GS. Hà Văn Tấn
“Ai ai đều đã bằng câu hết
nước chẳng còn có Sử Ngư”
nước chẳng còn có Sử Ngư”
Đó là hai câu thơ trong bài thơ cuối cùng của mười bốn bài “mạn thuật” mà Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta. Thật là cay đắng khi mà mọi người uốn cong như lưỡi câu, và chẳng còn ai nói lên sự thật nữa, chẳng còn ai như Sử Ngư nữa. Sử Ngư là một chép sử nước Vệ thời Xuân Thu, nổi tiếng về thẳng thắn và trung thực. Khổng Tử đã từng khen: “trực tai Sử Ngư” (Sử Ngư thẳng thay)
Cho đến hôm nay, đọc câu thơ Nguyễn Trãi chúng ta vẫn như tê tái với nổi đau của ông, làm sao có thể sống trong xã hội mà mọi sự thật đều bị che đậy và xuyên tạc. Trong những thời kỳ như vậy, người chép sử, nhà sử học, những người có nhiệm vụ nói lên sự thật, không biết bị dằn vặt như thế nào? Ngày nay chúng ta đang sống trong một giai đoạn cần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật đáp ứng yêu cầu của nhân dân của đất nước. Đã đến lúc những người chép sử, nhà sử học phải tự hỏi rằng “sử bút” của mình có thật nghiêm chưa, đã viết đúng sự thật lịch sử hay chưa?
Từ thời cổ đại người ta đã yêu cầu cho việc chép sử là nêu gương cho nhân dân và đem lại bài học cho những nhà cầm quyền. Polibious, nhà sử học Hy Lạp vào thế kỷ 2 TCN, đã nhận thấy rằng sử học có tính Pagmatikos, tức thực dụng. Trong các vị thần Muses Hy Lạp thì nữ thần Clio là thần sử học, nhưng tên Clio là bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là Kleio nghĩa là ca tụng, biểu dương.
Ơ Phương Đông Khổng Tử viết kinh Xuân Thu, bộ sử lớn của Trung Quốc cổ đại, là cốt để “bao biến” tức là khen và chê các hành vi của nhân vật lịch sử. Cái mẫu mực sử học thực dụng còn tồn tại rất lâu dài về sau, nhất là ở Phương Đông. Ta hãy đọc những dòng của Phạm Công Trứ trong bài tựa sách đại việt sử ký tục biên : “Vì sao phải viết quốc sử? Vì sử chủ yếu ghi chép công việc. Có chính trị của một đời tất phải có sử của một đời mà sự ghi chép của sử giữ nghị luận rất nghiêm, tụ điểm việc trí trị thì sáng tỏ ngang với mặt trời, mặt trăng, răn đe kẻ loạn tặc thì ráo riết như sương thu lạnh buốt, người thiện biết thì có thể bắt chước, người ác biết thì có thể tự răn, quan hệ với chính trị thì không thể là ít, cho nên mới làm ra quốc sử”
Một mục đích thực dụng như vậy đặt ra cho sử học tất nhiên đã ngăn cản không ít việc nói lên sự thật của lịch sử. Thường thì người ta chỉ chọn chép những sự kiện nào có lợi cho đường lối chính trị, hoặc làm thay đổi sự kiện cho phù hợp với ý muốn của nhà cầm quyền.
Nhưng ngay trong hàng ngũ các nhà sử học thời cổ cũng đã có người cho rằng cần làm thế nào để phục vụ đời sống và chính trị không làm haị đến thiên chức nói sự thật của nhà sử học. Chẳng những thế, họ còn cho rằng sử có chép đúng sự thật thì mới phục vụ tốt cho đời sống và chính trị. Ciceron ở La Mã đã gắn historia magistra vitae (lịch sử chính yếu của cuộc sống) (*) với yêu cầu đạt tới Lux Veritatis (ánh sáng của sự thật). Trong Deoratore, ông đã viết “luật thứ nhất của chép sử là không dám nói cái giả mạo, luật thứ hai là dám nói tất cả những gì là sự thật”.
