Thứ Bảy, 26 tháng 2, 2011

Bác sĩ Nguyễn Hữu Tùng, Tổng giám đốc Tập đoàn Y khoa Hoàn Mỹ: Người dân góp phần tích cực chống lại cái xấu

Bác sĩ Nguyễn Hữu Tùng hiện là Tổng giám đốc Tập đoàn Y khoa Hoàn Mỹ (với hệ thống 10 bệnh viện rải rác từ miền Trung về tới Cà Mau). Từ năm 2007, người đàn ông gốc Điện Bàn (Quảng Nam) này thành lập một quỹ từ thiện mang tên mình với nguồn kinh phí tích lũy trích ra từ tiền lương hàng tháng của ông.

Thi đậu Đại học Nông Lâm Súc với khát vọng sẽ làm một điều gì đó để những người nông dân ở quê mình bớt cực, nhưng đến phút chót, ông lại chọn học Đại học Y ở Huế.
Ông bảo mình đến với y khoa “giống như cưới vợ xong rồi mới yêu”. Và đó là một tình yêu trọn vẹn. Bằng không, có lẽ ông sẽ không thể vượt qua những trắc trở, cay đắng trong cuộc đời.
Cuộc trò chuyện giữa chúng tôi diễn ra ngay tại phòng làm việc của ông, bắt đầu từ thời điểm ông rời vị trí phó khoa cấp cứu nhi tại Bệnh viện tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, xung phong xuống tuyến dưới.
Lý giải về quyết định này, ông nói:Vào năm 1982, phần lớn bệnh nhi từ tuyến dưới chuyển về khoa cấp cứu bệnh viện tỉnh tử vong nhiều lắm. Chứng kiến bệnh nhi tử vong hàng ngày, trong đó có nhiều trường hợp mắc những loại bệnh khá phổ thông như sốt cao, co giật, sốt do viêm họng, viêm phổi hoặc tiêu chảy…, tôi thấy mình bất lực.
Tôi gặp giám đốc bệnh viện, đề đạt nguyện vọng được xuống tuyến dưới, và được chấp thuận. Tôi muốn tìm câu trả lời từ y tế cấp cơ sở. Điểm đến của tôi là bệnh viện thuộc huyện Đại Lộc, cách cơ quan tôi khoảng 50km.
Vì sao ông lại lựa chọn địa phương này?
Tôi chọn Đại Lộc bởi đây là địa phương có tỷ lệ bệnh nhi tử vong cao nhất vào lúc ấy. Sau năm tiếng ngồi xe than (xe chạy bằng nhiên liệu than), tôi đến nơi lúc 9 giờ sáng.
Cảm giác đầu tiên của tôi là hoang mang, không biết mình có vào đúng địa chỉ hay không bởi cơ quan vắng lặng. Ngồi chờ chừng nửa giờ thì mới có một chị mặc áo blouse trắng đạp xe vô.
Hóa ra, chị ấy là nhân viên đến cơ quan sớm nhất. Tôi đi vòng vòng tham quan. Bệnh viện khá lớn với 150 giường, cơ sở vật chất hiện đại vì được xây dựng từ nguồn tài trợ của tổ chức UNICEF. Nhưng giường bệnh xếp chồng lên nhau, bụi bám từng lớp.
Đúng lúc ấy thì giám đốc bệnh viện tới. Tỏ ra không vui khi xem quyết định điều tôi về đây công tác, nhưng chị ấy vẫn bố trí cho tôi một phòng ngay trong khuôn viên bệnh viện.
Khoảng 10 giờ, tôi xuống phòng khám. Lúc ấy mới có lác đác vài ba bệnh nhân đến khám bệnh. Tuy nhiên, chỉ có một cô điều dưỡng ngồi đó để làm thủ tục chuyển viện. Lương vẫn lĩnh hằng tháng, nhưng việc thì không làm. Đó là câu trả lời tại sao bệnh nhi tử vong nhiều.
Cảm giác của ông lúc đó như thế nào?
Vừa mừng, vừa lo. Mừng vì tìm ra nguyên nhân ban đầu, lo vì không biết làm thế nào để bệnh viện... nhận bệnh. Lường trước khó khăn nhưng tôi vẫn quyết tâm bám trụ, xây dựng lại khoa Nhi.
Công việc đầu tiên tôi làm là gánh nước, lau chùi khoa Nhi sạch sẽ. Một buổi tối nọ, có bà mẹ bồng con bị sốt cao tìm đến bệnh viện. Tôi thuyết phục chị ấy ở lại viện trông chừng vì không có người trực, còn mình thì đạp xe xuống thị trấn, cách bệnh viện khoảng 5 cây số, kiếm thuốc.
Bệnh viện không có thuốc hay sao, thưa ông?
Đúng vậy. Khoa Dược trống rỗng. Sau khi cứu được cậu bé, tôi đề đạt với lãnh đạo bệnh viện cho mình được khám bệnh nhi, còn bệnh nhân người lớn thì vẫn tiếp tục ký giấy chuyển viện.
Khoảng hai tháng sau, số lượng bệnh nhi khám và điều trị bắt đầu tăng lên. Lúc đó, anh trưởng khoa mới đi làm mỗi ngày nửa buổi. Bên khoa Dược cũng bắt đầu nhập thuốc.
Một ngày nọ, bí thư huyện ủy lên thăm tôi, cho biết nhân dân nhận xét tốt về tôi. Sang tuần kế tiếp, bí thư huyện ủy quay trở lại cùng với giám đốc sở y tế, đề nghị tôi làm giám đốc. Tôi từ chối vì mình là người làm chuyên môn đơn thuần, không được đào tạo về quản lý.
Tuần sau nữa, họ lại lên và tiếp tục đề nghị. Đến lần thứ tư thì sự kiên trì của họ cuối cùng đã thuyết phục được tôi. Đổi lại, tôi yêu cầu được hỗ trợ, nhất là về mặt chính trị.
Trước khi tiếp nhận quyết định, tôi đề nghị thành lập một ban kiểm kê tài sản gồm đại diện công đoàn, đoàn thanh niên, chi bộ và ban lãnh đạo bệnh viện. Tôi muốn làm rõ ngay từ đầu về tài sản bệnh viện để tránh những hệ lụy về sau.
Thế nhưng, buổi tối trước ngày tiến hành kiểm kê, anh bí thư chi đoàn, kiêm tài xế đến gặp tôi. Nghe tôi xác nhận tổ chức kiểm kê tài sản, anh ấy nói: “Tùy anh thôi”. Trong tích tắc, người tôi lạnh toát. Cả bốn đời giám đốc trước tôi đều không có ai trụ được quá hai năm.
Rồi ông có kiểm kê không?
Tranh: HOÀNG TƯỜNG
Tôi vẫn làm. Nhưng chỉ ghi chép lại những trang thiết bị hiện có. Nếu sau này bệnh viện thiếu cái gì thì làm công văn xin mua. Tuyệt đối không đối chiếu với sổ sách cũ. Tôi thấy mọi người có vẻ vui với cách làm của tôi.
Vấn đề thứ hai tôi quan tâm là muốn gầy lại niềm tin với bệnh nhân thì phải có đột phá, tức là phẫu thuật. Mà muốn đụng đến dao kéo thì phải có điện. Biết bệnh viện còn cái máy phát điện, nhưng bị mất một số phụ tùng, tôi hỏi anh bí thư đoàn, nhờ anh kiếm người sửa. Anh ấy cho biết chi phí khoảng 20 ngàn đồng, một khoản tiền khá lớn vào thời điểm đó.
Tôi hỏi trong bệnh viện có cái gì đáng giá 20 ngàn đồng không, thì bộ phận hành chính cho biết có cái máy may Sinco, ít khi sử dụng, có thể bán được giá đó. Vậy là quyết định bán cái “ít khi sử dụng”, lấy tiền sửa máy phát điện. Thời khắc mà ánh đèn bật sáng, nước mắt tôi ràn rụa vì hạnh phúc.
Máy chạy dầu nên khá tốn kém. Lúc đó, Quảng Nam có hai cái thủy điện thì một nằm ở xã Đại Quang, nơi bệnh viện tọa lạc. Tôi đến gặp ông chủ nhiệm Hợp tác xã nông nghiệp Đại Quang, xin kéo điện về. Ông ấy đồng ý liền, nhưng vấn đề khá hóc búa là không có kinh phí để làm đường dây.
Được sự ủng hộ của huyện ủy, tôi mang công văn ra Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, xin gặp ông phó chủ tịch tỉnh để trình bày. Bữa đó trời mưa lớn. Nhìn mớ giấy tờ ướt lem, ông nói: “Giữ giấy tờ không được, làm sao anh làm giám đốc bệnh viện?”.
Thu dọn đồ đạc, tôi lủi thủi đi ra nhưng không bỏ cuộc. Tôi nhờ người quen ở tỉnh chạy giùm thủ tục. Ông ấy đồng ý ký lại, cấp cho bệnh viện 500 ngàn đồng để làm ba cây số đường dây, kéo điện về.
Trong thời gian này, tôi cũng gặp một số bất đồng trong nội bộ. Người phản ứng mạnh nhất là anh tài xế kiêm bí thư chi đoàn, bởi mỗi lần chuyển bệnh nhân lên tuyến trên là anh ấy có thể bớt ra được một vài lít xăng.
Để làm dịu tình hình, tôi cho xe đi đại tu. Nhờ vậy, tiêu hao nhiên liệu giảm xuống, còn 15 lít cho mỗi lần chuyển viện. Tuy nhiên, hạch toán cho tài xế vẫn giữ ở mức 20 lít như trước.
Ông chấp nhận nhượng bộ?
Đúng vậy. Tôi không đấu tranh về chính trị. Bệnh viện có 120 nhân viên thì 80% là đảng viên còn tôi thì không. Phần lớn trong số họ là những người có nhiều cống hiến cho cách mạng. Thực tế là nhiều người trong bệnh viện bằng mặt nhưng không bằng lòng.
Vậy ông dựa vào đâu để vượt qua những trở lực?
Lòng yêu thương cuộc sống và con người khiến tôi lạc quan và luôn hướng về phía trước. Bệnh nhân, hay nói rộng ra là dân. Nhân dân góp phần tích cực chống lại cái xấu. Những yêu cầu, bức xúc của người dân được tôi ghi nhận đầy đủ và phản ánh trong các cuộc họp giao ban, yêu cầu các phòng ban làm việc theo đòi hỏi của dân.
Làm việc không phải là thói quen của nhiều người ở đây, thành ra, họ không hài lòng. Có lần, một bệnh nhân mời tôi đến nhà ăn đám giỗ. Lúc về cũng gần tám giờ, trời tối đen.
Do đèn xe máy của tôi khá mờ nên khi thấy một súc gỗ chắn ngang đường thì khoảng cách còn lại chừng năm mét. Thắng không kịp, tôi quyết định bay ra khỏi xe, để xe lao thẳng vào súc gỗ. Đấy cũng chính là phản ứng không mấy tích cực trong nội bộ.
Do có chuyện bất đồng trong nội bộ như vậy nên khi đưa ra bất kỳ công việc nào mình cũng phải làm gương trước. Thí dụ, hồi đó mà bệnh viện đã sử dụng hệ thống toilet tự hoại. Nhưng vì không ai làm việc, nên mỗi khi đi cầu, thay vì dội nước thì người ta đổ cát xuống. Lâu ngày, hỗn hợp cát và phân đóng cứng lại, khiến toàn bộ hệ thống bị nghẹt. Lấy que sắt nạy thì moi lên từng tảng.
Họp giao ban, tôi thông báo tình hình cho mọi người và hào hứng nhận thông sáu cái toilet, 20 cái còn lại chia cho đoàn thanh niên, công đoàn, chi bộ. Vừa dứt lời là mọi người lục tục đứng dậy, bỏ ra ngoài. Có người nói thẳng rằng hốt phân không phải việc của họ.
Không ai làm thì mình làm, cùng với một người hộ lý, tôi mang găng tay, móc phân lên. Không biết có phải vì thế mà sau đó mọi người động lòng, xắn tay vào làm hay không. Trong một ngày, tôi giải quyết xong 26 cái toilet.
Hết hai năm làm việc theo cam kết với sở, tôi kiên quyết trở lại cơ quan cũ. Buổi chia tay ở hội trường, tôi nói rằng chúng ta có một số khúc mắc vì chưa hiểu nhau, chưa thông cảm cho nhau. Ở dưới, nhiều người nghẹn ngào. Tôi hiểu bấy giờ mọi người mới hiểu về mình.
Nhưng thực tế là ông không về lại cơ quan cũ, mà vào Sài Gòn?

