Chủ Nhật, 6 tháng 8, 2023

Tưởng nhớ Ngô Vĩnh Long, nhà Việt Nam học và nhà hoạt động phản chiến danh tiếng/ Remembering Ngô Vĩnh Long, Renowned Scholar of Vietnam and Antiwar Activist

 

Nguyễn Thùy An và Douglas Allen

(Bản tiếng Việt : Nguyễn Thùy An)


LTS. Diễn Đàn đã giới thiệu bản gốc (tiếng Anh) của bài này ngày 15.2.2023.
Dưới đây là bản dịch của TS Nguyễn Thuỳ An, đồng tác giả.


Nhà sử học và nhà hoạt động phản chiến nổi tiếng quốc tế Ngô Vĩnh Long qua đời tại bệnh viện St. Joseph ở Bangor, Maine vào ngày 12 tháng 10 năm 2022, hưởng thọ 78 tuổi. Là giáo sư sử học tại Đại học Maine từ năm 1985 cho đến khi qua đời, Tiến sĩ Long là học giả hàng đầu về chiến tranh Việt Nam, chiến tranh Đông Dương, lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ, quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, lịch sử Đông Nam Á, và lịch sử Đông Á, đặc biệt là Trung Quốc.

Từ những năm học Đại học tại Harvard cho đến cuối đời, Ngô Vĩnh Long đã luôn là một nhà hoạt động xã hội trí thức (intellectual activist) và một nhà trí thức hoạt động xã hội (activist intellectual) can đảm. Ông thường mô tả mình là một người Việt yêu nước đầy tự hào, luôn quan tâm sâu sắc đến Việt Nam, đến quá khứ và những đau khổ của dân tộc Việt, cũng như đến Hoa Kỳ, quê hương thứ hai của ông. Ngay cả trong những thời điểm đen tối nhất của cuộc đời mình, ông vẫn giữ vững tầm nhìn và hy vọng về một Việt Nam tốt đẹp hơn, một nước Mỹ bình đẳng hơn, và một mối quan hệ Việt-Mỹ ngày càng bền chặt.

Ngô Vĩnh Long đôi khi miêu tả bản thân - và được một số người khác xem – là một người theo chủ nghĩa hoà bình (a pacifist). Điều này chính xác nếu ta hiểu "người theo chủ nghĩa hoà bình" là người phản đối chiến tranh và người thúc đẩy hoà bình, hoà giải, và công lý. Nhưng Tiến sĩ Long không phải là típ người theo chủ nghĩa hoà bình cứng nhắc, luôn công khai lên án mọi biểu hiện bạo lực, chẳng hạn như những biểu hiện không phải lúc nào cũng bất bạo động của các nhà cách mạng chống thực dân và chống đế quốc để giành tự do, độc lập cho Việt Nam. Thay vào đó, Ngô Vĩnh Long luôn nỗ lực tìm tòi và đưa ra các giải pháp thay thế cho các phản ứng bạo lực đối với áp bức, bóc lột, và thống trị.

Phần lớn các ưu tiên và cam kết học thuật và hoạt động xã hội của Ngô Vĩnh Long bắt nguồn từ những ảnh hưởng được hình thành trong quá trình giáo dục của gia đình và những trải nghiệm thời trẻ của ông ở Việt Nam. Những ảnh hưởng và kinh nghiệm này đã định hình cam kết nói lên sự thật trước quyền lực của ông. Từ khi còn trẻ cho đến khi kết thúc cuộc đời, Ngô Vĩnh Long đã luôn tràn đầy thấu cảm trước những đau khổ được gây ra bởi con người mà người dân Việt Nam phải gánh chịu. Những đau khổ này cũng là thứ mà ông đã dành cả cuộc đời mình để xoa dịu. Ông tin vào việc đưa ra những phân tích độc lập, bất kể những rủi ro cá nhân và nghề nghiệp mà những diễn giải và hành động của ông buộc ông phải đối mặt từ Việt Nam và từ Hoa Kỳ. Ngô Vĩnh Long có một cam kết không thể lay chuyển, đó là nghiên cứu – và giúp người khác hiểu hơn – về những thực tế bạo lực và bất công về kinh tế, chính trị, và văn hoá của chủ nghĩa thực dân Pháp, chủ nghĩa thực dân mới Hoa Kỳ, chủ nghĩa đế quốc Trung Quốc, và các biểu hiện thống trị khác trong thế giới đương đại.

Khi đưa ra những lập trường, cam kết, và hành động như vậy, Ngô Vĩnh Long không hề ảo tưởng. Ông hoàn toàn biết và chấp nhận những hậu quả tiêu cực mà chúng có thể mang lại cho cuộc sống cá nhân và sự nghiệp của mình.1

Việc giữ vững những thế đứng mạnh mẽ và dũng cảm đó làm nên một phần danh tiếng của Ngô Vĩnh Long, nhưng đôi khi nó cũng gây ra những miêu tả thiên kiến, dễ gây hiểu lầm về ông. Tiêu đề cho cáo phó của Ngô Vĩnh Long trên tờ New York Times gọi ông là “Cột thu lôi [cho phong trào] phản đối chiến tranh Việt Nam.” Cáo phó của ông trên tờ The Boston Globe miêu tả ông là “một học giả về Việt Nam bị tấn công vì quan điểm của mình đối với chiến tranh.” Người ta có thể dễ dàng kết luận từ những ấn phẩm này và các ấn phẩm khác rằng Ngô Vĩnh Long là một trí thức không khoan nhượng, và là một nhân vật luôn tạo ra tranh cãi.2

Tuy nhiên, góc nhìn này về Ngô Vĩnh Long dễ gây hiểu lầm, bởi nó không giải quyết được câu hỏi mấu chốt: ai coi ông là cột thu lôi và là kẻ thù? Ngô Vĩnh Long rất thân thiện, khiêm tốn, tốt bụng, nồng hậu, và hiếu khách. Ông rất hào phóng dành thời gian cho các sinh viên, đồng nghiệp của mình và cho các học giả Việt Nam và châu Á khác, kể cả những người mà ông bất đồng ý kiến. Với bản thân và người xung quanh, Ngô Vĩnh Long thể hiện khiếu hài hước tuyệt vời, khả năng chơi chữ vô tận, và sự hào sảng hiếm có khi ông không ít lần cười nhạo chính mình. Góc nhìn phức tạp hơn này cho phép ta hiểu một cách trọn vẹn, sâu sắc hơn về tầm nhìn và di sản của Ngô Vĩnh Long với tư cách là một trí thức mẫu mực.

Sinh ngày 10 tháng 4 năm 1944, Ngô Vĩnh Long được đặt tên theo địa danh nơi mình được sinh ra: tỉnh Vĩnh Long, cũng có nghĩa là “vĩnh viễn thịnh vượng.” Thân phụ ông, Ngô Ngọc Tùng, là con trai của một gia đình nho sĩ gốc Bắc Ninh và là một nhà hoạt động trong phong trào chống thực dân Pháp trong những năm 1930. Thân mẫu ông, Hồ Thị Ngọc Viễn, đã bất chấp nguyện vọng của gia đình và bỏ trốn cùng cha ông vào Nam. Lớn lên vào cuối những năm 1940 và đầu những năm 1950, Ngô Vĩnh Long bị ảnh hưởng sâu sắc bởi sự tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp và bởi cách mà cha mẹ ông và những người khác đồng cảm với cuộc đấu tranh chống thực dân của cách mạng Việt Nam. Ông từng hồi tưởng rằng, khi còn là một cậu bé, ông đã chứng kiến cảnh người Pháp giết nhiều người Việt và vứt xác họ xuống sông Mekong. Trong một cuộc phỏng vấn sau này, ông kể lại khoảnh khắc “bơi cùng những xác chết trôi nổi trên sông,” và những trận ốm nặng sau những lần tắm sông đó.3

Cha ông từng khuyên ông đừng học tiếng Pháp, ngôn ngữ của “những kẻ man rợ” đang đô hộ Việt Nam, mà thay vào đó hãy học tiếng Anh.4 Người cha và cậu con trai nhỏ đã cùng nhau vượt trăm dặm đến Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh), nơi họ mua một cuốn Great Expectations (Những Kỳ vọng lớn lao) của Charles Dickens. Suốt một năm sau đó, Ngô Vĩnh Long và cha ông đã đọc Dickens mỗi ngày và đoán cách phát âm của những từ trong sách. Đây là cách giúp Ngô Vĩnh Long có được vốn kiến thức tiếng Anh cơ bản, cũng là ngôn ngữ sẽ có ảnh hưởng sâu sắc đến tương lai của ông sau này.

Sau năm 1954, Hoa Kỳ thay thế Pháp trở thành cường quốc ngoại bang thống trị tại Việt Nam. Quân đội Mỹ thuê Ngô Vĩnh Long làm dịch giả và kỹ thuật viên vẽ bản đồ khi ông mười sáu tuổi. Hy vọng của ông khi nhận công việc này là giúp người Mỹ vẽ bản đồ một cách chính xác, hòng tránh việc ném bom nhầm mục tiêu hoặc làng mạc chỉ có dân thường. Tuy nhiên, đến năm 1962, trải nghiệm làm việc gần chương trình Ấp Chiến Lược đã củng cố sự phản đối của Ngô Vĩnh Long đối với sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Như ông mô tả trong một cuộc phỏng vấn năm 1982: “Ở một số nơi, người dân bị chết đói hàng loạt. Tôi ở một làng kia trong hai tháng, và mỗi tháng đã có khoảng 200 người chết đói ở đó. Mọi người đói đến mức phải ăn cả rễ cây mà sống.”5 Những gì Ngô Vĩnh Long thấy đã biến ông thành một người phản đối mạnh mẽ Chiến tranh Việt Nam và sự can thiệp của Mỹ ở Đông Dương. Ít lâu sau, Ngô Vĩnh Long xin nghỉ việc và trở thành một người công khai chỉ trích vai trò của Mỹ và đồng minh của họ, chính phủ Việt Nam Cộng Hoà (VNCH).

Ngô Vĩnh Long đã công khai lên tiếng và biểu tình phản đối chiến tranh, khiến chính quyền Sài Gòn phẫn nộ, và ông chỉ thoát khỏi việc bị bắt giữ bằng cách sang Mỹ. Ông hy vọng nói cho người Mỹ biết những gì đang xảy ra ở Việt Nam. Thông qua Uỷ ban Giáo hữu Hoa Kỳ (American Friends Service Committee), ông đã trải qua một năm với tư cách là học sinh trao đổi tại một trường trung học ở Joplin, Missouri, trước khi trở thành sinh viên Việt Nam đầu tiên theo học Đại học Harvard vào năm 1964.

Ngô Vĩnh Long nhanh chóng trở thành “học giả kiêm nhà hoạt động người Việt nổi tiếng nhất tại Hoa Kỳ.”6 Những bài phát biểu, bài viết, và hành động của ông gây lo ngại cho chính quyền Sài Gòn và Washington, cũng như cho những nhân vật thuộc giới tinh hoa quyền lực (power elites) trong kinh tế, chính trị, và học thuật. Những lo ngại đó rồi sẽ dẫn đến những hệ quả vừa truyền cảm hứng và cũng vừa bi thảm cho cuộc đời của ông sau này.

