừng, Dòng nước ngược, Trương Chi Mỵ Nương…
Ông được xem là soạn giả nổi tiếng cùng thời với NSND Năm Châu, NSND Viễn Châu, Quy Sắc…, và là thầy của cặp đôi soạn giả Hà Triều - Hoa Phượng. Vở Người vợ không bao giờ cưới của soạn giả Kiên Giang - Hà Huy Hà thời đó đã giúp NSƯT Thanh Nga đoạt giải Thanh Tâm danh giá và trở thành ngôi sao cải lương sáng rực thời bấy giờ.
Soạn giả Kiên Giang - Hà Huy Hà cũng viết rất nhiều bài tân cổ giao duyên như: Trái gùi Bến Cát, Đội gạo đường xa, Ngồi trâu thổi sáo, Ánh đèn soi ếch, Trái tim cò trắng, Cô gái miền Tây…
Sau 1975, nhà thơ Kiên Giang làm phó đoàn cải lương Thanh Nga, làm việc tại phòng nghệ thuật sân khấu. Ông cũng từng là ủy viên ban chấp hành Hội sân khấu TP.HCM qua ba nhiệm kỳ.
Gia đình sẽ tổ chức khâm liệm nhà thơ - soạn giả Kiên Giang vào lúc 5g ngày 1-11, linh cữu của ông sẽ được quàn tại nhà tang lễ Thành phố số 25, Lê Quý Đôn. Lễ động quan lúc 7g ngày 3-11, sau đó đưa đi an táng tại nghĩa trang Bình Dương (Chánh Phú Hòa, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương).
Nhà thơ - soạn giả Kiên Giang - Ảnh: Đào Trung Phụng |
LINH ĐOAN
Vĩnh biệt nhà thơ Kiên Giang
Nhà thơ Kiên Giang, tên thật Trương Khương Trinh sinh ngày 17/2/1929 tại Kiên Giang đã từ trần lúc 6h30 sáng nay (31/10) tại BV Nguyễn Tri Phương sau nhiều ngày hôn mê sâu vì đột quỵ.
Khi tôi xuất hiện trên văn đàn với tư cách một nhà thơ, lúc ấy, nhà thơ Kiên Giang đã hoạt động hẳn bên sân khấu. Rồi tình cờ một buổi sáng nọ, Kiên Giang đã tặng tôi tập thơ tuyển Hoa trắng thôi cài trên áo tím (NXB Văn Học), in theo khổ 20x 26cm. Tôi cảm động hết sức vì đã tìm lại được ở đó nguyên vẹn những cảm xúc của tuổi nhỏ qua những tập thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím, Quê hương thơ ấu, Lúa sạ miền Nam… do NXB Phù Sa in từ thập niên 1960 mà tôi đã từng đọc.
Có những nhà thơ đã để lại những vần thơ mà thế hệ sau cứ ngỡ là ca dao. Đó là những câu lục bát của Á Nam Trần Tuấn Khải, Tản Đà, Bàng Bá Lân… rồi bây giờ là Kiên Giang. Ít ai ngờ rằng, những câu hát quen thuộc trong trí nhớ nhiều thế hệ như: “Đói lòng ăn nửa trái sim / Uống lưng bát nước đi tìm người thương” hoặc “Ong bầu đậu đọt mù u / Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn”… chính là thơ của Kiên Giang.
Nhà văn Sơn Nam từng tâm sự: “Một cuộc đời lăn lóc, chẳng bao giờ khấm khá, về già làm chuyện ái hữu, tương tế, quả là thành đạt, không xấu hổ với đất nước. Đây là một người bạn cùng xóm, cùng làng, cùng xứ U Minh mà tôi lấy làm tự hào và thật lòng ca ngợi”.
Thời kháng chiến chín năm, Kiên Giang đã được gặp nhà thơ lừng danh Nguyễn Bính mà ông kính trọng như người thầy. Sự gặp gỡ này đã giúp ích nhiều cho Kiên Giang trong sáng tác. Nhiều bài thơ của ông viết trong thời gian này như Tiền và lá - nhiều người lại lầm tưởng là thơ Nguyễn Bính!
