VOV.VN - Trước khi chìm trong bóng tối của chiến tranh và bạo lực, Afghanistan từng là một quốc gia phát triển mạnh mẽ về văn hóa, giáo dục, thời trang và cơ sở hạ tầng. Đó từng là nơi mà phụ nữ được đi học, được làm việc và được ăn mặc theo sở thích của mình.
Trang blog này nhằm lưu lại những bài viết của chính tác giả hoặc của những tác giả khác đã viết và công bố trên các ấn phẩm chính thức, trên phương tiện truyền thông đại chúng, và trên mạng Internet, về những vấn đề Kinh Tế, Văn hoá, Xã hội, Y tế & Giáo dục đang cần tìm hiểu...lúc tuổi già. Không biết nói gì hơn, ngoài lời được xin phép và trân trọng cám ơn các bạn có bài đăng lại trên Blog này.
Thứ Hai, 30 tháng 8, 2021
Thứ Bảy, 28 tháng 8, 2021
NĂM THÁNG CHIẾN TRANH
Tác giả: Truyện ngắn Nguyễn Thanh Việt (Viet Thanh Nguyen)
Ngay khi tiểu thuyết thứ hai của ông, Kẻ Dấn Thân, vừa ra mắt vào tháng 3 năm 2021, Nguyễn Thanh Việt được mệnh danh là “lương tâm của nền văn học Mỹ”. Ngòi bút của ông được ví như một thứ “nọc độc” vẫn không ngừng chảy và thanh tẩy những hoen ố trong tâm hồn và giấc mơ của người Mỹ. Không chỉ là một nhà văn được trao giải thưởng thiên tài McArthur, Nguyễn Thanh Việt còn là một học giả và nhà tư tưởng có tầm nhìn vượt thời đại. Trong một bài viết của ông gần đây trên tờ New York Times, Nguyễn Thanh Việt đã khiến cả văn đàn nước Mỹ dậy sóng với câu hỏi giễu cợt đầy nhức nhối: “Nhà văn sẽ làm gì sau làn sóng phẫn nộ từ cuộc bầu cử vừa qua? Phải chăng họ sẽ lại viết về trăng và hoa?”
Với một nền tảng vững chắc về triết học, Nguyễn Thanh Việt tin tưởng mạnh mẽ vào sự kết hợp không thể tách rời giữa mỹ học và chính trị. Trong sự nghiệp của mình, ông dấn thân không mệt mỏi và can thiệp bất thoả hiệp vào nền chính trị của Hoa Kỳ với mong muốn mang lại sự bình đẳng trên toàn xã hội.
Ông hiện là giáo sư trưởng khoa của Khoa Văn học, Hoa Kỳ học, Dân tộc học và Văn học so sánh thuộc trường Đại học Nam California, Mỹ.
Những tác phẩm khác của Nguyễn Thanh Việt bao gồm: Không có gì mất đi bao giờ: Việt Nam và ký ức chiến tranh, Chủng tộc và Sự phản kháng: Văn học và Chính trị của người Mỹ gốc Á, Kẻ ly hương. Cùng với con trai sáu tuổi Ellison của mình, ông cũng đã xuất bản tác phẩm dành cho thiếu nhi có tựa đề Chú gà của biển.
Truyện ngắn Năm tháng chiến tranh là sự tái hiện phần lớn những ký ức và trải nghiệm thời niên thiếu của tác giả tại Mỹ. Qua truyện này, độc giả sẽ hiểu hơn về cuộc sống người Việt ở Mỹ. Càng hiểu hơn vì sao có những người như bà Hoa luôn hô hào chống cộng “Chuyển lửa về quê nhà” để kêu gọi người dân gốc Việt đóng góp tiền, thậm chí không đóng tiền thì bị ép như thế nào cho tổ chức chống cộng cực đoan của họ.
Đặc sắc nhất ở truyện này là khả năng xây dựng nhân vật. Chỉ có 4 nhân vật, những tính cách mỗi người một khác, đối chọi nhau như nước với lửa, qua đó bật lên vấn đề có tầm khái quát độc đáo.
Văn nghệ
Nhà văn Viet Thanh Nguyen |
Trước khi bà Hoa xuất hiện làm xáo trộn cuộc sống của chúng tôi vào mùa hè năm 1983 thì chẳng có gì má tôi làm khiến tôi phải ngạc nhiên cả. Những thói quen thường lệ của má vẫn luôn đều đặn như vòng xoay quả đất, bắt đầu sẽ là tiếng đập liên hồi vào cánh cửa phòng tôi mỗi buổi sáng vào lúc sáu giờ, sáu giờ mười lăm, rồi sáu giờ rưỡi, cho đến khi nào tôi tỉnh dậy mới thôi. Khi tôi bước ra khỏi giường thì má đã ăn mặc chỉn chu, thường thì với một chiếc áo kiểu ngắn tay và chiếc váy tiệp màu nền nã. Má có cả bảy bộ như thế, và mỗi khi má khoác lên người màu hồng phấn thì tôi biết ngay hôm đó là thứ Hai. Trước khi ra khỏi nhà. Má sẽ tắt hết đèn, kiểm tra lại bếp điện, len chặt lại mấy tấm lưới sắt chắn cửa sổ, lúc nào cũng theo trình tự như vậy. Và khi cả nhà lên xe, má dặn tôi phải khoá chặt cửa lại.
Khi ba chở cả nhà trên chiếc Oldsmobile, tôi ngồi ghế sau đọc truyện tranh, còn má thì trang điểm. Mười phút sau khi chúng tôi vừa đến đường St. Patrick thì má đã trang điểm xong, màu phấn hồng trên hai gò má hoà quyện với màu phấn nền trên gương mặt má. Động tác cuối cùng của má là xịt nước hoa vào hai bên cổ. Mùi hương gay gắt của nước hoa theo tôi vào lớp học mùa hè của cô Korman. Ở đó, mỗi ngày tôi nói bằng tiếng Anh bảy giờ liền. Tôi rất thích đi học, cả lớp học hè nữa, vì cũng hệt như một kỳ nghỉ xa nhà, và mỗi khi đến ba giờ chiều là tôi lại cảm thấy hơi thất vọng vì phải đi bộ qua những bốn khu phố để đến cửa hàng tạp hoá của ba má tôi có tên là Chợ Sài Gòn Mới. Ở đó chẳng mấy ai nói tiếng Anh, chỉ toàn rộn ràng tiếng Việt.
Ba má rôi rất hiếm khi rời cửa hàng và quầy tính tiền nằm chếch ngay lối ra vào của tiệm Sài Gòn Mới. Khách hàng lúc nào cũng đông nườm nượp, vì đây là một trong vài cửa hàng ở San Jose mà người Việt có thể tìm thấy những đặc sản và hương vị quê nhà, từ gạo thơm hoa nhài, hoa hồi, nước mắm, và cả ớt chỉ thiên. Người mua mặc cả liên hồi với má về tất cả mọi món, từ đường phèn, thứ mà tôi thường dùng để giả một chất hoá học màu vàng nhằm tiêu diệt sức mạnh của siêu nhân, cho đến hằng hà sa số các loại thịt trong tủ cấp đông, từ sườn heo, cá basa mắt vẫn còn hơi trong, rồi thì lòng các kiểu, và cả chiếc túi nhỏ đựng những quả tim gà be bé và mềm mại như loại nấm hình hột nút.