Một trong những nỗ lực đầu tiên của Ngô Vĩnh Long sau khi đến Harvard là tổ chức cho các bạn học đến Washington vào tháng 4 năm 1965 để tham gia cuộc biểu tình phản chiến lớn nhất ở Hoa Kỳ cho đến thời điểm đó. Trong suốt thập kỷ tiếp theo, Ngô Vĩnh Long là một nhà lãnh đạo nổi bật của nhóm sinh viên Việt Nam ủng hộ hoà bình có trụ sở tại Cambridge. Ngoài làm việc với người Mỹ, ông còn cộng tác với những người Việt khác ở Hoa Kỳ, và vào năm 1965, Ngô Vĩnh Long được bầu làm chủ tịch Hội Người Việt ở New England. Tuy nhiên, ông sớm kết luận rằng việc tổ chức những người Việt Nam có thiện cảm ở Bắc Mỹ không phải là cách hiệu quả nhất để vận động cho phong trào phản chiến. Do đó, ông quyết định tập trung tài nguyên, năng lượng vào việc gây ảnh hưởng trực tiếp đến công chúng Hoa Kỳ.

Vào thời điểm này, Ngô Vĩnh Long cũng quyết định chọn Á Châu Học làm ngành học của mình tại Harvard. Đây là cơ duyên để ông gặp gỡ Giáo sư John King Fairbank, người đã nhận ra trí thông minh đặc biệt của Ngô Vĩnh Long và đã rất nhiệt tình ủng hộ cậu sinh viên trẻ. Đây cũng là lúc Ngô Vĩnh Long gặp Samuel Huntington, Henry Kissinger, và những kiến trúc sư chính khác của chủ nghĩa quân phiệt Mỹ lúc bấy giờ. Sau này, Ngô Vĩnh Long kể lại rằng Huntington đã bảo cậu sinh viên người Việt thật ngây thơ khi không nhận ra rằng Việt Nam và “mọi xã hội, cũng như mọi con người, đều có giới hạn chịu đựng, và đều có điểm gãy (a breaking point).”7

Vào tháng 2 năm 1968, vài tuần sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân, Ngô Vĩnh Long và các sinh viên cao học khác đã đưa ra “tuyên bố công khai phản đối chiến tranh đầu tiên của công dân Việt Nam” ở Mỹ trước 600 người tại Nhà hát Sanders của ĐH Harvard.8 Một tháng sau, Ngô Vĩnh Long và mười lăm sinh viên miền Nam Việt Nam khác tổ chức một cuộc họp báo ở Washington để công bố một tuyên bố chung mà họ đã gửi cho Đại sứ VNCH Bùi Diễm trước đó.9 Tuyên bố này đã được đưa vào Hồ sơ Quốc hội Hoa Kỳ theo yêu cầu của Thượng nghị sĩ William Fulbright. Trong đó, những người ký kết bản tuyên bố quy trách nhiệm chính trong việc chấm dứt chiến tranh cho chính phủ Mỹ. Điều này khiến chính phủ VNCH vô cùng tức giận, và đã tiến hành thu hồi hộ chiếu của những người ký tên. Nhờ sự bảo vệ của các chính trị gia Mỹ có thiện cảm, các sinh viên đã tránh khỏi việc bị trục xuất. Từ đó đến khi cuộc chiến kết thúc, Ngô Vĩnh Long tiếp tục tổ chức nhiều buổi nói chuyện và toạ đàm về phản chiến. Ví dụ, vào ngày 7 tháng 3 năm 1969, ông đã có một bài phát biểu phản chiến đầy xúc động trước tám Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ và khoảng 1.500 người tham dự tại Lễ tưởng niệm cố Thượng nghị sĩ Ernest Gruening ở Boston.

Như Ngô Vĩnh Long đã nhiều lần viết, Tết Mậu Thân 1968 là một trong những sự kiện có vai trò quyết định trong việc thúc đẩy ông tiến xa hơn nữa trên con đường đấu tranh vì hoà bình của mình. Ông và 62 nhà hoạt động Việt Nam khác đã ra tuyên bố tố cáo hành vi của Hoa Kỳ trong chiến tranh và yêu cầu chấm dứt những hành vi này ngay lập tức. Vào tháng 4 năm 1972, mười lăm thanh niên Việt Nam yêu nước và phản chiến (hầu hết trong số họ được Cơ quan Phát triển Mỹ USAID tài trợ học bổng) đã tập trung tại khuôn viên Đại học Nam Illinois dưới sự lãnh đạo của Ngô Vĩnh Long. Trong số những sinh viên này có David Trương Đình Hùng, Lê Anh Tú, và những người đã bất chấp những rủi ro cá nhân để tham gia tranh đấu cho hoà bình. Tại Đại học Nam Illinois, những sinh viên người Việt đã vạch trần và tố cáo các chính sách của Hoa Kỳ tại Việt Nam, cùng sự đồng loã với những chính sách này của giới học thuật (Hình 1).10


Ngô Vĩnh Long và các sinh viên hoạt động phản chiến khác tại Đại học Nam Illinois (Southern Illinois University, SIU),
ngày 24 tháng 4 năm 1972. (Nguồn : Doug Allen)


Nhân cách và góc nhìn của Ngô Vĩnh Long còn được thể hiện qua mối quan hệ giữa ông và Nguyễn Thái Bình, người đã cướp một chuyến bay của hãng Pan American từ Manila đến Sài Gòn vào tháng 7 năm 1972.11 Nguyễn Thái Bình và Ngô Vĩnh Long là bạn thân, và Bình coi Long là một trí thức hoạt động phản chiến gương mẫu. Nguyễn Thái Bình là một trong những sinh viên Việt Nam đã dũng cảm đến Đại học Nam Illinois, nơi anh ngâm thơ, hát những bài hát do anh sáng tác, và vỡ oà trong tức giận về những đau khổ của người dân Việt Nam. Vì những động thái này, thị thực của Nguyễn Thái Bình bị thu hồi, và anh bị buộc phải quay trở lại Sài Gòn để đối mặt với án tù. Vụ không tặc thất bại của Nguyễn Thái Bình là một nỗ lực tuyệt vọng nhằm buộc Hoa Kỳ đàm phán một thỏa thuận hoà bình với Hà Nội. Bất chấp tình cảm chống đế quốc của bản thân và tình bạn thân thiết giữa hai người, Ngô Vĩnh Long đã không đồng ý với quyết định của Nguyễn Thái Bình. Với sự hiểu biết sâu sắc của mình, Ngô Vĩnh Long không những biết rằng một vụ không tặc tuyệt vọng chắc chắn sẽ thất bại, mà ông còn tin rằng phong trào phản chiến nên đề cao bất bạo động như là một nguyên tắc đạo đức lẫn một chiến lược chính trị.

Ngô Vĩnh Long không hề ảo tưởng về những hậu quả mà hoạt động vì hoà bình có thể gây ra cho sự nghiệp, an ninh, và hạnh phúc của mình. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1999, ông chia sẻ rằng ông đã trở thành tâm điểm của rất nhiều sự thù hận và rất nhiều cuộc tấn công, và rằng “trong hai mươi năm tiếp theo, từ 1975 đến 1995, cuộc sống của tôi không khác gì địa ngục.”12

Sau khi Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam và chiến tranh kết thúc vào tháng 4 năm 1975, Ngô Vĩnh Long đã khiến một số người Việt tị nạn ở Mỹ và giới tinh hoa quyền lực Hoa Kỳ tức giận khi từ chối công khai lên án chính phủ Hà Nội và những gì xảy ra ở Việt Nam sau ngày thống nhất. Ông nhiều lần nói rằng ông đồng cảm với nhiều điều ở Việt Nam, nhưng ông đồng thời cũng chỉ trích nhiều điều khác, và ông luôn luôn phân tích các diễn biến với tư cách một học giả độc lập.

Trong số rất nhiều mối đe dọa và các cuộc tấn công mà Ngô Vĩnh Long phải đối mặt, vụ tấn công manh động nhất xảy ra vào tháng 4 năm 1981, sau khi ông có bài phát biểu tại Đại học Harvard. Nhiều người Mỹ gốc Việt phẫn nộ đã lên án ông, và một trong số họ đã ném một bom xăng Molotov vào Ngô Vĩnh Long, hòng giết ông. Trong một cuộc phỏng vấn với tờ Boston Globe sau lần mưu sát này, Ngô Vĩnh Long nói: “Họ cáo buộc tôi là điệp viên Cộng sản. Tôi không phải điệp viên Cộng sản."

Vào năm 1970, Ngô Vĩnh Long và các học giả Việt Nam khác đã thành lập Vietnam Studies Group (VSG, Nhóm Việt Nam Học), cho đến nay vẫn là tổ chức học thuật nổi bật nhất dành cho các nhà nghiên cứu về Việt Nam tại Hoa Kỳ.13 Một số học giả của VSG đã từng là một phần trong phong trào phản chiến của những năm 1960 và đã có những cam kết chống chủ nghĩa đế quốc mạnh mẽ. Những người khác chọn con đường an toàn hơn và giữ im lặng. Một số lớn các thành viên VSG trẻ hơn thế hệ của Ngô Vĩnh Long và đã đóng góp vào nghiên cứu chính thống về Việt Nam tại Hoa Kỳ sau 1975.

Theo quan điểm của Ngô Vĩnh Long, VSG ngày càng thiếu định hướng cách mạng và thường có khuynh hướng khá bảo thủ so với thời kỳ đầu mới thành lập. Tuy nhiên, phản ánh cách tiếp cận và tầm nhìn của mình, Ngô Vĩnh Long luôn cố gắng hỗ trợ và trao đổi với các nhà nghiên cứu về Việt Nam khác, thu hút họ tham gia đối thoại học thuật thông qua các bài viết, bài nói chuyện, và những cuộc gặp gỡ. Ngô Vĩnh Long hy vọng VSG và lĩnh vực này sẽ ngày càng đi theo những hướng tiến bộ hơn.

Trong số những đóng góp quan trọng nhất của Ngô Vĩnh Long cho phong trào phản chiến là việc ông thành lập Vietnam Resource Center (VRC, Trung tâm Tư liệu Việt Nam) vào đầu năm 1969, với mục đích liên kết các nhà hoạt động Hoa Kỳ và quốc tế với những người ở Việt Nam, và giúp công chúng quốc tế hiểu rõ hơn về chiến tranh và những gì xảy ra ở bên kia đại dương. VRC thường chuẩn bị thông tin cho các nhà báo Mỹ trước khi họ đến Việt Nam và giới thiệu họ với những người có thể cung cấp cho họ những kinh nghiệm và thông tin trực tiếp ở Sài Gòn. VRC đã là một nguồn tài nguyên thông tin và phân tích quan trọng cho các nhà hoạt động phản chiến Hoa Kỳ và quốc tế.