Trong bài thơ này có những câu hay như:
"Kiếp tôi là kiếp làm thơ,
Vốn riêng chỉ có muôn mùa lá rơi.
Tiền không là lá em ơi!
Tiền là giấy bạc của đời in ra.
Người ta giấy bạc đầy nhà,
Cho nên mới được gọi là chồng em".
Vốn riêng chỉ có muôn mùa lá rơi.
Tiền không là lá em ơi!
Tiền là giấy bạc của đời in ra.
Người ta giấy bạc đầy nhà,
Cho nên mới được gọi là chồng em".
Trong dòng văn học yêu nước trước 1975, gương mặt thơ Kiên Giang không lẫn lộn với một ai khác. Nhà văn Sơn Nam hoàn toàn có lý khi nhận xét: “Kiên Giang nhúng hồn thơ trong niềm đau và hào khí của người miền Nam đã dày công khai phá đất đai mở rộng chân trời xanh, phản ánh ít nhiều đường nét linh động thâm trầm của nền văn minh miệt vườn”. Thật vậy, những vần thơ của ông ngùn ngụt sức sống và bát ngát hào khí của vùng đất:
"Lúa lặn xuống tránh mùi tanh thuốc súng
Thân lúa mềm nhưng dẻo bền chân đứng
Đứng cùng người cùng lịch sử miềnNam
Dù đớn đau bầm giập chẳng rên than
Khi gục xuống là hẹn hò quật khởi"
Thân lúa mềm nhưng dẻo bền chân đứng
Đứng cùng người cùng lịch sử miền
Dù đớn đau bầm giập chẳng rên than
Khi gục xuống là hẹn hò quật khởi"
Chính vì thế những vần thơ ái quốc của ông đã không thoát được lưỡi kéo kiểm duyệt khắc nghiệt của chế độ cũ. Lật lại Lúa sạ miền Nam thì thấy bài thơ này bị kiểm duyệt 43 câu, bài Bàn tay phấn bị bỏ nguyên bài 36 câu, bài Giở bài chòi bị bỏ trọn bài 14 câu, bài Tiếng ru ba miền bị bỏ 13 câu, v.v… Thế đó, không nao núng và thỏa hiệp, Kiên Giang vẫn bền chí hướng vần thơ của mình theo con đường đã chọn - dù đôi ba lần cũng ngồi tù chính trị như những người cầm bút chân chính khác. Ông là người đầu tiên dùng thơ để tôn vinh cái chết của nữ liệt sĩ Quách Thị Trang là người đã công khai tuyên bố:
"Người và lúa từ đầu mùa kháng chiến
Ôm ghì nhau dựng trường thành chiến tuyến
Ngọn tầm vông đối diện với giày đinh
Súng pháo tre át tiếng súng đồng
Khi trái tim cản đầu xe thiết giáp"
Ôm ghì nhau dựng trường thành chiến tuyến
Ngọn tầm vông đối diện với giày đinh
Súng pháo tre át tiếng súng đồng
Khi trái tim cản đầu xe thiết giáp"
Điều lạ lùng ở thơ Kiên Giang là bao giờ trong những vần thơ hào khí ấy, chúng ta cũng đều thấy hiện lên bà mẹ Việt Nam hồn hậu, nhân ái mà lúc tuyệt vọng nhất “Men đời đắng lắm mẹ hiền ơi!” thì ông đều tìm sự an ủi, vỗ về của mẹ.
Do đó, không phải ngẫu nhiên mà bài thơ Ngủ bên chân mẹ được bạn đọc Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay bình chọn là bài thơ hay nhất của năm 1992. Nếu bà mẹ của thi hào Baudelaire ngửa mặt lên trời mà gào tại sao trời bắt con bà phải làm thi sĩ, thì mẹ Kiên Giang chỉ nhỏ nhẹ: “Mẹ biết con làm cái nghề này, chết đói, nhưng mẹ nghe được bài thơ rồi thì quý lắm, không có gì đổi được”. Ngẫm nghĩ lại mà rưng nước mắt.
