Chỉ tiếc rằng trong hai quyển Mùa hè năm Petrus và Chú chiếu bóng, nhà ảo thuật, tay đánh bài và tụi con nít xóm nhỏ Sài Gòn năm ấy, tôi chưa tải được hết những ký ức về Sài Gòn qua dòng sông tuổi thơ...
Rạp Trần Hưng Đạo. Ảnh tư liệu
|
Đã có rất nhiều người viết về Sài Gòn. Đã có rất nhiều sách ảnh về Sài Gòn. Và sẽ còn rất nhiều, nhiều người nữa sẽ viết về Sài Gòn. Viết theo cách của họ. Theo cảm tình của họ. Theo ký ức của họ. Và bài viết nào cũng hay. Cũng đẹp. Cũng lung linh. Vì Sài Gòn là như vậy. Không thể khác hơn.
1. Phải thú thật một điều rằng tôi rất ít biết về Sài Gòn qua những diện mạo kiến trúc, hình hài của nó khi tôi còn nhỏ. Vì Sài Gòn của tôi lúc ấy chỉ là Chợ Lớn. Chợ Lớn của những năm 1960. Con đường nhỏ Phạm Văn Chí. Trường tiểu học Bình Tây (nay là Trường Nguyễn Huệ). Là bến Bình Đông (bây giờ là đại lộ Đông Tây) với những cái “chành” (kho) chứa gạo thương hồ đầy mồ hôi những người làm nghề vác gạo.
Một khoảng không gian rộng lớn của hiện nay như khoảng trống lớn của ký ức khi tôi bồi hồi nhớ lại những căn nhà của người Hoa có kiến trúc theo kiểu Pháp. Những ngôi nhà có kiến trúc dạng này còn sót lại một vài căn ở đường Gò Công, Trần Bình, Bãi Sậy.
Tuổi thơ của tôi trôi theo những rạp hát nhỏ như rạp Vĩnh Khánh cũ kỹ khu Cầu Bót, rạp Tân Lạc, Tân Bình. Khu thị tứ Sài Gòn với những chiếc xe hơi Renault, Deux Chevaux...; những cao ốc, những anh, những chị ăn mặc xinh đẹp vô cùng xa lạ với thằng nhỏ xóm nghèo. Họa hoằn lắm tôi mới được theo má đi xem cải lương ở rạp Quốc Thanh, Hưng Đạo. Sài Gòn lúc ấy thật hào nhoáng như là một thế giới khác bước ra từ trong cổ tích.
Khoảng năm 1964 khi tôi 11 tuổi, tôi mới biết được thế nào là thế giới của “văn minh”. Ba tôi - một viên cảnh sát quèn, được nhận nhiệm vụ gác trước cửa Ngân hàng BFC trong thương xá Tax.
Thi thoảng tôi được ba chở ra thương xá Tax để nhìn người đi qua đi lại trong ánh điện sáng choang, trong mùi dầu thơm sực nức. Những cửa hàng bán băng, đĩa phát giọng ca Bạch Yến, Tini Young. Những quán ăn hột gà lộn 11 ngày, lade 33 sủi bọt... đập vào mắt tôi, mùi thơm của thức ăn ngào ngạt xộc vào mũi tôi đầy thèm muốn.
Nhiều lúc chán đi qua đi lại trong khu thương xá với ánh đèn rực rỡ ban ngày, tôi đi bộ lon ton vượt qua con đường Nguyễn Huệ đầy những kiôt bán hoa, bán báo, đi dọc theo con đường Lê Lợi hướng về trụ sở Hạ nghị viện (nay là Nhà hát TP). Thi thoảng tại đây có những buổi triển lãm tranh của các họa sĩ với những bức tranh treo đầy trên tường.