Một trong những thành tựu quan trọng nhất của VRC là việc xuất bản Thời Báo Gà (TBG), một tờ nguyệt san có ảnh hưởng lớn, xuất hiện lần đầu vào tháng 3 năm 1969 và do Ngô Vĩnh Long biên tập và viết chính. Mười ba số đầu tiên được xuất bản chủ yếu bằng tiếng Việt; từ số thứ mười bốn trở đi, TBG được viết hoàn toàn bằng tiếng Anh. Điều này giúp phục vụ mục tiêu của Ngô Vĩnh Long là phổ biến tin tức về diễn biến chiến cuộc ở Việt Nam cho công chúng Mỹ. Ví dụ, trong các số báo thứ mười sáu và thứ mười tám, TBG đã truyền tải một cách sinh động diễn biến của phong trào phản đối chiến tranh ở các đô thị ở miền Nam Việt Nam, cũng như các phát biểu được in lại của các sinh viên, Phật tử, và người Công giáo phản chiến.14

Thông tin và các phân tích sắc bén do TBG cung cấp thường được các chính trị gia, các nhà hoạt động phản chiến, và các nhà phân tích cấp tiến của Mỹ tham khảo và sử dụng để tranh luận về việc chấm dứt sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ tại Đông Dương. Trong số đó có các Thượng nghị sĩ William Fulbright và Edward Kennedy, triết gia lỗi lạc Noam Chomsky, Giáo sư Howard Zinn, nhà hoạt động xã hội Don Luce, và những người có liên quan đến Trung tâm Tư liệu Đông Dương (Indochina Resource Center) và Uỷ ban Giáo hữu Hoa Kỳ.

Ngô Vĩnh Long đọc quyển The Washington Connection and Third World Fascism của Noam Chomsky và Edward Herman.
Cuốn sách được Herman tặng cho Ngô Vĩnh Long khi đến thăm ông tại nhà riêng ở Cambridge vào năm 1979.
(Nguồn: Gia đình Ngô Vĩnh Long).


Ngô Vĩnh Long cũng là nhà hoạt động phản chiến đầu tiên cung cấp bằng chứng cho người Mỹ về dị tật bẩm sinh ở các nạn nhân chất độc màu da cam. Bằng cách cung cấp những bức ảnh và bài báo từ các tờ báo Sài Gòn cho các nhà khoa học danh tiếng, chẳng hạn như nhà sinh vật học Matthew Meselsson của Đại học Harvard, Ngô Vĩnh Long đã giúp tập hợp cộng đồng khoa học Hoa Kỳ trong việc chống lại chiến tranh, và đặc biệt hơn là chống lại việc quân đội Mỹ phun chất khai quang bừa bãi ở Đông Dương. Sau chiến tranh, ông trở thành thành viên hội đồng quản trị của Chiến dịch Hỗ trợ & Thực thi Trách nhiệm với Nạn nhân Chất độc da cam Việt Nam, một dự án của Hội Cựu binh vì Hoà bình.

Một trong những tác động lớn của Ngô Vĩnh Long là vai trò quan trọng của ông trong việc thành lập Committee of Concerned Asian Scholars (CCAS, - Uỷ ban những nhà Á châu học Ưu tư) vào năm 1968, và Bulletin of Concerned Asian Scholars (BCAS - Bản tin của những nhà Á châu học Ưu tư sau đổi tên thành Critical Asian Studies - Tạp chí phê bình Á châu học) năm sau. Cần phải nhấn mạnh rằng Ngô Vĩnh Long đã có những đóng góp cực kỳ quan trọng cho CCAS và BCAS, đặc biệt là trong việc đưa ra nhiều thông tin và phân tích mới. Những đóng góp này được thể hiện qua sự tham gia chính yếu của Ngô Vĩnh Long tại các buổi hướng dẫn và hội nghị, việc lên tiếng và hoạt động tích cực, cũng như các bài viết và nhiều ấn phẩm của ông về các vấn đề quan trọng trong khu vực.15

Là một nhà hoạt động xã hội trí thức và một nhà trí thức hoạt động xã hội, Ngô Vĩnh Long coi nhà nước hiện đại là một tổ hợp quân sự-công nghiệp-trí thức (military-industrial-intellectual complex), trong đó tầng lớp trí thức đóng một vai trò quan trọng trong việc hợp lý hoá và bình thường hoá các biểu hiện áp bức của nhà nước và các quyền cưỡng chế của giới tinh hoa quyền lực. Cách tiếp cận của Ngô Vĩnh Long tương tự như cách tiếp cận của Antonio Gramsci, triết gia Marxist người Ý, đặc biệt là khái niệm “cuộc chiến tranh giành chỗ đứng” (war of position) của Gramsci. Theo Gramsci, đây là cuộc đấu tranh trí tuệ và văn hoá của các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa tư bản, trong đó các trí thức cách mạng thách thức quyền bá chủ của giai cấp thống trị. Điều này đồng thời đặt trí thức tiến bộ vào vị trí tốt nhất để vạch trần bản chất cưỡng bức của giai cấp thống trị, và để huy động công chúng phản kháng lại sự cưỡng bức đó.

Nhiều học giả châu Á phản chiến và học giả tiến bộ đã công khai ủng hộ Bản Tuyên cáo Mục đích của CCAS. Văn bản này được thông qua tại đại hội toàn quốc của CCAS tổ chức vào tháng 3 năm 1969 tại Boston. Tuyên cáo Mục đích mở đầu như sau: “Chúng tôi đến với nhau để phản đối sự xâm lược tàn bạo của Hoa Kỳ tại Việt Nam và sự đồng loã trong im lặng của ngành nghiên cứu của chúng tôi với chính sách đó.” Tuyên bố kết thúc bằng việc khẳng định rằng CCAS sẽ đóng vai trò là chất xúc tác và mạng lưới liên lạc giữa các học giả Á châu và phương Tây, đồng thời là “một cộng đồng phát triển nghiên cứu chống chủ nghĩa đế quốc.”16

Ngô Vĩnh Long, một thành viên sáng lập của CCAS, đã là một trong những nhà lãnh đạo trí thức hoạt động tích cực và là người đóng góp chính cho tổ chức này. Ngược lại, các chi hội và cộng đồng CCAS cũng giúp Ngô Vĩnh Long cảm thấy ít bị cô lập hơn khi làm việc trong lĩnh vực Việt Nam học và Á châu học. Thật vậy, Ngô Vĩnh Long đã hợp tác chặt chẽ với các học giả phản chiến thời kỳ đầu của CCAS và những người đóng góp chính cho BCAS, bao gồm Jim Peck, Mark Selden, Marilyn Young, Noam Chomsky, John Dower, Leigh và Richard Kagan, Jon Livingston, Nina Adams, Tom Engelhardt, Jim Morrell, Perry Link, và nhiều học giả khác.

Khi còn là sinh viên, Ngô Vĩnh Long đã viết hai cuốn sách. Đáng chú ý nhất là tác phẩm Before the Revolution: Vietnamese Peasants Under the French (Trước Cách mạng: Nông dân Việt Nam dưới thời Pháp thuộc), được ông viết khi đang là nghiên cứu sinh.17 Cuốn sách xuất sắc này là một trong những công trình nghiên cứu đầu tiên giúp độc giả hiểu rõ hơn về các khía cạnh kinh tế, chính trị, văn hoá và ý thức hệ của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam. Cuốn sách cũng là một nguồn tư liệu vô giá về Chiến tranh Đông Dương Lần thứ Nhất (1946-1954) và sự xuất hiện của chủ nghĩa thực dân mới và chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ tại khu vực.

Một năm sau, Ngô Vĩnh Long hoàn thành cuốn Vietnamese Women in Society and Revolution: The French Colonial Period (Phụ nữ Việt Nam trong Xã hội và Cách mạng: Thời Pháp thuộc)18 Cuốn sách này trình bày một cuộc khảo sát và những phân tích quan trọng về một chủ đề ít được biết đến và chưa được nghiên cứu vào lúc bấy giờ : mối quan hệ giữa phụ nữ tư sản, phụ nữ nông dân, và phụ nữ vô sản Việt Nam với chủ nghĩa thực dân Pháp và các phong trào cách mạng chống thực dân.

Cuốn sách thứ ba của Ngô Vĩnh Long, xuất bản năm 1991, là cuốn Coming to Terms: Indochina, the United States, and the War (Nhìn Nhận Lịch Sử: Đông Dương, Hoa Kỳ, và Cuộc Chiến) do ông đồng chủ biên.19 Như Ngô Vĩnh Long đã nhận xét, đây là cuốn sách cung cấp các bài báo toàn diện nhất trong số các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây phương về chủ đề trên, và đã được ca ngợi rộng rãi trên các tạp chí. Cuốn sách này được mở rộng từ số đặc biệt do BCAS xuất bản năm 1989, với một số khác biệt đáng kể.20 Coming to Terms in một chương Ngô Vĩnh Long viết về Việt Nam và bổ sung các chương mới về nhiều chủ đề, ví dụ như “Postwar Vietnam: Political Economy” (Việt Nam thời hậu chiến: Kinh tế Chính trị), “U.S. Veterans: The War and the Long Road Home” (Cựu binh Mỹ : Chiến tranh và Con đường dài về nhà).

Sau năm 1975, Ngô Vĩnh Long quyết định thay đổi các ưu tiên nghiên cứu của mình theo cách mà ông cảm thấy sẽ hiệu quả nhất trong việc tiếp cận nhiều độc giả. Từ khi chiến tranh kết thúc cho đến tháng cuối cùng của cuộc đời, Ngô Vĩnh Long đã viết hàng trăm bài báo học thuật lẫn đại chúng với những phân tích sắc bén, và đã trả lời vô số cuộc phỏng vấn trên các phương tiện truyền thông về những diễn biến ở Việt Nam, quan hệ Việt-Mỹ, và quan hệ Trung-Việt.

Năm 1985, Ngô Vĩnh Long chính thức trở thành giảng viên Khoa Lịch sử tại Đại học Maine. Trong thập kỷ trước đó, ông đã làm thợ mộc, trở thành một nhiếp ảnh gia rất tài năng, và viết những áng thơ hùng hồn. Một ví dụ là bài thơ không đề sau của ông:

Trên mảnh đất này
Nơi từng ngọn cỏ là tóc,
Mỗi tấc đất là thịt,
Nơi mưa rơi máu,
trút xương,
Đời phải đơm hoa.