Thời gian tôi xuống tuyến dưới, vị trí của tôi đã có người thay thế, chưa kể những nhân viên mới được tuyển thêm. Có lẽ vì giám đốc bệnh viện nghĩ rằng tôi đi luôn. Không muốn làm mọi người khó xử, tôi đề đạt nguyện vọng đi học chuyên khoa 1 tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 ở TP. Hồ Chí Minh.
Sau mấy tháng học tập, thấy môi trường ở Sài Gòn thoáng hơn, tôi xin chuyển công tác. Ông giám đốc sở chấp thuận, còn viết thư tay giới thiệu với lãnh đạo một số bệnh viện mà ông quen biết.
Lúc ấy, nhiều người cũng biết tôi thông qua một số bài báo nên tôi cũng khá tự tin. Đến đâu mọi người cũng niềm nở, nói tốt về tôi nhưng họ lại từ chối với lý do hết biên chế. Hồi đó mình còn trẻ, nhiệt huyết nên không nhận ra những chỗ tế nhị.
Ông có thể nói rõ hơn?
Chuyện là thế này. Đang lúc không biết bấu víu vào đâu thì tôi biết tin có một bệnh viện Nhi Đồng Nai chuẩn bị khai trương, đang cần người. Tôi mang hồ sơ đến nộp. Họ nhận ngay nhưng nói thẳng mình phải có một “chút gì”. Đến lúc ấy tôi mới nhận ra sự thiếu sót của mình khi đi xin việc.
“Chút gì” là bao nhiêu?
Không nhiều lắm, là tiền vay mượn của một số bạn bè. Lý tưởng về công bằng xã hội cũng vơi đi một chút. Có kinh nghiệm làm quản lý nên sau một năm rưỡi làm việc, tôi nhận thấy cách điều hành của giám đốc có một số bất ổn. Tôi mạnh dạn góp ý với anh ấy. Không ngờ vì vậy mà anh lạnh nhạt với tôi.
Khi bệnh viện xây dựng phòng chăm sóc sức khỏe ban đầu, tôi được điều chuyển qua đó, trước khi lên Tà Lài, ven sông Đồng Nai phối hợp với Trung tâm nghiên cứu Nhi thuộc Bệnh viện Nhi Đồng 2 xây dựng trạm y tế nơi có nhiều bà con dân tộc thiểu số sinh sống.
Chăm sóc sức khỏe ban đầu là niềm đam mê của tôi. Nhưng sau hai năm làm việc, tôi cảm thấy chông chênh. Tôi nhận ra rằng mình thiếu bầu không khí ở bệnh viện.
Nghe tôi đề đạt nguyện vọng chuyển công tác về TP. Hồ Chí Minh, giám đốc Bệnh viện Nhi Đồng Nai nói rằng: “Chỗ này không phải là cái thang để anh về Sài Gòn. Hoặc anh tiếp tục làm việc, hoặc anh nghỉ việc”.
Lòng đã quyết, tôi ra đi. Mặc dù đã chuyển trước hộ khẩu tập thể ra nhà một đồng nghiệp nhưng sau khi ra đi, không hiểu bằng cách nào mà hồ sơ và lý lịch của tôi đều bị giữ lại. Đó là năm 1987.
Không có hộ khẩu, ông xoay xở bằng cách nào để tồn tại?
Không có hộ khẩu nên tôi không thể xin được việc làm trong bệnh viện. Mấy người bạn học cũ giới thiệu cho tôi đi đọc phim và phụ việc ở phòng mạch vào các buổi chiều. Còn trong ngày, tôi đi gom vỏ bia lon, lấy từ những hầm rác của lính Mỹ thời chiến vận chuyển từ ngoài miền Trung vào.
Ngoài ra tôi còn tìm đến các xưởng đúc nhôm, gom bột nhôm. Đây là một trong những nguyên liệu để bào chế thuốc đau dạ dày Alumina thời bấy giờ. Công việc này cũng do một người bạn học giới thiệu cho tôi. Làm được một thời gian thì anh bạn tôi xuất cảnh.
Hơn một năm sau, một người bạn khác giới thiệu tôi qua làm cho một công ty Singapore với mức lương 700 ngàn đồng/tháng. Đấy là khoản thu nhập quá hậu hĩnh, nằm ngoài sức tưởng tượng của tôi. Sau này tôi mới biết mức lương của tôi chỉ bằng với người làm tạp vụ trong công ty đó.
Cụ thể thì công việc của ông là gì?
Tôi là đại diện nước ngoài phối hợp với Bệnh viện Từ Dũ, hồi đó chị Ngọc Phượng còn là giám đốc, thực hiện một nghiên cứu về tác dụng vắc xin viêm gan siêu vi B thế hệ thứ ba.
Theo đó, công trình bốc mẫu ngẫu nhiên từ những sản phụ đến sinh tại bệnh viện. Sau khi sinh, các bà mẹ sẽ được mời đến tái khám bằng thư mời theo địa chỉ khi làm thủ tục trước khi sinh.
Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ tỷ lệ tái khám khá thấp, khoảng 60% - 65%, trong khi theo quy định, số người đến khám phải trên 80% mới đạt yêu cầu.
Lần theo địa chỉ những sản phụ trong chương trình nghiên cứu thì hóa ra đấy không phải là nhà của họ, mà là nhà bà con, hoặc bạn bè. Tôi hỏi thăm địa chỉ các sản phụ rồi tìm đến từng nhà, vận động mọi người đến tái khám. Tôi nhớ chỉ còn năm trường hợp là tôi tìm không ra địa chỉ.
Sau hai năm rưỡi làm việc, tôi chuyển sang làm cho công ty của một anh Việt kiều. Anh ấy có ý định đưa que thử thai về Việt Nam. Tôi nói muốn bán được hàng thì phải chứng minh được tính hiệu quả của công cụ này. Trở lại Từ Dũ, tôi trình đề án với chị Ngọc Phượng, xin được nghiên cứu khoảng 200 sản phụ.
Hồi đó đang có chủ trương hạn chế sinh sản nên cứ trễ kinh là hút điều hòa. Mỗi ngày phòng nạo thai của bệnh viện phải xử lý khoảng 100 - 150 ca. Nhu cầu lớn như vậy nên rất khó để bác sĩ xử lý đúng theo quy trình, thành ra khiến người phụ nữ bị tổn thương ghê gớm.
Trước khi sản phụ lên bàn nạo, tôi lấy nước tiểu của từng người để thử, rồi đánh dấu. Sau khi rời bàn nạo, tôi lấy chất nạo ra đi thử tế bào. Kết quả cho thấy chỉ có 60% người đến nạo thai là có mang thai.
Sau khi công bố kết quả, chúng tôi ra Hà Nội, thuyết trình và xin được giấy phép mở rộng thị trường tại Việt Nam. Sau thành công này, công ty yêu cầu tôi đi bán thuốc thử viêm gan siêu vi B.
Tôi ghé qua phòng khám của Trường đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh, xin gửi thuốc tại phòng khám. Lần thứ ba lên phòng khám, ngoài việc mang thêm thuốc thử viêm gan siêu vi C, tôi còn đề đạt nguyện vọng được làm việc tại phòng khám.
Tôi luôn khao khát được trở lại với môi trường bệnh viện, làm gì cũng được. Người phụ trách phòng khám lúc đó nói chưa có bệnh nhân, nhân sự đủ rồi nên không thể nhận thêm người.
Tôi nói mình rành về chích ngừa thì ông nói phòng khám không có giấy phép. Tôi qua Sở Y tế, xin giấy phép. Khi mang giấy phép về thì ông có vẻ khó xử, nên kêu tôi gặp bác sĩ thường trực là trợ lý của hiệu trưởng Trường đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh.
Đề án của tôi được hiệu trưởng chấp nhận, có điều là bộ phận chích ngừa chỉ có một mình tôi, thay vì sáu người như đề nghị. Năm 1997, tôi khai trương Phòng khám Đa khoa Lý Thường Kiệt tại 1A Lý Thường Kiệt, quận Tân Bình, nhờ khoản tiền một bệnh nhân và cũng là ân nhân của tôi cho mượn.
Năm 1998 Bộ Y tế mới có thông tư cho phép tư nhân mở phòng khám đa khoa. Như vậy là ông đã “vượt rào”?
Bệnh viện Hoàn Mỹ Cửu Long
Đúng. Sau một tháng khai trương thì phòng khám bắt đầu đông dần. Cùng lúc, Bộ Lao động, Thương binh - Xã hội chất vấn lãnh đạo Trung tâm Bại liệt về việc cho tôi thuê đất mở phòng khám. Kết quả là phòng khám buộc phải đóng cửa. Tinh thần nhân viên rệu rã, nhiều người xin nghỉ.
Mất khoảng hai tháng chạy ngược xuôi, Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh tạm chấp nhận cho mở lại phòng khám với tên Phòng khám tập thể. Chữ “tập thể” có từ những năm đầu sau 1975, nhằm giúp các bác sĩ làm việc dưới chế độ cũ có thêm thu nhập để ổn định cuộc sống. Thấy chữ “tập thể” kỳ kỳ, tôi xin bỏ, đổi thành “Phòng khám Lý Thường Kiệt”.
Từ phòng khám đa khoa đó, đến nay ông đã gầy dựng được hệ thống 10 cơ sở khám chữa bệnh mang thương hiệu Bệnh viện Hoàn Mỹ. Đâu là lý do khiến bệnh nhân đổ về Hoàn Mỹ đông như vậy?
Chúng tôi tập trung vào phân khúc những bệnh nhân có thu nhập ở mức từ trung bình đến thấp. Chi phí điều trị nhỉnh hơn hệ thống bệnh viện công, nhưng cố gắng thấp hơn những bệnh viện tư khác. Đương nhiên, dịch vụ y tế phải đảm bảo chất lượng tương xứng với chi phí mà người bệnh bỏ ra.
Có một vấn đề cũng khá nổi cộm hiện nay là câu chuyện về y đức. Là người trong cuộc, ông nghĩ sao?
Y đức là vấn đề sâu sắc, e rằng chúng ta cần một dịp khác để bàn cho cạn ý. Riêng tôi có ý ngắn gọn thế này. Thử hình dung, giữa một bác sĩ nói năng ngọt ngào nhưng tay nghề chưa tốt lắm, không chữa lành cho bệnh nhân và một bác sĩ khó chịu, giỏi chuyên môn, cứu được người bệnh, thì ai có y đức hơn ai.
Theo tôi, y đức là linh hồn, còn chuyên môn là thể xác. Điều dư luận băn khoăn hiện nay về y đức của bác sĩ chủ yếu là do yếu tố tâm lý, thái độ ứng xử chưa hợp lý giữa bác sĩ và bệnh nhân. Chúng ta đang thiếu một cơ chế để y đức phát triển.
Ở những nước phát triển, bác sĩ trung bình chỉ khám khoảng 30 ca mỗi ngày, mỗi ca không dưới 15 phút. Quy định này được giám sát chặt chẽ bằng luật. Nếu vi phạm, bác sĩ có thể, nhẹ thì bị cắt thưởng, nặng thì mất việc. Thất nghiệp có nghĩa là mất tất cả tài sản.
Còn ở nước ta, nếu mỗi bác sĩ chỉ khám 30 ca mỗi ngày thì những ca còn lại ai khám. Lúc đó, cả bệnh viện và bệnh nhân cùng phiền bác sĩ. Cũng vì chưa được cụ thể hóa bằng luật nên nếu như có bị khiển trách thì cũng... thế thôi, tài sản vẫn chẳng hề suy suyển.
Thành ra, đôi khi chỉ một sai sót nhỏ của người thầy thuốc cũng khiến xã hội phản ứng mạnh mẽ, quên đi những công sức lớn lao của họ. Hàng ngày, đội ngũ bác sĩ khám, điều trị và cứu chữa cho hàng triệu con người trên đất nước mình.
Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện.

