Tôn Thất Thông
Giới thiệu: Sau khi đăng bài phỏng vấn “Trầm cảm tập thể cần được chữa lành” do ký giả Nguyễn Vĩnh Nguyên thực hiện (xem trên Diễn Đàn Khai Phóng hoặc bản thu gọn trên Tuổi Trẻ Online), một số độc giả thắc mắc về phát biểu rằng chính phủ Đức có thể “bù đắp thiệt hại tài chính cho giới làm công, buôn bán lẻ và các doanh nghiệp nhỏ, đủ cho họ sống không suy giảm chất lượng trong thời gian giãn cách bị mất thu nhập”. Các bạn đề nghị chúng tôi cắt nghĩa rõ hơn, làm thế nào để đạt được mục tiêu đó. Xin thú thật, có lẽ phải cần nhiều thời gian để viết một bài dài mới mong giải thích được. Vì thế, chỉ xin ghi chép ra đây vài ý ngắn, không giải thích nhiều và chỉ tập trung vào một trong ba lĩnh vực ở trên: hỗ trợ cho giới lao động mất thu nhập hay bị giảm thu nhập trong đại dịch. Sau cùng, chúng ta thử xem là Việt Nam có thể tham khảo tinh thần xã hội của biện pháp đó hay không để thực hiện một phần, hòng xoa dịu khổ đau cho người lao động.
***
Khi đại dịch bắt đầu tại châu Âu vào tháng 2 năm 2020, nhất là lúc nạn dịch bắt đầu hoành hành ở Ý, giới dịch tễ Đức cảnh báo chính phủ cần có biện pháp giãn cách, tạm thời đóng cửa biên giới, phong tỏa giới hạn những vùng có nguy cơ lớn. Giới kinh tế gia một mặt đồng ý tán thành các biện pháp đó (dù tán thành rất dè dặt và miễn cưỡng), nhưng đồng thời cảnh báo trước hậu quả khó lường lên chuỗi cung ứng, từ đó ảnh hưởng đến nền sản xuất và hậu quả tất yếu là nạn thất nghiệp gia tăng. Họ tính rằng, ít nhất là 5 triệu lao động sẽ mất việc làm, vài triệu người buôn bán lẻ và doanh nghiệp nhỏ sẽ mất thu nhập, thậm chí phá sản. Xáo trộn xã hội sẽ là hậu quả tất yếu.
Những cảnh báo kịp thời đó đã có tác dụng, thúc đẩy chính phủ phải tính toán các biện pháp đi kèm: Để giải quyết thiệt hại có thể xảy đến cho người lao động, ngay khi chính phủ ban hành các biện pháp hạn chế về giãn cách xã hội, thì đồng thời cơ chế “làm ít thời gian” (Kurzarbeit) cũng được kích hoạt, và khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng công cụ điều phối đó trong thời gian đại dịch. Đây là một giải pháp tổng thể, vừa kết hợp kiến thức y học, dịch tễ, vừa có tầm nhìn của giới kinh tế gia và xã hội học. Trong vòng 6 tháng kể từ lúc kích hoạt, bình quân mỗi tháng có 5 triệu lao động hưởng qui chế này, nhờ thế nạn thất nghiệp không gia tăng, mặc dù sản lượng công nghiệp bị giảm gần 20% trong 6 tháng. Nghe ra có vẻ mâu thuẫn và khó tin. Vậy thì chúng ta thử xem …
…cơ chế làm ít thời gian nghĩa là gì, nó hoạt động thế nào?
Cơ chế làm ít thời gian đã có ở Đức từ hơn 100 năm trước, được tu chỉnh nhiều lần nhưng hiệu quả không cao. Mãi đến lần đại tu chỉnh bộ luật xã hội năm 1957, cơ chế đó mới phát huy tác dụng, trở thành công cụ vô cùng hiệu quả để điều phối thị trường lao động, lấy nguyên lý an toàn xã hội làm nền tảng trong các biện pháp giải quyết khủng hoảng. Cơ chế này đã trở thành một phần của bộ luật xã hội, kể các các biện pháp thực hiện và qui định về nguồn tài chính. Khi cần, chính phủ chỉ cần kích hoạt nó mà không cần thông qua quốc hội. Cơ chế đó hoạt động như sau:
Khi doanh nghiệp mất hợp đồng, sản xuất giảm thì lương người lao động sẽ là gánh nặng lớn nhất, cho nên chủ doanh nghiệp có xu hướng sa thải nhân viên. Luật pháp cho phép việc sa thải trong những trường hợp ngặt nghèo như thế (tiếng Đức gọi là Betriebsbedingte Kündigung). Trên góc nhìn xã hội, thất nghiệp là một trong hai thảm họa lớn nhất cho người lao động, làm cho thu nhập giảm, tương lai bất định, tâm lý hoang mang đưa đến khủng hoảng gia đình, khủng hoảng xã hội. Vì thế, cơ chế làm ít thời gian trước hết nhằm mục đích ngăn chặn nạn thất nghiệp bằng một giải pháp mọi bên đều hài lòng.