Tại Đại học Maine, Ngô Vĩnh Long là giáo sư không chính ngạch từ năm 1985 đến năm 1990, phó giáo sư từ năm 1992 đến năm 2000, và giáo sư chính thức từ năm 2000 cho đến khi ông qua đời. Trong suốt sự nghiệp học thuật của mình, ông luôn là một trí thức dấn thân. Năm 1998, Ngô Vĩnh Long và những người bạn trí thức thân thiết nhất của ông đã tổ chức “Hội Thảo Hè” đầu tiên, một cuộc họp thường niên của những trí thức Việt Nam tiến bộ và nổi bật trên thế giới để thảo luận về các vấn đề mà Việt Nam phải đối mặt. Giáo sư Ngô Vĩnh Long đã tư vấn và hỗ trợ một cách hào phóng cho nhiều học giả Việt Nam bằng cách cung cấp cho họ những nguồn tài liệu gốc vô giá và những hiểu biết sâu sắc của bản thân ông. Những sự trợ giúp đó đã đóng góp rất nhiều cho chính nghiên cứu của những học giả này về sau. Trong năm học 2000-2001, ông là Học giả Fulbright tại Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Kinh tế Quốc dân. Tại Đại học Maine, Ngô Vĩnh Long là giáo sư dạy nhiều lớp nhất trong Khoa Sử của trường, trong đó bao gồm toàn bộ lịch sử Châu Á. Ông được học trò và đồng nghiệp thân cận hết lòng ngưỡng mộ và quý mến.

Ngô Vĩnh Long có hai người con với người vợ đầu tiên của ông, luật sư Nguyễn Hội Chân: trưởng nam Ngô Vĩnh Hội và thứ nữ Ngô Thái Ân. Ngô Vĩnh Long kết hôn lần thứ hai với Mai Hương Nguyễn, một chuyên viên xã hội lâm sàng và cố vấn sức khỏe tâm thần. Họ có hai con trai là Ngô Vĩnh Thiện và Ngô Vĩnh Nhân.


Di sản của Ngô Vĩnh Long


Ngô Vĩnh Long hy vọng rằng công trình học thuật của ông sẽ giúp chúng ta hiểu được cái giá phải trả của một cuộc cách mạng, bản chất phức tạp của các vấn đề thời hậu chiến, và cách mà các cuộc đấu tranh thời hậu chiến quyết định liệu một cuộc cách mạng sẽ thắng hay bại về lâu dài.21 Trong vấn đề này, là một trí thức tiến bộ, Ngô Vĩnh Long luôn ý thức được rằng Henry Kissinger và những nhân vật khác trong giới tinh hoa quyền lực đã xem cách mạng Việt Nam là một “bài học tồi tệ ” giống như một căn bệnh ung thư phải được ngăn chặn và tiêu diệt trước khi lây lan. Điều này có thể được thực hiện thông qua các biện pháp bạo lực, phong tỏa kinh tế, từ chối thương mại và viện trợ thiết yếu, và các biện pháp khác. Đó là cách Ngô Vĩnh Long nhận định về nhiều – nhưng không phải tất cả - những gì đã xảy ra ở Việt Nam.

Như Ngô Vĩnh Long đã viết và phân tích, những sự chia rẽ được hình thành trong Chiến tranh Việt Nam và trong thời kỳ hậu chiến vẫn hiện hữu ở Việt Nam ngày nay. Một mặt, vào cuối những năm 1960 và 1970, chính quyền miền Nam Việt Nam chống cộng dưới thời Nguyễn Văn Thiệu, với sự hỗ trợ của Mỹ, đã cố gắng tiêu diệt tất cả các giải pháp tiến bộ ở miền Nam. Mặt khác, chính phủ Hà Nội sau khi được thành lập vào năm 1976 đã vô hiệu hoá, gạt ra bên lề, loại bỏ và đôi khi thu hút các nhóm và cá nhân cách mạng từ miền Nam. Ngô Vĩnh Long đã mang bên mình những lo lắng và ưu tư về các chính sách hậu chiến ở quê nhà.22

Ngô Vĩnh Long cũng dành nhiều thời gian miêu tả và giải thích sự phức tạp trong cách tiếp cận của Việt Nam đối với Trung Quốc và Hoa Kỳ. Đối với Hoa Kỳ, Ngô Vĩnh Long lo ngại về các mối đe dọa tiếp tục của chủ nghĩa thực dân mới, và gần đây là về việc một số thành phần trong giới tinh hoa quyền lực ở Việt Nam đã không ngớt lời tán dương Donald Trump. Ngô Vĩnh Long đặc biệt lo lắng trước sự trỗi dậy của chủ nghĩa cực đoan cánh hữu (rightwing extremism) ở Hoa Kỳ và trên toàn thế giới.

Đối với Trung Quốc, Ngô Vĩnh Long lo ngại về việc Trung Quốc ủng hộ Pol Pot và Khmer Đỏ, về cuộc chiến tranh của Trung Quốc với Việt Nam, và về sự ủng hộ của một số người Việt Nam đối với mô hình phát triển kinh tế của Trung Quốc. Trong ba thập kỷ gần đây, ông ngày càng lo lắng về mối đe dọa đáng kể đang diễn ra do các chính sách và hành động kinh tế, chính trị và quân sự của Trung Quốc trong khu vực. Ngô Vĩnh Long được coi là một trong những chuyên gia hàng đầu về quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc và Hoa Kỳ, đặc biệt là liên quan đến các tranh chấp lãnh thổ đang diễn ra ở Biển Đông.23


Ngô Vĩnh Long và nguyên Thủ tướng CHXHCNVN Võ Văn Kiệt tại Hà Nội vào tháng 3 năm 2008, 
ba tháng trước khi ông Kiệt qua đời
 (Nguồn: Gia đình Ngô Vĩnh Long)


Để nhìn nhận đúng đắn về di sản của Ngô Vĩnh Long, chúng ta cần phải có chọn lọc trong việc lưu giữ lại những gì có giá trị lâu dài, và từ chối cám dỗ định nghĩa Ngô Vĩnh Long bằng những thuật ngữ cứng nhắc. Ông là một trí thức tiến bộ, một người luôn áp dụng cách phân tích phức tạp, đa chiều, cởi mở, luôn tìm kiếm những thỏa hiệp có nguyên tắc, và nhạy cảm với những thay đổi về thời thế, bối cảnh và lịch sử. Ngô Vĩnh Long vừa cố gắng duy trì tầm nhìn cách mạng của bản thân, vừa luôn hy vọng gầy dựng sự thấu hiểu chung, hoà giải, hoà bình, và công lý. Ngô Vĩnh Long thường miêu tả thế đứng này của ông như là một quan điểm thuộc về “chủ nghĩa toàn nhân loại” (pan-humanism), có khả năng thách thức, biến đổi, và vượt qua sự chia rẽ ở Việt Nam, trong cộng đồng người Việt hải ngoại, và trong quan hệ Mỹ-Việt.

Đối với Việt Nam và Đông Dương trong thời kỳ Pháp thuộc và trong cuộc đấu tranh giành tự do và độc lập, Ngô Vĩnh Long ngưỡng mộ Hồ Chí Minh và nhiều nhà cách mạng yêu nước Việt Nam khác. Sau chiến thắng quân sự của miền Bắc, Ngô Vĩnh Long khẳng khái bày tỏ quan ngại với một số chính sách cứng nhắc và các diễn biến ở Việt Nam thời hậu chiến. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu kết luận rằng ông bác bỏ mọi thứ về Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Sau chiến tranh, Ngô Vĩnh Long tiếp tục đồng cảm và hỗ trợ các lực lượng tiến bộ ở Việt Nam và hải ngoại. Ông từng đánh giá cao Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (NLF) và hậu thân của nó, Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam (PRG).24 Ông xem trọng các nhà lãnh đạo MTDTGPMNVN, trong đó có bà Nguyễn Thị Bình, người đã trở thành một nhân vật quan trọng trong chính phủ Việt Nam thống nhất và hai lần được bầu làm phó chủ tịch nước CHXHCNVN.25

Cuối cùng, Ngô Vĩnh Long vô cùng ngưỡng mộ lòng dũng cảm, hiệu quả, và tiềm năng cách mạng của Lực lượng Thứ Ba ở miền Nam Việt Nam, đặc biệt là từ năm 1968 đến năm 1975. Lực lượng này bao gồm các thành phần sinh viên, trí thức, Phật tử, người Công giáo và những nhóm tiến bộ khác ở miền Nam. Họ vừa chống lại chế độ Sài Gòn, vừa không tán thành học thuyết cộng sản.26 Còn được gọi là “Thành phần Ba”, liên minh không chính thức này gồm các nhóm thành thị tiến bộ không liên kết với chính phủ VNCH và MTDTGPMNVN. Trong nhiều bài viết của mình, Ngô Vĩnh Long đã thảo luận về lịch sử và tầm quan trọng của Thành phần Ba, và đã xem mình là một nhân tố của thành phần này.27

Một cuộc tranh luận quan trọng trong các ngành Việt Nam Học, Trung Quốc Học, và các lĩnh vực liên quan là cuộc tranh luận về mối tương quan giữa hoạt động tranh đấu xã hội (activism) và hoạt động chuyên nghiệp (professionalism) của người làm nghiên cứu. Đã từng có một khoảng thời gian tương đối ngắn trong thời kỳ đỉnh cao của Chiến tranh Việt Nam, khi mà cán cân lệch về bên hoạt động xã hội với việc nhiều học giả chuyển sang hoạt động phản chiến. Khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975, cán cân chuyển dịch ngược trở về bên hoạt động chuyên nghiệp, và nhiều học giả đã giảm thiểu hoặc từ chối hoạt động tranh đấu xã hội như một phần trong sự nghiệp học thuật, chuyên môn của họ. Đây chưa bao giờ là cách nhìn hay cách làm của Ngô Vĩnh Long. Ông thuỷ chung vẫn luôn là một hình mẫu mẫu mực của một nhà trí thức hoạt động xã hội, không chỉ trong những thời kỳ mà ông được nhiều người khác khen ngợi và ủng hộ, mà cả trong những thời điểm khó khăn khi ông phải một mình đấu tranh chống lại dòng chảy chuyên nghiệp, và bị trừng phạt vì đã duy trì quan điểm, thế đứng của mình.

Sống kiên định với niềm tin của bản thân, Ngô Vĩnh Long cống hiến đời mình cho một nước Việt Nam thật sự dân chủ và xã hội. Ông đã sống và làm việc cho một Việt Nam đa dạng, hoà nhập, nhân văn. Trong viễn tưởng của Ngô Vĩnh Long, đó sẽ là một Việt Nam hoàn toàn bình đẳng, hoàn toàn đối lập với các mối quan hệ thống trị từ trên xuống về kinh tế và chính trị. Đó sẽ là một Việt Nam bất bạo động, hoà hợp, và hoà bình về mặt tổ chức, thúc đẩy tự do và công bằng xã hội, đồng thời nỗ lực chuyển hoá và vượt qua các xung đột gây chia rẽ. Ngô Vĩnh Long đã hình dung và hành động vì một đất nước Việt Nam tiến bộ, sẵn sàng cam kết đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người, đặc biệt là những người nghèo khổ, nông dân, người làm công ăn lương, và những tầng lớp bị áp bức nhiều nhất và có ít tự do nhất.

Trong cuộc đời của mình, Ngô Vĩnh Long đã chứng tỏ được vai trò thiết yếu và những đóng góp không thể thiếu của người trí thức tiến bộ. Mặc dù thành tựu lớn nhất của ông là giúp chấm dứt một trong những cuộc chiến đẫm máu nhất trong lịch sử nhân loại, nhưng mục tiêu cuối cùng của ông vẫn luôn là mở đường cho những khởi đầu mới đầy hy vọng.