THƯỢNG TÙNG thực hiện

Thứ Hai, 21 tháng 2, 2011

MẤY LỜI KHUYÊN SINH VIÊN Y KHOA

VÀI LỜI GIỚI THIỆU VẾ BS NGUYỄN HỮU PHIẾM

Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm là một Tiến sĩ Y khoa tốt nghiệp tại Pháp, không rõ sinh năm nào (*), chỉ biết ngày 1-7- 1949 được bổ nhiệm làm Bộ Trưởng Y Tế thời chính phủ Bảo Đại. Ông hoạt động trong nhiều lĩnh vực Giáo dục Chính trị, Văn Học, có nhiều bài viết trên các báo thời Pháp thuộc, quen biết với nhiều người trong các giới chính quyền cũng như các văn nhân, nghệ sĩ. Ông có mở phòng mạch ở Đà Lạt, rất được nhân dân thương mến vì tận tụy với bệnh nhân, nhất là bệnh nhân nghèo. Nơi đây ông là bạn chí cốt với nhà văn đứng đầu nhóm Tụ Lực Văn Đoàn là Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Khi Nhất Linh tự vẫn do chống chính quyền Diệm ông tận tình theo sát tới khi Nhất Linh mất. Vì nổi tiếng liêm khiết và hết lòng với bệnh nhân nên ở Đại Học Y khoa Huế ông được cử làm giáo sư phụ trách giảng dạy môn Nghĩa Vụ Luận. Năm 1968 trường Đại Học Y Khoa Saigon mời ông diễn thuyết về đạo đức y khoa tại trường này. Tài liệu hôm nay chính là bản văn ông diễn thuyết ngày đó. trích trong cuốn Lời khuyên sinh viên Y Khoa do ông chủ biên và do trung tâm học liệu bộ Giáo Dục xuất bản năm 1972. Tôi xin chép lại cho các bạn xem. Những ý tưởng trong bài tôi đã đọc trên 30 năm hôm nay xem lại thấy như mới, vô cùng cảm động. Các bạn hãy giữ nó làm chỉ nam giống như tôi đã giữ nó trên 30 năm nay. Đối với những người đồng cảm thì những lời trong bài “ngân lên vang vọng hòa nhịp với con tim người xem, gây ra một cảm giác không gì sánh được”.
Khác với các bài giáo điều BS Phiếm trình bày bài nói chuyện rất chân tình, thực tế. Tác giả nhấn mạnh đến khía cạnh TRÁCH NHIỆM chính điều này đã làm nghề y khác hẳn những nghề khác, vinh nhục cũng từ đó mà ra. Nhiều người từ góc độ của nghề khác phê phán so bì với ngành y chúng ta, họ quên rằng bản chất của nghề y hoàn toàn khác hẳn các nghề khác. Mong rằng các bạn khi đọc xong lời khuyên này thì hãy còn chút gì đấy đọng lại trong tâm tư, đừng để gió cuốn đi.
Vì bài khá dài nên tôi xin trích đăng làm vài kỳ để các bạn “tiêu hóa” dần dần, nhân tiện chú thích một số danh từ hay ý niệm hơi xưa cho rõ nghĩa.

(*): Nguyễn Hữu Phiếm (1910-1976) theo tài liệu : http://www.svqy.org/thaytvb.html
MẤY LỜI KHUYÊN SINH VIÊN Y KHOA

BS Nguyễn Hữu Phiếm
(Buổi nói chuyện do trường Đại Học Y khoa Huế tổ chức ngày 29-6-1968 Tại Trung Tâm Y Khoa Đại Học SAIGON)

Các bạn sinh viên thân mến.
Nghề thuốc mà các bạn đã chọn là một nghề cao đẹp nhất, và chính để chứng tỏ điều đó nên mới có buổi nói chuyện hôm nay một buổi nói chuyện thân mật giữa một người thày thuốc-đã hành nghề trên 30 năm-với những người thày thuốc tương lai, giữa một người anh cả với các em sắp sửa vào nghề, bởi dù muốn dù không các bạn và tôi, chúng ta từ bao nhiêu thế hệ nay đã được coi như thuộc về một gia đình-đại gia đình y giới- và riêng về điểm đó, ngay từ bây giờ, các bạn đã thấy nghề thuốc không giống như các nghề tự do khác.
Các bạn thân mến.
Các bạn đã chọn nghề thuốc với tất cả một tấm lòng nhiệt hứng, hăng say của tuổi thanh xuân, nhưng thử hỏi đã mấy ai chịu tìm hiểu những lý do thúc đẩy mình vào con đường ấy?
Có một số bạn trẻ chọn nghề này, coi như một lẽ đương nhiên để nối nghiệp cha anh đã từng là thầy thuốc.
Có một số, vì ham thích và cũng như mọi ham thích, khó lòng mà giải thích được tại sao. có thể vì hồi nhỏ ốm đau, đã được người thày thuốc tận tâm săn sóc, hoặc được mục kích những cảnh thập tử nhất sinh mà được bàn tay người bác sĩ cứu sống.
Đối với một số nữa-rất hiếm- có lẽ làm nghề thuốc vì đó là một thiên chức (une vocation): ngoài mảnh bằng bác sĩ để hành nghề ra, còn muốn làm một cái gì khác nữa, như trở thành một nhà khảo cứu, một vị bác học hoặc một giáo sư đại học.
Thiên chức theo định nghĩa, là một tiếng nói tự đáy lòng phát ra, nó thúc giục ta làm một việc nào đó, Giáo sư Maranon bảo là: ”một loại đam mê có tính chất của tình thương, kẻ nào có một thiên chức coi vật mình yêu như một mụa đích độc hữu, không thể chia xẻ được. Họ phụng sự mối tình yêu đó mà tuyệt đối không vụ lợi” và vẫn theo lời Maranon “sở dĩ nghề thuốc suy đồi vì thanh niên, khi chọn nghề đó không phải vì có thiên chức thật sự, mà chỉ vì hy vọng có một địa vị cao sang”.
Người ta đã điều tra một số sinh viên y khoa để biết tại sao họ chọn nghề thuốc: trong số 100 sinh viên có tới 70 người trả lời: Không biết. Còn lại 30 có người bảo: học thuốc để tìm những thỏa mản tri thức, hoặc vì có một niềm tin hoặc vì nghề đó đã danh giá lại kiếm được nhiều tiền
Tôi biết một số thanh niên sau khi đậu xong Tú Tài lưỡng lự không biết chọn ngành nào ở Đại Học bèn chọn đại Y khoa vì nghe lời cha mẹ hoặc họ hàng thân thuộc-những người này không phải là thày thuốc, không hiểu nghề thuốc là gì mà chỉ nhìn thấy một khía cạnh sai lầm là: nhà lầuxe hơi tiền bạc…. Những người đó xem nghề thuốc như nghề đi buôn và cho rằng học hành vất vả mới giật được mảnh bằng bác sĩ thì dĩ nhiên phải được đền bù xứng đáng, phải được thụ hưởng. Còn bổn phận của mình những gì, trách nhiệm ra sao họ đâu có biết hoặc nghĩ tới?Đối với hạng người này tôi xin nhắc lại ở đây câu nói của P. Le Gendre”
“Kẻ nào chỉ làm nghề thuốc với hi vọng làm giàu, kẻ đó sẽ thất vọng, vì nghề thuốc chỉ được trọng vọng khi nào chúng ta có một tinh thần vị tha, hỉ xả. ”
Các bạn thân mến
Khi các bạn chọn nghề này, dĩ nhiên là để sinh sống, để nuôi gia đình, để hưởng một đời sống sung túc. tuy nhiên chúng ta không được quan niệm nghề thuốc như một nghề để làm tiền, vì nếu các bạn hành nghề đúng đắn ít khi các bạn có thể giàu được.
Ngoài vấn đề mưu sinh ra tất còn có một lý do nào khác nữa nó thúc đẩy các bạn lựa chọn cái nghề đó. Tôi không dám dùng những danh từ quá to tát như: “cứu nhân độ thế” mà chỉ nói; sở dĩ làm nghề thuốc là để mong xoa dịu được phần nào những đau khổ của đồng bào, muốn giúp ích cụ thể cho xã hội.
Có bạn học thuốc, như trên vừa nói, để thỏa mãn tri thức, thỏa mãn sự tò mò, những biết những kỳ quan của bộ máy con người ta, muốn tháo nó ra từng mảnh để xem bên trong có những gì, tại sao nó chạy, hoặc muốn tìm cho ra hạt bụi nào đó đã làm cho bộ máy kia tắc, rồi ngưng chạy…
Đối với sinh viên y khoa, còn gì vui sướng và hồi hộp bằng lần đầu tiên ở trong bệnh viện, chỉ nhờ có nghe và gõ lên ngực bệnh nhân mà đã đoán được rằng trong màng phổi có nước và khi lấy chiếc kim chọc vào phổi thì quả nhiên thấy có nước thật.
Không những học để biết mà còn để phụng sự nữa. Còn niềm vui gì bằng sau một thời gian vật lộn với tử thần người thầy thuốc đã đẩy lui được bệnh và trao trả cho bà me đứa con thân yêu của bà.
Người ta muốn phê bình sao thì phê bình, một người thày thuốc sau một ngày làm lụng vất vả, bảo họ “hái ra tiền” chẳng hạn, nhưng tôi dám chắc ngoài việc chữa bệnh ra, còn phải có những động cơ nào khác nó thúc đẩy họ chứ không riêng gì tiền bạc. Họ không thể không băn khăn lo lắng mỗi khi rời một căn nhà, trong đó có một tính mạng đang bị đe dọa, hoặc đó là tính mạng của một người cha, cột trụ của cả một gia đình, hoặc tính mạng của một người mẹ với đàn con thơ dại đang cần có người săn sócdạy dỗ, hoặc tính mạng của một đứa hài nhi, chỉ có quyền sống chứ không được chết yểu…