Về phía doanh nghiệp, thay vì sa thải, họ được nhà nước khuyến khích giữ nhân viên ở lại làm việc ít giờ (thí dụ giảm 50% đến 70%, thậm chí có lúc nhà nước cho phép giảm đến 95% số giờ làm việc), lương tiền tất nhiên cũng giảm theo tỉ lệ tương ứng, nhờ thế giảm bớt gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp trong thời gian khủng hoảng.
Về phía người lao động, lương ròng tất nhiên cũng giảm xuống theo tỉ lệ gần như trên. Tuy nhiên, bộ lao động đền bù phần lớn sự chênh lệch giữa lương ròng trước và sau khi thực hiện cơ chế này. Theo luật định, tiền đền bù là 60% của độ chênh lệch; đối với lao động thuộc những gia đình có con cần hỗ trợ, đền bù được nâng lên 67%. Trong đại dịch Covid, tiền đền bù cao hơn: 70% hoặc 77%; sau 3 tháng, nếu cơ chế còn tiếp tục áp dụng cho một lao động nào đó thì tiền đền bù tương ứng sẽ là 80% hoặc 87% theo thứ tự.
Với cơ chế làm ít thời gian, cả ba bên, doanh nghiệp, lao động và chính phủ đều hài lòng. Tại sao?
Lương ròng của lao động khi doanh nghiệp giảm 50% giờ làm việc
Ghi chú: Mực đỏ là lương ròng doanh nghiệp trả cho lao động
Mực xanh là tiền đền bù của bộ lao động trả cho lao động
Bên trái là lương ròng trong trường hợp bình thường
Bên phải là lương ròng khi cơ chế “làm ít thời gian” được kích hoạt
Để dễ cắt nghĩa bức hình trên, chúng ta lấy trường hợp bình thường với mức đền bù 60% và 67% như luật định. Trong trường hợp đại dịch, mức đền bù thực tế cao hơn thí dụ này. Độc giả có thể tự suy ra được lương ròng của lao động trong mùa Covid. Chúng ta tạm dùng giả thiết lương ròng bình quân của một lao động trước đại dịch là 2000€ mỗi tháng.
Sau khi kích hoạt cơ chế làm ít thời gian, lương ròng mà doanh nghiệp trả cho lao động chỉ còn 1000€ (để dễ cắt nghĩa, xem là gần như thế!), số chênh lệch 1000€ thì bộ lao động đền bù 600€ hoặc 670€ tùy trường hợp. Như vậy, người lao động chỉ làm việc nửa ngày (50%) và mất đi khoảng 20% lương ròng so với trước. Trong mùa Covid, tiền đền bù từ bộ lao động nhiều hơn, 700€ hoặc 770€, cho nên thu nhập ròng hàng tháng thực tế chỉ giảm chừng 15%, sau ba tháng chỉ còn giảm 10%.
Tại sao cả ba bên đều hài lòng?
Phía doanh nghiệp, họ chỉ trả tiền lương theo đúng nhu cầu lao động, đóng bảo hiểm xã hội cũng ít hơn. Nhưng quan trọng hơn hết là họ không mất nhân viên. Khi nhu cầu sản xuất được nâng cao, họ không mất thời gian chuyển tiếp phải thu dụng người mới và đào tạo lại từ đầu. Nói cách khác, vốn đầu tư để đào tạo nhân viên không hề mất. Chính doanh nghiệp là người ủng hộ mạnh mẽ nhất cơ chế này.