Nguyễn Thùy An và Douglas Allen


Nguồn (bản gốc):

Remembering Ngô Vĩnh Long, Renowned Scholar of Vietnam and Antiwar Activist   (bài đọc miễn phí cho tới tháng 2.2024)


Tham Khảo


Allen, Douglas. 1976. “Universities and the Vietnam War: A Case Study of a Successful Struggle.” Bulletin of Concerned Asian Scholars (BCAS) 8 (4): 2-16.

Allen, Douglas. 1989. “Antiwar Asian scholars and the Vietnam/Indochina War.” Bulletin of Concerned Asian Scholars (BCAS) 21 (2-4): 112-134.

Allen, Douglas and Ngô Vĩnh Long (editors). 1991. Coming to Terms: Indochina, the United States, and the War. Boulder, CO: Westview Press.

Appy, Christian. 2004. Patriots: The Vietnam War Remembered from All Sides. New York: Viking.

Bulletin of Concerned Asian Scholars. 1969. “Purpose and Policy Statements.” 2 (1): 8-9.

Bulletin of Concerned Asian Scholars. 1989. “Twentieth Anniversary Issue in Indochina and the War.” https://www.tandfonline.com/toc/rcra19/21/2-4?nav=tocList.

Committee of Concerned Asian Scholars. 1970. The Indochina Story: A Fully Documented AccountNew York: Bantam Books.

Dumanoski, Dianne. 1982. “Trials of Ngo Vinh Long: threats, break-ins, bombs.” The Boston Globe, July 6.

Emerson, Gloria. 1975. Winners and Losers: Battles, Retreats, Gains, Losses and Ruins from a Long War. New York: Random House. 300-308, 399-401.

Marquard, Bryan. 2022. “Ngo Vinh Long, scholar of Vietnam attacked for his views about war, dies at 78.” The Boston Globe, November 13.

Montgomery, Paul. 1972. “Hijacker killed in Saigon; Tried to divert jet to Hanoi.” The New York Times, July 3.

Mydans, Seth. 2022. “Ngo Vinh Long, lightning rod for opposing the Vietnam War, dies at 78.” The New York Times, October 23.

New York Times. 1968. “16 South Vietnamese in U.S. and Canada support a halt,” March 3, 1968.

Ngô Vĩnh Long. 1971(a). “Grooming the ‘Third Force.” Thời Báo Gà (16), May.

Ngô Vĩnh Long. 1971(b). “The Urban Opposition.” Thời Báo Gà (18), November.

Ngô Vĩnh Long. 1972. “A Vietnamese Invasion.” Thời Báo Gà (24), May.

Ngô Vĩnh Long. 1973. Before the Revolution: The Vietnamese Peasants und the French. Cambridge, MA: MIT Press.

Ngô Vĩnh Long. 1974. Vietnamese Women in Society and Revolution: The French Colonial Period. Cambridge, MA: Vietnam Resource Center.

Ngô Vĩnh Long. 2011. "Vài nhận xét về “thành phần thứ ba” và “hoà bợp, hoà biải dân tộc [A few comments on the "Third Segment" and "National Reconciliation and Concord]." Thời đại Mới số 21, tháng 5.2011..

Ngô Vĩnh Long. 2013(a). “Unhappy neighbors: Why Beijing’s muscle-flexing in the South China Sea alarms Asia.” Cairo Review (August): 70-84.

Ngô Vĩnh Long. 2013(b). “Military victory and the difficult tasks of reconciliation in Vietnam: A cautionary tale.” Peace & Change 28 (4): 474-487.

Nguyen, An Thuy. 2019. “The Vietnam women’s movement for the right to live: A non-communist opposition movement to the American War in Vietnam.” Critical Asian Studies 51 (1): 75-102.

Nguyen, An Thuy. 2023(a). "Third Force: South Vietnamese Urban Opposition to the Nixon Doctrine in Asia (1969-1973).” Doctoral Dissertation, The University of Maine.

Nguyen, An Thuy. 2023(b). “Nguyễn Thị Bình (b.1927): The flower and fire of the revolution,” in The Palgrave Handbook of Communist Women Activists around the World, edited by Francisca de Haan. New York: Palgrave MacMillan.

Quinn-Judge, Sophie. 2017. The Third Force in the Vietnam Wars: The Elusive Search for Peace 1954-1975. London: I.B. Tauris.

Yee, Min S. 1968. “Harvard Viet students denounce US, Saigon.” The Boston Globe, February 15.


Chú Thích :


1. Phỏng vấn với Ngô Vĩnh Long trong Allen 1989.

2. Mydans 2022; Marquard 2022.

3. Appy 2004.

4. Vào thời điểm ông tốt nghiệp Harvard, Ngô Vĩnh Long đã nói thành thạo các ngôn ngữ Pháp, Trung, Nga, cùng với tiếng Anh và tiếng Việt.

5. Dumanoski 1982.

6. Nhận xét này của Doug Allen được nhiều học giả hoạt động phản chiến khác chia sẻ. Allen 1989, 120.

7. Allen 1989, 120.

8. Yee 1968.

9. The New York Times, March 3, 1968.

10. Có rất nhiều ấn phẩm của CCAS và các nguồn khác tường thuật chi tiết sự kiện này. Ví dụ, Allen 1976; Ngô Vĩnh Long 1972; Emerson 1975, đặc biệt là ở các trang 300-308, 399-401.

11. Trên chuyến bay của hãng hàng không Pan American World Airways từ Manila đến Sài Gòn ngày 2 tháng 7 năm 1972, Nguyễn Thái Bình (1948-1972), người từng du học tại Hoa Kỳ theo học bổng của USAID, đã cố gắng chuyển hướng máy bay về Hà Nội. Cầm những quả chanh bọc trong giấy thiếc, Bình dọa cho nổ “bom” nếu không được đáp ứng yêu cầu. Phi công Gene Vaughn viện cớ tiếp nhiên liệu cho máy bay, đã hạ cánh xuống Sân bay Tân Sơn Nhứt ở Sài Gòn. Khi máy bay đáp, viên phi công khống chế Nguyễn Thái Bình và hét vào mặt một hành khách có vũ trang là “hãy giết chết thằng chó đẻ đi”. Tổng cộng có năm viên đạn găm vào lưng Bình. Vaughn tự hào nhớ lại việc ném thi thể của người sinh viên ra khỏi máy bay “như một quả bóng đá.” Chỉ hơn một tháng trước đó, Nguyễn Thái Bình đã có một bài phát biểu phản chiến hùng hồn trong lễ tốt nghiệp Cử nhân của mình tại Đại học Washington. Nguyễn Thái Bình được các tờ báo ở miền Bắc Việt Nam ca ngợi là một anh hùng và một liệt sĩ. Xem Montgomery 1972.

12. Allen 1989, 121.

13. VSG là một Uỷ ban phụ của Hội đồng Đông Nam Á thuộc Hiệp hội Nghiên cứu Á Châu, và được thành lập để cung cấp các nguồn lực cho nghiên cứu học thuật, nghiên cứu và giảng dạy về Việt Nam. Long từng là chủ tịch của VSG vào năm 1981.

14. Ngô Vĩnh Long 1971(a); Ngô Vĩnh Long 1971(b).

15. Ví dụ, Ngô Vĩnh Long cung cấp thông tin và phân tích cho hầu hết các bài báo trong Committee of Concerned Asian Scholars 1970.

16. Tuyên cáo Mục đích được công bố lần đầu trong BCAS 1969.

17. Ngô Vĩnh Long 1973.

18. Ngô Vĩnh Long 1974.

19. Allen và Ngô Vĩnh Long 1991.

20. BCAS 1989.

21. Allen 1989, 121.

22. Để đọc thêm phân tích của Ngô Vĩnh Long về sự phân cực và chia rẽ ở Việt Nam, xem Long 2013(b). Phân tích sâu sắc này cho thấy Ngô Vĩnh Long đã đồng cảm với các cá nhân và phong trào tiến bộ không cộng sản như thế nào. Điều này cũng giúp chúng ta hiểu tại sao Ngô Vĩnh Long lại gặp rắc rối sau chiến tranh.

23. Trong hơn mười năm trở lại, Ngô Vĩnh Long thường xuyên được mời giảng dạy các khoá học đặc biệt cho các nhà ngoại giao trẻ Việt Nam trong khoá đào tạo ngắn hạn của họ tại Harvard. Ông cũng đã thực hiện vô số cuộc phỏng vấn, diễn thuyết và phát biểu bằng tiếng Việt về tranh chấp Biển Đông trong những năm qua. Một bài báo tiếng Anh điển hình của Ngô Vĩnh Long về chủ đề này là Long 2013(a).

24. Ngô Vĩnh Long chưa bao tham gia hay đại diện, dù với bất kỳ tư cách nào, Mặt trận Giải phóng miền Nam và Chính phủ Lâm thời miền Nam Việt Nam, như một số người đã viết.

25. Cùng với nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt (1922-2008), người mà Ngô Vĩnh Long rất ngưỡng mộ, bà Nguyễn Thị Bình là một trong những chính trị gia tiến bộ nhất của Việt Nam và thường ủng hộ cải cách chính phủ, cũng như phản đối các chính sách gây tranh cãi, chẳng hạn như dự án khai thác bauxite được phê duyệt bởi nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng năm 2008. Để biết thêm về Nguyễn Thị Bình, xem Nguyen 2023(b).

26. Để biết thêm về Lực Lượng Thứ Ba tại miền Nam Việt Nam, xem Nguyen 2019 và 2023(a). Xem Quinn-Judge 2017.

27. Long 2013(b). Ngô Vĩnh Long lập luận rằng việc nhận ra sự hiện diện liên tục và những bài học mà Lực Lượng Thứ Ba để lại cho tương lai của Việt Nam là vô cùng quan trọng. Xem Long 2011.

Remembering Ngô Vĩnh Long, Renowned Scholar of Vietnam and Antiwar Activist

Internationally renowned historian and antiwar activist Ngô Vĩnh Long died at St. Joseph’s Hospital in Bangor, Maine on October 12, 2022, at the age of seventy-eight. A professor of History at the University of Maine from 1985 until his death, Dr. Long was a leading scholar of the Vietnam/Indochina War and of the history of Vietnam from ancient times through French colonialism and US neocolonialism, postwar Vietnam, US-Vietnam relations, and Southeast and East Asia, especially China.

From his undergraduate years at Harvard until the end of his life, Ngô Vĩnh Long was a courageous intellectual activist and an activist intellectual. He often described himself as a proud Vietnamese patriot who cared deeply about Vietnam, its past, and its suffering, as well as about the United States, his second home. Even in the darkest of times, he maintained his vision and hope for a much better Vietnam, a more egalitarian US, and much better US-Vietnam relations.