“Nhà mình bán thêm TV dinners[1] đi được không má?” Có lần tôi hỏi má. Phát âm là TV dinners dễ hiểu hơn vì trong tiếng Việt từ television gọi tắt là cái ti-vi, nhưng lại không có từ tiếng Việt nào khác để chỉ các thứ mà tôi muốn nói đến. “Và cả bologna[2] nữa?” “Cái gì cơ?” Má tôi cau mày hỏi. “Nếu má còn không phát âm nổi từ đó thì làm sao khách hàng muốn mua hàng của má nữa? Thôi, con đi dán tem giá vào đồ hộp tiếp đi”
“Nhưng họ vẫn luôn kỳ kèo để được giảm giá mà”. Tôi lúc đó mười ba tuổi, đã đủ can đảm để nói lên những điều tôi luôn hoài nghi trong lòng, rằng má không phải lúc nào cũng đúng.
“Sao họ cứ phải mặc cả mọi thứ vậy má? Tại sao họ không trả ngay với giá đã niêm yết thế?”
“Vậy con sẽ là người luôn sẵn sàng trả bất kỳ giá nào người khác đòi hỏi sao?” má tôi căn vặn. “Hay con sẽ đấu tranh đến cùng để tìm ra giá trị thật của mọi thứ?”
Tôi cũng không biết nữa. Chỉ biết là tất cả những gì tôi phải làm ở Sài Gòn Mới vào mỗi buổi chiều là dán giá tiền vào các loại hàng hoá và đồ hộp. Khi tôi đang quỳ xuống để lục tìm trong bảng giá phía sau lưng má tôi thì bà Hoa đến và tự giới thiệu. Bà ta cũng trạc tuổi má tôi, tầm khoảng gần năm mươi, ăn mặc rất đơn điệu, áo khoác trắng, quần trắng, và giày trắng; cặp kính mát khiến gương mặt bà càng thêm bí hiểm.
Khi má tôi đang loay hoay gói hàng, bà Hoa lên tiếng, “Tôi đang quyên tiền để chống cộng, bạn yêu quý à”. Tôi thuộc lòng lịch sử của cộng đồng mình như huyền thoại Adam và Eve: những người cộng sản tiến vào giải phóng miền Nam năm 1975, rồi chúng tôi vượt Thái Bình Dương để đến California. Tôi thì chẳng có ký ức gì về chiến tranh, nhưng bà Hoa nói những người khác đều chưa thể quên. Một đội quân du kích của những cựu chiến binh miền Nam Việt Nam đang tập kết ở rừng bên Thái Lan để chuẩn bị cho một cuộc phản công vào Việt Nam. Kế hoạch này nhằm khiêu khích những người bất mãn với chế độ để họ đứng lên chống lại những nhà lãnh đạo cộng sản, tạo nên một cuộc cách mạng để khôi phục nền Việt Nam cộng hoà.
“Các ông ấy cần sự ủng hộ của chúng ta” Bà Hoa nói. “Và chúng tôi cần những công dân tốt như bà đóng góp”
Má tôi cọ cọ hai mắt cá chân vào nhau, làm đôi tất da trầy xước. Một đường rách lộ ra phía sau đầu gối, nhưng má vẫn mang nó cho đến khi rách hẳn đến gót chân. “Giá như tôi có thể giúp bà, bà Hoa à, nhưng ngặt nỗi dạo này khó khăn quá”, má tôi đáp. “Khách hàng mua ít hẳn đi, với lại đang suy thoái kinh tế, và giá xăng thì lên. Con gái chúng tôi lại đang học đại học. Đóng học phí cho nó cũng chẳng khác gì đang trả góp tiền mua nhà mỗi năm vậy”
“Thì tôi cũng chật vật khác khì bà đâu”. Bà Hoa hết mở ra lại cài vào chiếc ví trên tay, ngón đeo chiếc nhẫn cưới bằng vàng mỏng dính. Nước sơn móng tay đỏ chót của bà ta bóng lưỡng như nước sơn của một chiếc xe hơi mới.
“Nhưng người ta đang bàn tán xôn xao. Không biết bà có nghe gì về bà Bình không? Họ nói bả thân cộng, và tất cả cũng chỉ vì bả quá keo kiệt, không muốn cho đi bất cứ thứ gì. Người ta còn nói sẽ tẩy chay cửa hàng của bả”
Má tôi biết bà Bình là chủ tiệm làm đẹp Les Amis, cách cửa hàng nhà tôi vài khu phố, về phía tây trung tâm thành phố, nhưng vội chuyển sang chủ đề thời tiết tháng Sáu và giá vàng. Bà Hoa có vẻ đồng tình về chuyện khí hậu thay đổi, rồi cười phô hàm răng thô kệch đáng sợ. Bà ta liếc nhìn tôi trước khi bước đi và buông một câu với má tôi: “Hãy nghĩ cho kỹ đi, bà chị thân mến. Giành lại quê hương là một lý tưởng cao đẹp mà chúng ta phải tự hào để tranh đấu”. “Đồ ngốc”, má tôi lẩm bẩm sau khi bà Hoa đi khỏi. Trên đường về nhà tối hôm đó, đi qua đường số Mười, má tôi kể lại câu chuyện đó với ba tôi vì lúc chiều ông quá bận rộn nên không nghe được gì từ cuộc đối thoại giữa má với bà Hoa. Khi má nhắc đến du kích, tôi thường hình dung đến những người đàn ông râu ria xồm xoàm, mình mẩy đầy vết muỗi đốt, tóc tai bết vào nhau, quần áo rằn ri sờn rách, sống sót bằng nước mưa, lợn rừng, và côn trùng rận rệp; luyện tập những chiến thuật tay chân và tấn công nhau bằng mấy quả mít. Ngồi ghế sau xe, tôi hỏi với lên, “Má cho bà Hoa bao nhiêu vậy?”
“Không cho gì cả”, má trả lời. “Toàn đi xuyên tạc”
“Nhưng họ đánh nhau với cộng sản”, tôi nói. Cũng như người Trung Quốc và Bắc Hàn, rồi Cu Ba và Sandinistas vẫn đang đe doạ tràn vào từ phía nam biên giới của chúng ta, như tổng thống Reagan giải thích trên Tin tức Thế giới Tối nay. “Lẽ nào chúng ta không giúp họ?”