Phía lao động, họ không bị thất nghiệp mà trước sau vẫn là nhân viên của doanh nghiệp với tất cả lợi lộc về bảo hiểm xã hội và qui chế thâm niên. Về tài chính, họ mất đi 20% lương ròng (trong mùa Covid chỉ mất 15%), nhưng số giờ làm việc giảm xuống 50%, họ có thêm thì giờ để chăm sóc gia đình, con cái. Thống kê của các viện thăm dò dư luận cho thấy là mọi người lao động đều thỏa mãn với tình trạng này, nếu không kéo dài lâu hơn một năm.
Phía nhà nước, họ mất gì và được gì? Chưa kể điều lợi chính trị là giữ vững lòng tin của dân chúng và ổn định chính trị, cái được lớn nhất là tình trạng ổn định xã hội, ngăn chặn tình trạng thất nghiệp dâng cao với những hệ lụy xã hội đi kèm. Về mặt tài chính, họ có mất gì nhiều hay không? Dường như không mất gì, thậm chí còn được thêm. Để so sánh: Trong trường hợp người lao động nói trên bị thất nghiệp, bộ lao động phải trả khoảng 68% lương ròng lúc trước (tính trong thí dụ trên là khoảng 1300€ mỗi tháng, kéo dài hai năm hoặc đến khi có công việc mới), cộng thêm vài trăm € bảo hiểm xã hội. Trong lúc đó, qua giải pháp làm ít thời gian, bộ lao động chỉ đền bù 600€ hoặc 670€, ngoài ra các bộ khác (cũng là nhà nước) còn tiếp tục thu được thuế lương và bảo hiểm xã hội.
Để dễ hình dung cho các nhà lập chính sách công tính toán: trong cơ chế làm ít thời gian, chính phủ đền bù bình quân khoảng 30% lương ròng hàng tháng để tránh tình trạng thất nghiệp và đạt những điều lợi phi vật chất nói trên.
Về chi tiết cơ chế làm ít thời gian, xin xem thêm bài tiếng Đức https://de.wikipedia.org/wiki/Kurzarbeit hoặc sơ sài hơn bằng tiếng Anh https://en.wikipedia.org/wiki/Kurzarbeit. Xin lưu ý là cơ chế này không được áp dụng tại Anh và Mỹ, mà cứ mỗi cuộc khủng hoảng, các nước đó có một cách xử lý khác nhau.
Làm ít thời gian là biện pháp quan trọng hàng đầu để chính phủ Đức duy trì ổn định xã hội trong đại dịch, giữ vững chất lượng sống cho toàn dân không bị suy giảm nhiều, nhờ thế sức tiêu thụ dù giảm nhưng không đáng kể để đến nổi ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Không những trong mùa Covid, mà trong những cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong thập niên 1970 (khủng hoảng dầu lửa), 1990, 2000 (khủng hoảng Dotcom), 2008 (khủng hoảng tài chính) v.v…, cơ chế làm ít thời gian tỏ ra là công cụ hữu hiệu để chính phủ Đức điều tiết thị trường lao động một cách tự nhiên, phù hợp với qui luật của kinh tế thị trường và nếu so với các nước khác, kinh tế của Đức trong các cuộc khủng hoảng đó được phục hồi nhanh chóng hơn. Khi đại dịch Covid mới bắt đầu, cơ chế làm ít thời gian chỉ được phép áp dụng đến cuối năm 2020, sau đó đã được gia hạn đến cuối 2021.
Việt Nam có thể làm tốt như thế hay không?
