Thứ Ba, 22 tháng 2, 2022

Nhìn lại tiên đoán chính xác của Henry Kissinger về quyết tâm của Nga với Ukraine hiện giờ

 Anh Tú (dịch) 

Năm 2014, cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger đã có bài viết trên Washington Post với nhiều phân tích chính xác về quyết tâm của Nga với tình hình Ukraine hiện giờ. Một Thế Giới xin giới thiệu lại bài viết.

Thảo luận công khai về Ukraine là chuyện đối đầu mọi thứ. Nhưng chúng ta có biết chúng ta đang đi đâu không? Trong cuộc đời mình, tôi đã chứng kiến ​​bốn cuộc chiến bắt đầu với sự nhiệt tình và ủng hộ của công chúng, tất cả chúng ta không biết kết thúc như thế nào và từ ba cuộc chiến chúng tôi đơn phương rút lui. Thử nghiệm của chính sách là nó kết thúc như thế nào, không phải nó bắt đầu như thế nào.

Vấn đề Ukraine thường được đặt ra như một cuộc thách đố: liệu Ukraine tham gia vào phương Đông hay phương Tây. Nhưng nếu Ukraine muốn tồn tại và phát triển, thì nước này không được là tiền đồn của bên nào chống lại bên kia - nó phải hoạt động như một cầu nối giữa hai bên.

Nga phải chấp nhận điều đó để cố gắng buộc Ukraine trở thành một vệ tinh, và do đó dịch chuyển biên giới của Nga một lần nữa, sẽ khiến Moscow lặp lại các chu kỳ lịch sử tự hoàn thành sứ mệnh trước áp lực qua lại với châu Âu và Mỹ.

1-2.jpg
Sự xuất hiện của người Viking tạo tiền đề thành lập Đại công quốc Kievan-Rus - tiền thân của Nga và Ukraine hiện giờ - Ảnh: Internet

Phương Tây phải hiểu rằng, đối với Nga, Ukraine không bao giờ có thể chỉ là một quốc gia xa lạ. Lịch sử Nga bắt đầu từ cái gọi là Kievan-Rus. Tôn giáo Nga bắt nguồn từ đó. Ukraine đã là một phần của Nga trong nhiều thế kỷ, và lịch sử của họ đã gắn liền với nhau trước đó. Một số trận chiến quan trọng nhất cho tự do của Nga, bắt đầu với Trận Poltava năm 1709, đã diễn ra trên đất Ukraine. Hạm đội Biển Đen - phương tiện thể hiện sức mạnh của Nga ở Địa Trung Hải - dựa trên hợp đồng thuê dài hạn ở Sevastopol (tính đến 2014), thuộc Crimea. Ngay cả những nhà bất đồng chính kiến ​​nổi tiếng như Aleksandr Solzhenitsyn và Joseph Brodsky cũng khẳng định rằng Ukraine là một phần không thể thiếu của lịch sử Nga và thực sự là của Nga.

Liên minh châu Âu phải thừa nhận rằng sự chủ quan mơ hồ của họ và sự phụ thuộc của yếu tố chiến lược vào chính trị trong nước trong đàm phán mối quan hệ của Ukraine với châu Âu, đã góp phần biến một cuộc đàm phán thành một cuộc khủng hoảng. Chính sách đối ngoại là nghệ thuật thiết lập các ưu tiên.

Người Ukraine là nhân tố quyết định. Họ sống trong một đất nước có lịch sử phức tạp và các thành phần đa dạng. Phần phía Tây được hợp nhất vào Liên Xô vào năm 1939, khi Stalin và Hitler chia nhau chiến lợi phẩm. Crimea, 60% dân số là người Nga, chỉ trở thành một phần của Ukraine vào năm 1954, khi Nikita Khrushchev, một người sinh ra ở Ukraine, trao tặng nó như một phần của lễ kỷ niệm 300 năm thỏa thuận giữa Nga với Cossacks. Phía tây phần lớn là người theo Công giáo; phía đông phần lớn là người theo Chính thống giáo của Nga. Phía Tây nói tiếng Ukraina; phía đông chủ yếu nói tiếng Nga. Bất kỳ nỗ lực nào của một phe cánh của Ukraine nhằm thống trị phe kia - như mô hình đã xảy ra - cuối cùng sẽ dẫn đến nội chiến hoặc tan rã. Việc coi Ukraine là một phần của cuộc đối đầu Đông-Tây sẽ làm ảnh hưởng đến bất kỳ triển vọng nào trong nhiều thập kỷ để đưa Nga và phương Tây - đặc biệt là Nga và châu Âu - trở thành một hệ thống hợp tác quốc tế.

Ukraine mới độc lập được 23 năm (tính đến 2014); trước đó nó đã nằm dưới một số hình thức cai trị của ngoại bang kể từ thế kỷ 14. Không có gì đáng ngạc nhiên khi các nhà lãnh đạo của họ không học được nghệ thuật thỏa hiệp, thậm chí ít có cái nhìn lịch sử hơn. Nền chính trị của Ukraine thời hậu độc lập cho thấy rõ ràng rằng gốc rễ của vấn đề nằm ở việc các chính trị gia Ukraine nỗ lực áp đặt ý chí của họ lên những vùng ngoan cố của đất nước, trước hết là bởi phe này, sau đó là phe kia. Đó là bản chất của cuộc xung đột giữa Viktor Yanukovych và đối thủ chính trị chính của ông, bà Yulia Tymoshenko. Họ đại diện cho hai phe của Ukraine và không sẵn sàng chia sẻ quyền lực. Một chính sách khôn ngoan của Mỹ đối với Ukraine sẽ tìm cách để hai miền của đất nước hợp tác với nhau. Chúng ta nên tìm kiếm sự hòa giải, chứ không phải sự thống trị của một phe phái.

yanukovych-timoshenko-2.jpg
Viktor Yanukovych và bà Yulia Tymoshenko từng đại diện cho hai phe của Ukraine và không sẵn sàng chia sẻ quyền lực - Ảnh: Internet

Nga và phương Tây, và ít nhất trong số tất cả các phe phái khác nhau ở Ukraine, đã không hành động theo nguyên tắc này. Mỗi điều đã làm cho tình hình tồi tệ hơn. Nga sẽ không thể áp dụng một giải pháp quân sự mà không tự cô lập mình vào thời điểm nhiều đoạn biên giới của nước này đã rất bất ổn. Đối với phương Tây, việc hạ bệ Vladimir Putin không phải là một chính sách; nó là bào chữa cho sự vắng mặt của một chính sách.

Putin nên nhận ra rằng, bất kể ông có bất bình, chính sách áp đặt quân sự sẽ tạo ra một cuộc Chiến tranh Lạnh khác. Về phần mình, Mỹ cần tránh coi Nga như một kẻ thù địch để hướng dẫn các quy tắc ứng xử do Washington thiết lập một cách kiên nhẫn. Putin là một chiến lược gia cứng rắn - trên cơ sở lịch sử Nga. Hiểu được các giá trị và tâm lý của Mỹ không phải là điểm mạnh của ông ấy. Sự hiểu biết về lịch sử và tâm lý người Nga cũng không phải là điểm mạnh của các nhà hoạch định chính sách Mỹ.

kissinger-putin.jpg
Ông Kissinger khá am hiểu về Tổng thống Putin - Ảnh: Internet

Các nhà lãnh đạo của tất cả các bên nên quay lại kiểm tra kết quả, không tạo thế trận cạnh tranh. Đây là khái niệm của tôi về một kết quả tương thích với các giá trị và lợi ích an ninh của tất cả các bên:

1. Ukraine nên có quyền tự do lựa chọn các hiệp hội kinh tế và chính trị của mình, kể cả với châu Âu.

2. Ukraine không nên gia nhập NATO, một lập trường mà tôi đã nêu cách đây 7 năm, khi nó xuất hiện lần cuối.

3. Ukraine nên được tự do thành lập bất kỳ chính phủ nào tương thích với ý chí thể hiện của người dân. Các nhà lãnh đạo khôn ngoan của Ukraine sau đó sẽ chọn một chính sách hòa giải giữa các vùng khác nhau của đất nước họ. Trên bình diện quốc tế, họ nên theo đuổi một thế trận tương tự với Phần Lan. Quốc gia đó không nghi ngờ gì về nền độc lập trọn vẹn và hợp tác với phương Tây trong hầu hết các lĩnh vực nhưng cẩn thận tránh sự thù địch thể chế đối với Nga.

4. Việc Nga sáp nhập Crimea là không phù hợp với các quy tắc của trật tự thế giới hiện có. Nhưng có thể đặt mối quan hệ của Crimea với Ukraine trên cơ sở bớt căng thẳng hơn. Để đạt được mục tiêu đó, Nga sẽ công nhận chủ quyền của Ukraine đối với Crimea. Ukraine nên củng cố quyền tự trị của Crimea trong các cuộc bầu cử được tổ chức với sự có mặt của các quan sát viên quốc tế. Quá trình này sẽ bao gồm việc loại bỏ bất kỳ sự mơ hồ nào về tình trạng của Hạm đội Biển Đen tại Sevastopol. (tuy nhiên đến năm 2016 thì ông Kissinger có gửi thư đến Tổng thống Donald Trump với lời khuyên Mỹ nên công nhận Crimea thuộc Nga).