“Chiến tranh đã qua rồi”. Giọng má tôi mệt mỏi. “Không có chiến đấu gì nữa hết”
Tôi tức tối, vì rõ ràng nhìn vẻ mặt của bà Hoa chứng tỏ chiến tranh vẫn chưa kết thúc, như cái cách mà bà ta đeo bám gia đình tôi từ Sài Gòn của ngày xưa cho đến Sài Gòn của hôm nay. Thêm nữa, tôi đã đọc tờ Newsweek ở văn phòng của nha sĩ và biết rằng chúng tôi vẫn đang ở thời kỳ đỉnh điểm giao tranh giữa đế quốc đen tối và Nga Xô. Nhưng nếu tôi chỉ chưa vừa lòng câu trả lời của má tôi một, thì tôi còn khó chịu với câu trả lời của ba tôi gấp nhiều lần.
“Chiến tranh có thể đã chấm dứt”, ba tôi vừa nói vừa đưa ngón tay út lên ngoáy ngoáy lỗ tai, “nhưng cho họ một ít tiền để họ khỏi quấy rầy cuộc sống của chúng ta có phải dễ hơn không”
Má tôi chỉ im lặng, gõ nhẹ những ngón tay vào tay vịn ghế. Tôi biết má sẽ đồng tình với ba, một ông đầu hói với những những cử động điềm tĩnh và đôi mắt đầy nhẫn nại của loài rùa. Khuya hôm đó, đang khi vội vàng chạy từ bếp lên phòng của mình với ly nước trên tay, tôi nghe thấy má đang cố gắng thuyết phục ba sau cách cửa phòng của họ. Tôi không có thời gian để nghe lỏm xem họ nói gì. Bữa đó, trên lớp của cô Korman chúng tôi đang đọc truyện Ngôi nhà sụp đổ của Usher và cảm giác sợ hãi khi nhìn thấy một ai đó chưa chết trong hành lang tối khiến tôi lao thẳng qua cánh cửa của ba má, chỉ vừa kịp nghe thấy má tôi nói, “Em còn trải qua những điều tồi tệ hơn bà Hoa nhiều”
Nỗi sợ hãi đã chiến thắng sự hiếu kỳ. Tôi đóng sầm cách cửa phòng mình lại và nhảy tót lên giường run cầm cập, đẩy đống sách giáo khoa mùa hè sang một bên, tất cả đều được bao bìa màu nâu mà tôi đã cắt từ những túi mua hàng bằng giấy rồi ghi nguệch ngoạc tiêu đề “Toán” và “Lịch sử Mỹ.” Có lẽ má đang nói đến nạn đói sau thế chiến thứ hai khi má mới chín tuổi. Năm ngoái, một bản tin truyền hình buổi tối về nạn đói ở Ethiopia đã khiến má tôi nhắc lại một nạn đói khác khi tôi đang nhổ tóc bạc cho má. “Con có biết là hàng tá trẻ em trong làng má phải chết đói không?”, má nói, cho dù dĩ nhiên là tôi làm sao mà biết được. “Cả người già nữa, họ chết la liệt trên đường. Một ngày nọ má nhìn thấy cô bé hay chơi cùng với má nằm chết ngay trước cửa nhà cô ấy”. Má chìm sâu vào im lặng, nhìn bất động vào một điểm trên tường, phía trên ti-vi, còn tôi thì chẳng biết nói gì. Chuyện đó má cứ nói đi nói lại mãi, nên dường như tôi chẳng buồn bận tâm để đặt câu hỏi nữa. Má trả công tôi cho mỗi cọng tóc bạc mà tôi tìm nhổ được, và tôi cần tập trung, vì mỗi cọng tôi sẽ có thêm một xu để còn đủ tiền mua tập mới của truyện Captain America.
Trong nhiều ngày đêm qua, má tôi không nhắc gì đến bà Hoa nữa, nhưng người đàn bà đó vẫn khiến má bất an trong lòng. Má bắt đầu nói chuyện trong suốt buổi tối khi cả nhà đang kết toán sổ sách, thời gian mà má thường tập trung hoàn toàn vào việc tính toán hoá đơn trong ngày. Chúng tôi thường ngồi ở bàn ăn, đếm tiền, rồi cuộn tiền xu vào những cuộn giấy như những thỏi pháo, đóng dấu địa chỉ tiệm Sài Gòn Mới vào mặt sau của những tờ check, tem phiếu thực thẩm Monopoly, coupons màu vàng từ quỹ hỗ trợ những gia đình có con nhỏ. Khi tôi tính toán tiền bằng chiếc may tính cơ phát ra âm thanh ro ro, to hơn cả cái điện thoại quay số. Tôi không bao giờ cần nhìn vào bàn phím, vì tôi thuộc lòng vị trí những con số. Đó là lúc duy nhất tôi thấy mình giỏi toán.
Khi cả nhà đang làm công việc kết toán sổ sách hàng ngày, má kể, người ta đồn nhau những cựu chiến binh miền Nam Việt Nam không chỉ đang tập kích tại Thái Lan mà còn thành lập một mặt trận bí mật ở Mỹ với mục tiêu là chống lại những người cộng sản. Đáng buồn hơn là những lời đồn đại này lại khiến những kẻ vô danh đó đánh bom vào văn phòng của một biên tập viên một tờ báo tiếng Việt ở Garden Grove (ông ấy đã tử vong), trong khi một biên tập viên khác thì bị bắn chết cùng với vợ ông ta ngay trước cửa nhà của họ ở Virginia (những tên giết người đó đã tẩu thoát). “Chẳng qua họ đang công khai nói ra những gì mà trước giờ mọi người vẫn thầm thì với nhau”, má vừa nói vừa thấm ngón tay vào miếng mút. “Làm hoà với những người cộng sản có phải tốt hơn không”
Tôi đang mải viết những con số vào sổ kế toán, từ nãy vẫn chưa ngước nhìn lên… Mắt vẫn nhìn xuống quyển sổ kế toán, tôi nói, “nhưng má vẫn luôn nói cộng sản là người xấu đấy thôi”
“Ô-hô!” Ba tôi vừa nói vừa cười như nắc nẻ. “Hoá ra nãy giờ con nghe thấy hết. Đôi khi ba không đoán được con đang nghĩ gì phía sau cặp kính cận dày cui kia đấy”
Má tôi lật qua lật lại sấp tờ hai mươi đôla. Má chưa từng học xong phổ thông, vì ông ngoại bắt má phải ở nhà để chăm sóc các em, nhưng má vẫn biết đếm tiền bằng tay và cộng nhẩm các con số trong đầu còn nhanh hơn cả tôi dùng máy tính. “Người cộng sản chẳng hề tin vào Chúa hay tiền bạc”
“Nhưng họ lại tin vào việc chiếm dụng tiền bạc của người khác”, ba tôi nói... Tôi đã xem phim Star Wars (Chiến tranh giữa các vì sao) hàng tá lần trên băng video, và nếu ai đó nghèo đến nỗi chưa từng được xem nó dù chỉ một lần, thì đó là đất nước cần phải có một cuộc cách mạng. Nhưng má tôi không thì đồng ý. Má cuốn một vòng bằng giấy quanh xấp tiền hai mươi đô và nói, “má chẳng thích cộng sản cũng như chẳng thíc gì bà Hoa, nhưng bà ấy đang muốn bước vào một cuộc chiến mà chắc chắn sẽ thất bại nên má chẳng dại gì quăng tiền vào một mục đích vô nghĩa như thế”
Ba tôi vì muốn chấm dứt cuộc nói chuyện nên đứng dậy và gom hết tiền giấy, xu, séc, và tem phiếu vào túi giả vải mà mỗi sáng ba vẫn mang đến Ngân hàng Mỹ. Ba má tôi giữ một phần lợi nhuận trong ngân hàng, ủng hộ một phần cho nhà thờ, và gửi một phần khác về cho họ hàng ở Việt Nam, những người thi thoảng lại gửi cho chúng tôi những bức thư mỏng dính nhưng lại chất chứa những nỗi niềm mà má lúc nào cũng chỉ gói gọn trong mấy chuyện như không thức ăn, không tiền bạc, không học hành, không hi vọng. Những gì họ hàng của họ và chính họ phải trải qua đã dạy cho ba má tôi một điều rằng không có đất nước nào thoát khỏi thảm hoạ, và do vậy ba má luôn bí mật cất giữ một phần tiền của ở nhà, phòng khi tai hoạ khủng khiếp ập đến quét sạch cả hệ thống ngân hàng của Mỹ. Má tôi dùng ny lông cuộn thành từng cuộn những tờ một trăm đô la rồi dán chặt vào bên dưới các nắp bình nước xả của bồn cầu, vùi những miếng vàng trong gạo và nhét vòng ngọc, dây chuyền vàng hai bốn karat, nhẫn kim cương trong két sắt xách tay chống cháy, giấu dưới các gầm trong nhà. Để đánh lạc hướng trộm, má làm giả đồ trang trí, đặt một bình hoa thuỷ tinh lớn đựng đầy tiền xu trên kệ sách cao bên cạnh cửa ra vào, và một cặp vòng vàng trên nóc tủ ngăn kéo.
