- Kỳ 1: Chào thành phố!
(TNO) Sau ngày 30.4.1975, có một chuyến tàu biển đầu tiên chở 541cán bộ miền Nam trở về quê hương sau hơn 20 năm xa cách. Tàu Sông Hương, con tàu viễn dương với trọng tải 10.000 tấn được Việt Nam mua của Thụy Điển năm 1974 thực hiện sứ mệnh lịch sử ấy
(TNO) Sau ngày 30.4.1975, có một chuyến tàu biển đầu tiên chở 541cán bộ miền Nam trở về quê hương sau hơn 20 năm xa cách. Tàu Sông Hương, con tàu viễn dương với trọng tải 10.000 tấn được Việt Nam mua của Thụy Điển năm 1974 thực hiện sứ mệnh lịch sử ấy.
|
Đưa văn công vào Sài Gòn phục vụ lễ thống nhất Cũng như tàu Sông Hương, tàu Đồng Nai nhận được lệnh vào Sài Gòn khi đang làm nhiệm vụ chở hàng sang Nhật. Tàu Đồng Nai có nhiệm vụ chở 12 đoàn chủ yếu là văn công, tuồng chèo, bảo tàng thuộc Bộ Văn hóa và Tổng cục Chính trị của Bộ Quốc phòng vào Sài Gòn. Ông Cao Trọng Tùng – khi đó là thuyền phó tàu Đồng Nai – cho biết tàu Đồng Nai đi sau tàu Sông Hương vài ngày, xuất phát từ cảng Hải Phòng, sau 48 giờ trên biển vào tới Sài Gòn. Chính người hoa tiêu nổi tiếng Sài Gòn lúc đó là ông Tôn Thọ Khương đã dẫn dắt tàu Đồng Nai cập cảng Khánh Hội. Ông Tùng cho biết khi tàu cập cảng, ngay tại cảng Khánh Hội còn một lô hàng mỹ nghệ đóng bằng thùng gỗ mà sau này được biết chủ nhân lô hàng là ông Nguyễn Văn Thiệu – Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa – gửi cho anh trai mình là Nguyễn Văn Kiểu thời điểm đó đang làm đại sứ ở Đài Loan. “Tới Sài Gòn, các đoàn của Bộ Văn hóa xuống tàu để chuẩn bị biểu diễn nghệ thuật cho người dân Sài Gòn dịp thống nhất đất nước. Riêng anh em được ở lại vài ngày chờ chở hàng ra bắc vừa kết hợp tham quan Sài Gòn. Sinh hoạt của người dân thời điểm đó khá nhộn nhịp. Đường phố Sài Gòn được quy hoạch khá quy củ, các ngã tư đều có đèn chỉ dẫn, báo hiệu giao thông”, ông Tùng kể. |
Lãnh đạo và thuyền viên tàu Sông Hương chụp ảnh kỷ niệm khi tàu tới Sài Gòn. Người đứng ở hàng đầu, thứ hai từ phải qua là thuyền trưởng Nguyễn Tấn Nhiêm. Người đứng hàng đầu ngoài cùng bên trái là thuyền pho Nguyễn Mạnh Hà - Ảnh chụp từ tư liệu của ông Nguyễn Mạnh Hà |
Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn (người đứng hàng đầu, thứ năm từ bên trái qua) chụp hình kỷ niệm với lãnh đạo tàu Sông Hương - Ảnh chụp từ tư liệu của ông Nguyễn Mạnh Hà |
Ông Nguyễn Mạnh Hà nhớ lại những kỷ niệm về chuyến tàu đầu tiên từ bắc vào nam sau ngày 30.4.1975 - Ảnh: Trung Hiếu |
- Kỳ 2: Giữ ánh sáng cho Sài Gòn
(TNO) “Việc bảo đảm điện sau ngày 30.4.1975 được coi là vấn đề sống còn không chỉ cho đời sống của người dân Sài Gòn mà còn thể hiện uy tín chính quyền quân quản Sài Gòn nhưng ngày đầu nên rất được chú trọng”, ông Trần Vân, một trong những người đầu tiên tiếp quản ngành điện miền Nam nhớ lại.
(TNO) “Việc bảo đảm điện sau ngày 30.4.1975 được coi là vấn đề sống còn không chỉ cho đời sống của người dân Sài Gòn mà còn thể hiện uy tín chính quyền quân quản Sài Gòn nhưng ngày đầu nên rất được chú trọng”, ông Trần Vân, một trong những người đầu tiên tiếp quản ngành điện miền Nam nhớ lại.