5. Đây là những nguyên tắc, không phải đơn thuốc. Những người am hiểu với khu vực sẽ biết rằng không phải tất cả chúng đều hợp khẩu vị với tất cả các bên. Thử nghiệm không phải là sự hài lòng tuyệt đối mà là cân bằng sự không hài lòng. Nếu một số giải pháp dựa trên các yếu tố này hoặc các yếu tố có thể trao đổi được mà không thành, thì sự chuyển hướng đối đầu sẽ tăng tốc. Thời gian cho điều đó sẽ đến sớm thôi.

Thứ Năm, 17 tháng 2, 2022

Hoa đào biên viễn

 




Hoa đào biên viễn


Đào Tuấn


sim

   17-02-1979


NQL (12-02-2014): Quê Choa đăng vội cả ba bài của Đào Tuấn đăng trên Một thế giới vì sợ chùm bài sẽ bị lột xuống. Làm báo thời lú lấp sao mà khổ thế hở trời, muốn yêu nước cũng chẳng được.

Diễn Đàn: Quả nhiên, chùm phóng sự đặc sắc này đã bị lột xuống, Diễn Đàn do đó xin đăng lại.



Bài 1: Biên giới, hồi ức 35 năm


Tháng 2 năm nay, những cây đào Tổng Chúp, Hưng Đạo, Cao Bằng bỗng dưng đỏ loét trong cái nắng trái mùa. Trên đồn biên phòng Pha Long, Lào Cai, thật lạ, chỉ duy nhất một gốc đào đơm hoa. Còn ở pháo đài Đồng Đăng, Lạng Sơn, những cây đào khoe sắc vô duyên bên nền đá xám xịt và lau lách tùm lum của một pháo đài hoang phế đã đi vào quên lãng.


Một số phận


Trong ngôi nhà nhỏ ở dốc cầu Nà Rụa, phường Tân An, Cao Bằng, bà Nguyễn Thị Quỳ cũng có một cành đào nhỏ trước ban thờ chồng, người 35 năm trước bất đắc dĩ trở thành “tù binh chiến tranh”.

Câu chuyện liên tục ngắt quãng khi đôi vai của người phụ nữ nhỏ nhắn run lên bần bật trước những hồi ức từ 35 năm trước. Chiến tranh đã lấy đi của bà một đứa con. Và sau 35 năm, vết thương ấy chưa bao giờ lành khi hàng đêm, hình ảnh đứa nhỏ tím tái chết trong mưa lạnh vẫn ùa về như một nỗi kinh hoàng không bao giờ phai nhạt.

Cô sinh cháu và gói trong một chiếc áo. Và rồi đó cũng là chiếc áo liệm”- người cựu binh chống Mỹ khốn khổ đưa tay lên dụi mắt.

Sáng 17.2.1979, trời rất mù và lạnh. Từ thị trấn Nước Hai, bà Quỳ chỉ còn biết cắm đầu cắm cổ chạy loạn khi tiếng pháo của lính Trung Quốc “như bom Mỹ rải thảm” khắp nơi. Bệnh viện Hòa An bị đánh sập, người sản phụ khốn khổ đang mang thai đến tháng thứ 9 chỉ còn biết vác bụng lặc lè để  chạy.

“Cô chạy vào núi đá Mỏ Hách. Rồi từ Mỏ Hách chạy sang Đại Tiến. Chạy ngược với tiếng pháo”. Đám người chạy loạn bị lính Trung Quốc phát hiện, truy đuổi, và lại tứ tán khắp nơi. “Chúng nó đông lắm cháu ơi! Đâu đâu cũng thấy lính Trung Quốc”.

Trong gần một tuần lễ trốn trên động đá, bà Quỳ đau đẻ trong cái đói, trong cái rét, trong trời mưa lạnh, trong tối tăm mò mẫm. Không một hạt gạo mang theo. Không một tấm chăn. Cả đám người đói khát, rét mướt và lo sợ đến hoảng loạn. Chỉ ngay phía dưới, lính Trung Quốc đông lúc nhúc, vây hãm khắp nơi.

Những con người khốn khổ lấy nước bằng cách hứng từ giọt gianh trong một tấm nilon rộng chừng 2 bàn tay. Ăn tất cả những gì mà ban đêm mấy người đàn ông mò mẫm được từ bờ cây, gốc sắn… ngay sát nơi lính Trung Quốc dựng trại.

Đến hôm đau đẻ, bà được đồng bào gom cho thìa đường cuối cùng, hòa với vốc nước “để có sức mà đẻ”. Đứa con đầu lòng được sinh ra trong hang đá nhưng 3 hôm sau thì qua đời.


anh-4

bia

Bia thảm sát tại Tổng Chúp, Hưng Đạo, Hòa An, Cao Bằng.
Bà Hậu, một người dân Tổng Chúc xưa từng cắp con chạy loạn
bảo rằng: Bà không thể quên những ngày tháng 2 năm ấy


“Cô sinh cháu và gói trong một chiếc áo. Và rồi đó cũng là chiếc áo liệm”- người cựu binh chống Mỹ khốn khổ đưa tay lên dụi mắt. Những giọt nước mắt mờ đục lăn dài trên khuôn mặt “một ngàn nếp nhăn” tưởng chừng đã không còn có thể đau khổ được nữa: “Lúc đó cô yếu quá, bỏ mấy đồng nhờ một ông già mang cháu đi. Chắc vứt nó ở một đâu đó”.

Nhưng bi kịch chưa dừng lại ở đó. Đêm ngày 25.2, người chồng nửa đêm đi kiếm ước uống bị sa vào tay lính Trung Quốc. Ông bị giam giữ cho đến ngày 3.6 và từ sau đó, những đồng nghiệp của ông ở Ty Thể thao Cao Bằng cho biết ông bỗng dưng có thói quen ăn cơm với nước lã.

Còn bà Quỳ, quãng thời gian trong động đá và cái chết bi thảm của đứa con đầu lòng khiến bà trở nên trầm uất suốt 3 tháng. Tuyến sữa viêm tắc khiến sau đó người phụ nữ khốn khổ phải cắt đi một bên ngực.

35 năm, bằng đấy thời gian chưa đủ để bà Quỳ quên đi hình ảnh đứa con đầu lòng chết tím tái. “Đau xót lắm cháu ơi. Cô đi cúng, Thầy bảo nó không có nhà, lang thang ở một gốc cây nào đó”…

Không chỉ Bệnh viện Hòa An bị đánh sập, cả thị xã Cao Bằng lỗ chỗ tổ ong như vừa trải qua “một trận B52 mặt đất”, không còn thứ gì cao quá 1m. Bách hóa tổng hợp, một biểu tượng của Cao Bằng bị hủy hoại đến không còn một viên gạch lành.

Chị Hoài Phương, phóng viên của Đài truyền hình Cao Bằng, năm đó 9 tuổi, đến giờ vẫn không thể quên hình những xác người bị súng phun lửa đốt cháy trên mặt đất. Khắp nơi.

Ông Nguyễn Duy, Phó Chủ tịch Hội cựu chiến binh Hòa An nhớ lại: Đến ngày 20.3, cả thị xã vẫn như một đụn khói lớn. Chiều 29.3. Không một chiếc xe, không một người dân đi trên đường. Kho lương thực còn cháy nghi ngút. Thị xã tan hoang khi lính Trung Quốc trước khi rút đã ốp mìn giật đổ từng cây cầu, từng cột điện. Cái gì lấy được thì lấy hết. Cái gì không lấy được thì phá hết.


Khi giặc đến nhà


Ngày 17.2.1979, Trung Quốc đã dùng một lực lượng quân sự chính quy lên tới 60 vạn quân tấn công Việt Nam trên khắp chiều dài 1.200 km biên giới 6 tỉnh phía Bắc. Cao Bằng chính là một trong những trọng điểm đánh phá của quân đoàn 41A với sự tham gia của xe tăng và pháo binh.

Theo nhận định của Xiaoming Zhang trong một nghiên cứu đăng trên tạp chí China Quarterly tháng 12.2005, cuộc tấn công của Trung Quốc phụ thuộc phần lớn vào việc nhanh chóng chiếm được Cao Bằng.

Nhưng hai mũi tấn công không đến được mục tiêu trong vòng 24 tiếng. Khu vực đồi núi cùng kháng cự của dân quân Việt Nam tạo ra khó khăn lớn. Việc đi chậm khiến Xu Shiyou, lãnh đạo cánh quân Quảng Tây, phải hoãn cuộc tấn công vào Cao Bằng, mặc dù phó tướng Wu Zhong đã đến sát thành phố này ở mạn phía đông và nam.