Vào tháng Mười năm ngoái, nỗi sợ hãi trộm cướp của má đã thành hiện thực, khi vào một buổi tối thứ Ba không thể nào quên, một người đã gõ cửa nhà tôi. Ba tôi lúc đó đang trong bếp, vừa mới vặn lò nướng lên, và tôi thì tiến về phía cửa, chỉ trước má tôi vài bước chân, trên người má đã mặc sẵn bộ váy ngủ. Khi hé mắt qua lỗ quan sát trên cửa, tôi thấy một ông da trắng, ổng nói, “Ông có thư, thưa ông”. Nếu ông ta nói tiếng Việt hay tiếng Tây Ban Nha thì tôi sẽ chẳng bao giờ mở cửa đâu, thế nhưng ổng lại nói tiếng Anh, nên tôi mở ngay. Ông ta dùng tay trái để đẩy cửa vào nhà, đó là một thanh niên tầm hai mươi tuổi tóc màu rơm dài chấm cổ chiếc áo jean sờn rách. Không cao hơn má tôi mấy, và dáng người khá tầm thước; khi hắn ta cất giọng lên thì âm thanh nghe rin rít như tiếng gót giày cao su trên sàn tập thể thao.
“Lùi lại”, hắn ta nói, trán thì bóng nhẫy mồ hôi và tay phải đang lăm le khẩu súng. Mặc dù đã mấy chục năm trôi qua, nhưng tôi vẫn còn nhớ như in khẩu súng đó, một khẩu súng lục màu đen 22 mà hắn ta lia lia trước mặt và tay thì run lập cập khi bước qua bậc cửa. Hắn đá văng đống giày dép của nhà tôi và quên cả đóng cửa. Má tôi kịp nhận ra sự vụng về của hắn ta, có lẽ đó chỉ là một tên nghiện thiếu thuốc làm liều. Hắn ta chĩa súng vào tôi, rồi má tôi, và nói, “Mày có hiểu tiếng Anh không? Quỳ xuống sàn ngay!”
Tôi lùi lại đằng sau, trong khi má tôi thì giơ hai tay lên trời và nói, “Không, không, không!” Ba tôi lúc đó xuất hiện, trên đường từ bếp tới cửa chính, và tên cướp chĩa súng vào ba rồi ra lệnh, “Quỳ xuống đi ông.” Ba tôi quỳ xuống và giơ hai tay lên cao. “Đừng bắn,” ba nói bằng tiếng Anh, giọng yếu ớt. “Xin làm ơn, đừng bắn”
Tôi chưa từng bao giờ thấy ba tôi quỳ gối bên ngoài nhà thờ, và tôi chưa từng bao giờ thấy má tôi run bắn người vì sợ hãi như thế. Một sự thương cảm dâng lên trong lòng tôi; tôi hiểu rằng đây chưa phải là lần đầu tiên và sẽ không phải là lần cuối cùng mà một ai đó làm nhục ba má tôi như thế. Dường như cảm nhận được suy nghĩ của tôi, gã thanh niên im lặng chĩa súng vào tôi, và tôi cũng phải quỳ xuống. Chỉ có má tôi đã không quỳ mọp hẳn xuống, mà vẫn tựa thẳng lưng vào tường và khuôn mặt má, do vừa mới tẩy sạch lớp trang điểm, giờ trở nên trắng bệch. Gã thanh niên vẫn nhắm khẩu súng vào tôi và nói, “Bà ta muốn gì, hả thằng nhóc con?”
Khi má tôi la lên, âm thanh đó khiến tất cả đứng lặng sửng sốt, trừ má. Má xô gã thanh niên và dùng tay đẩy khẩu súng của hắn sang một bên, rồi má dùng vai va mạnh vào hắn khi chạy vụt ra ngoài. Tên cướp vấp vào kệ sách bên cửa, làm đổ chiếc bình thuỷ tinh đựng đầy tiền xu. Chiếc bình đổ ập xuống đất, vỡ tan tành, làm tất cả tiền cắc, xu, ken các loại văng tung toé khắp nơi, những đồng xu và mảnh vỡ thuỷ tinh lẫn lộn vào nhau. “Chúa ơi!” hắn ta thốt lên. Khi gã cướp quay ra cửa, ba tôi đứng phắt dậy và lao vào lưng hắn ta, xô hắn ra khỏi cửa rồi khép chặt cửa lại. Bên ngoài, tiếng súng nổ một phát đùng đanh thép, viên đạn dội vào vệ đường và găm lên bức tường ngạy cạnh hộp thư, nơi cảnh sát đã đến và gỡ ra vài giờ sau đó.