Chẳng có người xem tranh nào nhỏ bằng tôi. Và có lẽ cũng chẳng ai để ý vì tưởng tôi là con, em của một khách xem tranh nào đó. Thằng nhỏ tha hồ thơ thẩn nhìn những bức tranh, loáng thoáng mơ hồ về màu sắc, mù tịt về đường nét; tự hỏi tại sao người ta không vẽ tranh theo kiểu của những họa sĩ Lê Trung, Lê Minh, Hoàng Lương với những thiếu nữ mặc áo bà ba, gương mặt bầu bĩnh trong các bức tranh tứ bình về những câu chuyện cổ tích Trầu cau, Lưu Bình - Dương Lễ hay những bức tranh trên bìa các tờ báo xuân Sài Gòn Mới, Tiếng Chuông, Đuốc Nhà Nam... mà ba tôi hay mua.
Tôi được vỡ lòng về nghệ thuật hội họa từ lúc đó để lớn lên tôi mới biết mình đã gặp họa sĩ tài danh Văn Đen hay các họa sĩ Nguyễn Trung, Trịnh Thanh Tùng, Nghiêu Đề, Hiếu Đệ... từ thời các ông còn trẻ. Hạnh phúc thay những gương mặt đã đi qua trong đời mình từ sự hồi tưởng.
Lớn lên một chút và thời may tôi thi đậu vào đệ thất Trường trung học Petrus Trương Vĩnh Ký, tôi mới dần được bước chân vào “lãnh địa” Sài Gòn và bắt đầu bước chân rong chơi như thơ Bùi Giáng: “Sài Gòn Chợ Lớn rong chơi. Đi lên đi xuống đã đời du côn”.
Tôi đi lên đi xuống Sài Gòn - Chợ Lớn bằng con đường Trần Hưng Đạo và Đồng Khánh (nay là Trần Hưng Đạo B). Từ đầu bến xe buýt Sài Gòn, ngay nhà ga xe lửa, tôi đạp xe một mạch đến đường Học Lạc, tận cùng của đường Đồng Khánh, nơi có nhà thờ nổi tiếng về lịch sử tôn giáo, kiến trúc cũng như lịch sử chính trị: nơi ẩn náu của tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ cố vấn Ngô Đình Nhu trước khi bị giết bởi tay Nguyễn Văn Nhung.
Suốt con đường Sài Gòn - Chợ Lớn rong chơi này là những rạp chiếu phim, cải lương “khét tiếng” như Đại Nam, Nguyễn Văn Hảo, Hưng Đạo, Oscar, vũ trường Tháp Ngà một thời nức tiếng ăn chơi... đã làm cho bước chân tôi gần hơn, nhẹ hơn trên chiếc xe đạp cà tàng thời Bảo Đại...
Nhà sách Khai Trí . Ảnh tư liệu
|
2. Khi vào Trung học Petrus Ký, tôi được mở mang về văn hóa khi có những buổi chiều “cúp cua” (trốn học) đạp xe vào thư viện Abraham Lincoln ở công trường Lam Sơn (đối diện thương xá Tax) để tìm đọc thêm những quyển sách bổ sung cho chương trình học.
Nếu có tiền thì hai, ba thằng bạn chạy qua góc Pasteur - Lê Lợi để ăn bánh mì phá lấu chế tương đen của bà già người Tàu rồi uống nước mía Viễn Đông, ngon không thể tả. Sau đó tiếp tục đi dọc theo con đường Lê Lợi, đến khu hàng sách lộ thiên bên hông Bộ Công chánh, nơi những cuốn sách đứng đắn như triết, văn học nằm chung với những quyển Playboy, Penthouse đầy hấp dẫn và ma mị đối với những thằng nhỏ như tôi.
Thoát khỏi sự cám dỗ này chỉ còn cách vào một nhà sách lớn nhất Sài Gòn: Khai Trí (bây giờ là nhà sách Fahasa). Vừa bước vào nhà sách, từ trên trần nhà ông Nguyễn Hùng Trương đã cho treo một tấm bảng với dòng chữ được viết to bản: “Để lại cho con một rương vàng không bằng để lại một rương sách”. Đây là tiệm sách lớn nhất Sài Gòn thời ấy.