Trong một bài phát biểu được nhà nghiên cứu Dương Danh Hy dịch ra tiếng Việt ít năm trước, nhà lãnh đạo Trung Quốc khi đó là Đặng Tiểu Bình đã xác nhận đó là cuộc chiến "giết gà đã phải dùng dao mổ trâu". Cụ thể “vũ khí, quân số đều gấp mấy lần Việt Nam. Chiến đấu ở Cao Bằng chí ít là năm đánh một, sáu đánh một, chiến đấu ở Lạng Sơn, Lào Cai cũng đều gấp mấy lần, thậm chí sáu đánh một, bảy đánh một”.

Vì sao ở Cao Bằng, chiến tranh lại đồng nghĩa với tàn phá như vậy?

Trang mạng quân sự milchina.com của Trung Quốc 3 năm trước đã cho đăng thư của một cựu chiến binh Trung Quốc từng tham gia chiến tranh biên giới 1979 phần nào giải thích lý do: "Mục đích của cuộc chiến tranh này là tàn phá, huỷ hoại quốc lực của Việt Nam chứ không phải là chiếm lĩnh lãnh thổ, nên sau hai ngày đánh nhau, lính tham chiến bắt đầu chấp hành mệnh lệnh bán chính thức là “không bắt tù binh”, “không để lại cho Việt Nam một lá cây ngọn cỏ”.

anh

Ông Vương Dường Tường,
nguyên bí thư tỉnh ủy Cao Bằng

Ông Vương Dường Tường, nguyên bí thư tỉnh ủy Cao Bằng giai đoạn 1979-1992 nhớ lại: Bấy giờ, tình trạng tranh chấp, lấn chiếm và vấn đề người Hoa đã khá căng thẳng, nhưng không ai nghĩ là chiến tranh xảy ra. Chủ trương của ta là đưa thanh niên ra biên giới tổ chức các lâm nông trường. “TƯ xác định cũng phải đề phòng, nhưng là phòng xích mích biên giới thôi”- ông Tường nói.

Tỉnh ủy Cao Bằng bấy giờ chủ trương đưa một số bộ đội về một số xã để củng cố đội ngũ cán bộ. Quân đội không có ở Cao Bằng. Lực lượng công an vũ trang chỉ có ở cấp tỉnh chứ cấp huyện là không có người. Cả thị xã bấy giờ chỉ có 1 một trung đoàn bộ đội địa phương (E567), nhưng cũng chủ yếu là  làm kinh tế. Đến đội ngũ dân quân tự vệ, “có thì có đấy, căng thì căng như thế nhưng đã được phát súng đâu”. Thậm chí khi chiến tranh đã nổ ra, có thêm một sư đoàn được thành lập, nhưng lúc đó cũng chưa có quân”.

Cho đến cuối cuộc chiến tranh, ở Cao Bằng “không ai theo địch, không ai đầu hàng, không ai phản bội”- giọng người cựu bí thư tỉnh ủy rưng rưng nước mắt. Bao đời nay vẫn vậy, mỗi khi giặc đến nhà thì mỗi một người dân chính là một người lính.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cao Bằng Trần Hùng, thời điểm 1979 đeo quân hàm trung sĩ, tiểu đoàn 40 Bộ đội địa phương còn nhớ như in là khi xe tăng Trung Quốc vượt cầu Sông Hiến vào đến tận dốc Nà Toòng, đại đội 3 phòng không của trung đoàn 567 phải thay đạn, chúc nòng pháo 37 ly xuống để bắn xe tăng bằng đạn xuyên.

Chính ông Hùng là một trong những người đầu tiên chạy bộ đạp lá sa mộc đến bên xác xe tăng còn nghi ngút khói.

“Chúng tôi chỉ có 3 khẩu súng AK để bảo vệ trận địa”, ông Hùng nói, “về sau, khi lính Trung Quốc lên quá đông, đơn vị đã phải tháo súng (pháo) để rút”.

Theo Xiaoming Zhang, đến ngày 23.2, Trung Quốc mới chiếm được Cao Bằng sau khi nhận ra nơi này chỉ có một số lượng nhỏ quân Việt Nam cố thủ. Nhưng sự chậm chân khi chiếm Cao Bằng đã ngáng trở kế hoạch ban đầu của Trung Quốc, vốn nhấn mạnh việc tác chiến nhanh và quyết liệt.

Cao Bằng có gì để chống lại 6 sư đoàn chính quy với xe tăng và pháo binh yểm trợ?

“Dân Cao Bằng sẵn biết Trung Quốc rồi. Ở đâu cũng đánh, gặp đâu cũng đánh, ai cũng đánh. Một, hai người cũng đánh. Chặn khắp nơi”- ông Vương Dương Tường nói.

Ở Hòa An, dù lúc đó mất hoàn toàn liên lạc, một nhóm cựu binh vẫn tự tập hợp nhau lại lập chốt đánh địch. Nhặt được cái gì thì đánh được bằng cái đó. Ở Trà Lĩnh, Quảng Hòa, Hà Quảng đều có những chốt đánh địch như vậy.

Người Cao Bằng sau phút bất ngờ đã chủ động trở lại. Cho đến cuối cuộc chiến tranh, ở Cao Bằng “không ai theo địch, không ai đầu hàng, không ai phản bội”- giọng người cựu bí thư già rưng rưng. Bao đời nay vẫn vậy, mỗi khi giặc đến nhà thì mỗi một người dân chính là một người lính.

Tháng 2 năm nay, trên nền bách hóa tổng hợp bị đánh sập năm xưa, một siêu thị mới đã được dựng lên, cho dù người Cao Bằng vẫn gọi đó là Tổng Hợp Đổ.

Còn người nữ cựu binh Nguyễn Thị Quỳ, đến giữa câu chuyện, bỗng bất ngờ hỏi lại chúng tôi: “Sao các cháu không hỏi vì sao tháng 2 năm ấy cô không đi tìm một cây súng? Và rồi, bà quả quyết tự trả lời: “Năm xưa, cô phải chạy giặc vì lúc đó đang mang bầu, không muốn ảnh hưởng đến anh em đồng chí. Còn nếu bây giờ giặc đến nhà, cô sẽ tìm một khẩu súng. Nếu cô già yếu không đánh được, những đứa con của cô sẽ cầm súng".

Con gái bà, một cô gái niềng răng sinh năm 1988 sau đó nói sẽ đưa chúng tôi vào Tổng Chúp, dù ở Cao Bằng, không còn nhiều người biết đến những gì xảy ra tại Tổng Chúp 35 năm trước, dù theo lời cô bé: "nơi đó giờ đã hoang vắng lắm rồi anh ạ”.


Bài 2:  "Đồng chí với nhau, ai nghĩ sẽ đánh nhau"


“Ai cũng chỉ nói chỉ tranh chấp biên giới. Ai cũng chỉ xác định là giữ đất thôi. Tin là đồng chí với nhau, chỉ gây sự, chỉ ghen ghét thế thôi. Chứ anh em đồng chí, ai nghĩ là sẽ đánh nhau”- 35 năm sau, nguyên Bí thư tỉnh Cao Bằng vẫn còn khắc khoải câu chuyện xảy ra năm 1979.


Trận tập kích bất ngờ


Ở Bát Xát, Lào Cai, khi pháo Trung Quốc bắt đầu bắn sang từ phía bên kia biên giới, ông Nguyễn Văn Tuyến, đại đội trưởng tự vệ Đoàn địa chất 305 (Đoàn 5) đang ở Bản Vược, ngay trong tầm súng trường lính Trung Quốc.

“Chúng tôi vẫn pha trà uống. Chiến sự vẫn liên miên từ trước đó, đêm nào cũng có tiếng súng, cho nên không ai ngờ Trung Quốc đánh lớn” - ông nói.

Chỉ trước khi cuộc tấn công diễn ra 48 tiếng, cả dân lẫn lính Trung Quốc vẫn “sang bên này xem chiếu bóng bình thường".

Ông Tuyến từng là lính trong chiến tranh với Mỹ, sau chiến tranh làm Phó Chủ tịch HĐND huyện Bát Xát, nhớ lại: "Khi pháo Trung Quốc chuyển làn, ông mới giật mình hô anh em vì cảm giác rằng bộ binh Trung Quốc sẽ sang. Mấy người hoảng hốt chạy ra đến đến ngã ba Bản Vược thì khắp nơi đã tràn ngập màu áo lính đang vận động từ phía trong ra điểm chốt của công an vũ trang. Chúng tôi tưởng bộ đội mình đã lên ngay thành thử súng cầm trong tay mà không bắn”. 

Từ trong hậu phương, lính Trung Quốc tiến đánh từ phía sau đồn công an vũ trang và chốt tự vệ địa phương. Hỏa lực từ bên kia biên giới bắn sang như mưa rào. Đơn vị ông Tuyến cơ động ra đến chốt Cây 2 thì bị một khẩu đại liên chặn lại. Bấy giờ, anh em vẫn có người giơ súng, giơ cờ vẫy ra hiệu vì vẫn tưởng bộ đội mình bắn nhầm.