Khôi phục nhà máy thủy điện Đa Nhim Theo ông Nguyễn Văn Thận, sau khi tình hình tiếp quản ngành điện ở miền nam dần đi vào ổn định, tháng 8.1975, Tổng cục Điện lực bắt đầu có kế hoạch sửa chữa, khôi phục nhà máy thủy điện Đa Nhim. “Việc khôi phục nhà máy thủy điện Đa Nhim rất gian khổ vì việc sửa ở độ cao hơn 2.000 m nhưng ngày đêm anh em vẫn quyết tâm làm”, ông Thận nói. Sau 6 tháng sửa chữa, nhà máy thủy điện Đa Nhim được khôi phục cung cấp điện cho một số tỉnh lân cận và quan trọng là góp phần bảo đảm nguồn điện cho Sài Gòn khi đó còn chập chờn và phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu diesel. |
Công nhân sữa chữa đường dây 230 kV Đa Nhim – Sài Gòn năm 1976 - Ảnh tư liệu của Tổng công ty miền Nam |
Đường ống thủy áp nhà máy thủy điện Đa Nhim bị hư hỏng trong chiến tranh - Ảnh tư liệu của Tổng công ty miền Nam |
Sửa chữa máy biến thế tại nhà máy điện Chợ Quán - Ảnh tư liệu của Tổng công ty miền Nam |
Các thành viên trong đoàn tiếp quản Tổng công ty Điện lực Việt Nam họp kỷ niệm 10 năm vào năm 1985 - Ảnh tư liệu của Tổng công ty miền Nam |
Ông Trần Vân và Nguyễn Văn Thận- hai người nằm trong nhóm tiếp quản ngành điện miền Nam sau ngày 30.4.1975 - Ảnh: Trung Hiếu |
Cùng với điện, nước sinh hoạt là lĩnh vực thiết yếu cần phải bảo đảm cho người dân sau ngày thống nhất. Thậm chí, ngay trong ngày 30.4 lịch sử, nước sạch vẫn được cấp đủ cho người dân Sài Gòn.
Cùng với điện, nước sinh hoạt là lĩnh vực thiết yếu cần phải bảo đảm cho người dân sau ngày thống nhất. Thậm chí, ngay trong ngày 30.4 lịch sử, nước sạch vẫn được cấp đủ cho người dân Sài Gòn.
Các kỹ sư, công nhân sửa chữa khắc phục máy móc của Nhà máy nước Thủ Đức sau năm 1975 - Ảnh: tư liệu Sawaco |
>> Giữ huyết mạch cho Hòn ngọc Viễn Đông - Kỳ 2: Giữ ánh sáng cho Sài Gòn
>> Giữ huyết mạch cho Hòn ngọc Viễn Đông - Kỳ 1: Chào thành phố!
Nhận cả Ban lãnh đạo Sài Gòn Thủy cục
Cuối tháng 2.1975, khi đang tiếp quản huyện Phước Long (Bình Phước), ông Bùi Minh Thế nhận được lệnh cấp trên chuẩn bị công tác tổ chức tiếp quản Sài Gòn.
Ngày 30.4.1975, đoàn tiếp quản của ông Thế vào tới Sài Gòn. Dọc hành trình, do trước đây làm ở Nhà máy chế tạo bơm Hải Dương nên ông Thế được phân về đội tiếp quản nước gồm 11 thành viên.
Đến Sài Gòn, đội tiếp quản nghỉ một đêm ở Trường kỹ thuật Cao Thắng để hôm sau tiến hành công việc tiếp quản. Chiều 30.4.1975, dù Sài Gòn đã được tiếp quản nhưng theo ông Thế “tiếng súng đạn vẫn kêu đì đẹt cả đêm. Mọi người dặn nhau nếu không có chuyện gì quan trọng nên tránh ra đường”.
6 giờ sáng 1.5.1975, 11 thành viên lên đường để tiếp quản. Ông Thế kể do không rành đường lại không biết địa chỉ Sài Gòn Thủy cục (tên gọi cũ của Tổng công ty cấp nước Sài Gòn (Sawaco) trước 1975) nên đoàn cứ nhìn ở đâu có bồn nước to thì cứ đến đó dò hỏi.
Ban đầu đoàn vào khu cấp nước Sài Gòn nằm gần Hồ Con Rùa, nay là trụ sở của Sawaco. Tuy nhiên, một số công nhân cho biết trụ sở chính của Sài Gòn Thủy cục lúc đó ở số 86 Nguyễn Thông (Q.3). Tới nơi, Ban giám đốc của Sài Gòn Thủy cục đã có mặt, trong đó có cả Giám đốc Sài Gòn Thủy cục Vũ Đình Hạnh.