Tất nhiên là được. Tuy nhiên ở Việt Nam, hệ thống an sinh xã hội còn yếu, nguồn lực tài chính chưa mạnh, khó lòng có thể đưa ra những chính sách hào phóng như Đức đã làm cho người dân của họ. Nhưng tinh thần xã hội trong chính sách chống dịch của Đức thì nước nào cũng có thể học hỏi được, không riêng gì Việt Nam. Tinh thần xã hội thể hiện qua tư duy “xem đời sống người lao động là nền tảng để thiết kế chính sách” khi xử lý các cuộc khủng hoảng cũng như trong đại dịch Covid. Khi chính phủ đưa ra một chính sách chống dịch, thì không những họ phải tính đến thiệt hại cho người dân, mà còn có trách nhiệm phải hạn chế tối đa thiệt hại lên đời sống người lao động, đồng thời tính trước phải đền bù thiệt hại như thế nào để họ có thể hưởng một cuộc sống đầy đủ nhân phẩm. Tại thời điểm tháng 4 năm 2020, có 725.000 doanh nghiệp Đức đăng ký sử dụng cơ chế làm ít thời gian để giữ nguyên nhân viên, với 6 triệu lao động được hưởng qui chế đó. Đặc biệt trong đại dịch Covid, chính phủ cho phép áp dụng cơ chế này rất uyển chuyển: tùy nhu cầu, doanh nghiệp có thể hoán chuyển nhiều lần từ tình trạng làm việc bình thường sang làm việc ít thời gian và ngược lại bất cứ lúc nào mà không qua thủ tục rườm rà. Nhờ thế, dù đại dịch vẫn còn căng thẳng, số lao động trung bình hàng tháng thuộc cơ chế làm ít thời gian giảm xuống không ngừng, trong lúc tỉ lệ thất nghiệp vẫn ở mức độ ổn định bình thường.
Đối với Việt Nam, dù nguồn lực tài chính không mạnh, nhưng một giải pháp tương tự cũng có thể áp dụng ngay từ đầu để duy trì ổn định xã hội. Việt Nam, nhất là TP HCM, trong hai tháng qua đã rơi vào tình trạng hỗn loạn chưa từng có kể từ 1975, ức chế xã hội cũng rất cao. Sau khi biến thể Delta bắt đầu hoành hành và nhà nước ban hành các biện pháp phong tỏa, người lao động mất việc làm còn trụ được một thời gian, nhưng những lao động nhập cư từ các thành phố khác bắt đầu đối diện với thử thách sinh tồn: thu nhập không đủ để trang trải tiền nhà và nhu cầu sinh sống tối thiểu hàng ngày. Báo chí hàng ngày thuộc lề phải lề trái đều có những phóng sự liên quan, thiết tưởng chúng ta không cần nói thêm. Sau một thời gian không còn chịu đựng được nữa, nhóm lao động nhập cư từ các thành phố khác phải tìm đường tháo chạy, tạo nên những cảnh tượng vô cùng thương tâm trên các tuyến đường về quê.
Người lao động kiệt sức trên đường về quê vì Covid
Những chuyện đau lòng đó đúng ra có thể tránh được từ đầu, nếu chính sách chống dịch được thiết kế cẩn thận hơn, nhìn trước hậu quả nào sẽ giáng lên đầu người lao động, nhất là lao động nhập cư để từ đó dự kiến những gói hỗ trợ cần thiết. Một số biện pháp như giãn cách xã hội, cách ly những bộ phận cần cách ly, phong tỏa những nơi cần phong tỏa, tất nhiên là cần thiết nhưng tiến hành với mức độ nào thì cần cân nhắc. Có nên hốt hết F0 vào bệnh viện hay không, khi 80% ca nhiễm không có triệu chứng hoặc triệu chứng nhẹ? Có nên cách ly tất cả F1 trong lúc đời sống nhiều người trong đó phụ thuộc vào thu nhập hàng ngày? Có nên phong tỏa cả phường chỉ vì vài ca F0? Ở đây chúng ta không tranh luận đúng sai, nhưng điều có thể thấy trước là, các biện pháp đó tất yếu sẽ có tác động rất mạnh lên đời sống của lao động có thu nhập thấp và các loại lao động phi chính thức.
Quan sát nhiều cách xử lý đại dịch khác nhau của nhiều quốc gia, chúng tôi thấy chính phủ Việt Nam có thể tiến hành một vài biện pháp sau đây để xoa dịu ức chế xã hội. Dù đã trễ, nhưng vẫn nên cứu vãn những gì có thể cứu vãn được. Xin lưu ý, ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến khía cạnh xã hội, chứ không đề cập đến những lĩnh vực khác như kinh tế, y học.