Còn Lê Quý Đôn của chúng ta, ở đầu tập Đại Việt thông sử, đã dẫn một loạt các câu nói của các nhà sử học đời trước để coi việc chép sử đúng sự thật như một tôn chỉ của việc soạn sử. Và để giữ được tôn chí đó, cuối cùng ông đã chép lại câu của Yết Hề Tư đời Nguyên “ việc soạn sử phải lấy việc dùng người làm gốc, người có văn mà không biết chép sử thì không thể dự vào sử quán. Người có văn học lại kiêm biết cách soạn sử, nhưng bụng dạ bất chính cũng không được dự”.
Từ thế kỷ thứ 17 sử học thế giới đạt đến mẫu mực phê phán, đặt yêu cầu đem lại sự thật quá khứ. Và từ cuối thế kỷ thứ 19, khi sử học đạt đến mẫu mực cấu trúc và biện chứng, các hình ảnh của quá khứ mà sử học khôi phục còn phải được đặt trong cái toàn thể và sự vận động.
Nhưng biết sự thật không dễ, và dám nói lên sự thật nhiều khi càng khó hơn. Với ý của Yết Hề Tư mà Lê Quý Đôn đã dẫn, nhưng nói theo ngôn ngữ hiện đại thì như thế này :Muốn viết sử phải biết phương pháp sử học và trước hết phải là người trung thực chứ không phải là tên cơ hội .
Viết sử là một nghề, nói như người Pháp là métier d'historien. Người viết sử phải được luyện rèn tay nghề. Cách dạy nghề, tức các sách viết về phương pháp sử học, thường nói đến hai bước cơ bản trong công tác sử học : bước thứ nhất là từ sử liệu, khôi phục sự kiện; bước thứ hai là giải thích và đánh giá sự kiện.
Ngay từ bước thứ nhất đã có những khả năng dẫn nhà sử học xa rời sự thật, đó là vì sử liệu thiếu, và phổ biến hơn vì sử liệu không được phê phán nghiêm túc. Nguời ta chia sử liệu ra làm hai loại: sử liệu trực tiếp và sử liệu gián tiếp. Sử liệu trực tiếp xuất hiện cùng với sự kiện, chẳng hạn trống đồng Ngọc Lũ, khẩu pháo Điện Biên hay văn bản hiệp nghị Paris… là sử liệu trực tiếp. Còn sử liệu gián tiếp là sử liệu nói đến sự kiện này qua một thông tin gián tiếp, tức tác giả sử liệu. Loại sử liệu này cần được giám định cẩn thận vì thông tin nhận được đã qua trung gian người thông tin. Chẳng hạn hồi ký là sử liệu gián tiếp. Ở đây các sự kiện xảy ra không đồng thời với sử liệu, tức là trước lúc hồi ký được viết. Nhà sử học Liên Xô M.N.Thernomorski đã viết cả một quyển sách dày, có đầu đề “ hồi ký với tư cách là sử liệu lịch sử” để trình bày các phương pháp để nghiên cứu nguồn sử liệu gián tiếp này.
Hiện nay nhiều công trình nghiên cứu sử học của chúng ta đã sử dụng những nguồn sử liệu gián tiếp một cách thiếu thận trọng. Sử liệu gián tiếp bao gồm cả những lời kể về sau của những người đã chứng kiến sự kiện. Các nhà nghiên cứu lịch sử địa phương hay lịch sử hiện đại, lịch sử đảng thường sử dụng nguồn tài liệu này, những lời kể như vậy thường được phân tích so sánh với các tư liệu khác, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng là cùng một sự kiện, có thể được trình bày rất khác nhau. Tình hình càng xảy ra là nếu người thông tin là người hiện có uy lực chi phối ở địa phương thì lịch sử sẽ được viết theo cách nhìn nhận của người đó.
Đối với các thời kỳ xa xưa, sự sai lầm càng dễ xảy ra, vì sử liệu càng hiếm hơn, khó kiểm tra hơn. Trong nhiều trường hợp để khôi phục sự kiện nhà sử học phải vận dụng đến sự suy đoán lôgích, và thậm chí cả sự tưởng tượng. Nhưng trong trường hợp sự kiện được trình bày mới chỉ là giả thiết thì điều đó phải được nói rõ, đừng để người khác tin rằng đó là sự thật đích xác. Trong nhiều công trình sử học hiện nay, cái mới chỉ là giả thuyết với cái đã là sự thật, thường bị làm lẫn lộn.