Vào buổi sáng Chủ nhật trước khi đến nhà thờ, má tôi bôi một chút Brylcreem và dùng một chiếc lược hiệu Ace màu đen để rẽ ngôi ở giữa và tạo kiểu tóc bóng mượt cho tôi. Tuy rất sợ phải nhìn thâý mình như thế, vì giống tên Alfalfa trong quyển Mấy thằng nhãi ranh, nhưng tôi không chống đối, như việc tôi đã không nói gì với má sau khi cảnh sát mang má về từ nhà hàng xóm. “Tôi đã cứu mạng sống của cả nhà, anh là đồ nhát gan!” má tôi la ba khi ông mỉm cười với viên cảnh sát đang lập biên bản tại bàn ăn ở nhà tôi. Quay sang tôi, má nhéo tai tôi và nói, “Má đã dặn con không được mở cửa cho người lạ cơ mà? Sao con không bao giờ nghe lời má vậy?”. Khi cảnh sát biểu tôi dịch, tôi xoa xoa tai và nói, “Má con sợ lắm, thưa chú cảnh sát.”
Cảnh sát không hề bắt được tên cướp, và, sau một thời gian, chẳng còn lý do gì để nhắc đến hắn ta nữa. Dẫu vậy, tôi vẫn thỉnh thoảng nghĩ về hắn, đặc biệt là vào những buổi sáng Chủ nhật đi lễ khi tôi quỳ xong và đứng dậy. Lúc đó khiến tôi nhớ lại lúc tôi nhổm dậy để nhìn má lao vút ra khỏi cửa sổ phòng khách, đi chân đất trên vỉa hè trước mặt tất cả những người đang ngồi trong xe hơi của họ, tay má giơ cao lên trời và trên người chỉ mặc một chiếc áo ngủ, lúc chạng vạng tối, rồi hét lên một tiếng gì đó mà tôi không thể nào nghe rõ. Má đã cứu chúng tôi, và đó chẳng phải là sự cứu rỗi mà ông luôn nhắc đến trong các bài giảng đạo của mình sao, thưa cha Dinh? Theo má tôi kể, lúc cha Dinh chỉ vừa đến tuổi trung niên thì ông đã bắt đầu dẫn dắt giáo dân, bao gồm cả ba má tôi, từ miền Bắc vào miền Nam của Việt Nam năm 1954, sau khi cộng sản đánh đuổi thực dân Pháp và lấy lại toàn miền Bắc. Thật kỳ diệu là cha Dinh vẫn còn nhiều tóc hơn ba tôi, một lọn tóc bạc sáng lấp lánh dưới ánh sáng đang soi chiếu vào những ô cửa kính ố màu. Tiếng cha cất lên run rẩy, “Nhân danh Cha, Con, và Thánh thần”, và tôi thì không thể kiềm chế được cơn buồn ngủ lúc ngồi ở băng ghế sau nghe cha giảng đạo, mơ màng đến đầu ti của bạn Emmy Tsuchida’s và chỉ mong sao buổi lễ sớm kết thúc.
Cũng vào một Chủ nhật như thế, vài tuần sau lần bà ta xuất hiện ở cửa hàng, giữa lúc đám đông đang chen lấn ra khỏi cửa nhà thờ, bà Hoa nắm lấy khuỷu tay má tôi. “Chị có thích nghe cha giảng đạo không?” bà Hoa hỏi. Đôi mắt bà ta dèn dẹt một cách kỳ lạ, y như được vẽ lên khuôn mặt. Má tôi đứng thẳng lưng, khẽ quay đầu nhìn lại, và nói, “Tôi rất thích”
“Tôi chưa nghe chị nói gì đến số tiền đóng góp, chị quý mến. Có lẽ trong tuần tới nhé? Tôi sẽ ghé qua chỗ chị”. Bà Hoa ăn mặc chỉnh tề, áo dài nhung huyền thêu một bông sen vàng trên ngực. Có lẽ phải nóng đến ngợp thở với khí hậu mùa hè thế này, vậy mà chẳng có giọt mồ hôi nào rịn trên thái dương của bà ta. “Trong khi chờ đợi, đây là thứ cần phải đọc”
Minh họa của Ngô Xuân Khôi |
Bà ta mở ví, cũng vẫn cái ví giả da cá sấu có khoá mà tôi đã thấy lần trước, rồi lôi ra một tờ giấy và đưa nó cho tôi. Bản đánh máy bằng tiếng Việt mà tôi chẳng đọc được, nhưng bức ảnh nhòe nhoè đã nói lên tất cả, những người đàn ông gầy nhom đang xếp hàng nghiêm chỉnh dưới tán cây dương xỉ, tất cả đều mặc quân phục rằn ri đúng như trong tưởng tượng của tôi.
“Con đẹp trai quá”. Giọng bà Hoa đãi bôi. Bà ta mang đúng đôi giày cao gót mà tôi đã nhìn thấy lần trước. “Và chị nói con gái chị đang học đại học phải không?”
“Ở bờ Đông”
“Harvard? Hay Yale?” Đó là hai trường đại học duy nhất ở bờ Đông mà người Việt biết. Má tôi, vì chẳng thể phát âm được tên trường Bryn Mawr, nên đáp, “Là trường khác”
“Cháu đang học gì vậy? Luật? Hay Y khoa?”
Má tôi cúi đầu xấu hổ và đáp, “Triết học”. Má la rầy chị Loan suốt kỳ nghỉ Giáng sinh vì hoang phí việc học hành của mình.
Ba tôi cũng đồng tình nói, “Ai cũng cần một bác sĩ hay một luật sư, nhưng có ai cần một triết gia đâu? Mình có thể xin lời khuyên miễn phí từ cha xứ còn gì”
Bà Hoa lại mỉm cười và nói, “Tuyệt vời!”. Sau khi bà ta đi khỏi, tôi đưa tờ giấy đánh máy cho má, và má nhét ngay vào bóp. Ở bãi giữ xe chật kín người và xe, má tôi bấm ba tôi và nói, “Để tôi đi theo bà Hoa. Ông và con về tự coi cửa hàng mấy tiếng đi”
Ba tôi nhăn nhó và đưa tay xoa đầu. “Bà đang tính làm chuyện gì đây?”
“Bả biết cửa hàng của mình ở đâu. Tôi chắc là bả cũng biết nơi mình ở. Tôi cũng cần phải biết bả ở đâu và làm gì mới công bằng chớ, có phải không?”
“Thôi được rồi”. Ba tôi thở dài. “Đi thôi, con trai”
“Con muốn đi với má”
“Cả con nữa sao?”. Ba tôi lẩm nhẩm.
Tôi thấy tò mò về Bà Hoa, và giúp má tôi chỉ là một cái cớ để không phải ở cửa hàng Sài Gòn Mới cả buổi sáng. Má và tôi bám theo bà ta trên chiếc Oldsmobile, đi về phía nam. Bà Hoa lái một chiếc Datsun màu lòng đỏ trứng gà, lốm đốm hoen rỉ. Nổi bật nhất là bức hình đức mẹ đồng trinh đặt trên đầu xe, hiện qua tấm kính chắn gió, mờ mờ như vài tấm hình nhạt màu mà gia đình tôi đã mang theo từ Việt Nam. Tôi thích nhất hình cặp vợ chồng trẻ đang tươi cười ngồi trên một thảm cỏ trước một nhà thờ màu hồng ở quê. Ba tôi đeo kính mát và ôm má, còn má thì mặc chiếc áo dài màu hồng đào và chiếc quần lụa màu kem, mái tóc má uốn thành thành từng lọn dày.