1. Đối với lao động chính thức có thu nhập thấp
Có thể dùng biện pháp tương tự như làm ít thời gian của Đức. Tất nhiên phải thay đổi chút ít để phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam, về tài chính cũng như hành chính. Cuối năm 2020, Tổng cục Thống kê cho biết có 12,8 triệu lao động bị ảnh hưởng bởi Covid-19. Lương bình quân của lao động thuộc diện này là 6,8 triệu đồng mỗi tháng. Nhà nước có thể khuyến khích doanh nghiệp không sa thải nhân viên thuộc nhóm này mà cho phép nhân viên làm việc ít giờ (thí dụ, có thể giảm đến 70%), lương tiền cũng giảm tương ứng để bớt gánh nặng cho doanh nghiệp, nhưng nhân viên được hưởng gói hỗ trợ đặc biệt tạm gọi tên là hỗ trợ giảm giờ làm việc. Gói hỗ trợ này dùng để giải quyết cho 10 triệu lao động liên quan, những người trước đó có mức lương ròng bình quân 6 triệu mỗi tháng. Theo kinh nghiệm của Đức như đã tính ở trên, nhà nước phải hỗ trợ khoảng 30% lương ròng lúc trước, là người lao động sẽ hài lòng và có thể có đời sống ổn định trong điều kiện dịch còn hoành hành. Nói cách khác, người lao động sẽ nhận hỗ trợ bình quân 1,8 triệu đồng VN mỗi tháng, cộng thêm lương của doanh nghiệp đã giảm giờ làm, là tình trạng xã hội được cải thiện đáng kể. Như vậy, nhà nước cần một ngân sách 54.000 tỉ ĐVN cho ba tháng chuyển tiếp để hỗ trợ cho đối tượng này. Với GDP năm 2020 là 343 tỉ US$ và tỉ suất 22.500 ĐVN cho 1 US$, gói hỗ trợ này tương ứng với 0,7% GDP, một con số hoàn toàn khả thi, nếu cần cũng phải lấy thêm nợ công để trang trải. Thực tế là con số đó cũng không có gì phải cân nhắc khi nó mang lại đời sống ổn định cho 10 triệu người lao động, và qua đó đạt ổn định xã hội cũng như ổn định chính trị. Câu hỏi tiếp theo là, cơ cấu hành chính Việt Nam đủ hiệu quả và chặt chẽ để quản lý gói hỗ trợ này hay không, lại là chuyện khác. Cũng có thể giao cho chính doanh nghiệp chịu trách nhiệm quản lý số tiền hỗ trợ liên quan đến nhân viên của mình và chịu trách nhiệm hình sự nếu có gian lận. Tuy nhiên, về mặt hành chính chúng tôi không dám lạm bàn.
2. Đối với lao động phi chính thức
Đối tượng này khó quản lý hơn vì rất đa dạng, số đông của giới này không đăng ký kinh doanh, sản xuất hay dịch vụ ở bất kỳ cơ quan nào, vì thế chỉ có thể giải quyết theo nguyên tắc đại trà, như cách làm của Mỹ, tất nhiên là phải giới hạn đối tượng và hỗ trợ ở mức độ thấp hơn nhiều để phù hợp với nguồn lực quốc gia. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, lực lượng lao động phi chính thức năm 2020 là 20,9 triệu người. Khác với năm 2016 được phân chia rạch ròi là 41% ở thành thị và 59% ở nông thôn, năm 2020 chưa có sự phân chia rõ rệt. Báo Lao Động ngày 21/12/2020 cho biết mức thu nhập bình quân của nhóm lao động này ở thành thị giao động trên dưới 5 triệu đồng VN mỗi tháng. Ở nông thôn thì ít hơn. Trong mùa Covid, thu nhập của họ giảm xuống 50%, tức mất khoảng 2,5 triệu đồng mỗi tháng, làm cho đời sống của nhiều người lao đao, nhất là những người nhập cư từ các thành phố khác. Với gói hỗ trợ tượng trưng 1,2 triệu đồng mỗi tháng trong vòng 3 tháng chuyển tiếp, nhà nước phải chi ra 72.000 tỉ ĐVN, tương đương với 0,9% GDP. Để ổn định cuộc sống cho 20 triệu lao động đang lao đao, số tiền đó hoàn toàn không phải là yếu tố để cân nhắc. Chi tiền cho những gói hỗ trợ như thế này mới chính là tư duy “vì dân”.
Lời kết
Đại dịch Covid đã bộc lộ những điểm yếu của nhà nước Việt Nam trong chính sách đối phó với dịch và vì thế, cái giá chính trị mà nhà nước phải trả cũng vô cùng lớn. Có lẽ đã đến lúc nhà nước Việt Nam cần rút kinh nghiệm để cải thiện.
..............................................................................................................................
Tôn Thất Thông,
Tháng 8.2021