Trong nhà sách Khai Trí, người ta có thể tìm được tất cả những loại sách đứng đắn về học thuật, học làm người, rèn luyện kỹ năng để bước vào đời, sách giáo khoa. Những tiểu thuyết như loại Cậu Chó (tiểu thuyết dâm ô của Trần Đức Lai) không thể nào có mặt trong nhà sách này. Bên cạnh nhà sách Khai Trí là một loạt nhà sách như Dân Trí, Vĩnh Bảo, Thanh Tuân, Phúc Thành, Văn Hữu, Nguyễn Trung...
Chính những nhà sách lớn nằm san sát trên đại lộ Lê Lợi chen chúc cùng các cửa hàng đồng hồ, quần áo tạo nên một bộ mặt văn hóa cho con đường lớn và tiêu biểu nhất cho Sài Gòn lúc ấy. Đường Lê Lợi không phải là con đường chỉ có ăn uống như kem Bạch Đằng, như nhà hàng Thanh Thế... lai rai buổi chiều, mà còn có cả thức ăn cho những người có nhu cầu nuôi dưỡng tâm hồn, tạo nên sắc thái pha trộn giữa “hình nhi thượng và hình nhi hạ”. |
3. Ấy là chưa kể đến trung tâm phát hành nhạc Diên Hồng. Nơi đây đã cho ra đời những tờ nhạc lá gấp bốn trang, khổ A4. Trang bìa là tranh của các họa sĩ Kha Thùy Châu, Duy Liêm, nhóm CVĐ vẽ.
Hai trang giữa là những dòng nhạc chi chít những nốt nhạc lên xuống và lời của bài hát được in một cách rõ ràng, sạch sẽ. Ai muốn tập đàn, tập hát đều phải mua tờ nhạc này để hát ư ử hay đờn tửng từng tưng trong đêm vắng để mong muốn cưa đổ cô gái hàng xóm cạnh nhà.
Điển hình là bài hát có lời “Ước gì nhà mình chung vách, hai đứa mình thức suốt đêm nay” được sửa lời thành “Ước gì nhà mình chung vách, anh đào tường, khoét vách chui qua”. Nhạc lá không chỉ có những bài hát thời thượng như vậy mà còn có những bài “cao siêu” như Hương xưa (Cung Tiến), Serenade (Phạm Duy đặt lời), nhẹ nhàng thì có Bài không tên số 1, 2, 3... (Vũ Thành An), Diễm xưa (Trịnh Công Sơn)...
Những tấm nhạc lá này đã đưa nhạc, nhạc sĩ đến gần với người yêu nhạc. Đó cũng có thể là món quà rất ư là văn nghệ, văn gừng để tặng nhau, để thể hiện nỗi lòng. Khi cô gái mua bản Hờn anh, giận em gửi cho chàng trai thì chàng hiểu ngay nàng đang giận. Hoặc khi nàng bỏ chàng thì chàng tặng nàng bản nhạc Tôi đưa em sang sông (Y Vũ) với tấm lòng chua chát “... nàng đã quên một lối về” (lời bài hát).
Có những người mê say nhạc lá đến độ mua và đóng thành tập để đàn, để hát hay lâu lâu giở ra coi cho đỡ buồn. Nhà Diên Hồng có công rất lớn với giới nhạc sĩ cỡ Duy Khánh, Trần Thiện Thanh, Vũ Thành An, Song Ngọc, Anh Bằng và rất nhiều nhạc sĩ trẻ, vậy mà bây giờ ít ai nhắc đến.
Chỉ tiếc rằng trong hai quyển Mùa hè năm Petrus và Chú chiếu bóng, nhà ảo thuật, tay đánh bài và tụi con nít xóm nhỏ Sài Gòn năm ấy, tôi chưa tải được hết những ký ức về Sài Gòn qua dòng sông tuổi thơ... Dòng sông mà khi lớn lên tôi hiểu rằng mình không đứng từ ngoài để nhìn ngắm vì nó vốn tự có trong tôi như một mạch sống ngầm.
Tôi không hề biết đến nó cho đến khi lớn lên, tách xa và nhìn lại mới hiểu rằng mình lớn lên và như thế này đây là nhờ nó. À ra thế. Sài Gòn của tôi là như thế này!