Chỉ một lát sau đó, từ khu vực bản Xèo, lính công binh Trung Quốc lao cầu phao và sau đó xe tăng Trung Quốc tiến sang. “Họ đã chuẩn bị sẵn hết rồi. Cây cầu phao thả ra trôi theo dòng nước là áp khít sang bờ bên này”, lời ông Tuyến.

Tự vệ bản Xèo hy sinh vô số kể. “Chúng tôi chỉ được trang bị trung liên và súng K63. Không có vũ khí chống tăng”- ông Tuyến nói.

Ông Nguyễn Mạnh Tường, Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh Bát Xát thời điểm tháng 2.1979 đang là lính sư đoàn 316, một trong hai sư đoàn chủ lực duy nhất hiện diện ở biên giới phía Bắc.

Sáng đó, đang ở Than Uyên, đơn vị ông có lệnh báo động. Ai cũng tưởng chỉ báo động hành quân dã ngoại, thành thử “có người chỉ mang theo một quả đạn, có người trút lại tượng gạo, và có người, chỉ mang độc một bộ quần áo trên người”.

Đơn vị ông Trường hành quân lên đến Sapa thì những người lính mới biết chiến tranh đã xảy ra, và sau đó chạm địch ngay tại đèo Ô Quy Hồ. 218 đồng đội của ông đã hy sinh trong trận đánh đó.

Bát Xát là “nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt” với những địa danh anh hùng và đau thương: A Mú Sung, Y tý.

Những người lính biên phòng A Mú Sung trong ngày 17 tháng 2 năm ấy, đã đánh đến viên đạn cuối cùng và hy sinh oanh liệt.


phaodai

Một góc pháo đài Đồng Đăng


Cú đánh trộm của "người anh em"


Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cao Bằng Trần Hùng nhớ lại, trưa ngày 17, khi một người dân chạy đến đơn vị báo tin xe tăng Trung Quốc đã vào đến Nước Hai, Hòa An, thủ trưởng của ông còn lệnh cho lính "trói nó lại” vì cho rằng người này phao tin đồn nhảm.

Vì sao quân dân ta lại bị bất ngờ trước một cuộc tấn công toàn tuyến với quy mô 32 sư đoàn?

Nguyên Bí thư Cao Bằng, Vương Dương Tường, nhớ lại ở Cao Bằng hôm ấy, quân khu còn đưa các chỉ huy quân sự tỉnh về họp. Không ai biết Trung Quốc đánh mình. Ngay cả khi tiếng súng đã nổ vang từ hướng Hà Quảng, Thông Nông, trưởng ty Thủy lợi băn khoăn nói tiếng súng nhiều lắm, không biết súng ta hay súng địch. Một lãnh đạo Cao Bằng khi đó nói anh em cứ yên trí. Đó là súng mình.

Ông Tường thừa nhận: "Cơ bản nhất là bấy giờ không ai tin anh em đồng chí lại đánh nhau", ông Tường nói.

Cao Bằng bấy giờ vừa tách tỉnh. Đến 1 giờ đêm, pháo Trung Quốc bắn phá dồn dập. Sáng ngày 17.2, lính Trung Quốc đã đến chân đèo Minh Tâm. 2 tiếng sau, xe tăng chúng đã vào đến Cao Bình, rồi vào đến Nà Tàu. Pháo binh Trung Quốc dồn dập nã xuống Nà Tản.

Ngày 18.2, lính Trung Quốc đã vào đến Hòa An, Cao Bình. Đến ngày 19, khắp nơi đã bị đốt phá giết chóc.

“Ai cũng nghĩ là chỉ tranh chấp biên giới. Ai cũng chỉ xác định là giữ đất thôi. Tin là đồng chí với nhau, chỉ gây sự, chỉ ghen ghét thế thôi, ai nghĩ là sẽ đánh nhau” - ông Tường nói, và theo ông, 35 năm sau vẫn chưa hiểu nguyên nhân câu chuyện đã xảy ra.

Cho đến năm 1992, khi các cơ quan của Bát Xát, Lào Cai từ Mường Vi trở lại Bản Xèo thì “vẫn chỉ có cỏ may và đất đỏ”.

Chúng tôi trở lại Đồng Đăng, Lạng Sơn vào đúng ngày lễ Đền Mẫu, lễ lớn nhất Lạng Sơn, nằm ngay dưới chân pháo đài Đồng Đăng.

Từ 35 năm nay, mỗi dịp tháng hai, đại tá Triệu Quang Điện, Trưởng phòng cảnh sát truy nã Công an tỉnh Lạng Sơn vẫn đến đây thắp hương tưởng nhớ những người đồng đội của mình.

Ông Điện được phong Anh hùng lực lượng vũ trang sau cuộc chiến tranh biên giới 1979, và sau 35 năm, ông vẫn nhớ như in những cái tên Trần Văn Thái, Vi Văn Cao, những người đồng đội trong tổ tam tam và bữa cháo cơm nếp cuối cùng đêm 16.12.


Bài 3: Bia trấn ải - nơi tổ quốc được tô màu đỏ



tran-ai

Bia trấn ải ở Pha Long, Mường Khương, Lào Cai


Từ 35 năm nay, vào dịp tháng 2 mỗi năm, Đại tá Triệu Quang Điện, trưởng Phòng Cảnh sát truy nã Công an tỉnh Lạng Sơn đều đến đền Mẫu để thắp hương cho đồng đội của mình.

35 năm, thời gian chưa đủ để ông quên đi bữa cháo nếp cuối cùng. 35 năm, ông vẫn nhớ như in hình ảnh của những người đồng đội trong tổ tam tam: Những Trần Văn Thái. Những Vi Văn Cao.


Pháo đài Đồng Đăng và pháo hoa Trung Quốc


Năm đó, binh nhì Triệu Quang Điện vừa cưới vợ được 4 tháng, cũng vừa qua khóa huấn luyện 4 tháng ở Đông Khê, trở lại Lạng Sơn vào đúng buổi chiều ngày 16, khi phía Trung Quốc cho người đuổi trâu dò phá những bãi mìn biên giới.

5h sáng, khi pháo bắn cấp tập vào Đồng Đăng, ông cùng hai người đồng đội trong tổ thậm chí còn chưa kịp ăn nồi cháo gạo nếp đã đặt trên bếp để vội vã xách súng lên chốt ngay tại khu vực Đền Mẫu, pháo đài Đồng Đăng.

Tới 7h, sương còn chưa tan thì lính Trung Quốc đã kéo sang khắp nơi. Ba người kê súng bắn. Ông Điện, giữ súng trung liên bắn suốt 1 giờ đồng hồ.

“Hồi huấn luyện, tôi bắn bia được 3 điểm 9 - ông Điện nhớ lại - nhưng hôm đó, lính Trung Quốc lên quá đông, có lẽ là không cần bắn giỏi cũng có thể trúng”. Riêng tại chốt Đền Mẫu, binh nhì Điện đã tiêu diệt tới 30 lính Trung Quốc.

Lính Trung Quốc cứ theo tiếng kèn lớp lớp xông lên. Bị hắt ngược trở lại, rồi lại xông lên.

Trong một thời khắc, khi ông vừa nhảy xuống hào thay đạn thì chỉ nghe “bầm”. Ngoảnh lại, nơi 2 người đồng đội nằm chỉ còn lại một hố pháo đen xì. Không còn chút vết tích.

Tới 10h, xe tăng Trung Quốc đã tràn ngập khắp nơi. Pháo binh Trung Quốc nã đạn vào pháo đài trong suốt nửa ngày 18.

Bấy giờ trong hang Đền Mẫu, ngay phía dưới chốt của ông Điện có tới 300 - 400 dân tới tránh pháo.

Đến tối 18, đơn vị ông nhận được phương án đưa dân trong hang ra. Và chỉ trong một đêm, binh nhì Triệu Quang Điện trực tiếp đưa dân, ra ra vào vào 3 lần để cõng được ra 3 người đồng đội bị thương nặng.

Khẩu trung liên của ông giờ đang được trưng bày tại Viện Bảo tàng công an nhân dân

Ít năm sau đó, khi gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong một buổi lễ, ông thậm chí không trả lời được vì sao chỉ trong 1 đêm, với quãng đường 17km, một người chỉ nặng chưa tới 49kg đã 3 lần bò vào cõng đồng đội bị thương ra nơi an toàn.

Chúng tôi theo lối mòn trèo lên pháo đài Đồng Đăng, nơi bị đánh phá ác liệt nhất trong cuộc chiến biên giới.

Vào ngày 17.2.1979, 2 sư đoàn bộ binh Trung Quốc dưới sự hỗ trợ của 1 trung đoàn xe tăng và 6 trung đoàn pháo binh đã tấn công ác liệt nơi này.

Trong cuốn Lịch sử sư đoàn 3 Sao Vàng còn ghi rõ: Ngày cuối cùng tại Pháo Đài, nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, không gọi được đối phương đầu hàng, quân Trung Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn đạn hóa chất độc vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng cả thương binh và nhân dân tới đây trú ẩn.