Các kỹ sư, công nhân đang sữa chữa khắc phụ máy móc của nhà máy nước Thủ Đức sau năm 1975 - Ảnh: tư liệu Sawaco |
Ban đầu tổ tiếp quản vẫn giữ nguyên thành phần lãnh đạo Sài Gòn Thủy cục và bộ máy cũ hơn 1.500 công nhân viên. Hoạt động của Sài Gòn Thủy cục diễn ra bình thường dưới sự giám sát của đội tiếp quản.
“Quan hệ giữa đội tiếp quản và lãnh đạo Sài Gòn Thủy cục lúc đó khá tốt, tôn trọng lẫn nhau. Hằng tuần hai bên vẫn họp giao ban để nắm tình hình”, ông Thế nói.
Theo ông Thế, sau một thời gian, tổ tiếp quản đã tiến hành chuyển đổi Sài Gòn Thủy cục. Tên gọi của công ty được đổi sang thành Công ty cấp nước TP.
Ông Trần Văn Thình - một trong những thành viên của đội tiếp quản - được phân công làm giám đốc công ty, phó giám đốc là các ông Võ Văn Đường, Nguyễn Văn Lang, Trương Hoàng Khải. Ngoài ra, công ty tiếp quản được hệ thống cơ sở vật chất ngành nước hầu như còn nguyên vẹn, từ Nhà máy nước Thủ Đức, Biên Hòa đến các chi nhánh Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn... đủ sức cung cấp nước sinh hoạt cho 3 triệu dân Sài Gòn ở các quận 1, 3, 5, 11, Tân Bình...
Sau đó, công ty còn cung cấp nước sản xuất cho Khu công nghiệp Biên Hòa và một số khu công nghiệp vùng phụ cận.
“Người bên kia” bảo vệ ngành nước
Theo hồi ức của ông Võ Văn Đường (thời điểm tiếp quản là phó giám đốc, sau này là Giám đốc Công ty cấp nước TP, hiện ông Đường đã mất), việc cơ sở ngành nước Sài Gòn sau ngày 30.4.1975 được bảo toàn nhờ một phần từ chủ trương của lãnh đạo Sài Gòn Thủy cục mà đứng đầu là Giám đốc Vũ Đình Hạnh.
Khi nắm vị trí Giám đốc Sài Gòn Thủy cục trong những ngày “dầu sôi lửa bỏng”, chủ trương của ông Hạnh là bất kỳ giá nào cũng phải duy trì hoạt động sản xuất, bảo đảm nguồn nước sinh hoạt cho dân thành phố.
Các kỹ sư, công nhân đang sữa chữa khắc phụ máy móc của nhà máy nước Thủ Đức sau năm 1975 - Ảnh: tư liệu Sawaco |
Một câu chuyện còn được anh em ngành cấp nước Sài Gòn kể cho nhau nghe về việc lãnh đạo Sài Gòn Thủy cục cố gắng bảo vệ Trạm bơm Hóa An không để cho chiến tranh tàn phá.
Theo đó, vào chiều 28.4.1975, một tàn quân của quân đội Việt Nam Cộng hòa sau khi rút chạy từ Xuân Lộc và Biên Hòa về đã định vào chốt Trạm bơm Hóa An, biến thành nơi tử thủ và phá vỡ hệ thống cung cấp nước của Sài Gòn.
Ông Hạnh nhận thức Trạm bơm Hóa An là đầu nguồn cung cấp nước cho cả Sài Gòn. Nếu đụng độ ở đây, bom đạn khiến hệ thống bơm nước bị phá hủy thì cả Sài Gòn sẽ bị tê liệt về nguồn nước, mọi sinh hoạt và sản xuất xem như đều đình trệ. Ngay lập tức, ông Hạnh bàn với lãnh đạo các sở trực thuộc thủy cục tìm cách can thiệp để quân đội không đưa quân vào trạm bơm tránh những tổn thất cho cơ sở vật chất của ngành nước.
Theo ông Bùi Minh Thế, rất tiếc sau một thời gian làm việc với Công ty cấp nước TP, vì nhiều lý do ông Vũ Đình Hạnh đã nghỉ việc. Một thời gian sau ông Hạnh sang Pháp định cư.
“Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp dù trước đó làm lãnh đạo ở Sài Gòn Thủy cục nhưng sau này vẫn được bồi bổ, cất nhắc. Điển hình nhất là ông Võ Quang Lý trước ngày 30.4.1975 là Trưởng khu cấp nước Chợ Lớn. Khi tiếp quản ông Lý được đưa lên Nhà máy nước Thủ Đức làm chuyên gia, sau này về công ty kết nạp Đảng, làm trưởng phòng kỹ thuật, rồi phó giám đốc công ty cấp nước”, ông Thế nói.
Chế nòng pháo làm phần bạc cho máy bơm Ông Phạm Tấn Sỹ - nguyên Giám đốc Nhà máy nước Thủ Đức - cho biết tối 30.4.1975, đoàn tiếp quản đã tiếp quản Nhà máy nước Thủ Đức, nơi cung cấp phần lớn nước sạch cho Sài Gòn. Dù từng được coi là hiện đại nhất Đông Nam Á nhưng thời điểm tiếp quản Nhà máy nước Thủ Đức đã vận hành được 14 năm nên nhiều thiết bị bắt đầu hư hỏng, cần phải thay thế, sửa chữa. Tuy nhiên, việc sửa chữa không hề dễ dàng vì toàn bộ máy móc của nhà máy đều của Mỹ mà sau 1975 hai nước không bang giao. “Do đang bị cấm vận nên dù có tiền cũng không mua được thiết bị thay thế. Đơn cử như máy bơm to quá khi hư không xưởng nào trong nước sửa được. Phần bạc trong máy bơm chạy một thời gian bị mòn. Anh em phải đến Nhà máy Ba Son, Nhà máy Z751 cắt những nòng pháo không còn sử dụng để tiện thành bạc thay thế vào. Dù khó khăn nhưng không bao giờ để thiếu nước khó khăn cho sinh hoạt”, ông Sỹ cho hay. |
- Kỳ 4: Những 'người cũ' trên ti vi
(TNO) Đến nay dù đã 40 năm nhưng nhà báo Hồ Vĩnh Thuận vẫn nhớ từng chi tiết khi ông cùng đoàn vào tiếp quản Đài Truyền hình Sài Gòn ngày 30.4.1975.
(TNO) Đến nay dù đã 40 năm nhưng nhà báo Hồ Vĩnh Thuận vẫn nhớ từng chi tiết khi ông cùng đoàn vào tiếp quản Đài Truyền hình Sài Gòn ngày 30.4.1975.
Cổng Đài HTV những năm sau 1975 - Ảnh: tư liệu Ba đài truyền hình “Sáng 29.4.1975, đoàn tiếp quản nhận được lệnh tập trung ngay tại bìa rừng ở Tây Ninh. 3 giờ sáng 30.4.1975, đoàn từ Dầu Tiếng, Tây Ninh quá giang xe của cán bộ miền Bắc tiến lên Sài Gòn. Chừng 12 giờ trưa tới Dinh Độc Lập. Lúc này thì cờ xanh đỏ đã bay phất phới ở dinh. Một số anh em tiếp quản chạy vào dinh để quay một số cảnh làm tư liệu. Khoảng 12 giờ 30 phút, xe chạy tới Đài Truyền hình Sài Gòn. Lúc này trong đài không còn ai làm việc. Một phía bên cổng sắt ở đường Đinh Tiên Hoàng bị gãy đổ”, ông Thuận kể lại. Theo ông Thuận, khi đoàn tiếp quản có mặt, máy nổ của đài vẫn chạy nhưng phía trong khuôn viên không còn ai. Chỉ có một anh sinh viên chạy vào chỉ cho đoàn một số vị trí. Trước khi nhận lệnh, thượng tướng Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban quân quản Sài Gòn - Gia Định căn dặn khi vào tiếp quản không được vào trong khu làm việc vì sợ bom mìn cài lại. Đêm hôm đó, cả đoàn tiếp quản nấu ăn và ngủ ngoài sân của đài. Khi đó, Sài Gòn có tới ba đài truyền hình. Một đài của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Một đài của Mỹ chủ yếu phục vụ cho quân đội. Hai đài đều nằm trong khuôn viên Đài Truyền hình TP.HCM (HTV) bây giờ, chỉ cách nhau dãy hàng rào sắt. Cột ăng ten phát sóng nằm bên đài của Mỹ, khi nào làm xong chương trình, nhân viên kỹ thuật đài Việt Nam Cộng Hòa đưa băng sang khu vực đài Mỹ để phát sóng. Đài thứ ba bây giờ ít người biết là đài truyền hình Đắc Lộ nằm ở gần đường Lý Chính Thắng (Q.3). Đài chỉ phát chương trình cho thiếu nhi và người công giáo. Thời gian đầu khi tiếp quản, đài Đắc Lộ vẫn hoạt động bình thường với đầy đủ ban bệ, bộ phận dù quy mô khá