Bây giờ, nhà thơ Kiên Giang của chúng ta đã về Đất Mẹ. Linh cữu ông được quàng tại Nhà Tang lễ TPHCM, sau đó, ngày 3/11/2014 sẽ an táng tại Nghĩa trang Chánh Phú Hòa (Bình Dương), cạnh mộ nhà văn Sơn Nam .
Vĩnh biệt ông, tôi tin rằng, có một điều chắc chắn: Kiên Giang - hồn thơ của miền Nam đất Việt - đã không đi chệch hướng “Lành mạnh, thanh cao, vị tha và ái quốc” mà nhà phê bình văn học Thiếu Sơn (1907-1978) đã nhận định từ thập niên 60.
*****
ĐẸP HẬU GIANG
Đây Hậu Giang ! Đây Hậu Giang !
Nhánh sông gắn bó Cửu Long Giang
Phù sa cuộn chảy trong dòng nước
Khói sóng hòa hơi thở xóm làng.
Nơi đây đời sống thanh bình lắm
Với đất phì nhiêu nước Hậu Giang
Vú sữa Cần Thơ căng ý mọng
Sầu riêng Long Mỹ nhớ mang mang.
Muối Bạc Liêu mặn tình biển cả
Tiêu Hà Tiên nồng ý quê hương
Thơm tho gói thuốc mùi Cao Lãnh
Cá cháy bùi ngon vị Sóc Trăng.
Gạo móng chim thơm mùi rạ ngọt
Nấu nồi Hòn Đất, lò Hòn Me
Chụm than đượm lửa lòng cây đước
Ôi lửa Cà Mau đẹp ý quê !
Tàu mật cật em chằm nón lá
Anh đội đầu che nắng chang chang
Sáng cày, khuya cấy, chiều phăng lưới
Anh nhớ tâm tình gái Hậu Giang.
Năm nao thiếu áo không mùng ngủ
Sao nhớ bàn tay gái Thất Sơn
Đêm tối nhổ bàng đương đệm nóp
Mặc cho tiếng súng vọng bên đồn.
Qua mùa nước nổi vùng Châu Đốc
Nhờ lá Cà Mâu với lóng tre
Cọng choại U Minh thương luộc lạt
Đèn khuya mới sáng giữa nhà bè.
Hòn Tre, Phú Quốc dù xa bãi
Vẫn nối tình thương mảnh đất liền
Nước biển phù sa trào máu đất
Đất bồi cho máu trở về tim.
Nếu thiếu lá dừa soi bóng nước
Thiếu bông lúa trổ, búp măng tre
Cánh diều không vút trên lưng gió
Thì chết trong lòng những ý quê !
Nếu cô thôn nữ ngừng câu hát
Nếu bạn thương hồ bặt tiếng ca
Nước bạc trường giang không chảy nữa
Hoa bần thôi rụng xuống phù sa !
Nhớ lại năm nao, ngày chạy loạn
Hậu Giang trầm mặc giữa niềm kinh
Mùi diêm thuốc súng mờ hương khói
Chuông vọng niềm đau khóc thái bình.
Trở lại xóm dừa mùa lửa loạn.
Ngồi trên bến cũ lắng không gian
Vô tình tôi vớt trong lòng nước,
Giọt máu miền Nam , máu Hậu Giang.
Nước chảy một dòng ra biển cả
Vẫn mang tình nước Cửu Long Giang
Sông ơi ! Dù nước ra khơi biển
Vẫn nhớ chan hòa Hậu Giang !