Mối băn khăn đó đôi khi còn ám ảnh người thày thuốc trong bửa ăn giấc ngủ của họ.
Người thày thuốc không thể không có những suy tư sau khi ngồi bên giường bệnh kiên nhẫn nghe lời kể lể tâm sự của thân chủ mình, rồi cố tìm một lời nói dịu dàng để khuyên nhủ, ngõ hầu xoa dịu được phần nào những nỗi khổ đau về tinh thần, những khắc khoải hoặc dằn vặt của một lương tâm đang bị cắn rứt….
Người thày thuốc không những chỉ đem lại cho ta sức khỏe, họ giúp ta sống đã đành nhưng nhiều khi họ giúp ta nhắm mắt cho yên nữa.
Chữa khỏi đã vậy, nhưng còn những khi thất bại ?
Đã mấy ai thấu hiểu được nỗi khổ của người thày thuốc, dù ham tiền mấy đi nữa, sau khi thâu canh ngồi bên một sản phụ, những mong cứu sống được cả mẹ lẫn con, hoặc ít nữa một trong hai người, nhưng rút cuộc không cứu nỗi ai hết. Và trong khi người thày thuốc ấy, khác nào một kẻ bại trận, rửa tay-hai bàn tay đẩm máu và rung lẩy bẩy- thu xếp đồ dùng cho vào cặp rồi lủi thủi ra về, mặt mũi phờ phạ, đầu chóang mắt hoa, có những con mắt ngấn lệ, đầy đau thương, có khi đầy oán hận, nhìn theo và biết đâu không lên án họ. ? Ôi, VINH NHỤC của nghề thuốc!
Người ta muốn phê bình người thày thuốc ra sao tùy ý, nhưng tôi dám chắc, trong khi hành nghề, họ không thể không có một niềm tin, một tia hi vọng, một ngọn lửa thiêng nào đó trong lòng. Nói tóm lại, thế nào họ cũng phải có một nhiệt hứng khiến họ cảm thấy sung sướng khi tìm ra căn bệnh. Một niềm vui khi phụng sự và thành công.
Duhamel đã nói”Không có nghề nào cao đẹp và buồn bằng nghề thuốc, một nghề đói hỏi nhiều bổn phận, nhiều trách nhiệm tinh thần, nhưng chính trách nhiệm đó, nhất là trách nhiệm tinh thần, nó làm cho nghề chúng ta cao đẹp. ”
Những trách nhiệm của người thày thuốc ở vào thời đại này rất nặng nề, vì không nói tất các bạn cũng rõ là chúng ta hiện đang sống trong một kỷ nguyên thật là huyền ảo, khoa học tiến quá mau, ngoài sức tưởng tượng của con người, ” đã làm cho chúng ta trở thành những bậc THẦN THÁNH trước khi chúng ta xứng đáng làm người”(Jean Rostand)
Thật thế: chỉ trong vòng ba bốn chục, y học đã tiến triển và khác hẳn bốn ngàn năm trước và nếu ngoảnh lại nhìn chặng đường đã qua, chúng ta không thể không giật mình kinh ngạc.
Giáo sư Jean Bernard đã viết không phải là quá đáng:
‘”Một người thày thuốc ở thời tiền chiến, vắng mặt sau một thời gian 30 năm và nay trở vềsẽ bở ngở không khác gì một bạn đồng nghiệp của ông sống dưới thời Hippocrate nay tái sinh trước ngày thế chiến thứ hai”
Tuy nhiên chúng ta những kẻ hậu sinh, không được quên ơn các bậc tiền bối đã có công lớn với y học, hoặc ít ra cũng nhớ đến tên tuổi những vị đó, như Pasteur, Claude Bernard, Lister, Yersin, Fleming …vv.
Nói về ngoại khoacách đây trên 40 năm một danh y về khoa giải phẫu, giáo sư J. L Faure trong bài diễn văn khai mạc một cuộc hội nghị quốc tế đã nói:
“Ngày nay khoa giải phẫu đã lên tới chỗ tuyệt đỉnh rồi, khó lòng mà tiến hơn nữa”
Tuy nhiên trên lãnh vực y khoa, ai dám tự hào mình là một nhà tiên tri, và ngày nay -1968- chúng ta có thể lập lại câu nói và biết đâu trong vài ba năm nhận xét của chúng ta lại không đúng nữa.
Các bạn tất đã biết nhờ có thuốc mê (tìm ra năm 1816 ở Hoa Kỳ) mà người ta có thể giải phẫu với những điều kiện mới. Nhất là sau cuộc cách mạng do Pasteur khởi xướng, cho biết nguyên nhân của phần nhiều bệnh là vi trùng, rồi nhờ có phương pháp sát trùng (antiseptie) của Lister, nhất là phương pháp phòng hủ (asepsie) của Terrier, số người chết đi vì giải phẫu giảm đi rất nhiều. Đồng thời các nhà giải phẫu táo bạo hơn, dám đi sâu vào trong cơ thể, nào mổ ruột, mổ dạ con, nào giải phẫu xương, khớp xương, …vvv
Mặc dầu khoa giải phẫu tiến bộ rất mau, mặc dầu kỹ thuật giải phẫu đã được hoàn bị, vẫn còn có người chết vì giải phẫu do những xáo trộn trong cơ thể. Quan trọng hơn hết là xáo trộn sinh lý (desordres biologiques) gây ra một loại bệnh hậu giải phẫu( maladie post-operatoire) Bệnh này được nghiên cứu kỹ càng để dần dà đưa tới phương pháp hồi sinh (reanimation) một phương pháp ngày nay rất thông dụng, không những ở ngoại khoa mà còn ở nội khoa nữa.
Một trong những kỹ thuật kỳ lạ nhất của khoa gây mê là đông miên nhân tạo (hibernation artificielle) và nhờ phương pháp này, người ta có thể giải phẫu tim được.
Một đàng, nhờ có phương pháp hồi sinh và thuốc mê, đàng khác nhờ có thuốc trụ sinh-mỗi ngày một nhiều-nhờ có thuốc ngăn đông huyết (anticoagulants) và sau hết nhờ tiếp máu, có khi thay cả máu nữa, mà khoa giải phẫu đã đi vào những con đường mà từ xưa tới nay không ai dám nghĩ tới như là mổ phổi để rồi cắt đi, mổ óc, tủy, xương sống, giao cảm thần kinh (sympathique) hoặc ghép mạch máu, ghép xương, ghép mắt, ghép thận …vv. Mới đây các bạn còn nghe nói về những vụ thay tim làm chấn động dư luận thế giới và khiến mọi người phải kinh ngạc và thán phục vô cùng.
Bên cạnh những thành công rực rở đó nội khoa cũng phát triển rất nhanh.
Nhờ có thuốc trụ sinh, phát minh vào cuối thế chiến thứ hai, nhiều bệnh truyền nhiễm như thương hàn, giang mai…. đã bị đẩy lui.
Nhờ có Penicilllin-do Fleming tìm ra- nhiều loại vi trùng như: pneumocoque, streptocoque, méningocoque. đã bị tiêu diệt và nhiều bệnh phổi, bệnh đau màng óc cấp tính, bệnh lậu, có thể trị được, cũng như bệnh đau tim do vi trùng streptocoque viridans-còn gọi là bệnh Osler- mà xưa kia y học đã phải bó tay.
Còn nhiều trụ sinh khác cũng được khám phá và đáng kể nhất là streptomycine-do Waksman tìm ra năm 1943- rất công hiệu để trị bệnh lao, một trong tứ chứng nan y của ta. Lần đầu tiên bệnh nguy hiểm này đã bị đánh bại.
Ngoài trụ sinh ra, người ta còn tìm ra được nhiều loại thuốc hóa học nữa, trong đó phải kể Isoniazide rất thông dụng từ năm 1952 để chữa bệnh lao, song song với streptomycine và nhiều thuốc khác như Chlopromazine (largactyl) để trị các bệnh thần kinh. Từ ngày có thuốc này và những thuốc mới như resepine, tại các dưỡng đường điều trị người điên, loạn óc, ta không còn chứng kiến những cảnh huyên náo nữa, và nhất là bệnh nhân không còn bị đối xử như những con thú vật, mỗi khi lên cơn điên, bị nhốt trong chuồng sắt, chân tay bị trói chặt, như cách đây trên 30 năm, hồi tôi còn là sinh viên.
Chúng ta cũng thể quên được những khám phá quan trọng trong ngành học về những bệnh do siêu vi trùng gây ra, và nên biết rằng ngày nay, nhờ có thuốc chích hoặc uống thuốc phòng ngừa mà nhiều bệnh như bệnh tê liệt (poliomyélite) có thể tránh được, cũng như bệnh cúm(grippe) bệnh sởi (rougeole). . vv
Những bệnh truyền nhiễm ghê gớm như bệnh tả (choléra) bệnh dịch hạch (pest) bệnh cùi (hủi) bệnh hoàng đản (fièvre jaune) không còn là mối lo cho nhân loại như hồi xưa nữa. Và những bệnh như bệnh ngủ (maladie du sommeil) ở Phi châu, bệnh sốt rét cơn (paludisme) cũng đã bị đẩy lui. Nhờ có bột DDT mà hàng chục triệu người đã không mắc bệnh sốt rét cơn.