nhỏ. Sau này đài Đắc Lộ sáp nhập rồi trở thành phòng sản xuất chương trình thiếu nhi của HTV. Phát sóng liên tục Trở lại với việc tiếp quản, đúng 7 giờ 30 phút ngày 1.5.1975, rất nhiều nhân viên đến tập trung trước cổng đài. Ban tiếp quản mời mọi người vô hội trường tuyên bố chính sách của chính quyền quân quản. Việc tiếp quản sẽ không ảnh hưởng công việc của các nhân viên. Ai trước làm ở đâu thì bây giờ về làm chỗ đó. Ban tiếp quản cũng mời ông Lê Vĩnh Hòa, Tổng cục trưởng Tổng cục Phát thanh, Truyền hình vào đài và đề nghị hợp tác. Sau khi giới thiệu tên tuổi, chức danh, ông Lê Vĩnh Hòa cho biết ông là người chịu trách nhiệm chính của đài. Tất cả mọi người từ trước tới nay đều thực hiện theo mệnh lệnh của ông Hòa. Ông Huỳnh Văn Tiểng, thành viên đoàn tiếp quản và sau này là Giám đốc Đài Truyền hình TP.HCM bày tỏ giờ làm sao để đài vẫn chạy bình thường. Ông Hòa gọi bộ phận kỹ thuật vào. Ông Lê Văn Minh, Trưởng phòng kỹ thuật cho biết mọi thứ vẫn bình thường. Nếu cho phép thì chiều 1.5 phát sóng được. Nghe xong câu nói của ông Minh, nhiều người phấn khởi. Sau đó biên tập viên lên kế hoạch chương trình, quay phim vác máy đi quay. Các biên tập viên ở chiến khu về tiếp quản vẫn theo các quay phim đi làm bình thường. Tới khoảng 11 giờ anh em quay phim về, dựng xong xuôi, viết thuyết minh rồi đưa xuống phim trường phát trong chương trình bản tin. Chương trình văn nghệ được gửi từ Hà Nội vào. Riêng cờ màu xanh đỏ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lúc đó còn quá mới không kịp quay nên mọi người phải lấy cờ nhỏ để trước gió rồi quay ngay tại phim trường. Chương trình phát sóng tối 1.5.1975 bắt đầu là thông báo của chính quyền quân quản là Sài Gòn - Gia Định được giải phóng, sau sau đó là chương trình thời sự. Tối ngày hôm sau có thêm cảnh quay các cánh quân tiếp quản Sài Gòn, tiếp quản điện, nước, bưu điện, chương trình văn nghệ rồi phim tài liệu Nhìn về phía trước đưa từ Hà Nội vào. Phát thanh viên lúc đó là cô Mỹ Hạnh mặc áo bà ba, đội mũ tai bèo, quàng khăn rằn đọc tin tức. Việc phát sóng của HTV chỉ gián đoạn đêm 30.4 do không có nhân viên, còn lại phát sóng liên tục từ ngày 1.5.1975 đến nay. Sử dụng phần lớn người cũ Những người chứng kiến cuộc tiếp quản HTV đều cho biết việc tiếp quản đài diễn ra khá nhẹ nhàng. Lúc tiếp quản, nhân viên của Tổng cục Phát thanh, Truyền hình lúc đó có khoảng 400 người, sau này trừ một số nghỉ việc, ra nước ngoài thì đa phần đều được giữ lại đài làm việc. Thậm chí lương của một số vị trí chuyên viên cấp cao còn cao hơn cả cán bộ tiếp quản. Đáng chú ý là trường ông Nguyễn Văn Lâm trước 1970 làm giám đốc kỹ thuật của tổng cục, 1972 qua làm phó giám đốc kỹ thuật trung tâm quốc gia điện ảnh trực thuộc tổng cục ở 15 Thi Sách (Q.1). Những năm thập kỷ 80 của thế kỉ trước, đa phần máy chạy băng đầu từ của đài bị hỏng, gửi đi Ba Lan để đưa qua Mỹ sửa nhưng không được. Thời kỳ này Mỹ đang cấm vận Việt Nam. Lãnh đạo đài tìm mọi cách để sửa đều thất bại. May thay lúc đó một chuyên gia của đài sang chỗ ông Lâm. Tuy nhiên vị này cũng cho biết ông Lâm giỏi nhưng tính ông này kiêu nên khó mời lắm. Phải ban giám đốc đài trực tiếp mời may ra ông Lâm đồng ý giúp. Nghe xong, Giám đốc đài HTV lúc đó là ông Ba Quang, Phó giám đốc Hồ Vĩnh Thuận và đặc biệt là ông Huỳnh Văn Tiểng khi đó đã chuyển qua Ủy ban Mặt trận tổ quốc nhưng vẫn lo lắng cho phát triển của đài đều đồng ý.