Chẳng hạn không một nhà sử học nào có thể chứng minh được rằng bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” là của Lý Thường Kiệt. Không có một sử liệu nào cho biết điều đó cả. Sử cũ chỉ chép rằng trong trận chiến chống quân Tống ở sông Như Nguyệt, một đêm quân sĩ nghe ngâm bài thơ đó trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát, có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt đã cho người ngâm thơ. Đi xa hơn có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ. Nhưng đó chỉ là đoán thôi, làm sao nói chắc đựơc đó là bài thơ của Lý Thường Kiệt. Thế nhưng cho đến nay, mọi người tin rằng đó là sự thật, hay đúng hơn không ai dám nghi ngờ đó không phải là sự thật.
Ta còn có thể dẫn ra những ví dụ khác về những sự kiện chắc là không thật mà nay nghiễm nhiên là “sự thật”, ngay cả trong giai đoạn lịch sử gần đây.
Các nhà sử học thường chủ yếu dựa vào nguồn sử liệu viết. Mà nước ta, các văn bản sử liệu thường bị biến chuyển ghê gớm. Đó là chưa kể sự xuất hiện những tài liệu giả. Nếu trình bày sự kiện mà dựa vào sử liệu đã bị biến đổi hay sử liệu giả thì hiển nhiên không tránh khỏi những sai lầm.
Chẳng hạn, cuốn Binh thư yếu lược hiện có, được coi là của Trần Hưng Đạo, là một cuốn sách giả từ đầu chí cuối . Các nhà nghiên cứu viện Hán Nôm vừa làm một việc có ý nghĩa là chứng minh được cuốn sách giả mạo đó đã hình thành như thế nào. Thế nhưng khi viết về cuộc kháng chiến chống Nguyên hay về Trần Hưng Đạo, một số người vẫn dùng cuốn sách giả này. Thậm chí có lãnh tụ đã trích dẫn cuốn sách này trong diễn văn của mình. Đó là lỗi của các nhà sử học, họ đã không thuyết minh đầy đủ khi cho in bản dịch tác phẩm giả mạo này.
Còn các văn bản bị biến đổi, sữa chữa qua các thời kỳ rất nhiều. Thậm chí các văn bản hiện đại. Ngay bức thư của chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các em học sinh mà hiện nay các em trong trường phổ thông vẫn học, vẫn trích, cũng đã sai, khác nhiều với văn bản đầu tiên còn được cất giữ ở cục lưu trữ Trung Ương. Các văn kiện khác cũng vậy. Về điểm này cần phải học tập thái độ của Mac và Angghen khi cho xuất bản Tuyên ngôn Đảng cộng sản năm 1872, hai ông viết rằng “Tuyên ngôn là một tài liệu lịch sử mà chúng tôi không có quyền sửa lại”. Các nhà sử học đòi hỏi phải có một thái độ như vậy đối với các văn kiện lịch sử.
Trên đây là chuyện phê phán sử liệu và miêu tả sự kiện, thực ra sự thật sẽ bị che lấp hay xuyên tạc là ở bước thứ hai, giải thích và đánh giá sự kiện. Đó là vì công việc này phụ thuộc vào mặt chủ quan của nhà sử học như quan điểm, nhận thức và nhân cách. Các nhà sử học chúng ta thường tự coi là người Macxit nhưng bệnh thiên lệch lại hay dễ mắc. Mà thiên lệch, cường điệu một cách phiến diện, một mặt nào đó lại là đặc trưng của chủ nghĩa duy tâm. Vì vậy, nhiều sự thật lịch sử đã bị bỏ qua.
Trong một thời gian dài, do một động cơ tốt là phải tập trung binh lực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các nhà viết sử chỉ chú ý đến các trang sử chống ngoại xâm trong lịch sử dân tộc. Không chỉ trong các công trình chuyên luận, mà cả trong các bộ thông sử, cũng chỉ tập trung khai thác truyền thống đánh giặc giữ nước. Một nhà sử học Liên Xô khi bình luận một quyển sử Việt Nam do Uỷ Ban Khoa học Xã hội xuất bản đã có một nhân xét thú vị là các bản đồ trong sách, trừ một bản đồ hình thể chung, đều là bản đồ các trận đánh. Trong thời gian qua, hàng loạt các vấn đề kinh tế – xã hội của lịch sử Việt Nam đã không được chú ý đầy đủ.