“Năm xu” má tôi nói, rẽ trái vào đường Story Road. Tưởng má muốn dịch sang tiếng Anh, tôi liền nói, “A nickel?”
“Năm xu là tiền lời mỗi hộp súp bán được”. Khi lái xe, má tôi thường đạp một chân lên thắng xe, không phải bàn tăng tốc. Đầu tôi va liên hồi vào thanh tựa đầu của ghế như một trái banh cột dính vào chiếc vợt. “Mười xu là nửa ký thịt heo, hai mươi lăm xu là cả năm ký gạo. Người đàn bà đó cần tới năm trăm đô la của má, nhưng con thấy mình phải vất vả kiếm từng đồng cắc một thế nào không?”
“Dạ”, tôi nói, mồ hôi bắt đầu chaỷ ra từ nách tôi. Mấy chục năm sau nghĩ lại, tôi tự hỏi không biết là má hay chính tôi đang tự phóng đại lên nữa, và ký ức của tôi đang cố mường tượng lại cuộc sống của chúng tôi thời đó…
Bà Hoa rẽ khỏi đường Story Road sang một con đường nhỏ, một khu phố với dãy nhà trệt và những ô cửa sổ quá nhỏ so với những bức tường. Những chiếc xe Ford chở hàng cũ kỹ và mấy chiếc Chrysler độ lại với viền bằng chrome đậu trên bãi cỏ. Sân trước nhà bà Hoa trải nhựa và chiếc Datsun màu vàng của bà ấy đang đậu chung với chiếc Toyota Corolla màu trắng vỡ bửng và một chiếc Honda Civic màu xanh lá cây mất mui. Sau khi bà Hoa bước vào trong, má tôi trờ tới và ngó vào trong ngôi nhà được quét lớp sơn rẻ tiền màu xanh lục, ga ra biến thành một nhà kho với cửa kính trượt có gắn biển hiệu đèn neon màu đỏ chữ Nhà may. Cửa chớp và rèm phòng khách đều đã kéo xuống, chìa ra mặt trái màu trắng. Tên cướp tấn công nhà tôi hôm trước ắt hẳn đã theo chúng tôi bằng cách này, nhưng má tôi dường như không nhận ra. Thay vì vậy, giọng của má đầy thoả mãn mỗi khi nhắc đến. “Từ bây giờ”, má vừa nói vừa nhả thắng chân xe, “mình biết bả sống ở đâu rồi”
Khi bà Hoa đến tiệm Sài Gòn Mới vào buổi chiều của tuần sau đó, tôi đang ở trên gác gỗ do ba tôi tự đóng, nằm ngay phía trên bếp phía sau nhà kho. Nhà tôi dự trữ gạo loại hạt dài trên gác đủ để nuôi cả một làng, chất trong những bao chống thấm nặng từ năm kí, mười kí, rồi hai mươi lăm kí, cao gần đụng trần nhà. Tấm thảm sạch sẽ thơm mùi gạo ướp hoa nhài thoang thoảng trong không khí khi tôi đang ngồi cưỡi lên một con đê làm từ những bao gạo và đọc quyển Thời kì tái thiết. Tôi đã đọc đến đoạn những người miền Nam da trắng và dân miền Bắc vào miền Nam để tái thiết, hay có lẽ đúng hơn là thôn tính miền Nam thì tôi thấy bà Hoa đến trước cửa, mặc đúng bộ quần áo màu trắng của lần trước đến thăm.
Ngay lúc đó má tôi vừa bám chặt lấy cạnh của máy tính tiền, như thể đó là chiếc ca nô đang tròng trành trên sóng, vừa nói chuyện với bà Hoa. Tôi biết thể nào cũng có chuyện. Tôi trèo xuống thang, băng qua lối đi chất đầy sữa đặc, miến, bánh phồng tôm, mực khô, vải và xoài xanh, cúi thấp đầu né mấy miếng dán chống ruồi treo lơ lửng trên trần. Vừa bước tới trước cửa hàng thì tôi đã nghe má nói, “tôi không ủng hộ bất cứ đồng nào cho bà đâu”. Một vết nứt của phấn nền hiện trên gương mặt má, làm thành một nếp nhăn trên má kéo dài từ mũi xuống cằm. “Tôi kiếm tiền vất vả. Còn bà thì làm gì chứ? Bà chẳng khác thì một kẻ cướp và một người chuyên xuyên tạc, khiến người khác nghĩ rằng họ vẫn có thể chiến đấu tiếp trong cuộc chiến này”
Tôi đứng phía sau một hàng những người đến mua hàng, một trong số họ cũng đang đọc tờ đánh máy mà bà Hoa phát tại nhà thờ. Gương mặt bà Hoa trắng bệch như bộ quần áo trên người bà ta. Màu son đỏ chói lem cả vào bộ răng ố vàng của bà ta, đang nhe ra đầy phẫn nộ. Bà ta liếc nhìn những khách khàng và nói, “Mọi người nghe thấy hết rồi đó, phải không? Bà ta không ủng hộ lý tưởng này. Nếu bà ta không phải cộng sản thì cũng xấu xa y như cộng sản vậy. Nếu mấy người mua hàng ở đây thì chẳng khác nào mấy người đang tiếp tay cho cộng sản vậy”
Bà Hoa ném một đống tờ rơi đánh máy lên quầy tính tiền, chỉ vậy, rồi bà ta bỏ đi. Má tôi nhìn ba tôi đang đứng bên kia quầy tính tiền, cả hai không nói một lời khi chiếc Datsun nổ máy hoà vào cuộc sống ngoài kia. Những khách hàng trước mặt tôi có vẻ bất an. Trong vòng một tiếng đồng hồ, họ nói với nhau qua điện thoại, kể hết cho bạn bè họ từng người một, mỗi người trong số họ lại kể với những người khác, cho đến khi cả cộng đồng đều biết. Má tôi quay sang khách hàng với vẻ mặt thận trọng và bình thản như những bức thư má gửi cho họ hàng, không để lộ một chút gì lo lắng, má hỏi, “Giờ tới lượt ai?"