Long sometimes described himself and was considered by some others as a pacifist. This is accurate if by “pacifist” we mean an opponent of war and a promoter of peace, reconciliation, and justice. But Professor Long was not the kind of pacifist who would uncompromisingly and openly condemn all expressions of violence, such as those exerted by Vietnamese anti-colonial and anti-imperialist revolutionaries, who were not always nonviolent in their struggles for freedom and independence. At the same time, he always worked to offer alternatives to violent responses to oppression, exploitation, and domination.

Much of Ngô Vĩnh Long’s scholarly and activist priorities and commitments can be traced back to formative influences in his family upbringing and his youthful experiences in Vietnam. These influences and experiences shaped his commitment to speak truth to power. From his youth until the end of his life, Long was profoundly moved by the human-caused suffering of Vietnamese people, which he dedicated his life to alleviating. He believed in providing independent analyses regardless of the personal, career, and other risks he faced from those in Vietnam and in the United States challenged by his interpretations and actions. He had an unshakable commitment to study and educate others about the violent and unjust economic, political, and cultural realities of French colonialism, US neocolonialism, Chinese imperialism, and other expressions of domination in the contemporary world.

In taking such positions, commitments, and actions, Ngô Vĩnh Long did not live under any illusions. He fully expected, and accepted, the negative consequences of his beliefs on his personal life, intellectual development, and professional career.Footnote1

In taking such strong and courageous personal and intellectual positions, Long gained a reputation that was sometimes revealing, but also one-sided and misleading. The headline for his obituary in The New York Times reported that he was a “lightning rod for opposing the Vietnam War.” His obituary in The Boston Globe stated that he was “a scholar of Vietnam attacked for his views about war.” One could easily conclude from these and other publications that Ngô Vĩnh Long was an uncompromising intellectual who created controversy.Footnote2

However, this perspective of Long is misleading because it does not address the key question: who considered him a lightning rod and an enemy? Ngô Vĩnh Long was very welcoming, unpretentious, kind, warm, and hospitable. He was very generous with his time when it came to his students, colleagues, and fellow scholars of Vietnam and Asia, including those with whom he disagreed. In relating to himself and to others, he expressed a great sense of humor, especially in his tendency to subject others to endless puns, many of which he recognized as really corny, as he laughed at himself. This more complex perspective offers a more insightful view of the vision and legacy of Long as an exemplary intellectual.

Born on April 10, 1944, Long was given the name of his birthplace, the southern province of Vĩnh Long, which means “perpetual prosperity.” Ngô Ngọc Tùng, his father, was the son of a scholar gentry family from the northern province of Bắc Ninh and an activist in the anticolonial movement against the French during the 1930s. Hồ Thị Ngọc Viễn, his mother, defied her family’s wish and eloped with Long’s father. Growing up in the late 1940s and early 1950s, Long was shaped by the brutality of French colonialism and how his parents and others identified with the Vietnamese revolutionary anti-colonial struggle. He recalled that as a young boy, he witnessed how the French killed many Vietnamese and dumped their bodies in the Mekong River. In a later interview he recalled how he would “swim with floating corpses” and this would make him very sick.Footnote3

His father urged him not to learn French, the language of the colonizing “barbarians,” and instead to learn English.Footnote4 The father and his young son traveled one hundred miles to Saigon (Sài Gòn, now Hồ Chí Minh City) where they purchased a copy of Great Expectations by Charles Dickens. For the next year, Long and his father would read Dickens every day and guess at the pronunciation. This was how Long acquired a rudimentary knowledge of English that had a profound influence on his future.

After 1954, the United States replaced the French as the dominant foreign power in Vietnam. The US Army hired Long as a translator and mapmaker when he was sixteen. His hope was to help the Americans draw accurate maps and avoid bombing the wrong targets or villages. By 1962, however, his work near the Strategic Hamlet program had consolidated Long’s opposition to US intervention in Vietnam. As he described in an interview in 1982: “In some places, people were dying of hunger in droves. I stayed in one village for two months and each month about 200 people died of hunger. People were so hungry they were eating the bulbs of plants.”Footnote5 What he saw transformed Long into a strong opponent of the Vietnam War and US intervention in Vietnam. Long resigned from his job and became an outspoken critic of both the US role and its ally, the South Vietnamese (Republic of Vietnam) government.

Long publicly spoke out and demonstrated against the war, drew the ire of the government in Saigon, and escaped arrest by traveling to the United States. He hoped to inform Americans about what was happening in Vietnam. Through the American Friends Service Committee, he spent a year as a high school exchange student in Joplin, Missouri, before enrolling in 1964 as the first student from Vietnam to attend Harvard.

Long soon became “the most prominent Vietnamese scholar-activist in the United States.”Footnote6 His speeches, writings, and actions alarmed the Saigon and Washington governments as well as economic, political, and academic power elites, and would have both inspirational and tragic consequences for his future life.

One of his first efforts after arriving at Harvard was organizing his fellow students to travel to Washington in April 1965 to take part in what was, until that time, the largest antiwar protest in the United States. For the next decade, Long was a prominent leader of a Cambridge-based Vietnamese student peace group. In addition to working with Americans, Long collaborated with other Vietnamese in the US and in 1965 was elected president of the Vietnamese Association in New England. But he concluded that organizing sympathetic Vietnamese in North America was not the most effective expenditure of his time and antiwar commitments. Therefore, he decided to focus on ways to influence the American public.

At that time, he also decided to make Asian Studies his field of study at Harvard. This is when he got to know John King Fairbank, who recognized his exceptional intelligence and was supportive of him, as well as Samuel Huntington, Henry Kissinger, and others who were major architects of US neocolonialism, militarism, and imperialism. Long later would relate that Huntington thought he was naïve in not recognizing that Vietnam and “every society, like every human being, has a breaking point.”Footnote7

Long felt that these august, eminent, powerful professors needed to be exposed as complicit with and actively involved in torture, genocide, war crimes, and the American military-industrial-academic complex. That is why his opposition to war and imperialism was not tolerated by the power elite and dimissed as “merely academic.”

In February 1968, several weeks after the Tết Offensive, Long and other Vietnamese graduate students presented “the first organized public statement against the war by Vietnamese citizens” in the US in front of 600 people at Harvard’s Sanders Theater.Footnote8 A month later, Long and fifteen other South Vietnamese students held a press conference in Washington to announce a joint statement that they had delivered to South Vietnam’s ambassador to the United States, Bùi Diễm.Footnote9 In this statement, which was entered into the Congressional Record at the request of Senator William Fulbright (D-Arkansas), the signers held the US government primarily responsible for the war. This infuriated and threatened South Vietnam government officials, who revoked the signers’ passports. Thanks to the protection of sympathetic American politicians, the students avoided deportation. For the remainder of the war, Long continued to organize numerous antiwar talks and teach-ins. For example, on March 7, 1969, he gave a stirring antiwar speech in front of eight US Senators and about 1,500 attendees at a commemoration in honor of Senator Ernest Gruening (D-Alaska) in Boston.

As Ngô Vĩnh Long noted on several occasions, the Tết Offensive of 1968 was one of the decisive events in deepening his commitment and pushing him even further. He and sixty-two other Vietnamese activists released a statement denouncing US conduct in the war and demanding an immediate end. In April 1972, fifteen patriotic, antiwar, and anti-imperialist young Vietnamese, most of whom were on US Agency for Development (USAID)-sponsored scholarships, gathered on the campus of Southern Illinois University (SIU) under the leadership of Ngô Vĩnh Long, and included David Trương, Lê Anh Tú, and others who participated at great personal risk. They exposed the nature of the policies of the US and South Vietnam governments, Vietnamization, and USAID policies of training and torture in Vietnam. They also criticized the Vietnam Center at SIU for its neocolonial and postwar policies, and described Wesley Fishel, Milton Sacks, and other key members of the center as war criminals (Image 1).Footnote10

Long and fellow student activists at Southern Illinois University, April 24, 1972.

Credit: Doug Allen.

Revealing of Long’s personality and revolutionary approach was his relationship with Nguyễn Thái Bình, a Vietnamese student who hijacked a Pan American flight from Manila to Saigon in July 1972.Footnote11 Bình and Long were close friends, and Bình regarded Long as an exemplary antiwar activist intellectual. Bình was one of the courageous Vietnamese who attended the event at Southern Illinois University, where he recited his own poetry, sang songs he had composed, and was overcome by anger and anguish about Vietnamese suffering. His visa was revoked, and he was forced to return to Saigon to face almost certain imprisonment and torture. Bình’s failed hijacking was a desperate attempt to force the United States to negotiate a peace deal with Hanoi. Despite their shared anti-imperialist, antiwar sentiments, and affectionate friendship, Long disagreed with Bình’s decision. With his greater understanding, Long knew that the desperate hijacking was doomed to failure, and he believed the antiwar movement should uphold nonviolence as a matter of both political strategy and moral principle.

Ngô Vĩnh Long had no illusions about the consequences of his activism on his career, security, and well-being. In a 1999 interview, he shared how he had become the focus of so much hatred and so many attacks and how, “for the next twenty years, from 1975 to 1995, my life was hell.”Footnote12

After the US withdrew from Vietnam and the war ended in April 1975, Long infuriated some Vietnamese-American refugees and the US power elite by refusing to denounce the Hanoi government or what was happening in unified Vietnam. He repeatedly said that he sympathized with many things in Vietnam, was critical of many other things, and analyzed developments as an independent scholar.

Of the many threats and attacks he faced, the most publicized was a gathering in April 1981, after he had spoken at Harvard. Many outraged Vietnamese Americans denounced him, and one of them hurled a Molotov cocktail at Long, trying to kill him. In a Boston Globe interview after this attempt on his life, he said, “They accuse me of being a communist agent. I am not.”

Long and other Vietnam scholars founded the Vietnam Studies Group (VSG) in 1970, which remains the most prominent academic society for researchers of Vietnam in the US.Footnote13 Some of the VSG scholars had been part of the antiwar movement in the 1960s and had strong anti-imperialist commitments. Others had played it safe, remained silent, and fit in with the establishment Vietnam Studies field that Long challenged. An even larger number were younger and were part of postwar mainstream Vietnam research and studies in the United States.

From Long’s perspective, the VSG increasingly lacked a revolutionary orientation and was often quite conservative. Nevertheless, reflective of Long’s approach and vision, he consistently attempted to reach out to other scholars of Vietnam, engage them in scholarly dialogue through writings, talks, and meetings, and hoped that he could move the VSG and the field in more progressive directions.

Among Long’s most consequential contributions to the antiwar movement was his creation of the Vietnam Resource Center (VRC) in early 1969, whose aims were to link American and international activists with those in Vietnam and to provide a greater understanding of the Vietnam War and what was happening in Vietnam. The VRC briefed American journalists before they traveled to Vietnam and introduced them to people in Saigon who could provide firsthand experiences and information. It was a major source of information and analysis for American and international antiwar activists.