Cũng là đề cao truyền thống, chúng ta thường đánh giá một chiều, chỉ nhận thấy cái hay cái tốt, dường như người ta không chấp nhận có truyền thống xấu. Đến nay, trong công cuộc xây dựng đất nước, chúng ta đang cần đánh giá đúng về con người Việt Nam, mà phần lớn là tính cách, khả năng đã được quy định qua lịch sử. Phải phân tích trung thực và khoa học các ưu điểm và nhược điểm của con người Việt Nam, chứ không phải cái gì cũng khen.
Chúng ta đã được đọc cả một cuốn sách dày đề cao truyền thống khoa học kỹ thuật Việt Nam. Tôi nghĩ truyền thống khoa học kỹ thuật Việt Nam cũng đã đạt được một số thành tựu về kỹ thuật. Nhưng đề cao quá đáng truyền thống khoa học kỹ thuật của người Việt Nam xưa thì là một sự tô hồng không thật. Vả lại, đề cao ông nghè Vũ Hữu cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16 đã tính đủ số gạch xây tường không thiếu một viên, khi trên thế giới không chỉ châu Âu (thời Copernic) mà ở Ả Rập (thời Al Kashi) đã có những công trình toán học cao, thì chỉ là một việc lố bịch.
Rồi người ta lại đề cao cả những truyền thống của làng xã cổ truyền, nhấn mạnh tính dân chủ của nó. Không hiểu vì sao các nhà sử học tự coi mình là Mác xít lại có thái độ “dân tuý” đến như thế. Ngày nay, khi cái cung cách, cái tâm lý “việc làng” đang khoác áo xã hội đi giữa chúng ta, các nhà sử học phải xem xét lại thái độ của mình trong việc đánh giá làng xã cổ truyền. Lịch sử Việt Nam anh hùng thật, vinh quang thật, trình bày nó lúc nào, chỗ nào cũng tốt đẹp cả, rực sáng cả thì quả là không thật. Nhà sử học không chỉ ngâm ngợi những thiên anh hùng ca mà không biết đến những khúc bi ca trong lịch sử.
Cũng thường thiên lệch khi chúng ta đánh giá các nhân vật lịch sử. Con người là cả một hệ thống những mối quan hệ phức tạp, bị quy định bởi các điều kiện xã hội tự nhiện, lịch sử. Thiếu một sự đánh giá xuất phát từ chủ nghĩa lịch sử dường như là căn bệnh chung của chúng ta. Một số người đã chỉ trích các nhân vật lịch sử vì họ không giống ta. Một số lại quá yêu các nhân vật đó, đến chỗ miêu tả tư duy và hành động của họ cứ y như là họ đã được học tập chủ nghĩa Mac- Lênin.
Chúng ta hãy nhớ lời Mac : "khoa học càng vô tư và không thiên vị thì càng phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của người công nhân”. Một nền sử học muốn tự biểu hiện là Macxít chân chính, chẳng những phải đặt cho mình nhiệm vụ khám phá chân lý của lịch sử, mà còn phải tỏ rõ khả năng đạt được sự thật khách quan. Cho đến nay nhiều học giả tư sản vẫn nghi ngờ tính khách quan của sử học. Ngay người bạn của chúng ta là Bertrand Russell cũng nói rằng: "sử học chỉ là dẫn ra những ngu xuẩn ngày hôm qua để giúp con người chịu đựng được những ngu xuẩn ngày hôm nay”. Chúng ta phải bác bỏ những luận bằng cách chứng minh rằng nền sử học của chúng ta có khả năng đạt được sự thật khách quan, chứ đừng tiếp tục giúp thêm chứng cứ cho những luận điểm đó
Từ khi chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử macxít ra đời, khám phá ra cơ chế hoạt động của sự thật phát triển xã hội, các nhà sử học được cung cấp một mô hình giải thích lịch sử có tính nhất thể – năng động, kết hợp cả hai mặt cấu trúc và biến đổi. Sử học vươn tới phát hiện quy luật và nhờ đó sử học không những nhận thức được quá khứ mà còn chuẩn bị cho những khả năng dự báo. Nhưng sử học muốn thực hiện các chức năng đó, khảo sát con đường đã qua và góp phần nhận thức con đường sắp tới, một điều kiện cơ bản là phải biết sự thật và nói lên sự thật.