Suốt thời gian còn lại hôm đó, má tôi không nhắc gì tới bà Hoa nữa, và tôi nghĩ rằng đơn giả là má mặc kệ bà ta, và hi vọng bà ta không trở lại nữa. Thế nhưng khi cả nhà vào ngồi trong xe, má bắt đầu nói về phản ứng của bà ta, và tôi hiểu rằng má đã nung nấu điều đó nhiều giờ liền, nhưng cố nhẫn nhịn vì còn có khách hàng ở đó. Má tôi sẽ đến gặp bà Hoa và yêu cầu ba ta phải xin lỗi, vì những quy kết của bà ta làm ảnh hưởng đến uy tín và việc kinh doanh của má tôi. Má tôi sẽ bắt bà Hoa phải hổ thẹn và tát vào mặt nếu bà ta còn ngoan cố. Má tôi sẽ cho bả thấy rằng lý tưởng của bả chỉ là sự hoang tưởng và vô vọng, khiến bả phải bật khóc trước biện luận của má. Khi má tôi tập dượt trước những kế hoạch đó, ba tôi chẳng nói gì, và tôi cũng thế. Chúng tôi biết tốt hơn hết là yên lặng để má nói, và khi về đến nhà, ba lẳng lặng đi vào trong và bắt đầu ăn tối theo lời má tôi dặn. Còn má tôi lái xe đến nhà bà Hoa, mang theo cả tôi, vì má nói, “Bả sẽ không làm gì điên khùng với má nếu có con ở đó”
Lúc đó là tám giờ rưỡi tối, má tôi đậu ngay sau chiếc Datsun của bà Hoa. Bà ta ra mở cửa, mặc một chiếc áo ngắn màu cam và chiếc quần cộc hoa màu tím. Tóc bà ta búi hết ra sau, gương mặt không phấn son hay mascara hiện rõ những vết nhăn và đốm chằng chịt -- nhìn già hơn hẳn. Bộ ngực của bà ta chẳng to hơn gì mấy so với ngực của Emmy Tsuchida, đùi và cẳng chân thì vằn vệt những tia máu nhỏ kéo dài đến tận những ngón chân cong queo, móng chân vàng khè và những vết sơn đỏ loang lổ.
“Bà làm gì ở đây?” bà Hoa hỏi.
“Tôi muốn nói chuyện với bà”, má tôi nói. “Bà không tính mời chúng tôi vào nhà sao?”
Bà Hoa lưỡng lự rồi bước lui lại với vẻ tức tối. Chúng tôi cởi giày và bước qua một đống dép lê, giày cao gót, dép xỏ ngón bày la liệt ngay cửa. Thanh phơi chật kín những móc treo toàn đồ con gái, che mất cửa sổ, hai chiếc giường tầng được kê dọc theo hai bức tường của phòng khách. Ở giữa là một cái bàn xếp dài, chất đầy sổ sách.
“Chúng tôi đang ăn tối”, bà Hoa nói. Mấy giọng khác vang lên từ phòng ăn. Mùi dầu mỡ quyện vào không khí, lẫn với với mùi cơm gần giống mùi tất nóng ẩm. “Hai người ăn gì chưa?”
“Rồi”. Nếu má tôi có ngạc nhiên về thái độ lịch sự của bà Hoa, thì má cũng không thể hiện ra mặt. “Tôi muốn nói chuyện riêng”.
Bà Hoa nhún vai và dẫn chúng tôi ngang qua phòng ăn. Chiếc bàn ăn chật cứng tám chín người ngồi, đầu quay nhìn về phía chúng tôi, mấy đứa con gái tóc cắt ngắn, bốn ông bà già, một người đàn ông và một người phụ nữ trạc tuổi má tôi. Mắt họ thâm quầng như thể ai đó đã đấm đi đấm lại nhiều lần vào đó. Phòng ngủ của bà Hoa cũng vậy, phòng đầu tiên cuối lối đi. Một chiếc bàn công nghiệp khung thép ráp cùng một chiếc máy khâu chiếm không gian giữa phòng, chiếc áo dài nhung, áo khoác và quần màu trắng hôm nọ của bà Hoa được treo trên giường tầng, che hết cửa sổ. Bà Hoa ngồi trên chiếc ghế duy nhất đặt sau máy khâu, và hỏi, “Bà muốn gì?”
Má tôi liếc nhìn vào tủ quần áo không còn cửa và để lộ mấy chiếc kệ gỗ thông đóng bằng tay chất đầy những cây vải lụa và cotton. Trong hai giá treo quần áo phía sau chỗ bà Hoa ngồi, một cái dùng để treo quần áo thường ngày - quần áo của phụ nữ, áo sơ mi và đồ vét của đàn ông - cái còn lại móc toàn đồng phục, những bộ quân phục màu xanh lá cây, quần áo nguỵ trang hình đốm nâu, đen, và xanh lá cây với những nhiều kiểu phối màu khác nhau, giống loại quân phục của những người lính hải quân đã giải cứu đảo quốc Grenada cách đó không lâu. Má tôi nói, “Bà may đồng phục cho lính sao?”
“Kích cỡ của Mỹ quá lớn với dáng người của mấy ông Việt Nam và tỉ lệ thì không chính xác. Thêm nữa, mấy ổng muốn thêu tên mình lên đó, và quân hàm với đơn vị nữa.” bà Hoa với dưới gầm bàn máy khâu và nhấc lên một thùng các tông, khi tựa vào bàn để ghé mắt nhìn vào bên trong, chúng tôi thấy mấy túi nhựa loại dùng để bánh sandwich đựng đầy những sao, vạch, huy hiệu đủ màu sắc của các đơn vị quân đội Việt Nam Cộng hoà. “Vài bộ trong số quân phục ở đây là dành cho quân du kích ở Thái Lan, còn những bộ khác cho mấy ông ở đây”
Tôi tự hỏi có phải bà ta đang nói đến mặt trận bí mật theo lời đồn, hay những người đàn ông tuổi cha chú mà tôi vẫn gặp ở mấy dịp lễ Tết, mấy cựu chiến binh của quân đội Việt Nam Cộng hoà đã thua cuộc vẫn thường đón năm mới bằng cách khoác lên mình những bộ quân phục và kiểm tra vé vào cổng ở mấy khu vui chơi mỗi khi lễ hội diễn ra hay không.
“Chồng của bà là lính sao?” má tôi hỏi.
“Ổng là lích đặc công. CIA cho ổng nhảy dù xuống miền Bắc năm 1963. Từ đó đến nay ổng bặt vô âm tín”. Bà Hoa nói mà không có chút biểu cảm gì thay đổi, chỉ ôm lấy chiếc hộp vào ngực. “Quân Mỹ điều thằng con trai út của tôi đến trung đoàn ở Lào năm 1972. Nó không bao giờ về nữa. Còn thằng con đầu của tôi cũng trong quân đội. Bị cộng sản bắt chết. Tôi chôn nó ở Biên Hoà năm 1969…”
Má tôi im lặng, mân mê cái áo nguỵ trang rằn ri treo trên giá. Cuối cùng, má nói, “Tôi rất tiếc cho chồng và các con của bà”
“Tiếc thương gì?” Giọng bà Hoa chói lói. “Ai nói ổng chết hồi nào đâu? Đâu ai thấy ổng chết. Cũng đâu ai thấy thằng út của tôi chết. Họ đều còn sống, và không ai như bà nói với tôi điều gì khác cả”
Tôi nhìn kỹ hoa văn trên tấm thảm màu kem, hình con ếch và một cái cây, xen lẫn với mùi tỏi, mè, mồ hôi, và kem dưỡng ẩm. Má tôi phá vỡ bầu không khí im lặng bằng cách mở bóp ra và lục tìm bên trong. Nghe tiếng giấy sột soạt, tôi biết má đang mở phong bì tiền hàng. Má rút ra hai tờ một trăm đô la và đặt lên máy khâu trước mặt bà Hoa, vuốt thẳng mặt có hình ông Benamin Franklin trên mỗi tờ, theo cách mà má vẫn dùng bàn tay vuốt tóc tôi trước khi bước vào nhà thờ.