One of the VRC’s most significant accomplishments was the publication of the influential newsletter Thời Báo Gà (TBGRooster Times”), which first appeared in March 1969 and was edited and written mainly by Long. The first thirteen issues were published primarily in Vietnamese; from the fourteenth issue onward, it was published entirely in English. This helped serve Long’s goal of disseminating news of wartime developments in Vietnam to the American public. In its sixteenth and eighteeth issues, for example, TBG vividly encapsulated the ongoing evolution of urban opposition in South Vietnam to the war and reprinted statements by activist students, Buddhists, and Catholics.Footnote14

The information and incisive analyses provided by TBG were frequently consulted and referenced by American politicians, antiwar activists, and progressive think tank analysts who used the materials to argue for an end to US engagement in Indochina. Among them were Senators William Fulbright and Edward Kennedy, Noam Chomsky, Howard Zinn, Don Luce, and people associated with the Indochina Resource Center and the American Friends Service Committee (Image 2).

Ngô Vĩnh Long reading Noam Chomsky and Edward Herman’s The Washington Connection and Third World Fascism. 1979. The book was gifted to Long by Herman when he visited Long at his home in Cambridge, Massachusetts.

Credit: The family of Ngô Vĩnh Long.

Professor Long also was the first activist to provide evidence to Americans of birth deformities among victims of Agent Orange. By providing prominent scientists, such as Harvard biologist Matthew Meselsson, photos and articles from South Vietnamese newspapers, Long helped rally the US scientific community against the war and, more specifically, against the indiscriminate spraying of herbicides by the US military in Indochina. He later became a board member of the Vietnam Agent Orange Relief & Responsibility Campaign, a project of Veterans for Peace.

One of Ngô Vĩnh Long’s major impacts was his role in the founding of the Committee of Concerned Asian Scholars (CCAS) in 1968 and the following year of the Bulletin of Concerned Asian Scholars (BCAS, later renamed Critical Asian Studies). One cannot overemphasize Long’s contributions to CCAS and BCAS as an invaluable resource for new information and analysis, his key participation at teach-ins and conferences, his speaking out and activism, and his writings and many publications.Footnote15

As a scholar activist and an activist scholar, Long perceived the modern state as a military-industrial-intellectual complex, in which the intellectual class plays a critical role in rationalizing and normalizing the oppressive manifestations of state and elite coercive powers. Long’s approach was similar to that of the Italian Marxist Antonio Gramsci, especially Gramsci’s “war of position” – the slow intellectual and cultural struggle of anti-capitalist revolutionary forces, in which organic revolutionary intellectuals challenge the hegemony of the capitalist ruling class. This simultaneously places the progressive intellectual in the best position to expose the nature of state and ruling class coercion and to be essential for mobilizing resistance to that coercion.

Many progressive antiwar and anti-imperialist Asian and other scholars identified with the National Statement of Purpose of the Committee of Concerned Asian Scholars adopted at the national meeting of the CCAS held in March 1969 in Boston. The three-paragraph Statement of Purpose begins: “We first came together in opposition to the brutal aggression of the United States in Vietnam and to the complicity of silence of our profession with regard to that policy.” The Statement ends by affirming that CCAS is intended to provide alternatives to establishment scholarship on Asia, serve as a catalyst and communications network for Asian and Western scholars, and to be “a community for the development of anti-imperialist research.”Footnote16

During his student days, Ngô Vĩnh Long authored two books. Most remarkable is Before the Revolution: The Vietnamese Peasants under the French, written while he was a graduate student.Footnote17 This outstanding book provides readers with an understanding of the then-little known economic, political, cultural, and ideological dimensions of French colonialism in Vietnam. It is also an invaluable resource for understanding the First Indochina War (1946-1954) and the emergence of US neocolonialism and imperialism.

The next year, he authored Vietnamese Women in Society and Revolution: The French Colonial Period.Footnote18 This book presents a survey and analysis of a little-known and under-studied topic: how bourgeois, peasant, and proletarian Vietnamese women related to French colonialism and to the anti-colonial revolutionary movements.

Long’s third book, published in 1991, is the co-edited Coming to Terms: Indochina, the United States, and the War.Footnote19 As Long commented, this book offers the most comprehensive articles on the subject matter in any foreign language, and it was widely praised in journals.Footnote20

After the war ended in 1975, Long decided to change his research priorities in ways that he felt would be most effective in reaching a larger audience. From the war’s end to the last month of his life, Long wrote hundreds of scholarly and popular articles with incisive analysis, and gave countless media interviews on developments in Vietnam, US-Vietnam relations, and Sino-Vietnamese relations.

In 1985, Ngô Vĩnh Long was hired as a faculty member in the Department of History at the University of Maine. For the previous decade, he had worked as a carpenter, became a very talented photographer, and wrote eloquent poetry, such as the following untitled poem:

On this land
Where each blade of grass is human hair
Each foot of soil is human flesh
Where it rains blood
Hails bones
Life must flower.
At the University of Maine, Long was an assistant professor from 1985 until 1990, an associate professor from 1992 until 2000, and a full professor from 2000 until his death. During his career as an academic, he remained an engaged intellectual. In 1998, Long and his closest intellectual friends organized the first “Summer Conference,” an annual gathering of the most progressive and prominent Vietnamese intellectuals around the world to discuss pertinent issues facing Vietnam. Professor Long advised and generously supported many scholars of Vietnam by providing them with invaluable primary source material and insights that contributed greatly to their own research. During the 2000-2001 academic year, he was a Fulbright Senior Scholar at the Vietnam National University and the National Economics University, both in Hanoi (Image 3). At the University of Maine, Long taught a wide range of courses, covering all of Asia. He was greatly admired and fondly regarded by his students and closest colleagues.

Ngô Vĩnh Long and former Socialist Republic of Vietnam Prime Minister Võ Văn Kiệt in Hanoi in March 2008, three months before Kiệt passed away.

Credit: The family of Ngô Vĩnh Long.

Long is survived by his first wife, lawyer Nguyễn Hội-Chân, and their son Ngô Vĩnh-Hội and daughter Ngô Thái-Ân. From his second marriage, he is survived by his wife, clinical social worker and mental health counselor Mai Hương Nguyễn, and their sons Ngô Vĩnh-Thiện and Ngô Vĩnh-Nhân.

Ngô Vĩnh Long’s legacy

Ngô Vĩnh Long hoped that his scholarly work would help others understand the costs of making a revolution, the complicated nature of postwar problems, and how postwar struggles determine whether a revolution is won or lost in the long term.Footnote21 In that regard, as a revolutionary progressive intellectual, Long was always aware of how Henry Kissinger and other power elites regarded the “bad lesson” of the Vietnamese Revolution. They believed that a revolutionary Vietnam was akin to a cancer that must be contained and then destroyed before it could spread. This, they assumed, could be accomplished through violent means, economic blockades, denial of desperately needed aid, and other measures. Ngô Vĩnh Long confronted and rejected their views throughout his life.

As Long analyzed and wrote, many divisions that had developed during the Vietnam War and in the postwar period remain in today’s Vietnam. On the one hand, in the late 1960s and 1970s, the US-supported, anti-communist South Vietnamese regime under Nguyễn Văn Thiệu attempted to destroy all progressive and revolutionary alternatives in the south. On the other hand, after the Hanoi-dominated Socialist Republic of Vietnam was established in 1976, the state neutralized, marginalized, eliminated, and sometimes absorbed revolutionary groups and individuals from the south. This is how an alarmed and distressed Ngô Vĩnh Long viewed much of Hanoi’s nonrevolutionary “success” in formulating and enacting policies defining what happened in Vietnam after the war.Footnote22

Long also described and interpreted the complexities of Vietnam’s approaches to China and to the United States. With regard to the United States, Long was concerned about continuing threats of neocolonialism, the Vietnamese government’s willingness to offer much cheaper, more docile, and profitable labor and resources to multinational corporations than China, and his recognition that some elites in Vietnam extolled Donald Trump. At the same time, Long was especially disturbed by the resurgence of right-wing extremism in the US and around the world.

With regard to China, after the American War in Vietnam ended, Long was concerned about China’s support for Pol Pot and the Khmer Rouge, the Chinese war on Vietnam, and the support of some Vietnamese for a Chinese economic development model. Over the past three decades, he became increasingly alarmed by the significant and ongoing threat posed by China’s economic, political, and military policies and actions. In Vietnam, he was considered one of the foremost experts on Vietnam’s relations with China and the United States, especially concerning ongoing territorial disputes in the South China Sea.Footnote23

In coming to terms with Long’s legacy, we need to be selective in appropriating what is of lasting value and rejecting the temptation to identify and categorize Long in narrow rigid terms. He was a progressive intellectual who took a complex, multidimensional, and open-ended analytical approach, sought principled compromises, and adjusted to historical and contextual changes, while attempting to maintain his revolutionary vision and hopes for mutual collective understanding, reconciliation, peace, and justice. He sometimes described this as a “pan-humanism” perspective that could challenge, transform, and overcome divisions in Vietnam, in the Vietnamese diaspora, and in US-Vietnam relations.

Examining Vietnam and Indochina during French colonialism and in the revolutionary struggle for freedom and independence, Ngô Vĩnh Long admired Hồ Chí Minh and many other Vietnamese revolutionaries. After North Vietnam’s military victory in 1975, Long became very critical of Vietnam’s rigid policies and nonrevolutionary developments. Nevertheless, it would be a mistake to conclude that he rejected everything about the Socialist Republic of Vietnam. After the war, he continued to identify with and support progressive forces within Vietnam and in the diaspora. Long appreciated the National Liberation Front of South Vietnam (NLF) and its subsequent Provisional Revolutionary Government (PRG).Footnote24 He admired the NLF-PRG revolutionary leaders, including Nguyễn Thị Bình (Madame Bình), who became a major figure in reunited Vietnam and was twice elected vice-president of the SRV.Footnote25

Finally in avoiding narrow identifications and categorizations, Long also admired the courage, effectiveness, and revolutionary potential of the Third Force in South Vietnam, especially between 1968 and 1975. This included students, intellectuals, Buddhists, Catholics, and others in the south who resisted the Saigon regime without espousing communist doctrine.Footnote26 Also referred to as the “Third Segment,” this informal coalition of progressive urban groups was not aligned with either the South Vietnamese government or the NLF-PRG. In his writing, Long discussed the history and significance of the Third Force, and even identified with it.Footnote27

A key debate in Vietnam Studies, China Studies, and in related fields has been about activism versus professionalism. For a relatively brief period during the height of the Vietnam/Indochina War, the balance shifted for many scholars toward antiwar activism. With the end of the war in 1975, the balance shifted back toward professionalism, and many scholars minimized or rejected activism as part of their academic and professional careers. This was never the vision or practice of Long. He remained an exemplary model of the activist intellectual, not only during periods when many others praised and joined him, but also during the rough times when he struggled against the professional current and was punished for maintaining his position.