Tháng 2 năm nay, pháo đài trở nên cô đơn, trơ trọi giữa sự náo nhiệt của lễ hội Đền Mẫu.

Hoặc như ở chính cái nơi mà lính Trung Quốc xả súng vào chiếc xe cứu thương 12A 04-35 của bệnh viện Lạng Sơn đi Đồng Đăng cứu nhân dân bị thương, giết chết cả người lái xe, cả BS Nguyễn Thu Thủy, y tá Trịnh Thị Sâm, giờ một con đường mới đã được mở ra dập dìu xe cộ, hàng hóa thông thương qua cửa khẩu Hữu Nghị.

Ở Tổng Chúp có tấm bia ghi bại vụ thảm sát này. Tấm bia giờ vẫn còn sau 35 năm, dù chiếc giếng cạn, nơi năm xưa chứa đầy xác phụ nữ, trẻ em bị hành quyết bằng rìu bổ củi giờ đã lấp đầy cây lá.

Quá khứ không dễ quên. Nhất là khi đó là những gì đau thương nhất. Cho dù theo thời gian, những nhân chứng chiến tranh giờ đã lần lượt ra đi. Ông Hoàng A Tỉn, nhân chứng thảm sát trong sân Bách hóa tổng hợp Bát Xát đã mất 2 năm trước.

Đến Tổng Chúp, lại nghe tin ông Nông Văn Ất, nguyên trưởng trại giống Đức Chính, người đã mất vợ và 4 đứa con trong vụ thảm sát Tổng Chúp giờ cũng không còn.


Lời vĩnh biệt nhói trời Pha Long


Nhưng cũng có những tấm bia trấn ải mới được dựng lên. Ngay bên tay phải đồn biên phòng tiền tiêu Pha Long, Mường Khương, Lào Cai, có những dòng chữ mới, được in trên bia đá:

Nguyên Thần Bổn Mệnh giữ núi non
Nam Sơn bốn cõi tựa sách trời định.
Thiên thiên nhật nguyệt linh linh ứng
Tuyệt tuyệt long phụng báo quốc an
Bình nhất hà Việt Nam Quốc thổ.

Thạc sĩ Đặng Vũ Cảnh Linh dịch: Nguyên Thần được giao sứ mệnh giữ núi non. Núi nam bốn cõi đã quy định trong sách trời. Nghìn nghìn mặt trời, mặt trăng linh thiêng và ứng nghiệm (điều đó). (Có) rồng phượng tuyệt vời bảo vệ an nguy tổ quốc. Đất Việt Nam yên bình nhất là ở đây.

Thiếu tá Phan Đức Mạnh, chính trị viên đồn Pha Long cho biết tấm bia trấn ải vừa được dựng hồi tháng 5, đúng vào điểm đối diện đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Bên này từng hàng, từng hàng tên tuổi của 37 liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc được khắc chìm trong đá xám.

Năm ấy, những chiến sĩ công an vũ trang còn trẻ măng đã đánh đến viên đạn cuối cùng, đã đâm gẫy đến chiếc lưỡi lê cuối cùng để bảo vệ tổ quốc.

Ngày 17.2.1979, sau khi bắn viên đạn cuối cùng, một người lính Pha Long đã gửi bức điện cuối cùng về hậu phương. Và cũng chỉ vài chữ, đại ý: Chúng tôi hết đạn. Xin Vĩnh biệt. 

Chợt nhớ đến những câu thơ Vương Trọng:

Mắt rưng rưng, dò đọc từng dòng
Gặp điệp khúc Tháng Hai năm Bảy chín
Lời vĩnh biệt nhói trời Pha Long.

Đến lúc này tôi mới hiểu ra
Vì sao đường Biên giới bản đồ
Của Tổ quốc được tô màu đỏ!..

Năm nay, chỉ duy nhất một, trong số gần bảy chục gốc đào ở Pha Long đơm hoa. 

Không xa Pha Long là điểm cao Tả Ngải Chồ, nơi một đồng nghiệp của chúng tôi, nhà báo, anh hùng liệt sĩ Bùi Nguyên Khiết đã tay bút tay súng hy sinh vào ngày 17.2.1979.

Có lẽ, chính những người lính biên phòng, chính những nhà báo liệt sĩ, chính nhân dân anh hùng, những người đã ngã xuống từ cả ngàn năm nay, những người đã hy sinh anh dũng trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược phương Bắc năm 1979 mới là những tấm “bia trấn ải” thiêng liêng nhất mà mỗi người làm báo chúng tôi cần phải nhắc lại để thế hệ con cháu còn có được cảm xúc thiêng liêng, tự hào khi nhắc đến hai chữ “Tổ Quốc”.

Đào Tuấn

Thứ Ba, 15 tháng 2, 2022

Lá thư Valentine gửi sang thế giới bên kia của người vợ mất chồng vì COVID-19

 PNO - Ngày mới yêu nhau, anh đã hứa là không bao giờ để em phải cách xa anh quá một tuần. Anh cũng biết là em không chịu nổi cảm giác thiếu vắng anh. Vậy mà...

Đã lâu lắm rồi không được gặp anh, chẳng nghe tiếng anh nói cười, đùa vui với hai mẹ con em. Ngày yêu nhau, anh đã hứa là không bao giờ để em phải cách xa anh quá một tuần. Anh cũng biết em không chịu nổi cảm giác thiếu vắng anh. Vậy mà giờ đây em phải xa anh không tính bằng tuần, bằng tháng hay năm nữa. Vì COVID-19, cả kiếp này em không còn gặp được anh. 

Anh nghĩ xem, làm sao em có thể chịu đựng được cơ chứ! Vậy mà thời gian trôi qua cũng được năm tháng rồi đó. Em không thể tin mình có thể mạnh mẽ đến như vậy. Chắc là ở thế giới bên kia, anh đã tìm cách nào đó tiếp sức cho em phải không?

Em xúc động khi đọc lại thư tay của anh, người chồng đã khuất bóng
Em xúc động khi đọc lại thư tay của anh, người chồng đã khuất bóng

Gần đây em thấy mình dần tạm ổn, nỗi trống vắng và nhớ anh chuyển sang âm ỉ chứ không còn quặn thắt tâm can như trước. Hôm qua, em dọn dẹp tủ sách, nhìn thấy cuốn nhật ký tình yêu của chúng mình. Em lật giở lại từng trang, đọc từng dòng anh viết. Cả cái tem của bức thư đầu tiên em viết cho anh, được dán kèm với dòng phụ lục ghi chú rõ ràng: “Lá thư đầu tiên anh nhận được từ em rất có ý nghĩa… Ôi! Cảm giác ấy chỉ có em mới tạo ra cho anh. Một cảm giác rất tuyệt vời em ơi!”.

Em đọc mà thương anh quá! Và em nghĩ đến việc viết thư cho anh. Chắc ở thế giới bên kia, anh cũng sẽ thấy thật tuyệt khi đọc những dòng nhắn gửi. Em mong thư đến anh đúng ngày 14/2. Anh biết vì sao rồi đúng không?

Đó là ngày anh đứng ở bến xe Miền Đông chờ em từ quê trở lại TPHCM đi học lại sau thời gian xa cách đầy nhung nhớ. Đấy là ngày lễ Tình nhân đầu tiên của chúng mình. Hôm đó em vô cùng bất ngờ khi thấy anh đứng đón. Một tay cầm cành hoa hồng, tay kia là gói quà nhỏ, trong đó có một thỏi sô cô la.

Em càng xúc động hơn khi biết anh tìm vị trí xe khách xuống từ tỉnh Đắk Nông rồi chờ em từ rất sớm. Thấy chiếc xe nào trên quê em vừa ghé bến, anh cũng đến gần, nhìn từng hành khách. Tận khi chiều muộn, chuyến xe cuối cùng, anh mới nhìn thấy em.

Sao mà anh yêu em nhiều đến thế! Anh luôn chẳng muốn xa em một ngày nào trong suốt hai mươi năm mình yêu nhau rồi thành chồng thành vợ. Vậy mà đến năm thứ 21 này anh lại nỡ xa em và con.

Em đọc được rằng con người không thể mất đi, chỉ là chuyển từ hình thái này sang hình thái khác. Vậy giờ anh là luồng ánh sáng trong suốt hay là đám mây thong dong? Dù có là gì chắc anh vẫn dõi theo hai mẹ con, đúng không?

Rưng rưng với kỷ vật cũ từng được chồng rất nâng niu
Rưng rưng với kỷ vật cũ từng được chồng rất nâng niu

Lý do thứ hai em muốn anh nhận được thư vào ngày 14/2, vì đó là ngày đầu tiên con gái mình trở lại trường sau gần một năm học online. Con đang lo lắng vì không biết trường mới sẽ ra sao.