Các bạn thân mến.
Tôi không thể kê khai hết ở đây tất cả những phát minh khác của y học trong mấy năm vừa rồi, như: sinh tố, kích thích tố( đặc biệt là cortisone, A. C. T. H ) hoặc nói đến những phương pháp tối tân để định bệnh bằng quang tuyến, bằng isotope. . vv mà chỉ nhấn mạnh tới những khám phá quan trọng trên lãnh vực trị liệu thôi.
Đời sống trung bình của con người cách đây hai thế kỷ là 35 năm, nay lên tới 70, và có lẽ chỉ trong vài chục năm nữa số người thọ 100 tuổi là thường.
Nhưng chúng ta đừng quá lạc quan và yên trí rằng bất cứ bệnh nào cũng có thể trị được dù y học tiến bộ mấy đi nữa, hiện nay vẫn còn có một số bệnh mà người ta vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân, như bệnh tê thấp, bệnh chai động mạch(arterio-sclerose), bệnh ung thư máu (leucemie)…Còn đối với những bệnh ở thần kinh hệ do siêu vi trùng gây ra (virus neurotrope) chúng ta vẫn còn …. . bất lực.
Y học hiện nay vẫn chưa có thuốc để cho ta khỏi già. Không những đừng quá lạc quan mà còn phải biết những nguy hiểm và những bệnh do chính thuốc gây ra (maladies thérapeutiques). Giáo sư Michel Conte đã nói:
Hiện nay chúng ta đang đứng trước một bi kịch mà chúng ta không phải là khán giả. Chúng ta bị lôi cuốn vào trong một cơn gió lốc, và chúng ta phải chữa bệnh, tức là phải lực chọn những thứ thuốc mới, và cái đó không phải là chuyện dễ. Chưa bao giờ quyền lực của người thày thuốc lại mạnh đến thế, nhưng chưa bao giờ họ lại cảm thấy mình lúng túng đến thế.
Trụ sinh khi dùng bừa bãi, có thể tạo ra nhiều bệnh nặng do vi trùng staphylocoque gây ra, hoặc bệnh nấm(mycose) hoặc làm cho máu biến đổi.
Một vài loại sulfamide có thể gây ra bệnh ngoài da chết người được. Aspirine dùng nhiều có thể làm loét bao tử và xuất huyết, dùng corisone có thể làm thủng bao tử, gây kinh phong, hoặc làm cho bệnh lao cũ tái phát. Butazolidine có thể làm băng huyết được. Nhiều tai nạn lưu thông đã xảy chỉ tại dùng thuốc an thần, những thuốc này làm cho phản ứng chậm lại.
Người ta cũng nói nhiều về trường hợp các lực sĩ chết vì dùng kích thích tố trong các cuộc thi điền kinh.
Vẫn hay rằng những thuốc nói trên, trước khi đem ra dúng đã được thí nghiệm cho súc vật (Florey và Chain đã chích Penicilllin cho chuột và thấy không độc nên mới chích cho người, cũng như các loại thuốc an thần) nhưng làm sao biết chắc được là khi áp dụng cho người sẽ không nguy hiểm sẽ không nguy hiểm?Làm sao có thể tiên liệu được những phản ứng chậm, còn những thứ thuốc, thuộc loại thuốc hóa học, mỗi ngày một nhiều, càng công hiệu lại càng nguy hiểm)
Người ta đã từng thí nghiệm thuốc thalidomide trước khi đưa ra thị trường nhưng có ai ngờ đâu rằng dược phẩm đó lại làm cho các sản phụ sinh ra quái thai. ?
Các bạn thân mến.
Tôi không có ý nêu ra đây những nguy hiểm của thuốc để các bạn sợ và đừng dùng, mà chỉ mong sao các bạn thận trọng mỗi khi các bạn cho toa, nhất là lưu ý các bạn đến những phản ứng bất ngờ có thể xảy ra với bất cứ loại thuốc nào. bởi vậy các bạn cần hỏi cặn kẻ bệnh nhân trước khi biên toa cho họ.
Tôi đã nói với các bạn không có nghề nào có nhiều trách nhiệm bằng nghề thuốc, nhưng cũng không có nghề nào cao quý bằng. Cứu sống một người bị thương nặng nhờ giải phẫu kịp thời và đúng kỹ thuật, làm cho một bệnh nhân đang đau quằn quại chỉ trong phút chốc hết đau ngay, hoặc trả lại cho một bà mẹ đứ con yêu quý mà bà ta yên trí khó lòng qua khỏi, tất cả những cái đó, đối với một người không ở trong nghề, thật là phi thường và được coi như phép lạ.
Trách nhiệm của người thày thuốc nặng nề ngay từ khi định bệnh cho đến lúc kê toa, hoặc giải phẫu, bởi tính mạng của một người nằm trong tay họ.
Trách nhiệm đó làm cho người thày thuốc ngày đêm lo lắng đến quên ănmất ngủ. Tôi thành thật mong cho các bạn được sống những giờ phút lo âu hồi hộp đó vì chính nhờ thế, rồi qua khỏi mới cảm thấy được tất cả cái cao đẹp của nghề thuốc.
Trousseau, một vị danh sư của Pháp, đã từng khuyên các sinh viên y khoa:
‘”Các bạn có bổn phận làm vẻ vang cho nghề của các bạn, cũng như nhờ nghề đó mà các bạn được vẻ vang, một nghề đòi hỏi nhiều hi sinh, một nghề trong đó ngày và đêm của các bạn sẽ là ngày và đêm của người ốm”
Các bạn nên yên trí rằng các bạn gieo tận tâm mà sẽ chỉ gặt bội bạc. Các bạn sẽ phải gạt bỏ hết những thú vui đầm ấm của gia đình và thì giờ nghỉ ngơi sau một thời gian làm lụng vất vả.
Các bạn không được sợ thối tha bẩn thỉu hoặc nguy hiểm, các bạn không được lùi bước trước cái chết khi cái chết đó xảy ra giữa những lúc nguy hiểm của nghề chúng ta, bởi chết như thế sẽ làm cho ai nấy khi nhắc đến tên bạn, phải tỏ lòng kính mến. ”
Như tôi vừa nói, y học ngày nay tiến rất nhanh, và muốn trở thành một bác sĩ lành nghề, các bạn khi còn là sinh viên, phải siêng năng học tập, từ lý thuyết đến thực hành. Định bệnh chậm trễ hoặc sai lầm khi cho thuốc (cho quá hoặc không đủ liều) đều là những lỗi không thể tha thứ được. Bởi vậy thiết tưởng trong LỜI TUYÊN THỆ của Hippocrate cần ghi thêm câu này: Tôi xin thề suốt đời học hỏi Trong thời buổi này, bổn phận đầu tiên của người thày thuốc là phải học, phải biết, và phải biết cho đến nơi đến chốn, chứ không được biết lờ mờ.
Không nói tất các bạn cũng rõ là những kiến thức của chúng ta ở trên mọi lãnh vực, chứ không riêng gì ở y khoa, chỉ trong vài ba năm, có khi vài tháng, đã trở thành” cũ rích”. vì vậy chúng ta cần phải trau dồi học hỏi luôn luôn, suốt đời chúng ta vẫn phải là sinh viên đầy nhiệt hứng. Bận rộn mấy các bạn cũng cố dành thì giờ để đọc sách, báo y học, ngõ hầu theo dõi những tiến triển của y khoa, và nếu các bạn có thể tìm tòi, khảo cứu được thì càng hay. Thật là một tai họa cho người ốm nếu chẳng may gặp phải ông thày thuốc, dù tử tế dù tận tâm, nhưng” gà mờ “khiến tiền mất mà tật vẫn mang.
Người ta thường nói”có học mà không có lương tâm là sự đồi bại của linh hồn” (science sans conscience n’est que ruine de l’âme) nhưng có lương tâm mà không có học, nhất là khi làm nghề thuốc, cũng bằng thừa, nguy hiểm nữa là khác. “Tài năng và lương tâm chức nghiệp đều có liên hệ mật thiết với nhau, và giá trị nghề nghiệp phải đi đôi với giá trị đạo đức. Dốt nát và lừa bịp đều như nhau cả” (Gosset)
Ngoài việc trau dồi kiến thức y học, người thày thuốc còn phải có một vài đức tính sau đây:
a) Có óc nhận xét, nếu không sẽ bỏ qua những triệu chứng cần thiết để định bệnh.
b) Có lương tri, tức óc phê bình, biết phán đoán, không quá tin ở những kỹ thuật hoặc thuốc mới nếu xét thấy những kỹ thuật và thuốc này trái ngược với bệnh lý (phòng thí nghiệm vẫn có thể nhầm được). Đừng ham mới chuộng lạ nếu thuốc kê cho bệnh nhân dùng chưa được các danh sư hoặc các bác sĩ đứng đắn xác nhận là công hiệu và không nguy hiểm. Có nhiều thứ thuốc hôm nay được ca tụng như thần dược mà chỉ trong một thời gian ngắn đã bị bỏ rơi (trường hợp vàng để trị bệnh lao, thạch tín (arsenic) để chữa giang mai. . ) Bởi vậy trước khi cho toa các bạn phải thận trọng và luôn luôn nhớ tới lời châm ngôn cổ: Primum non nocere (trước hết đừng làm hại).
c) Có kinh nghiệm:
Muốn có kinh nghiệm dĩ nhiên phải hành nghề lâu năm. Tuy nhiên đối với nghề thuốc cũng như với nhiều nghề khác, các bạn đứng tưởng rằng cứ nhiều tuổi nghề mà có nhiều kinh nghiệm, nhiều từng trải, vì có “những cái mà mình cho là kinh nghiệm, kỳ thực là những sai lầm chồng chất lên nhau” (Sergent)
Một sinh viên y khoa năm thứ nhất, lần đầu tiên gặp một người mắc bệnh thương hàn lần sau gặp một người sốt liên miên, nom có vẻ mệt mỏi, chàng ta không do dự gì cả, bảo người đó bị bệnh thương hàn. Trái lại một sinh viên năm thứ năm, hoặc một sinh viên nội trú hoặc một vị giảng sư dù đã từng chữa hàng trăm người mắc bệnh đó rồi, bao giờ cũng dè dặt, không vội vả. Những người ít học lại càng hay tự phụ, còn những người học rộng tài cao lại càng khiêm tốn”khác nào những bông lúa lép bao giờ cũng ngạo nghễ vươn đầu lên trời, trong khi những bông lúa vàng nặng trĩu hạt thì nằm rạp xuống đất" (Leonard de Vinci )
Ngoài kiến thức về y học ra người thày thuốc còn phải có những đức tính tinh thần, nhất là phải có tình thương.
Làm thày thuốc dù giỏi, dù có lương tâm mà thiếu tình thương thì chỉ được coi như mới làm có một nửa phận sự thôi, và nhất định không thể nào yêu nghề được. Từ mấy ngàn năm nay Hippocrate đã nhấn mạnh tới điểm quan trọng này rồi.
Bạn săn sóc người ốm, sau khi đã thăm bệnh, cho toa, dặn dò cặn kẻ cách dùng thuốc như thế nào và cho biết bệnh tình nặng nhẹ ra sao, bao giời khỏi, rồi bạn ra về, như vậy đã đủ chưa? Tôi thấy là chưa đủ. Vì ngoài cái đau đớn về thể xác, bệnh nhân nào cũng mong được vỗ về, an ủi, bệnh nhân nào dù sang hèn, cũng muốn rằng người thày thuốc kiêm cả một nhà tiên tri nữa, biết hiện tại lẫn tương lai, chữa được mọi bệnh ngay cả tâm bệnh.
Phải chính bản thân mình đã từng bị đau ốm mới biết thế nào là một người thày thuốc. Trong khi mong đợi thì xiết bao lo ngại, băn khoăn, rồi khi thấy mặt thì mừng rỡ, cảm thấy vững tâm ngay. Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của người thày thuốc đều quan trọng đối với người bệnh, và người này chỉ muốn cho ông thày lúc nào cũng ở bên cạnh mình, không rời mình ra, bất kể đêm khuya, bất kể họ mệt nhọc. Nào chỉ có thế thôi !Lại còn những lời trách móc nếu mời mà đến chậm, hoặc đi vắng vì hôm đó nhằm ngày chủ nhật hay ngày lễ.
Chính nhờ có sự vững tâm nói trên mà nhiều khi bệnh mau khỏi. Bởi lẽ đó, y học muốn trở thành một nghề cao quý, cần phải là một nền y học nhân bản, nghĩa là hiểu thấu những gì thuộc về con người, con người toàn diện, con người trong quá khứ và hiện tại. Và nhất là phải tôn trọng con người.
“Nhân bản là cảm thấy trong lòng con người ta trải qua bao thế kỷ, cái gì đó vẫn bất di, bất dịch, con người thì hoàn toàn và sống trong một thế giới thích hợp với họ, con người biết rung động trước thiên nhiên, biết rung động khi nghe một bản nhạc, khi đọc một cuốn sách khi suy ngẫm về những sự huyền bí của tạo vật. Nhân bản tức là biết cảm, biết yêu, biết thương xót” (Maranon)
Một người ốm, không phải chỉ có phần xác, với tim, gan, phổi, thận mà thôi, lại còn có cái mà từ ngàn xưa Platon gọi là phần hồn nữa.
Một bệnh nhân thuộc về bất cứ thành phần nào trong xã hội không phải là một con số, hay là một lá phiếu như ta thường quan niệm ở bệnh viện. Họ không phải là một kẻ vô danh, mà ngược lại, là một người như chúng ta, một người có tên, có tuổi, có nghề nghiệp, địa chỉ, có gia đình, có những hoài bão, ước mơ, cảm xúc.
Các bạn nên biết rằng một bệnh nhân khi nằm trên giường bệnh, không bao giờ có những phản ứng tâm lý như một người bình thường, và buổi đầu thế nào họ cũng có những xúc động lo âu.
Người thày thuốc không phải là một người thợ máy sữa chữa cơ thể như ta sửa một cái máy hư”Đó là một con người cúi xuống một con người khác, mong giúp đở họ, có gì cho nấy, đem lại cho họ một chút khoa học nhưng rõ nhiều tình thương” (Ignacio chavez).
Muốn rằng thày thuốc là một con người máy và người ốm là một con số tức là không hiểu một tí gì về khoa tâm lý cả. Không nói tất các bạn cũng rõ là con người ta phức tạp vô cùng, đầy mâu thuẩn, có lúc sống với những bản năng cực kỳ hèn thấp, nhưng đôi khi lại có những hành động thật là cao thượng, siêu nhân. Và có lẽ bởi nhìn thấy rõ các nhược điểm đó nên người thày thuốc, mỗi khi gặp một bệnh nhân khó tính, hoặc đối xử với mình tệ bạc mà vẫn sẳn lòng tha thứ.
Không có một bộ máy nào dù cho tinh xảo mấy đi nữa, có thể ủy lạo người ốm với những lời dịu dàng trìu mến được, và giữa người thày thuốc và con bệnh, bao giờ cũng có một sự cảm thông, một mối dây liên lạc mật thiết “một cuộc đối thoại kỳ lạ” (une colloque singulier) như Duhamel đã nói, một bên thì ký thác những gì bí ẩn trong cõi lòng của mình, còn một bên thì cho mà không hề đòi hỏi. Hiểu như vậy các bạn sẽ cảm thấy sung sướng vô cùng, và nếu cái học của các bạn không phải là cái học nhân bản thì thật là vô ích và đáng tiếc lắm.
Tóm lại đối với người thày thuốc, xứng đáng với danh từ đó “không có bệnh mà chỉ có con bệnh thôi” (Mondor).