Cần Thơ, 1955 - KIÊN GIANG
(Theo bản in trong “Tìm hiểu đất Hậu Giang” của Sơn Nam )
*****
HOA TRẮNG THÔI CÀI LÊN ÁO TÍM
Tác giả: Kiên Giang
Lâu quá không về thăm xóm đạo
Từ ngày binh lửa cháy quê hương
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương nóc giáo đường
Khói bom che lấp chân trời cũ
Che cả người thương nóc giáo đường
Mười năm trước em còn đi học
Áo tím điểm tô đời nữ sinh
Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em còn nguyên vẹn tuổi băng trinh
Áo tím điểm tô đời nữ sinh
Hoa trắng cài duyên trên áo tím
Em còn nguyên vẹn tuổi băng trinh
Quen biết nhau qua tình lối xớm
Cổng trường đối diện ngó lầu chuông
Mỗi lần chúa nhật em xem lễ
Anh học bài ôn trước cổng trường
Cổng trường đối diện ngó lầu chuông
Mỗi lần chúa nhật em xem lễ
Anh học bài ôn trước cổng trường
Thuở ấy anh hiền và nhát quá
Nép mình bên gác thánh lầu chuông
Để nghe khe khẽ lời em nguyện
Thơ thẩn chờ em trước thánh đường
Nép mình bên gác thánh lầu chuông
Để nghe khe khẽ lời em nguyện
Thơ thẩn chờ em trước thánh đường
Mỗi lần tan lễ, chuông ngừng đổ
Hai bóng cùng đi một lối về
E lệ em cầu kinh nho nhỏ
Thẹn thùng, anh đứng lại không đi
Hai bóng cùng đi một lối về
E lệ em cầu kinh nho nhỏ
Thẹn thùng, anh đứng lại không đi
Sau mười năm lẽ anh thôi học
Nức nở chuông trường buổi biệt ly
Rộn rã từng hồi, chuông xớm đạo
Khi nàng áo tím bước vu quy
Nức nở chuông trường buổi biệt ly
Rộn rã từng hồi, chuông xớm đạo
Khi nàng áo tím bước vu quy
Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ
Chiếc áo tang liệm kín khối sầu!
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Giữ làm chi kỹ vật ban đầu!
Chiếc áo tang liệm kín khối sầu!
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Giữ làm chi kỹ vật ban đầu!
Em lên xe cưới về quê chồng
Dù cách đò ngang cách mấy sông
Vẫn nhớ bóng vang thời áo tím
Nên tình thơ ủ kín trong lòng
Dù cách đò ngang cách mấy sông
Vẫn nhớ bóng vang thời áo tím
Nên tình thơ ủ kín trong lòng
Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ màu áo tím, cành hoa trắng
Giữ cả trường xưa, nóc giáo đường
Anh làm chiến sĩ giữ quê hương
Giữ màu áo tím, cành hoa trắng
Giữ cả trường xưa, nóc giáo đường
Giặc chiếm lầu chuông xây ổ súng
Súng gầm rung đổ gạch nhà thờ
Anh đem gạch nát, xây tường lủng
Chiếm lại lầu chuông, giết kẽ thù
Súng gầm rung đổ gạch nhà thờ
Anh đem gạch nát, xây tường lủng
Chiếm lại lầu chuông, giết kẽ thù
Nhưng rồi người bạn đồng song ấy
Đã chết hiên ngang dưới bóng cờ
Chuông đổ ban chiều, hồi vĩnh biệt
Tiễn anh ra khỏi cổng nhà thờ
Đã chết hiên ngang dưới bóng cờ
Chuông đổ ban chiều, hồi vĩnh biệt
Tiễn anh ra khỏi cổng nhà thờ
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Mà cài trên nắp áo quan tài
Điểm tô công trận bằng hoa trắng
Hoa tuổi học trò, mờ thắm tươi
Mà cài trên nắp áo quan tài
Điểm tô công trận bằng hoa trắng
Hoa tuổi học trò, mờ thắm tươi
Xe tang đã khuất nẽo đời
Chuông nhà thờ khóc đưa người ngàn thu
Từ đây tóc rũ khăn sô
Em cài hoa trắng lên mồ người xưa.
Chuông nhà thờ khóc đưa người ngàn thu
Từ đây tóc rũ khăn sô
Em cài hoa trắng lên mồ người xưa.
Lê Quốc Minh