Living consistent with his beliefs, Ngô Vĩnh Long worked for a democratic and socialist Vietnam. He worked for a Vietnam that would be diverse, inclusivist, and pan-humanist. Such a Vietnam would be radically egalitarian and opposed to top-down hierarchical economic and political relations of domination. It would be nonviolent, organically harmonious, and peaceful, promote freedom and social justice, and work to transform and overcome divisive conflicts. Long envisioned and worked for a future Vietnam that would be committed to meeting the needs of all, especially the impoverished, peasants, wage workers, and others who are most oppressed and have the least freedom.

In his life, Ngô Vĩnh Long demonstrated the essential role and indispensable contributions of progressive intellectuals. While his greatest accomplishment was to help end one of the bloodiest wars in human history, his ultimate goal was always to pave the way for new and hopeful beginnings.

Additional information

Notes on contributors

An Thùy Nguyễn

An Thuy Nguyen (Nguyễn Thùy An) is a PhD Candidate in History at The University of Maine. Her specializations are the history of US foreign relations, diplomatic history, Vietnamese history, twentieth century US history, women’s history, and gender studies. Her dissertation probes the significance and implications of the Nixon Doctrine in Asia from the perspectives of South Vietnamese antiwar activists. An has authored a journal article, a book chapter, two book reviews, and other opinion pieces. An also serves as translator and editor of a book project on the first Indochina War (funded by the Vietnam Studies Group and the Henry Luce Foundation) and as translator for a documentary film on the Vietnam War. She is a recipient of the Swarthmore College Peace Collection’s Moore Research Fellowship, the Society for Historians of American Foreign Relations’ Marilyn Blatt Young Dissertation Fellowship and Samuel Flagg Bermis Research Grant, and University of Maine fellowships and awards. She can be contacted at an..

Douglas Allen

Douglas Allen is Professor Emeritus of Philosophy at the University of Maine. He has authored and edited eighteen books and more than 150 book chapters and journal articles, including Gandhi after 9/11: Creative Nonviolence and Sustainability (Oxford University Press, 2019). A peace and justice scholar-activist, Allen was active in the civil rights movement, the Vietnam antiwar movement, the anti-apartheid movement, and many other struggles resisting violence, war, class exploitation, imperialism, racial and gender oppression, and environmental destruction. In 2022, he edited two volumes, The Philosophy of Mahatma Gandhi and War and Peace in Religions. He can be contacted at .

Notes

1 See, for example, an interview with Ngô Vĩnh Long that appears in Allen Citation1989.

2 Mydans Citation2022; Marquard Citation2022.

3 Appy Citation2004.

4 By the time he graduated from Harvard, Long was proficient in French, Chinese, and Russian, in addition to English and Vietnamese.

5 Dumanoski Citation1982.

6 As described by Doug Allen, a view shared by many other antiwar scholar-activists at the time. Allen Citation1989, 120.

7 Allen Citation1989, 120.

8 Yee Citation1968.

The New York Times, March 3, Citation1968.

10 There are many CCAS and other publications covering this event in detail. See, for example, Allen Citation1976; Ngô Vĩnh Long Citation1972; and Emerson Citation1975, especially 300-308 & 399-401.

11 On a Pan American World Airways flight from Manila to Saigon on July 2, 1972, Nguyễn Thái Bình (1948-1972), who had studied in the United States on a USAID scholarship, attempted to divert the plane to Hanoi. Holding lemons wrapped in tin foil, Bình threatened to detonate his “bombs” if his request was not met. Insisting on the need to refuel the plane, pilot Gene Vaughn landed the aircraft at Saigon’s Tân Sơn Nhứt Airport. Once the plane touched down, the pilot subdued Bình and shouted at an armed passenger to “kill the son of a bitch.” A total of five bullets pierced Bình’s back. Vaughn proudly recalled throwing the student’s body out of the aircraft “like a football” to be picked up later by stunned guards. Just over a month earlier, Bình had given a fiery antiwar speech at his graduation commencement at the University of Washington. Bình was praised by newspapers in North Vietnam as a hero and a martyr after his untimely death. See Montgomery Citation1972.

12 Allen Citation1989, 121.

13 The VSG is a Subcommittee of the Southeast Asia Council of the Association for Asian Studies and provides resources for scholarly research, study, and teaching about Vietnam. Long served as its president in 1981.

14 Ngô Vĩnh Long Citation1971a; Ngô Vĩnh Long Citation1971b.

15 For example, Long provided information and analysis for most of the articles in Committee of Concerned Asian Scholars Citation1970.

16 The Statement of Purpose was first published in BCAS Citation1969. Long worked closely with CCAS antiwar and anti-imperialist scholars. These included Jim Peck, Mark Selden, Marilyn Young, Noam Chomsky, John Dower, Leigh and Richard Kagan, Jon Livingston, Nina Adams, Tom Engelhardt, Jim Morrell, Perry Link, and many others.

17 Ngô Vĩnh Long Citation1973.

18 Ngô Vĩnh Long Citation1974.

19 Allen and Ngô Vĩnh Long Citation1991.

20 This book grew out of a special issue published by the Bulletin of Concerned Asian Scholars in 1989. See BCAS Citation1989.

21 Allen Citation1989, 121.

22 For his analysis of polarization and divisions within Vietnam and of how North Vietnamese leaders undermined and often destroyed non-communist revolutionary individuals and groups, see Long Citation2013b. This insightful analysis shows how Long identified with non-communist progressive individuals and movements. This also helps us to understand why Long experienced problems with Vietnamese officials after the war.

23 Long was frequently invited to teach special courses to young Vietnamese diplomats during their short-term training programs at Harvard. He also gave many interviews, lectures, and speeches in Vietnamese on the South China Sea disputes over the years. For an example of an English article by Long on this topic, see Long Citation2013a.

24 He was never associated with, nor represented in any capacity, the NLF-PRG, as claimed by some.

25 Along with former Prime Minister Võ Văn Kiệt (1922-2008), who Long greatly admired, Bình was one of the most progressive politicians in the SRV and often advocated for government reforms and opposed controversial measures, such as a bauxite mining project approved by then-Prime Minister Nguyễn Tấn Dũng in 2008. For more on Nguyễn Thị Bình, see Nguyen Citation2023b.

26 For more on the Third Force in South Vietnam, see Nguyen Citation2019 and Citation2023a. See also Quinn-Judge Citation2017.

27 Cf. Long Citation2013b. Long argued that it is important to recognize the continuing presence and the lessons of the Third Force for the future of Vietnam. See Long Citation2011.

References

  • Bulletin of Concerned Asian Scholars1969. “Purpose and Policy Statements.” 2 (1): 8-9. [Google Scholar]
  • Bulletin of Concerned Asian Scholars1989. “Twentieth Anniversary Issue in Indochina and the War.” https://www.tandfonline.com/toc/rcra19/21/2-4?nav=tocList. [Google Scholar]
  • Allen, Douglas. 1976. “Universities and the Vietnam War: A Case Study of a Successful Struggle.” Bulletin of Concerned Asian Scholars (BCAS) 8 (4): 216. [Taylor & Francis Online][Web of Science ®][Google Scholar]
  • Allen, Douglas. 1989. “Antiwar Asian scholars and the Vietnam/Indochina War.” Bulletin of Concerned Asian Scholars (BCAS) 21 (2-4): 112134. [Taylor & Francis Online][Web of Science ®][Google Scholar]
  • Allen, Douglas and Ngô Vĩnh Long (editors). 1991Coming to Terms: Indochina, the United States, and the WarBoulder, COWestview Press. [Google Scholar]
  • Appy, Christian. 2004Patriots: The Vietnam War Remembered from All SidesNew YorkViking. [Google Scholar]
  • Committee of Concerned Asian Scholars. 1970The Indochina Story: A Fully Documented AccountNew YorkBantam Books. [Google Scholar]
  • Dumanoski, Dianne. 1982. “Trials of Ngo Vinh Long: threats, break-ins, bombs.” The Boston Globe, July 6. [Google Scholar]
  • Emerson, Gloria. 1975Winners and Losers: Battles, Retreats, Gains, Losses and Ruins from a Long WarNew YorkRandom House300308, 399-401. [Google Scholar]
  • Marquard, Bryan. 2022. “Ngo Vinh Long, scholar of Vietnam attacked for his views about war, dies at 78.” The Boston Globe, November 13. [Google Scholar]
  • Montgomery, Paul. 1972. “Hijacker killed in Saigon; Tried to divert jet to Hanoi.” The New York Times, July 3. [Google Scholar]
  • Mydans, Seth. 2022. “Ngo Vinh Long, lightning rod for opposing the Vietnam War, dies at 78.” The New York Times, October 23. [Google Scholar]
  • New York Times1968. “16 South Vietnamese in U.S. and Canada support a halt,” March 3, 1968. [Google Scholar]
  • Nguyen, An Thuy. 2019. “The Vietnam women’s movement for the right to live: A non-communist opposition movement to the American War in Vietnam.” Critical Asian Studies 51 (1): 75102. [Taylor & Francis Online][Web of Science ®][Google Scholar]
  • Nguyen, An Thuy. 2023a. “Third Force: South Vietnamese Urban Opposition to the Nixon Doctrine in Asia (1969-1973).” Doctoral Dissertation, The University of Maine. [Google Scholar]
  • Nguyen, An Thuy. 2023b. “Nguyễn Thị Bình (b.1927): The flower and fire of the revolution,” in The Palgrave Handbook of Communist Women Activists around the World, edited by Francisca de HaanNew YorkPalgrave MacMillan. [Crossref][Google Scholar]
  • Quinn-Judge, Sophie. 2017The Third Force in the Vietnam Wars: The Elusive Search for Peace 1954-1975LondonI.B. Tauris. [Google Scholar]
  • Ngô Vĩnh Long1971a. “Grooming the ‘Third Force.” Thời Báo Gà (16), May. [Google Scholar]
  • Ngô Vĩnh Long1971b. “The Urban Opposition.” Thời Báo Gà (18), November. [Google Scholar]
  • Ngô Vĩnh Long1972. “A Vietnamese Invasion.” Thời Báo Gà (24), May. [Google Scholar]
  • Ngô Vĩnh Long1973Before the Revolution: The Vietnamese Peasants und the FrenchCambridge, MAMIT Press. [Google Scholar]
  • Ngô Vĩnh Long1974Vietnamese Women in Society and Revolution: The French Colonial PeriodCambridge, MAVietnam Resource Center. [Google Scholar]
  • Ngô Vĩnh Long2011. “Vài Nhận Xét Về “Thành Phần Thứ Ba” và “Hòa Hợp, Hòa Giải Dân Tộc [A few comments on the “Third Segment” and “National Reconciliation and Concord].” Thời đại Mới [New Era]. [Google Scholar]
  • Ngô Vĩnh Long2013a. “Unhappy neighbors: Why Beijing’s muscle-flexing in the South China Sea alarms Asia.” Cairo Review (August): 7084. [Google Scholar]
  • Ngô Vĩnh Long2013b. “Military victory and the difficult tasks of reconciliation in Vietnam: A cautionary tale.” Peace & Change 28 (4): 474487. [Google Scholar]
  • Yee, Min S. 1968. “Harvard Viet students denounce US, Saigon.” The Boston Globe, February 15. [Google Scholar]