COVID-19 làm đổi thay tất cả, mang anh rời xa em. Có những sự việc mà cách đây chừng hai ba năm không ai có thể nghĩ tới đó có thể là sự thật. Như lúc em kể chuyện anh đón em ở bến xe, con hỏi sao ba không gọi điện cho mẹ, đứng chờ chi tội nghiệp vậy. Con đâu biết hồi đó mình làm gì có điện thoại di động, cũng như làm gì biết đến “học online” như con. Trước giờ anh toàn lo chuyện đưa đón con, giờ đến lượt mình, em sợ sẽ quên trước quên sau. Nhưng yên tâm anh nhé, rồi sẽ ổn thôi. Anh hãy cứ dõi theo phù hộ cho mẹ con em bình an, khỏe mạnh.

Lý do cuối cùng em muốn thư này đến với anh đúng ngày Valentine là bởi em nghĩ, đó là ngày mà Thần tình yêu sẽ chú ý. Đại dịch chia cách nào chỉ mỗi chúng mình, còn biết bao người yêu nhau trên thế gian này phải âm dương xa lìa. Chắc phải có cách nào đó chuyển hóa những yêu thương chân thành chứ!

Tự dưng lúc này trong em lóe lên một niềm tin. Rằng tình yêu anh dành cho em sẽ không bao giờ mất đi. Chắc như “dạo một vòng” thôi, rồi sẽ quay lại thế giới tốt đẹp này bằng một hình thái khác. Em tin là cuộc sống của hai mẹ con sẽ an ổn, ngập tràn niềm vui và yêu thương như còn có anh bên cạnh. Như anh vẫn kề bên, quan tâm, lo lắng, sẻ chia từng buồn vui, phải không anh?

                                                  Vợ, người yêu của anh!

                                                                                             Diễm Trần

43 năm cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc (17.2.1979 - 17.2.2022): Chuyện về người anh hùng

 

Mai Thanh Hải


Trong 22 liệt sĩ Trường Sĩ quan Chính trị hy sinh tại biên giới phía bắc đầu 1979, có một học viên được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, đó là trung úy Phan Đình Linh.

Trong phòng truyền thống Trường Sĩ quan Chính trị (còn gọi là Đại học Chính trị), có một không gian trang trọng đặt di ảnh của 22 liệt sĩ hy sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc đầu năm 1979, khi đang thực tập tại các đơn vị thuộc Quân khu 1 ở biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn…

Trong 22 liệt sĩ Trường Sĩ quan Chính trị hy sinh tại biên giới phía bắc đầu 1979, có một học viên được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, đó là trung úy Phan Đình Linh.

43 năm cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc (17.2.1979 - 17.2.2022): Chuyện về người anh hùng - ảnh 1

Di ảnh 22 liệt sĩ trong phòng truyền thống Trường Sĩ quan Chính trị

“Thần đồng” làng biển

Ở làng biển Yên Khánh (xã Xuân Yên, H.Nghi Xuân, Hà Tĩnh), ông Phan Đình Mân (1929 - 2015) và bà Nguyễn Thị Chí (1932 - 2006) có 7 người con, trong đó anh Phan Đình Linh là con đầu. Năm 1964, ông Mân sang nước bạn Lào làm chuyên gia quân sự, bà Chí mướt mải với công việc ở xã, nên mọi việc nhà dồn lên vai cậu con trưởng Phan Đình Linh, khi đó mới 11 tuổi. Mặc dù vậy, nhưng anh Linh học rất giỏi, thi học sinh giỏi toán cấp tỉnh toàn đạt giải nhất, nhì.

Năm 1970, đang học lớp 10, anh Linh xung phong đi bộ đội nhưng không được. Tháng 7.1971, anh Linh tốt nghiệp cấp 3, cương quyết nhập ngũ. Trước ngày đi thì được gọi học Đại học An ninh, anh Linh bảo với mẹ: “Con đi bộ đội trước, hòa bình về đi đại học cũng không muộn”.

Cuối tháng 8.1971, chiến sĩ Phan Đình Linh nhập ngũ vào Tiểu đoàn 44, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Hà Tĩnh (năm 1973 sáp nhập với một số đơn vị khác thành Trung đoàn 176 quân tình nguyện Việt Nam tại Lào), sang chiến đấu tại tỉnh Bolikhamsai (Lào). Lúc này, ông Phan Đình Mân là chuyên gia quân sự địa bàn, thấy có đơn vị mới sang, tìm đến gặp đồng hương để hỏi thăm và sững người khi thấy con trai Phan Đình Linh mặc quân phục.

Tháng 8.1976, thượng sĩ Phan Đình Linh được gọi về Trường Sĩ quan Chính trị, học lớp chính trị viên đại đội. Tốt nghiệp loại giỏi, được phong quân hàm trung úy. Tháng 10.1978, anh được Bộ Quốc phòng cử học tiếp lớp đào tạo giáo viên chuyên ban Kinh tế chính trị, ngay tại Trường Sĩ quan Chính trị.

43 năm cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc (17.2.1979 - 17.2.2022): Chuyện về người anh hùng - ảnh 2

Ông Phan Đình Nga bên bàn thờ anh trai - Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Phan Đình Linh

MAI THANH HẢI

Đánh giáp lá cà

Tháng 1.1979, trung úy Phan Đình Linh được cử đi thực tập làm Chính trị viên phó Đại đội 1, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 677, Sư đoàn 346, Quân khu 1. Tài liệu của Trường Sĩ quan Chính trị ghi lại: Ngày 17.2.1979, lính Trung Quốc tấn công dữ dội vào trận địa, Phan Đình Linh đã tổ chức - chỉ huy đơn vị chiến đấu dũng cảm, diệt nhiều quân địch.

Do có kinh nghiệm chiến đấu, ngày 22.2.1979, Phan Đình Linh được điều về làm Chính trị viên Đại đội 10, Tiểu đoàn 6 chốt giữ điểm cao 815 (xã Hùng Quốc, H.Trà Lĩnh, Cao Bằng - nay là TT.Trà Lĩnh, H.Trùng Khánh, Cao Bằng). Qua một số ngày đêm liên tục chiến đấu ác liệt, đơn vị thương vong nhiều. Trong những giây phút hiểm nghèo, Phan Đình Linh vẫn bình tĩnh sử dụng các loại vũ khí còn lại đánh địch, động viên bộ đội kiên cường giữ vững trận địa.

“Tháng 1.1979, Trường Sĩ quan Chính trị tổ chức cho 238 học viên (thuộc các lớp chuyên ban: Triết học, Kinh tế chính trị, Chủ nghĩa cộng sản khoa học, Lịch sử Đảng và lớp Văn hóa quần chúng) cùng một số cán bộ đi thực tập ở các đơn vị tại Cao Bằng và Lạng Sơn. Theo kế hoạch, ngày 20.2.1979, đoàn thực tập sẽ trở về trường. Ngày 17.2.1979, chiến sự nổ ra. Ban chỉ đạo thực tập xin ý kiến chỉ đạo và nhận được mệnh lệnh ngắn gọn của Ban giám hiệu: “Tất cả về đơn vị nắm quân chiến đấu, ngày về tính sau”.

Các cán bộ - học viên nhà trường đã xung phong lên các điểm tựa tiền tiêu. Trong đó, 218 đồng chí đã trực tiếp tham gia chiến đấu. Ở một số đơn vị, do thiếu vắng cán bộ chỉ huy nên nhiều học viên được giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy chiến đấu. Họ đã đứng vững ở vị trí lãnh đạo, chỉ huy, giữ chắc trận địa phòng ngự. Trong cuộc chiến ác liệt đó, 22 học viên của nhà trường đã mãi mãi ở lại nơi biên cương của Tổ quốc”…

(Trường Đại học Chính trị, Bộ Quốc phòng)

Ngày 27.2.1979, địch tăng cường các loại hỏa lực và bộ binh ồ ạt đánh vào trận địa. Dưới làn mưa đạn, khói lửa mịt mù, đơn vị của trung úy Phan Đình Linh chiến đấu vô cùng anh dũng và bị tổn thất nặng nề. Khoảng 10 giờ sáng 27.2.1979, lính Trung Quốc tràn vào trận địa, đơn vị chỉ còn 4 người sống sót, trung úy Linh bật lưỡi lê đánh giáp lá cà, nhặt lựu đạn của địch ném trả, tiêu diệt hàng chục quân địch; và anh đã hy sinh cùng đồng đội.

Ngày 20.12.1979, liệt sĩ Phan Đình Linh được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Huân chương Chiến công hạng Ba.