Đã là con người, không phải là ông thánh, thì có lúc đúng lúc sai. Đó là chuyện thường tình. Nhưng thật là không công bằng khi chỉ vì khuyết điểm của thời kỳ này, ta sổ toẹt hết cả công lao của nhân vật đó, khi ở thời kỳ khác, đóng góp của người đó rõ ràng, không thể chối cãi. Nhà sử học Mác xít không thể chấp nhận một thái độ như vậy. Tại sao chúng ta không noi gương Lênin trong việc đánh giá nhân vật như Plê-kha-nốp?.
GS Hà Vãn Tấn
Tạp chí Tổ Quốc, tháng giêng, 1988.
(*) Nghĩa đen của thành ngữ la-tinh này là "lịch sử như là ông thầy của cuộc sống" (chú thích của D.Đ.)
Giáo sư Hà Văn Tấn (1937-2019)
Giáo sư Hà Văn Tấn, cây đại thụ của ngành sử học Việt Nam, đã từ trần vào tối ngày 27.11.2019 tại Hà Nội, sau một thời gian dài lâm trọng bệnh.
Theo gia đình, lễ tang GS Hà Văn Tấn được tổ chức như sau:
- Lễ viếng từ 09h30 đến 11h30 ngày 02/12/2019 (tức ngày 07 tháng Mười một Kỷ Hợi) tại nhà Tang lễ Quốc gia số 05 Trần Thánh tông, Hà Nội.
- Hoá thân cùng ngày tại đài Hoàn Vũ (Văn Điển, Hà Nội).
- Lễ An táng lúc 05h00 ngày 05/12/2019 tại nghĩa trang Lạc Hồng viên (Kỳ Sơn, Hoà Bình).
- Hoá thân cùng ngày tại đài Hoàn Vũ (Văn Điển, Hà Nội).
- Lễ An táng lúc 05h00 ngày 05/12/2019 tại nghĩa trang Lạc Hồng viên (Kỳ Sơn, Hoà Bình).
Diễn Đàn xin nghiêng mình tưởng nhớ GS Hà Văn Tấn, kính chúc hương hồn ông sớm phiêu diêu trong miền Cực lạc, và thành kính chia buồn cùng gia đình, đông đảo bạn hữu và học trò của Thầy Tấn.
Giáo sư Hà Văn Tấn sinh ngày 16-8-1937 tại xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh (cùng làng với đại thi hào Nguyễn Du) . Ông qua đời ngày 27 tháng 11 năm 2019 tại Hà Nội, hưởng thọ 82 tuổi. Sinh thời,
GS Hà Văn Tấn được biết đến với tư cách là một học giả xuất sắc, với những nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử cổ-trung đại Việt Nam; một trong những nhà khảo cổ học hàng đầu của đất nước; một nhà nghiên cứu văn hoá có những thành tựu nổi bật; một nhà nghiên cứu Phật giáo học thâm sâu. Ông có thể đọc được cổ văn Hán và Phạn và sử dụng thành thạo nhiều ngoại ngữ khác như tiếng Hán, Pháp, Anh, Nga, Đức, Nhật. GS Hà Văn Tấn có khả năng tra cứu/so sánh nhiều nguồn tài liệu khác nhau để thực hiện nghiên cứu và xuất bản những công trình để đời.
Năm 1960, khi mới 23 tuổi, GS Hà Văn Tấn đã có xuất bản phẩm đầu tiên (viết chung với GS Trần Quốc Vượng): "Lịch sử chế độ cộng sản nguyên thủy ở Việt Nam" (Nxb Giáo dục). Từ đó đến nay, ông đã xuất bản hàng chục cuốn sách và hơn 250 bài nghiên cứu trên các tạp chí uy tín ở trong và ngoài nước. Mỗi công trình của ông luôn được giới học thuật hứng thú đón đợi và đánh giá cao. Công trình viết chung với PGS Phạm Thị Tâm "Kháng chiến chống xâm lược Nguyên-Mông thế kỷ 13" (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1968; tái bản: 1970, 1972, 1975) được nhiều học giả uy tín coi là tuyệt phẩm. Đây là một công trình nghiên cứu được trình bày mẫu mực, cấu trúc chặt chẽ, văn phong hàn lâm/trong sáng. Đặc biệt, nguồn sử liệu được các tác giả sử dụng thì vô cùng phong phú, với nhiều nguồn khác nhau, và khả tín. Một công trình nghiên cứu lịch sử nhưng có sức mê hoặc cả những người đọc khó tính nhất.