“Đó”, má tôi nói. “Đó là tất cả những gì tôi có”
Tôi tính nhẩm mấy hộp súp, mấy kí gạo, và mấy giờ liền má tôi phải đứng để có thể kiếm được hai trăm đô la đó, và tôi kinh ngạc vì má tôi có thể bỏ ra số tiền đó. Khi bà Hoa nhìn vào số tiền đó, tôi nghĩ bà ta có thể đòi đúng năm trăm đô la như bà ta đã từng đòi trước đó, nhưng bà ta chỉ vơ lấy mấy tờ tiền, gấp chúng lại, và bỏ vào trong chiếc hộp trong lòng mình. Khi bà ta và má tôi nhìn nhau, tôi nghĩ về mấy năm trước má tôi đã phải hối lộ cho vợ của ông tướng nào đó gần một cây vàng để mua lấy tự do cho ba tôi, để ông khỏi đi lính. Má tôi kể cho ba nghe chuyện đó khi hai người đang kiểm tra một số vàng tương tự mà họ vừa sắm được. Lúc đó ba nhìn tôi và nói, “Thôi đừng nói chuyện đó nữa”. Ba má tôi chắc sẽ xem chuyện với bà Hoa hôm đó thuộc vào loại những điều không nên nhắc đến nữa.
“Xem như chúng tôi đứng ngoài mấy chuyện này”, má tôi nói.
“Bà thấy cộng sản vẫn chưa hài lòng sau khi đã giết con trai tôi không?”. Bà Hoa nhìn thẳng vào tôi. Giọng bà ta dồn dập, và khi bà ta bất thình lình đưa người ra phía trước, tôi sợ bà ta sẽ với qua chiếc máy khâu và chụp lấy tay tôi. Tôi cố gắng không lùi lại khỏi những ngón tay của bà ta, hai ngón trong số đó đang băng bó, có lẽ do những mũi kim của máy khâu đâm vào. Tôi cảm thấy phải nói một điều gì đó, và rồi tôi nói, “Con rất tiếc”. Ý là tôi tiếc cho tất cả những gì đã xảy ra, không chỉ đối với bà ta mà còn đối với cả má tôi, những dồn nén của tất cả mọi thứ mà tôi không thể làm gì được. Lời xin lỗi của tôi tuy chẳng suy suyển được gì, thế nhưng bà Hoa đã nghiêm nghị gật đầu, như chiều hiểu hết những ý nghĩ của tôi. Giọng bà dịu xuống, “Cô biết con hiểu mà”
Đó là những lời cuối cùng bà Hoa nói với tôi. Bà ta không chào tạm biệt khi chúng tôi ra về, và thật tình cũng không buồn nhìn chúng tôi, vì khi má tôi khép cánh cửa phòng ngủ lại, bà Hoa đang nhìn chằm chằm vào chiếc hộp, đầu bà ta khi cúi xuống để lộ những luống chân tóc bạc trắng khắp da đầu, nơi màu tóc tự nhiên lộ ra xen lẫn với màu tóc nhuộm. Đó chỉ là một bí mật nhỏ, nhưng có một điều tôi vẫn luôn nhớ như in là cảm xúc của tôi lúc ấy, rằng trong khi một số người bị ám ảnh bởi người đã chết, thì những người khác lại bị ám ảnh cả với những người còn sống.
Khi rẽ ra khỏi xa lộ, má lại làm tôi bất ngờ lần nữa. Má lái thẳng vào bãi đậu xe của cửa hàng 7-Eleven ngay gần đó, chỉ cách nhà tôi hai khu phố, và nói, “Bữa nay con ngoan lắm. Để má thưởng cho con”. Tôi không biết phải nói gì nữa. Ba má tôi chưa từng cho tôi gì khác ngoài tiền tiêu dùng cá nhân. Lúc học lớp bốn, có lần tôi hỏi xin tiền, ba tôi chỉ cau mày và đáp, “Để ba coi sao”. Rồi tối hôm sau ba đưa ra một danh sách liệt kê những khoản chi phí bao gồm cả việc sinh ra tôi, rồi ăn uống, học hành, quần áo, tổng cộng khoảng 24.376 đô la. “Đây là chưa kể chi phí bồi dưỡng cảm xúc, thú vui, và những chi phí cho tương lai nữa đó”, ba tôi nói. “Rồi khi nào con bắt đầu trả cho ba một khoản đây?”
Má tôi dừng lại dưới những ngọt đèn sáng rực trước cửa hàng tiện lợi 7- Eleven, mở bóp và rút ra một tờ năm đô la mới cứng đưa cho tôi. “Con vào mua đi”, má nói bằng tiếng Anh, ra hiệu cho tôi bước vào bên trong. Mỗi khi má nói tiếng Anh, giọng của má chói lói, như thể ngôn ngữ đó không phát ra từ bên trong cơ thể, mà dội đến từ bên ngoài và xiết chặt lấy cổ họng của má. “Con muốn mua gì thì mua”
Tôi để má đợi bên ngoài rồi bước vào cửa hàng, cầm theo tờ năm đô la bóng mượt như giấy sáp trên tay, nhớ lại những lúc môi má mấp máy, nhẩm tính bằng ngón tay hết bàn tay này sang bàn tay khác. Cửa hàng 7-Eleven vắng tanh, chỉ có mỗi hai người đàn ông Ấn ở quầy tính tiền. Họ đưa đôi mắt chán chường về phía tôi rồi trở lại cuộc trò chuyện của họ. Không khí thoảng mùi nước khử trùng. Tôi thờ ơ với dãy trò chơi điện tử và hàng dãy những kệ truyện tranh, mặc dù bìa truyện Siêu nhân và Người sắt đang đập vào mắt tôi, và cả những âm thanh điện tử ro ro mời gọi của trò chơi Pac-Man. Qua khỏi quầy sản phẩm vệ sinh và đồ hộp là một kệ đầy ắp kẹo, bánh và thức ăn vặt. Liếc nhanh về phía cuối dãy hàng, tôi sững người trước một tia sáng loé lên từ miếng giấy bạc bọc thanh sô cô la. Trong khi hai nhân viên tính tiền còn đang trao đổi với nhau bằng thứ ngôn ngữ xa lạ, tôi chợt lưỡng lự, vì trong lòng thèm khát được mua tất cả mọi thứ về nhà nhưng không biết thứ nào để chọn.
[1] Ti-vi trong tiếng Mỹ gọi là television, nhưng vì muốn phát âm cho dễ nghe, nhân vật chính đã thêm từ dinners (bữa ăn tối) vào từ ti-vi trong tiếng Việt.
[2] Xúc xích xông khói
Võ Hương Quỳnh dịch