Lễ truy điệu gió

Chúng tôi về Hà Tĩnh tìm gia đình liệt sĩ Phan Đình Linh, mãi mới gặp được bà Phạm Thị Vượng (69 tuổi) là vợ của liệt sĩ. Bà Vượng kể: Hai người yêu nhau từ hồi học cấp 3. Hồi ấy, ông Linh gầy ốm bởi chưa bao giờ được ăn no, toàn phải nhường các em, và ngoài giờ đi học ông xin làm kế toán cho hợp tác xã để lấy công điểm đổi thóc. Tháng 8.1971, ông Linh nhập ngũ thì cuối năm bà cũng nhập ngũ, vào làm y tá tại đội điều trị 44 (nay là Bệnh viện Quân y 4, Quân khu 4). Qua 2 lần dự định nhưng không thành, mãi đến tháng 6.1978 ông bà mới cưới nhau và là đám cưới “nếp sống mới” đầu tiên của xã. Tháng 9.1978, ông Linh về thăm nhà trước khi lên biên giới Cao Bằng thực tập, khi ấy bà Vượng mới có bầu được 3 tháng.

“Thường thì tôi chỉ tiễn anh ấy ra đến cầu Bến Thủy, nhưng lần này anh ấy nói đưa ra tận ga Vinh. Lên tàu là ngồi viết thư cho tôi, ra đến trường lại viết tiếp, khiến những ngày sau tôi liên tục nhận thư. Đầu tháng 1.1979 anh ấy lên biên giới, gửi vải về làm tã cho con gái sắp chào đời và viết thư cho mẹ tôi, nhờ ông bà chăm sóc 2 mẹ con”, bà Vượng nhớ lại vậy và trầm giọng: “Khi biết tin anh Linh hy sinh, mẹ chồng tôi như phát điên bởi đặt hết hy vọng vào anh ấy. Bố chồng thì khăng khăng bắt cậu em thứ 3 (Phan Đình Long) nhập ngũ ngay tháng 3.1979 để trả thù cho anh, tuy cậu thứ 2 (Phan Đình Nga) đã đi bộ đội từ 3.1975”…

Ông Phan Đình Nga (66 tuổi) kể: “Đầu tháng 6.1979, đơn vị gửi giấy báo tử nhưng gia đình vẫn chưa biết chính xác nơi chôn cất. Thấy mẹ tôi đau đớn quá, bố tôi phải giả là đã lấy được thi hài, tổ chức lễ đón - truy điệu và chôn cất mộ gió ở nghĩa trang liệt sĩ, để mẹ tôi nguôi ngoai”. (còn tiếp)

Cùng ngã xuống ở cao điểm 815

Tại cao điểm 815 (TT.Trà Lĩnh, H.Trùng Khánh, Cao Bằng) cùng ngã xuống với Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Phan Đình Linh, còn có thiếu úy - học viên Nguyễn Hữu Quế (sinh năm 1952, quê ở xã Hoằng Cát, H.Hoằng Hóa, Thanh Hóa) nhập ngũ năm 1971 và hy sinh ngày đầu cuộc chiến đấu, 17.2.1979.

Chúng tôi tìm về Thanh Hóa, gặp ông Nguyễn Quốc Ngọc (62 tuổi) là cháu ruột đang thờ cúng liệt sĩ, được biết: Chú Quế nhập ngũ được nửa năm thì bố mất. Khi chú hy sinh, bà mẹ đau đớn mỏi mòn đến mù cả 2 mắt và 3 năm sau cũng mất. Vợ chú là cô giáo Tạ Thị Lan, khi chồng mất khoảng 5 - 6 năm cũng xin đi làm công nhân lâm trường ở huyện khác.

Năm 1997, ông Ngọc đi tìm mộ chú theo địa chỉ ghi trong giấy báo tử, ra bản Cốc Càng, Hùng Quốc (nay là TT.Trà Lĩnh, H.Trùng Khánh, Cao Bằng) năn nỉ với người quản trang cho di chuyển và đưa xương cốt liệt sĩ vào ba lô, đi 3 ngày đêm mới về tới quê.

“Hồi ấy gia đình tôi tự cất bốc, không qua chính quyền nên sau đó phải đưa ra khu mộ của dòng họ”, ông Ngọc dẫn tôi ra nghĩa trang thắp hương cho ngôi mộ liệt sĩ Nguyễn Hữu Quế mới được tôn tạo lại, rồi bảo: “Tự bỏ tiền làm cho chú thôi”.

Thứ Hai, 14 tháng 2, 2022

Lê Kiên Thành, Con trai cố Tổng Bí thư Lê Duẩn nói về những vấn đề tồn tại trong Đảng

 

(Dân trí) - Tôi tin lời hiệu triệu của Tổng Bí thư khi ông nói rằng Đảng đang sẵn sàng, trung thực đối diện với khuyết điểm và lắng nghe những góp ý, phê bình thẳng thắn nhất.

Phải làm gì để được nhìn con tàu này dong buồm ra khơi, tôi mong ở cương vị của mình, Tổng Bí thư sẽ tìm ra được câu trả lời.

...

Khi Báo Điện tử Dân trí đặt tôi viết một bài về Đảng dịp đầu xuân năm nay, lòng tôi nặng trĩu…

Vì chỉ vài ngày trước thôi, ngay trước Tết Nguyên đán, hàng loạt các cán bộ - đảng viên nắm vị trí quan trọng trong Cục Lãnh sự - Bộ Ngoại giao, những người có trách nhiệm bảo hộ công dân Việt Nam, đã bị bắt vì nhận hối lộ, móc nối với doanh nghiệp để trục lợi trong các chuyến bay giải cứu đưa người Việt Nam về nước trong đại dịch. Trước đó là vụ kit test Việt Á. Họ đều là Đảng viên, nhưng giẫm đạp lên xương máu đồng bào tôi để kiếm tiền trong lúc dân tộc này đang trong cảnh nước sôi lửa bỏng.

Còn bao nhiêu vụ việc tương tự nữa? Tôi đoán là nhiều, nếu chúng ta có thể khui hết ra được…

Tôi còn nhớ tháng 9/2012, khi Hội nghị TW6 khóa XI chuẩn bị diễn ra, tôi đã trả lời phỏng vấn nhà báo Tô Lan Hương về sự suy thoái của Đảng, về sự lâm nguy của Đảng, về sự tồn vong của Đảng - điều mà chính Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khi ấy đã chỉ ra trong văn kiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI.

Đó là lần đầu tiên, người đứng đầu Đảng đã can đảm thay mặt Đảng thừa nhận những tồn tại, những yếu kém trong Đảng, rằng việc có triệt để chấn chỉnh được sự suy thoái đó hay không sẽ ảnh hưởng đến sự tồn vong của Đảng. Đó cũng là lần đầu tiên, khi đứng trước sự lâm nguy, người đứng đầu Đảng thừa nhận sự lâm nguy đó do chính chúng ta tạo ra, chứ không phải do bất cứ "thế lực bên ngoài" nào đe dọa.

Tôi xin được trích lại một phần nội dung Nghị quyết: "Công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ... Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc".

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI như tôi hiểu là cuộc chiến trực diện nhất, quyết liệt nhất, nhắm vào những lực lượng ghê gớm nhất trong Đảng, lực lượng thao túng mọi vấn đề kinh tế mà bản thân việc thao túng đó đang đẩy Đảng đến nguy cơ sụp đổ. Nó thắp vào lòng những Đảng viên yêu Đảng như tôi niềm hy vọng vào sự hồi sinh của Đảng. Tôi đã thật lòng mong rằng, sự can đảm đó của Đảng và Tổng Bí thư sẽ là sự khởi đầu cho một hành động đặc biệt, chấn chỉnh lại Đảng với những suy thoái đã đến mức báo động đỏ.

Con trai cố Tổng Bí thư Lê Duẩn nói về những vấn đề tồn tại trong Đảng - 1

TS. Lê Kiên Thành

Năm 2016, Đảng khởi xướng chiến dịch chống tham nhũng trên quy mô lớn, thường được người dân gọi là chiến dịch "đốt lò". 6 năm qua, tôi đã chứng kiến những Ủy viên Bộ Chính trị bị bắt, đã nhìn thấy những người từng là Anh hùng LLVTND đứng trước vành móng ngựa; đã thấy Trung tướng công an bảo kê cho đường dây cờ bạc bị tuyên án, đã thấy Bộ trưởng về hưu cũng không thể "hạ cánh an toàn"….

Nhưng nếu bảo tôi có vui mừng không? Tôi sẽ không thể trả lời "có"!

Tôi tin vào khát vọng và quyết tâm làm trong sạch Đảng của Tổng Bí thư, càng tin là ông sẽ còn quyết liệt hơn nữa cho đến tận khi ông kết thúc nhiệm kỳ của mình. Nhưng có lẽ nó vẫn là chưa đủ…

Mấy hôm trước, khi gặp một vị quan chức đang giữ vị trí rất cao trong Đảng, tôi đã chia sẻ: Những cuộc đốt lò của chúng ta suốt 6 năm qua, nó có thể giảm bớt được sự bức xúc của xã hội, có thể giúp người dân tìm được chỗ để xả cơn giận, nhưng không thể giải quyết được tận gốc rễ những vấn đề thực sự của Đảng. Vì 6 năm qua, không thể đếm được bao nhiều quan chức từ trung ương đến địa phương bị bắt giữ, bị xử phạt với những án tù mà dù có ở tù cả đời cũng không hết, nhưng tham quan không vì thế mà ít đi, những vụ tham nhũng không vì thế mà ít đi. Những vụ tiêu cực được vạch trần gần đây không chỉ khiến những người Đảng viên, những người dân như tôi lạnh lòng vì những quan chức - đảng viên ấy đã kiếm tiền không run tay trên xương máu đồng bào mình, mà còn bởi những vụ án đó liên quan đến không chỉ một người, mà liên quan đến nhiều người, nhiều ngành, ở nhiều cấp khác nhau. Một cá nhân tham nhũng, chúng ta có thể trừng trị cá nhân đó? Nhưng khi mà sự tham nhũng đó mang tính hệ thống, thì chúng ta phải làm sao với chính hệ thống của mình? Với vấn đề này Tổng Bí thư từng nói "phải nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế, luật pháp".