*************
Ta thường nghe người ta phê bình ông thày thuốc này tốt, ông kia tử tế. Tốt hay tử tế không phải vì mát tay, mà vì ngoài công việc chữa bệnh ra, người thày thuốc còn hỏi han đến gia cảnh của thân chủ mình, đến sự học hành của con cái họ, có khi khuyên răn, có khi giúp đở, nghĩa là làm tất cả những gì có thể làm cho bệnh nhân và gia đình họ được hài lòng “ chỉ có người tốt mới có thể thành danh y được (Nothnagel) vì nhiều khi chính nhờ tấm lòng tốt của người thày thuốc mà bệnh nhân chóng bình phục.
Ngoài tình thương và tấm lòng tốt ra người thày thuốc còn phải tế nhị đối với bệnh nhân nhất là ở bệnh viện.
Các bạn đừng quên rằng người ốm bao giờ cũng có nhiều mặc cảm (mặc cảm tự ti) hay lo lắng và thường để ý tới cử chỉ và lời nói của các bạn.
Các bạn đừng khinh người nghèo khó và nên nhớ rằng trước bệnh tật và cái chết ai ai cũng như nhau cả.
Ambroise Pare người đã được coi như cha đẻ của khoa giải phẫu, nguyên là ngự y cho vua Chareles IX một hôm nhà vua đau cho vời ông lại và bảo: “Trẩm mong khanh săn sóc Trẫm chu đáo hơn những người khác” Ambroise Pare đáp”Tâu bệ hạ hạ thần rất tiếc vì kẻ hạ thần chữa thân chủ của hạ thần như chữa các bậc đế vương”
Ngay đến những sa đọa về tinh thần của bệnh nhân các bạn cũng phải tôn trọng.
Các bạn sinh viên thân mến,
Như trên tôi vừa nói, trong nghề thuốc của chúng ta có nhiều buồn, nhiều đau khổ hơn vui, nhất là nhiều nhục hơn vinh. Có những người mà ta tận tình săn sóc lại là những kẻ bội nghĩa vong ân, và trái lại, có những người mà tự xét ta chẳng làm được gì gọi là đáng kể thì suốt đời họ lại coi ta như bậc ân nhân.
*********
Nói tới những bổn phận của các bạn, tôi không thể không đề cập đến vấn đề bí mật nghề nghiệp (secret professionnel)
Tuyệt đối người thày thuốc không được tiết lộ cho ai biết căn bệnh của thân chủ mình. Trong bệnh viện khi các bạn còn là sinh viên, các bạn không được nói to để người ngoài biết bệnh tình của con bệnh, hoặc cho biết họ mắc bệnh gì (một bà chủ muốn biết người làm công của mình mắc bệnh lao hay không). Ngay cả đối với nhà cầm quyền, các bạn cũng không được tiết lộ những gì bạn biết về thân chủ của các bạn. Khi viên cảnh sát trưởng hỏi ông Dupuytren để biết ai là kẻ phiến loạn trong số người nằm điều trị trong bệnh viện, ông ta đáp: ”Tôi không biết ai là phiến loạn cả, tôi chỉ biết có những người bị thương thôi”
Các bạn cũng nên biết rằng các bạn có thể bị phạt tù nếu các bạn không kín miệng.
Sau hết các bạn phải có lương tâm chức nghiệp, hay nói một cách vắn tắt, các bạn khi hành nghề phải có lương tâm. Giaó sư Jean Gosset đã từng nói;”Trong phòng giải phẫu người thày thuốc là chúa tể sau đức Thượng Đế nhưng có trách nhiệm trước lương tâm của mình”
Không riêng gì thày thuốc ngoại khoa mà có thể nói một cách tổng quan là không một ai có thể kiểm soát nỗi một bác sĩ ngoại trừ lương tâm của họ
Sởv dĩ ngày nay y học không có một địa vị xứng đáng trong xã hội, sở dĩ người thày thuốc không được trọng vọng, không được kính nể như hồi xưa (kể cả ở Việt Nam) là bởi trong nghề của chúng ta có một số con chiên ghẻ, thiếu lương tâm chức nghiệp.
Các bạn thân mến
Nghề thuốc mà các bạn đã lực chọn không giống những nghề khác. Nhất định không, một trăm, một ngàn lần không. Ai đã chọn nghề này cần phài biết rằng có nhiều cái không được phép làm, và phạm tới những cấm điều đó, tức là làm hoen ố nghề mình.
Nếu các bạn không muốn sống khắc khổ, không sẳn sàng hi sinh tốt hơn hết là các bạn tìm một nghề khác, ngay từ bây giờ cũng chưa muộn. Không thiếu gì nghề ngoài nghề thuốc vừa đem lại cho các bạn danh giá tiền bạc lại không vất vả, nhất là không có trách nhiệm gì hết.
Có người, nhiều người lắmtưởng rằng nghề thuốc cũng như nghề đi buôn. Kỳ thực, giữa nghề đi buôn và những nghề tự do, trong đó có nghề thuốc, có một hố sâu không sao lấp được.
Mục đích nghề đi buôn là mua rồi bán để lấy lời. Giá hàng cao hay hạ là tùy thuộc ở món hàng tốt hay xấu, bền hay không bền.
Trái lại mục đích chính của nghề tự do không phải là tiền tài hay lợi lộc. Người thày thuốc khi săn sóc một người ốm, cũng như một giáo sư khi giảng bài cho học sinh, sinh viên, đều cố gắng hết sức mình chứ đâu có nghĩ tới tiền thù lao, lương lậu ?
Người đi buôn có quyền làm quảng cáo rùm beng, hoặc trên báo, hoặc trên đài phát thanh, trên đài truyền hình để “câu khách”, hoặc nhờ người dắt mối rồi cho họ ăn hoa hồng.
Người đi buôn có thể rao ầm ỉ để mọi người biết là hàng của họ đep, bền, rè nhất thế giới chẳng hạn mà không sợ ai chê cười. Trái lại, người thày thuốc, biết tự trọng, có liêm sĩ, không được phép làm như vậy. Không những Y sĩ đoàn, Nghĩa vụ luận không cho phép mà chính lương tâm của họ cũng không cho phép.
“Người ốm không phải là một món hàng và chúng ta cũng thế, chúng ta không phải là món hàng để cho thiên hạ đem tiền ra mua chuộc. Chính người thày thuốc, khi đem tài nghệ của mình ra để phục vụ người ốm, đã làm ơn cho họ, chứ không phải người ốm, vì đem tiền bạc hay thế lực mà ban ơn cho người thày thuốc”. (Leannec)
Ngoài bổn phận đối với bệnh nhân ra, các bạn còn có bổn phận đối với các bạn đồng nghiệp nữa.
Tôi nhận thấy ngày nay phần đông các bác sĩ không đối xử với nhau như các bậc đàn anh của họ hồi xưa: trên kính dưới nhường. Tuyệt đối các bạn không được nói xấu bạn đồng nghiệp, không được phê bình (với ác ý) chỉ trích cách định bệnh hoặc chữa bệnh của họ, không được gièm pha để tranh khách, không được len lỏi vào một gia đình nếu gia đình đó đã có một dồng nghiệp rồi.
Giáo sư P, V. Badot có kể lại truyện về giáo sư Maranon, một hôm tới bệnh viện Bichat và chăm chú nghe một sinh viên nội trú giới thiệu một bệnh nhân mắc chứng bệnh ở nội tiết tuyến (glandes endocrines) P, V. Badot viết: ”Khi tôi hỏi ý kiến của ông trước mặt đông đủ học trò của tôi thì ông chỉ mỉm cười, không trả lời. Khi chỉ có một mình ông với tôi, tôi nói:
-Thế nào ông có đồng ý không?
Giáo sư Maranon đáp:
-Tôi không hoàn toàn đồng ý với học trò của ông.
-Thế tại sao lúc ấy ông không nói?
-Bởi vì không ai có thể biết sự thật chắc chắn được, Vả lại, không bao giờ được làm mất lòng một bạn đồng nghiệp cả!”
Rồi giáo sư PVBadot kết luận: “Lịch sự tới cực độ ấy là một đặc tính của ông. ”
Còn một điều này nữa tôi muốn nói với các bạn, là ngoài nghề thuốc racác bạn cần phải trau dồi văn hóa, không những trên lãnh vực khoa học mà cả trên lãnh vực văn chương nữa. Ở vào thời buổi này một nhà khoa học phải ham thích văn chương cũng như một nhà văn, không thể không biết tới khoa học.
Chính nhờ văn hóa mà bạn có óc phê bình, sự phán đoàn của bạn được sắc bén, mau lẹ và minh mẫn, trí tuệ không bị cùn nhụt, căn cỗi, thành chai, tâm hồn của bạn vẫn giữ được trẻ trung mãi mãi.
Giáo sư P, V. Badot đã viết:
"Phải mở mang trí tuệ của thanh niên hơn là để họ sống gò bó trong khuôn khổ chật hẹp của y khoa."
Tôi nhận thấy nhiều danh y của thế giới, hoăc nhiều giáo sư đại học, đều là những người hiếu học, ham đọc sách, yêu sách, yêu nghệ thuật, học thức rất uyên thâm, vừa là thầy thuốc trứ danh, vừa là nhà văn nổi tiếng, như Mondor (nổi danh nhờ con daocây bút và cây cọ) Jean Delay, P. V. Radot, Duhamel…. những người này vừa có chân trong Hàn Lâm viện Y khoa vừa là Hội viên của Hàn Lâm viện Pháp.
Nữ văn hào Han Suyin, Sommerset Maugham, Cronin, trước khi là nhà văn, đã từng làm nghề thuốc.
Tchekov, đại văn hào Nga, vừa sống về nghề thuốc, vừa viết văn. Ông thường nói: ”Y học là vợ chính thức của tôi, còn văn chương là tình nhân. Khi tôi chán bà này thì tôi đi với bà kia. Tuy nhiên đối với cả hai, tôi đều trung thành cả. Nếu không có nghề thuốc, có lẽ tôi không có tài liệu để viết văn. ”
Giáo sư Trousseau già tôi đã dẫn thượng, cũng bảo:" Một nhà bác học mà không phải là một nghệ sĩ chỉ là một nhà bác học tầm thường”
Bởi vậy tôi khuyên các bạn, ngoài việc học ra, nên để thời giờ nhàn rỗi, trau dồi văn hóa, rèn luyện văn chương, nghệ thuật (âm nhạc hội họa……) chơi thể thao, để cuộc đời đỡ buồn tẻ, vì theo tôi, nếu suốt đời làm mãi một nghề, bất cứ nghề gì, mà vẫn hăng say, không thấy chán thì quả thật là một sự lạ.
Không những để cuộc đời khỏi buồn tẻ mà còn làm cho đời sống thêm phong phú, để biết sâu hiểu rộng, ngoài lãnh vực y khoa.
Người ta thường so sánh thày thuốc với ông Cha sở và ông Luật sư. Tôi không mang tiếng mắc bệnh chủ quan nếu phê bình vai trò của ba loại người đó, mặc dầu ở đây chỉ có các bạn và tôi mà chỉ xin dẫn Balzac và Duhamel là hai văn hào đã viết rất nhiều về cuộc đời của mấy nhân vật đó. Balzac nói:
Tôi cho rằng sở dĩ văn minh tiến bộ và nhân loại được sung sướng là nhờ ba người này”
Nhưng sau khi nhận thức đúng vai trò của người thày thuốc, ông nói thêm:
“Người nhà quê sẳn sàng nghe lời người kê toa cho mình để họ khỏi bệnh hơn là nghe lời ông Cha sở diễn thuyết về việc cứu vớt linh hồn. Một đàng có thể nói chuyện với họ về đồng áng và một đàng, chỉ có thể bàn với họ về thiên đàng, điều mà họ ít quan tâm tới. ”
Còn Duhamel thì viết về ba vị đó như sau:
“Ông luật sư mà ta nhờ cậy để bệnh vực công lý cho ta có thể chọn ngày giờ để tiếp khách. Nếu ông yêu nghề, ông sẽ hăng hái làm việc, dù sao, không có gì cấp bách cả. Đối với thân chủ của ông, dù sao tình thương không quý bằng tài hùng biện, bằng sự khôn khéo, bằng giao thiệp rộng.
Công việc của một nhà tu hành có thể ví với công việc của người thày thuốc. tuy nhiên tôi cần nói ngay là chỉ khi nào hấp hối, người ta mới mời ông Cha Sở. Lương tâm dù bị cắn rứt, đợi đến sáng hôm sau cũng không muộn. Nhưng thường thường khi lên cơn đau vì trong thận có sạn, thì không thể nào đợi được. Ít khi người ta đánh thức ông Cha sở, dù ông này tốt, vì có người ăn năn sám hối; nhưng hơi nhức đầu một tí, có khi chẳng sao cả, đang đêm người ta cũng dựng ông thày thuốc dậy. ”
Các bạn sinh viên thân mến
Tôi vừa phác họa ra đây hình ảnh của một người thày thuốc, xứng đáng với danh từ ấy, suốt đời tận tụy, hi sinh cho người ốm, không quản vất vả, không mấy khi có thì giờ để nghỉ ngơi, giải trí, bữa ăn giấc ngủ thất thường, ngay đến những thú vui trong gia đình cũng không được hưởng, đã thế lại gặp nhiều bội bạc, hoăc có khi bị chính các bạn đồng nghiệp dèm pha, ghen ghét.
Tuy vậy nhưng tôi chưa hề thấy một người thày thuốc nào than phiền về cái nghề của họ, vì đó là một nghề cao đẹp, cao đẹp hơn hết mọi nghề khác cao đẹp ở chỗ tất cả những cảnh khổ não trên thế gian này chỉ càng thắt chặt thêm mối dây liên lạc giữa người thày thuốc với người ốm, không phân biệt giàu sang hay nghèo hèn, cao đẹp ở chỗ chỉ có nghề thuốc mới dung hòa được khoa học với lý trí và tình thương.
Và để kết thúc buổi nói chuyện, kể cũng khá dài rồi, tôi xin mượn lời giáo sư E. Rist, trích trong cuốn: Y học là gì ?(Qu’est-ce la Medicine ?)
“Muốn lúc nào cũng lãnh được hết trách nhiệm tinh thần của nghề chúng ta, chỉ có cách chắc chắn nhất, ấy là chuyên tâm vào nghề của mình, yêu nghề đó tha thiết, và luôn luôn cố gắng để mỗi ngày một tiến.
Người thày thuốc muốn được tín nhiệm cần phải xứng đáng là người thày thuốc, cần phải có một nếp sống giản dị, không xa hoa đàng điếm, phải lập gia đình và ở trong gia đình, nêu một tấm gương thanh bạch đứng đắn.
Người thày thuốc phải sống thực tiễn và sống theo thời đại. Trí tuệ phải được rèn luyện, trau dồi luôn, hợp nhân đạo. Đối tượng của sự học là con người, con người toàn diện.
Người thày thuốc không những nên tìm hiểu con người trên lãnh vực khoa học mà còn cần biết đến đời sống tâm linh nhờ được tiếp xúc với đủ mọi tầng lớp người, nhờ được trông thấy những thử thách của cuộc đời và làm quen với những kiệt tác của nhân tâm, của nghệ thuật và của khoa học.
Sống cho người thân yêu và cho nghề của mình, đó không phải là một đề mục khá đẹp cho một mộ chí hay sao? Và nếu lại còn được cái đặc quyền sống cho Tổ Quốc nữa thì thật là sung sướng vô cùng. Và chung quy có lẽ đó là một cách thẳng thắn nhất để sống cho nhân loại. ”
Tôi thành thật cầu chúc cho các bạn sẽ là người thày thuốc gương mẫu đó.