Năm 1957, ông tốt nghiệp thủ khoa cử nhân Sử–Địa trường Đại học Văn khoa Hà Nội và được giữ làm cán bộ giảng dạy. Gắn bó với nghề dạy học suốt nửa thế kỷ tại Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ông cũng là người sáng lập bộ môn Phương pháp luận sử học ở khoa sử (1982 - 2009), viện trưởng Viện Khảo cổ học (Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam). Ông được phong hàm Giáo sư năm 1980, được trao tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân (1997), Giải thưởng Hồ Chí Minh (2001 về khoa học - công nghệ (2000), Huân chương Lao động hạng nhất cùng nhiềudanh hiệu khác. Nhưng cao hơn cả, ông cùng với ba giáo sư khác là Giáo sư Đinh Xuân Lâm, Giáo sư Phan Huy Lê, Giáo sư Trần Quốc Vượng là 4 nhà nghiên cứu xuất sắc được giới sử học và khoa học xã hội trong nước phong là "tứ trụ" của sử học Việt Nam. Giới sử học và khảo cổ học tôn vinh Giáo sư Hà Văn Tấn là Đại sư - người thầy lớn, vì thầy đều đạt đỉnh cao trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu.
Các tác phẩm khác của ông, có thể kể:
- Cơ sở Khảo cổ học. Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1975.
- Lịch sử Phật giáo Việt Nam, (chủ biên), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1988
- Triết học lịch sử hiện đại. Đại học Tổng hợp Hà Nội,1990.
- History of Buddhism in Vietnam. Social Sciences Publishing House Hanoi 1992 (đồng tác giả)
- Chùa Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1993.
- Tư tưởng thời kỳ tiền sử và sơ sử // Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I, Khoa học Xã hội, 1993 (phần thứ nhất).
- Giáo trình toán xác suất thống kê trong khảo cổ học, Đại học Tổng hợp Hà Nội
- Theo dấu các văn hoá cổ: Văn hoá Phùng Nguyên và nguồn gốc dân tộc Việt; Người Phùng Nguyên và đối xứng; Từ gốm Phùng Nguyên đến trống đồng,...(Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội 1997, 851 trang)
- Triết học Ân Độ cổ đại, Tập bài giảng Lịch sử Triết học, tập I. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1994.
- Đình Việt Nam (viết chung). Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1998.
- Một số vấn đề lý luận sử học. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007
- Đến với Lịch sử Văn hoá Việt Nam, nxb Hội nhà văn 2005...
(theo Wikipedia tiếng Việt và một số bài khác trên mạng).
Diễn Đàn đã hân hạnh đăng một số bài viết của GS Hà Văn Tấn (như : Vấn đề văn bản học văn học Phật giáo, Chùa Việt Nam trong đời sống văn hóa cộng đồng) hoặc về một tác phẩm của ông (như bài về Chùa Việt Nam trong quyển sách cùng tên, hay bài Đọc sách Đình Việt Nam) , và gần đây hơn, Lời nói đầu và mục lục cuốn sách "Sự sinh thành Việt Nam" (nxb Thế giới, 2016) cùng hai bài viết trong đó. Kèm với bài này, chúng tôi cũng đăng lại một bài viết quan trọng nói lên quan điểm của ông về Lịch sử, sự thật và sử học và một bài nói thêm về Thầy tôi của TS Nguyễn Hồng Kiên, người đã giúp ông xuất bản cuốn sách Đến với Lịch sử Văn hoá Việt Nam trong tình hình sức khoẻ suy sút của ông, bài đăng kèm trong cuốn sách và tác giả đã có nhã ý cho phép Diễn Đàn đăng lại. Sau cùng, một biên tập viên Diễn Đàn, anh Nguyễn Tùng, kể lại vài kỷ niệm và suy nghĩ của mình trong bài Tản mạn về anh Hà Văn Tấn.