Mỗi khi có một quan chức bị bắt, tôi nhìn thấy sự hân hoan đâu đó trên gương mặt những người xung quanh tôi. Nhưng đến giờ, khi công cuộc đốt lò đã thực hiện được nhiều năm, tôi vẫn biết rằng, kết quả của sự nghiệp đốt lò của Đảng còn chưa đạt được những mục tiêu mà Đảng đã đề ra, còn chưa đáp ứng được mong muốn của nhân dân - những người mà niềm tin của họ vốn đang bị những tiêu cực có tính hệ thống trong Đảng nhiều năm qua làm cho bị xói mòn. Cái lò cháy mỗi ngày một to, củi mỗi ngày một nhiều, nhưng "những kẻ cơ hội" vẫn còn đó, nắm giữ những vị trí cao trong Đảng và Chính quyền. Nói như lời nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng "nếu kỷ luật hết thì lấy ai mà làm việc".

Khi tôi nhìn những quan chức bị bắt, đứng trước vành móng ngựa với tội danh rõ ràng vẫn thản nhiên cãi rằng họ "không lợi dụng chức vụ của mình để trục lợi", thì tôi hiểu rằng, kể cả có cho họ làm lại một lần nữa, họ vẫn sẽ làm thế.

Chúng ta có thể loại bỏ họ ra khỏi hàng ngũ Đảng, điều đó rất đơn giản. Nhưng nếu vứt bỏ thành phần đó mà thay bằng những con người khác, những Đảng viên khác, liệu có gì đảm bảo người sau sẽ tốt hơn người trước?

Tôi hay nhớ ba mình mỗi khi ai đó nhắc tôi về những vấn đề của Đảng trong giai đoạn hiện nay.

Ba tôi từng kể đi lể lại một câu chuyện khi ông còn sống và lần nào kể ông cũng khóc. Lúc ông còn trong nhà tù Côn Đảo, có một người đồng chí trước lúc chết đã đưa cho ông manh áo cuối cùng với lời trăng trối: "Ba ơi, tao muốn làm được gì cho Đảng mà không có cơ hội. Mày hãy mặc cái áo này của tao, để tao chết trần truồng, để tao có cơ hội được đóng góp cho Đảng". Ba tôi giữ lại cái áo đó, nó nhắc nhở ông mỗi ngày rằng, việc ông còn sống, dù tù tội, cũng là hạnh phúc. Vì còn sống và còn được hy sinh cho Đảng là giấc mơ mà người bạn tù đã nằm xuống của ông không làm nổi.

Đó là cách mà những người Cộng sản thế hệ ba tôi đã sống!

Thế hệ ba tôi có cách chọn lọc tự nhiên để tìm ra những Đảng viên tốt. Khi đó Đảng mới thành lập, nếu là Đảng viên, anh phải chấp nhận đối mặt với tù đày dù chưa biết có được gì hay không. Nếu là Ủy viên Trung ương mà bị bắt thì anh cầm chắc bị xử bắn. Người nào dám chấp nhận tất cả những điều đó, thì mới là Đảng viên. Nên những người chấp nhận là Đảng viên là những người can đảm nhất, ít vụ lợi nhất, yêu dân tộc này nhất, sẵn sàng hy sinh vì dân tộc này nhất.

Nhưng ngày hôm nay, điều kiện để chọn lọc tự nhiên như thế không còn nữa.

Giờ vào Đảng thì mới có cơ hội được làm lãnh đạo, mới có cơ hội thành Thứ trưởng, Bộ trưởng, hoặc cao hơn. Vào Đảng bây giờ gắn liền với quyền lợi, gắn liền với lợi ích về công danh, sự nghiệp và (sau đó) luôn là tiền bạc. Nếu giờ đất nước có chiến tranh, có tai họa lớn xảy ra, thì không có gì đảm bảo những người đó sẽ là những người hy sinh nhất, xông pha nhất… Và sự thực như chúng ta đã nhìn thấy, trong đại dịch, nhiều người đã kiếm tiền trên xương máu và sự an nguy của đồng bào.

Chúng ta không chỉ có Điều lệ Đảng mà còn có 19 điều Đảng viên không được làm. Nhưng cái cao nhất mà một người Đảng viên phải tuân theo là trung thành với đất nước, trung thành với nhân dân, xả thân vì dân tộc. Khi người Đảng viên làm được điều đó, thì không cần có 19 điều cấm kia nữa. Còn nếu họ đã không trung thành với đất nước này, với nhân dân này, nếu họ không đặt dân tộc và nhân dân lên cao hơn tất thảy, thì mọi điều họ làm đều vô nghĩa.

Năm 2018, Tổng Bí thư từng nói: "Dứt khoát không đưa vào quy hoạch những kẻ cơ hội". Nhưng thực tế là vẫn có không ít kẻ cơ hội đang nắm giữ những trọng trách lớn trong hệ thống của chúng ta.

Nếu chúng ta có một khu vườn với những cái cây mục ruỗng vì sâu bọ, chúng ta không thể bắt sâu và nhổ đi những cái cây đó là xong, vì mầm bệnh vẫn còn đó, sâu bọ vẫn sẽ tiếp tục sinh sôi. Chừng nào chúng ta chưa thực sự đối diện với nguyên nhân sâu xa nhất, gốc rễ nhất của vấn đề, thì khu vườn của chúng ta không thể ươm ra được những mầm cây tốt. Cho nên, "đốt lò" có thể là việc cần thiết để loại bỏ những kẻ cơ hội trong Đảng, nhưng làm thế nào để ngăn chặn Đảng viên trở thành những kẻ cơ hội, ngăn chặn nguy cơ họ sẽ thành "củi", còn quan trọng hơn nhiều.

Để sửa đổi những vấn đề trong Đảng - điều mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đảng đã khởi xướng 10 năm qua, thì đốt lò thôi không đủ, phải thay đổi nguyên lý của Đảng. Ngay như Quốc hội, cơ quan dân cử mà lại có đến 90% Đảng viên, thì tính giám sát đối với Đảng và Chính phủ đã yếu đi rất nhiều. Cũng đã đến lúc, chúng ta phải chấp nhận những người không phải Đảng viên, nhưng có năng lực, có phẩm giá được nắm giữ những vị trí cao hơn trong chính quyền, để hai chữ "Đảng viên" không còn đi đôi với đặc quyền của nhiều quan chức.

Trong những năm qua, có những thời điểm buồn bã, tôi muốn xin ra khỏi Đảng. Một người bạn của tôi - là người giữ trọng trách trong chính quyền biết chuyện đã nói với tôi: "Lẽ nào anh sẵn lòng từ bỏ con tàu này, từ bỏ con tàu mà ba tôi và ba anh cùng nhiều người khác đã tạo nên bằng bao xương máu? Từ bỏ mà không quan tâm đến vận mệnh con tàu, mặc kệ nó sẽ giương buồm ra khơi hay chìm đi trong gió bão".

Bạn tôi nói đúng, tôi không thể từ bỏ. Vì tôi là con của ba tôi - là nhà lãnh đạo đứng đầu Đảng Cộng sản suốt nhiều năm trời , người đã nằm tù Hỏa Lò, Côn Đảo, đã hy sinh cả cuộc đời riêng vì dân tộc. Nếu từ bỏ, thì tôi không còn xứng đáng là con của ông nữa. Tôi không có bất cứ vị trí nào trong Đảng để có thể tạo ra sự ảnh hưởng, tôi không có quyền lực để có thể tạo ra sự thay đổi. Nhưng tôi luôn nghĩ xem ở vị trí của mình, tôi có thể làm gì: điều duy nhất là lên tiếng, không ngừng lên tiếng và tiếp tục thẳng thắn nói về những vấn đề tồn tại trong Đảng mà tôi nhìn thấy. Vì tôi tin lời hiệu triệu của Tổng Bí thư khi ông nói rằng Đảng đang sẵn sàng, trung thực đối diện với khuyết điểm và lắng nghe những góp ý, phê bình thẳng thắn nhất. Phải làm gì để được nhìn con tàu này dong buồm ra khơi, chứ không phải nhìn thấy nó cứ thế chìm đi, tôi mong ở cương vị của mình, Tổng Bí thư sẽ tìm ra được câu trả lời.