Chủ Nhật, 20 tháng 2, 2011

Hiến pháp 1946 với tư tưởng pháp quyền

Nguyễn Sĩ Dũng

60 năm đã trôi qua kể từ mùa thu năm ấy. Sống mãi với thời gian là các giá trị của Cách mạng tháng Tám: độc lập, tự do, dân chủ. Sống mãi với thời gian là tư tưởng pháp quyền kết tinh trong bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Bản hiến pháp đó còn được gọi là Hiến pháp 1946.
Hiến pháp 1946 là một bản hiến văn hết sức ngắn gọn, súc tích. Toàn bộ bản hiến văn chỉ gồm 70 điều. Trong đó có những điều chỉ vẻn vẹn một dòng. (Ví dụ Điều 12 được viết như sau: "Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm"). Một trong những lý do giải thích sự ngắn gọn này là: Hiến pháp 1946 đã được thiết kế theo tư tưởng pháp quyền.
Nếu pháp quyền là những nguyên tắc và phương thức tổ chức quyền lực sao cho lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ thì Hiến pháp năm 1946 đã phản ánh đúng tinh thần đó.
Trước hết, để lạm quyền không thể xảy ra thì hiến pháp đã được đặt cao hơn nhà nước. Về mặt lý luận, điều này có thể đạt được bằng hai cách: 1- Hiến pháp phải do Quốc hội lập hiến thông qua; 2- Hoặc hiến pháp phải do toàn dân thông qua. Hiến pháp 1946 đã thực sự do một Quốc hội lập hiến thông qua. Theo quy định của Hiến pháp 1946, nước ta không có Quốc hội mà chỉ có Nghị viện nhân dân với nhiệm kỳ ba năm. Như vậy, nếu không có chiến tranh, sau khi thông qua hiến pháp, Quốc hội sẽ tự giải tán để tổ chức bầu Nghị viện nhân dân. Nghị viện nhân dân không thể tự mình sửa đổi Hiến pháp. Mọi sự sửa đổi, bổ sung đều phải đưa ra toàn dân phúc quyết (Điều 70 Hiến pháp 1946).
Hai là các quyền của người dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm. Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thì cao hơn là nhà nước ghi nhận và bảo đảm. Vì rằng nếu nhà nước ghi nhận và bảo đảm thì quyền chủ động là thuộc nhà nước, nhưng nếu hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thì nhà nước không có quyền chủ động ở đây.
Ba là quyền năng giữa các cơ quan nhà nước được phân chia khá rõ và nhiều cơ chế kiểm tra và giám sát lẫn nhau đã được thiết kế. Ví dụ "quyền kiểm soát và phê bình Chính phủ" của Ban thường vụ Nghị viện (Điều 36 Hiến pháp1946); quyền của "nghị viên không bị truy tố vì lời nói hay biểu quyết trong Nghị viện" (Điều 40 Hiến pháp1946); Thủ tướng có quyền nêu vấn đề tín nhiệm để Nghị viện biểu quyết (Điều 54 Hiến pháp 1946)...
Bốn là quyền năng giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương cũng được phân chia rất rõ. Nghị viện nhân dân chỉ quyết định những vấn đề "chung cho toàn quốc" (Điều 23 Hiến pháp 1946). Hội đồng nhân dân được quyền quyết định "những vấn đề thuộc địa phương mình" (Điều 59 Hiến pháp 1946).
Cuối cùng, vai trò độc lập xét xử của toà án được bảo đảm. Điều này đạt được nhờ hai cách: một là các toà được thiết kế không theo cấp hành chính (Điều 63 Hiến pháp 1946); hai là khi xét xử, thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp" (Điều 69 Hiến pháp ).

Nội dung của bản Hiến pháp đầu tiên
HIẾN PHÁP NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
(Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thông qua ngày 9-11-1946).

LỜI NÓI ĐẦU

Cuộc cách mạng tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hoà.
Sau tám mươi năm tranh đấu, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân, đồng thời đã gạt bỏ chế độ vua quan. Nước nhà đã bước sang một quãng đường mới.
Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ.
Được quốc dân giao cho trách nhiệm thảo bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Quốc hội nhận thấy rằng Hiến pháp Việt Nam phải ghi lấy những thành tích vẻ vang của Cách mạng và phải xây dựng trên những nguyên tắc dưới đây:
Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.
Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.
Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
Với tinh thần đoàn kết, phấn đấu sẵn có của toàn dân, dưới một chính thể dân chủ rộng rãi, nước Việt Nam độc lập và thống nhất tiến bước trên đường vinh quang, hạnh phúc, cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hoà bình của nhân loại.

CHƯƠNG I
CHÍNH THỂ

Điều thứ 1
Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà.
Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo.

Điều thứ 2
Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân chia.

Điều thứ 3
Cờ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nền đỏ, giữa có sao vàng năm cánh.
Quốc ca là bài Tiến quân ca.
Thủ đô đặt ở Hà Nội.
CHƯƠNG II
NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN LỢI CÔNG DÂN

MỤC A
NGHĨA VỤ

Điều thứ 4:
Mỗi công dân Việt Nam phải:
Bảo vệ Tổ quốc
Tôn trọng Hiến pháp
Tuân theo pháp luật.

Điều thứ 5
Công dân Việt Nam có nghĩa vụ phải đi lính.

MỤC B
QUYỀN LỢI

Điều thứ 6
Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá.

Điều thứ 7
Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình.
Điều thứ 8
Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung.

Điều thứ 9
Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện.

Điều thứ 10
Công dân Việt Nam có quyền:
Tự do ngôn luận
Tự do xuất bản
Tự do tổ chức và hội họp
Tự do tín ngưỡng
Tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài.

Điều thứ 11
Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam.
Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật.

Điều thứ 12
Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm..

Điều thứ 13
Quyền lợi các giới cần lao trí thức và chân tay được bảo đảm.

Điều thứ 14
Những người công dân già cả hoặc tàn tật không làm được việc thì được giúp đỡ. Trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng.

Điều thứ 15
Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình.
Học trò nghèo được Chính phủ giúp.
Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình Nhà nước.

Điều thứ 16
Những người ngoại quốc tranh đấu cho dân chủ và tự do mà phải trốn tránh thì được trú ngụ trên đất Việt Nam.

MỤC C
BẦU CỬ, BÃI MIỄN VÀ PHÚC QUYẾT

Điều thứ 17
Chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu. Bỏ phiếu phải tự do, trực tiếp và kín.

Điều thứ 18
Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ những người mất trí và những người mất công quyền.
Người ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ.
Công dân tại ngũ cũng có quyền bầu cử và ứng cử.
Điều thứ 19
Cách thức tuyển cử sẽ do luật định.

Điều thứ 20
Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra, theo Điều thứ 41 và 61.

Điều thứ 21
Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia, theo Điều thứ 32 và 70.

CHƯƠNG III
NGHỊ VIỆN NHÂN DÂN

Điều thứ 22
Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Điều thứ 23
Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài.

Điều thứ 24
Nghị viện nhân dân do công dân Việt Nam bầu ra. Ba năm bầu một lần.
Cứ 5 vạn dân thì có một nghị viên.
Số nghị viên của những đô thị lớn và những địa phương có quốc dân thiểu số sẽ do luật định.

Điều thứ 25
Nghị Viên không phải chỉ thay mặt cho địa phương mình mà còn thay mặt cho toàn thể nhân dân.

Điều thứ 26
Nghị viện nhân dân tự thẩm tra xem các nghị viên có được bầu hợp lệ hay không.

Điều thứ 27
Nghị viện nhân dân bầu một Nghị trưởng, hai Phó nghị trưởng, 12 uỷ viên chính thức, 3 uỷ viên dự khuyết để lập thành Ban thường vụ.
Nghị trưởng và Phó nghị trưởng kiêm chức Trưởng và Phó trưởng Ban thường vụ.

Điều thứ 28
Nghị viện nhân dân mỗi năm họp hai lần do Ban thường vụ triệu tập vào tháng 5 và tháng 11 dương lịch.
Ban thường vụ có thể triệu tập hội nghị bất thường nếu xét cần.
Ban thường vụ phải triệu tập Nghị viện nếu một phần ba tổng số nghị viên hoặc Chính phủ yêu cầu.

Điều thứ 29
Phải có quá nửa tổng số nghị viên tới họp, hội nghị mới được biểu quyết.
Nghị viện quyết nghị theo quá nửa số nghị viên có mặt.
Nhưng muốn tuyên chiến thì phải có hai phần ba số nghị viện có mặt bỏ phiếu thuận.

Điều thứ 30
Nghị viện họp công khai, công chúng được vào nghe.
Các báo chí được phép thuật lại các cuộc thảo luận và quyết nghị của Nghị viện.
Trong những trường hợp đặc biệt, Nghị viện có thể quyết nghị họp kín.

Điều thứ 31
Những luật đã được Nghị viện biểu quyết, Chủ tịch nước Việt Nam phải ban bố chậm nhất là 10 hôm sau khi nhận được thông tri. Nhưng trong hạn ấy, Chủ tịch có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại. Những luật đem ra thảo luận lại, nếu vẫn được Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch phải ban bố.

Điều thứ 32
Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý.
Cách thức phúc quyết sẽ do luật định.

Điều thứ 33
Khi nào hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý, Nghị viện có thể tự giải tán. Ban thường vụ thay mặt Nghị viện tuyên bố sự tự giải tán ấy.

Điều thứ 34
Khi Nghị viện nhân dân đã hết hạn hoặc chưa hết hạn mà tự giải tán thì Ban thường vụ giữ chức quyền cho đến khi bầu lại Nghị viện nhân dân mới.

Điều thứ 35
Hai tháng trước khi Nghị viện nhân dân hết hạn, Ban thường vụ tuyên bố cuộc bầu cử lại. Cuộc bầu cử mới phải làm xong trong hai tháng trước ngày Nghị viện hết hạn.
Khi Nghị viện nhân dân tự giải tán, Ban thường vụ tuyên bố ngay cuộc bầu cử lại. Cuộc bầu cử mới làm xong trong hai tháng sau ngày Nghị viện tự giải tán.
Chậm nhất là một tháng sau cuộc bầu cử, Ban thường vụ phải họp Nghị viện nhân dân mới.
Trong khi có chiến tranh mà nghị viện hết hạn thì Nghị viện hoặc Ban thường vụ có quyền gia hạn thêm một thời gian không nhất định. Nhưng chậm nhất là sáu tháng sau khi chiến tranh kết liễu thì phải bầu lại Nghị viện.

Điều thứ 36
Khi Nghị viện không họp, Ban thường vụ có quyền:
A) Biểu quyết những dự án sắc luật của Chính phủ. Những sắc luật đó phải đem trình Nghị viện vào phiên họp gần nhất để Nghị viện ưng chuẩn hoặc phế bỏ.
B) Triệu tập Nghị viện nhân dân.
C) Kiểm soát và phê bình Chính phủ.

Điều thứ 37
Phải có quá nửa tổng số nhân viên bỏ phiếu thuận, những nghị quyết của Ban thường vụ mới có giá trị.

Điều thứ 38
Khi Nghị viện không họp được, Ban thường vụ cùng với Chính phủ có quyền quyết định tuyên chiến hay đình chiến.

Điều thứ 39
Đầu mỗi khoá họp, sau khi Ban thường vụ báo cáo công việc, vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm Ban thường vụ có thể nêu ra, nếu có một phần tư tổng số nghị viên yêu cầu. Toàn Ban thường vụ phải từ chức nếu không được tín nhiệm. Nhân viên Ban thường vụ cũ có thể được bầu lại.

Điều thứ 40
Nếu chưa được Nghị viện nhân dân đồng ý hay trong lúc Nghị viện không họp mà chưa được Ban thường vụ đồng ý thì Chính phủ không được bắt giam và xét xử những nghị viên.
Nghị viên không bị truy tố vì lời nói hay biểu quyết trong Nghị viện.
Trong trường hợp phạm pháp quả tang, Chính phủ có thể bắt giam nghị viên ngay nhưng chậm nhất là 24 giờ phải thông tri cho Ban thường vụ. Ban thường vụ hoặc Nghị viện sẽ định đoạt.
Khi một nghị viên mất quyền ứng cử thì đồng thời mất cả tư cách nghị viên.

Điều thứ 41
Nghị viện phải xét vấn đề bãi miễn một nghị viên khi nhận được đề nghị của một phần tư tổng số cử tri tỉnh hay thành phố đã bầu ra nghị viên đó. Nếu hai phần ba tổng số nghị viên ưng thuận đề nghị bãi miễn thì nghị viên đó phải từ chức.

Điều thứ 42
Phụ cấp của các nghị viên sẽ do luật định.

CHƯƠNG IV
CHÍNH PHỦ

Điều thứ 43
Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Điều thứ 44
Chính phủ gồm có Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Phó chủ tịch và Nội các.
Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng. Có thể có Phó Thủ tướng.

Điều thứ 45
Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong Nghị viện nhân dân và phải được hai phần ba tổng số nghị viện bỏ phiếu thuận.
Nếu bỏ phiếu lần đầu mà không đủ số phiếu ấy, thì lần thứ nhì sẽ theo đa số tương đối.
Chủ tịch nước Việt Nam được bầu trong thời hạn 5 năm và có thể được bầu lại.
Trong vòng một tháng trước khi hết nhiệm kỳ của Chủ tịch, Ban thường vụ phải triệu tập Nghị viện để bầu Chủ tịch mới.

Điều thứ 46
Phó chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong nhân dân và bầu theo lệ thường.
Nhiệm kỳ của Phó chủ tịch theo nhiệm kỳ của Nghị viện.
Phó chủ tịch giúp đỡ Chủ tịch.
Khi Chủ tịch từ trần hay từ chức thì Phó chủ tịch tạm quyền Chủ tịch. Chậm nhất là hai tháng phải bầu Chủ tịch mới.

Điều thứ 47
Chủ tịch nước Việt Nam chọn Thủ tướng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết. Nếu được Nghị viện tín nhiệm, Thủ tướng chọn các Bộ trưởng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết toàn thể danh sách. Thứ trưởng có thể chọn ngoài Nghị viện và do Thủ tướng đề cử ra Hội đồng Chính phủ duyệt y.
Nhân viên Ban thường vụ Nghị viện không được tham dự vào Chính phủ.

Điều thứ 48
Nếu khuyết Bộ trưởng nào thì Thủ tướng thoả thuận với Ban thường vụ để chỉ định ngay người tạm thay cho đến khi Nghị viện họp và chuẩn y.

Điều thứ 49
Quyền hạn của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà:
A) Thay mặt cho nước.
B) Giữ quyền Tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân, không quân.
C) Ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng, nhân viên Nội các và nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ.
D) Chủ toạ Hội đồng Chính phủ.
Đ) Ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị.
E) Thưởng huy chương và các bằng cấp danh dự.
G) Đặc xá.
H) Ký hiệp ước với các nước.
I) Phái đại biểu Việt Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao của các nước.
K) Tuyên chiến hay đình chiến theo như Điều 38 đã định.

Điều thứ 50
Chủ tịch nước Việt Nam không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc.

Điều thứ 51
Mỗi khi truy tố Chủ tịch, Phó chủ tịch hay một nhân viên Nội các về tội phản quốc, Nghị viện sẽ lập một Toà án đặc biệt để xét xử.
Việc bắt bớ và truy tố trước Toà án một nhân viên Nội các về thường tội phải có sự ưng chuẩn của Hội đồng Chính phủ.

Điều thứ 52
Quyền hạn của Chính phủ:
A) Thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện.
B) Đề nghị những dự án luật ra trước Nghị viện.
C) Đề nghị những dự án sắc luật ra trước Ban thường vụ, trong lúc Nghị viện không họp mà gặp trường hợp đặc biệt.
D) Bãi bỏ những mệnh lệnh và nghị quyết của cơ quan cấp dưới, nếu cần.
Đ) Bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong các cơ quan hành chính hoặc chuyên môn.
E) Thi hành luật động viên và mọi phương sách cần thiết để giữ gìn đất nước.
G) Lập dự án ngân sách hàng năm.

Điều thứ 53
Mỗi Sắc lệnh của Chính phủ phải có chứ ký của Chủ tịch nước Việt Nam và tuỳ theo quyền hạn các Bộ, phải có một hay nhiều vị Bộ trưởng tiếp ký. Các vị Bộ trưởng ấy phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện.

Điều thứ 54
Bộ trưởng nào không được Nghị viên tín nhiệm thì phải từ chức.
Toàn thể Nội các không phải chịu liên đới trách nhiệm về hành vi một Bộ trưởng.
Thủ tướng phải chịu trách nhiệm về con đường chính trị của Nội các. Nhưng Nghị viện chỉ có thể biểu quyết về vấn đề tín nhiệm khi Thủ tướng, Ban thường vụ hoặc một phần tư tổng số Nghị viện nêu vấn đề ấy ra.
Trong hạn 24 giờ sau khi Nghị viện biểu quyết không tín nhiệm Nội các thì Chủ tịch nước Việt Nam có quyền đưa vấn đề tín nhiệm ra Nghị viện thảo luận lại. Cuộc thảo luận lần thứ hai phải cách cuộc thảo luận lần thứ nhất là 48 giờ. Sau cuộc biểu quyết này, Nội các mất tín nhiệm phải từ chức.

Điều thứ 55
Các Bộ trưởng phải trả lời bằng thư từ hoặc bằng lời nói những điều chất vấn của Nghị viện hoặc của Ban thường vụ. Kỳ hạn trả lời chậm nhất là 10 ngày sau khi nhận được thư chất vấn.

Điều thứ 56
Khi Nghị viện hết hạn hoặc tự giải tán, Nội các giữ chức quyền cho đến khi họp Nghị viện mới.

CHƯƠNG V
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ UỶ BAN HÀNH CHÍNH

Điều thứ 57
Nước Việt Nam về phương diện hành chính gồm có ba bộ: Bắc, Trung, Nam. Mỗi bộ chia thành tỉnh, mỗi tỉnh chia thành huyện, mỗi huyện chia thành xã.

Điều thứ 58
Ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có Hội đồng nhân dân do đầu phiếu phổ thông và trực tiếp bầu ra.
Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra Uỷ ban hành chính.
Ở bộ và huyện, chỉ có Uỷ ban hành chính. Uỷ ban hành chính bộ do Hội đồng các tỉnh và thành phố bầu ra. Uỷ ban hành chính huyện do Hội đồng các xã bầu ra.

Điều thứ 59
Hội đồng nhân dân quyết nghị về những vấn đề thuộc địa phương mình. Những nghị quyết ấy không được trái với chỉ thị của các cấp trên.
Uỷ ban hành chính có trách nhiệm:
A) Thi hành các mệnh lệnh của cấp trên.
B) Thi hành các nghị quyết của Hội đồng nhân dân địa phương mình sau khi được cấp trên chuẩn y.
C) Chỉ huy công việc hành chính trong địa phương.
Điều thứ 60
Uỷ ban hành chính chịu trách nhiệm đối với cấp trên và đối với Hội đồng nhân dân địa phương mình.
Điều thứ 61
Nhân viên Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính có thể bị bãi miễn.
Cách thức bãi miễn sẽ do luật định.

Điều thứ 62
Một đạo luật sẽ định rõ những chi tiết tổ chức các Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính.

CHƯƠNG VI
CƠ QUAN TƯ PHÁP

Điều thứ 63
Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà gồm có:
A) Toà án tối cao.
B) Các toà án phúc thẩm.
C) Các toà án đệ nhị cấp và sơ cấp.

Điều thứ 64
Các viên thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm.

Điều thứ 65
Trong khi xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với thẩm phán nếu là việc đại hình.

Điều thứ 66
Quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói của mình trước Toà án.

Điều thứ 67
Các phiên toà án đều phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt.
Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư.

Điều thứ 68
Cấm không được tra tấn, đánh đập, ngược đãi những bị cáo và tội nhân.

Điều thứ 69
Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp.

CHƯƠNG VII
SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP

Điều thứ 70
Sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức sau đây:
A) Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu cầu.
B) Nghị viện bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi.
C) Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết.



Tuyên ngôn Độc lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa


Hỡi đồng bào cả nước,
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo hộ" được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.
Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.
Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
Vì những lẽ trên, chúng tôi, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.

Thứ Sáu, 18 tháng 2, 2011

HÌNH ẢNH CHỤP TẠI BIÊN GIỚI PHÍA BẮC - 1979

Xem thêm:
Những bức ảnh quý về chiến tranh Việt Nam
The Vietnam War in pictures

Những hình ảnh chân thực về những ngày đầu đánh trả quân xâm lược Trung Quốc trên toàn tuyến biên giới phía Bắc (tháng 2-1979).

Thám báo Trung Quốc bị bắt khi đột nhập vào Việt Nam
Chiến sĩ Công an Vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng) Lê Đình Chinh bị lính Trung Quốc sát hại khi ngăn cản các hành vi khiêu khích, thời điểm trước 17-2-1979

Trước Ải Nam Quan

Lính TQ vượt sông tràn vào VN
Xe tăng Trung Quốc tràn qua biên giới vào Việt Nam (17-2-1979)

Hỏa lực của lính Trung Quốc tấn công, đánh chiếm điểm cao Hà Giang
Thị xã Lạng Sơn bị lính Trung Quốc phá hủy (2-1979)

Đạn pháo Trung Quốc tàn phá Cao Bằng.

Lính Trung Quốc đánh chiếm thị xã Cao Bằng (17-2-1979)

Bệnh viện Trùng Khánh ( Cao Bằng) đổ nát

Cầu Kỳ Cùng (Lạng Sơn) bị đánh sập (2-1979)

Lính TQ phá đường tàu.

Người dân thị xã Cao Bằng giữa đường sơ tán (2-1979)

Dùng không quân chuyển quân từ chiến trường K ra tiếp viện cho biên giới phía Bắc (2-1979)

Thay quân lên chốt (Cao Bằng 1979)

Gùi nước tiếp tế cho đồng đội trên điểm cao (Vị Xuyên, Hà Giang 1980)

Tổ nuôi quân theo sát chiến sĩ lên chiến hào

Vạn chuyển vũ khí cho trận địa bằng trực thăng

Chuyển hàng lên biên giới
Điểm danh quân số trước khi hành quân lên chốt (Lào Cai, 1979)


Nữ chiến sĩ thông tin đảm bảo liên lạc tại trận địa Lào Cai (1979)

Nữ dân quân Móng Cái, Quảng Ninh sẵn sàng giáng trả địch

Quân dân Hà Nội sẵn sàng bảo vệ Tổ Quốc

Và họ phải đền tội

Người chết ngổn ngang trên núi Lão Sơn

1 lính Trung Quốc bị bắn gục khi định cắm cờ chiếm điểm cao tại Lạng Sơn

Lính sơn cước Trung Quốc bị tiêu diệt trên đường mòn sang Việt Nam

Xe tăng Trung Quốc bị tiêu diệt tại mặt trận Cao Bằng (2-1979)



Máy bay Mig của Trung Quốc xâm nhập không phận Việt Nam và bị bắn hạ

Lãnh đạo Bộ Quốc phòng kiểm tra, chỉ huy bộ đội trên biên giới

Lính Trung Quốc bị bắt làm tù binh (1979)

Tù binh Trung Quốc bị bắt sống tại mặt trận Hoàng Liên Sơn
Lại là tù binh Trung Quốc

Tù binh TQ- bài học mà Đặng Tiểu Bình muốn dạy Việt Nam là thế này chăng?