Đúng 4 giờ chiều, ban giám đốc HTV qua nhà ông Lâm nói về khó khăn của máy chạy đầu từ. Ông Lâm đảm bảo 95% sẽ khắc phục được. Tối hôm đó ông Tiểng đã mời ông Lâm ăn tối ở nhà hàng Mỹ Cảnh trên sông Sài Gòn. Sáng hôm sau đài cho xe qua nhà rước ông Lâm vào đài để chẩn bệnh máy móc. Ông Lâm cộng tác với đài 2 năm khi khối kỹ thuận được đảm bảo thì nghỉ. Sau này đài tiếp tục mời ông Lâm tiếp tục chịu trách nhiệm trung tâm dịch vụ kỹ thuật của đài. Hay như trường hợp ông L.V.M, trước 1975 học cao học ở Úc sau đó là trưởng phòng kỹ thuật của đài. Ông này rất giỏi chuyên môn. Sau 1975 vẫn làm chuyên viên kỹ thuật ở đài. Một ngày đẹp trời ông M. tìm cách vượt biên nhưng bị bắt ở Long An, bị ở tù. Ra tù ông M. được lãnh đạo đài bảo lãnh rồi chuyển về làm ở bộ phận dịch vụ, kinh doanh ở đài. Việc chuyển giao, tiếp quản ở HTV diễn ra không căng thẳng một phần do đội ngũ tiếp quản biết trọng trí thức và người tài. Ông Huỳnh Văn Tiểng trước 1975 là một đại trí thức ở miền Nam, sau này làm Phó tổng giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam rồi mới làm Giám đốc HTV nên rất hiểu nghề và tôn trọng người giỏi. Ông Hồ Vĩnh Thuận từng học kỹ sư vô tuyến ở Nga về và rất cầu thị. Ông Phạm Khắc, sau này là Giám đốc HTV trước sống ở Sài Gòn, giỏi nghề và hành xử rất tốt với anh em ở đài cũ. |
- Kỳ 5: Trần Thành Trai từ trại 'cải tạo' đến ca mổ lịch sử ngành y
(TNO) Là một bác sĩ nổi tiếng, chuyên gia đầu ngành về ngoại nhi, bác sĩ Trần Thành Trai cũng là một điển hình tiêu biểu cho trí thức ở lại phía 'bên kia'...
(TNO) Là một bác sĩ nổi tiếng, chuyên gia đầu ngành về ngoại nhi, bác sĩ (BS)Trần Thành Trai cũng là một điển hình tiêu biểu cho trí thức ở lại phía “bên kia”. 40 năm, từng khoảnh khắc về thời cuộc như hiện lên trong cuộc trò chuyện với Thanh Niên Online. Xin giới thiệu đến bạn đọc bài viết của BS Trần Thành Trai, một người đã chọn con đường ở lại với Việt Nam.
Bác sĩ Trần Thành Trai (đứng, bên phải) đang chỉ đạo ca mổ cho một cháu bé - Ảnh: Trung Hiếu chụp lại ảnh tư liệu |
|
Bác sĩ Trần Thành Trai (ngoài cùng, bên phải) tại Kỳ họp Quốc hội khóa 10 - Ảnh: Trung Hiếu chụp lại ảnh tư liệu Sau một thời gian tình hình trong nước tạm ổn. Lúc này thiếu thầy giáo, thầy thuốc những người như tôi được về sớm. Về tới Sài Gòn, tôi nộp đơn xin việc. Sở Y tế thấy tôi có kinh nghiệm về phẫu thuật mà Bệnh viện Nhi đồng 1 đang thiếu nên cho về Nhi đồng 1. Về bệnh viện, tôi ôm được tủ sách quý của một ông thầy về ngoại nhi. Lúc đó bệnh viện vẫn còn khoảng 10 bác sĩ của chính quyền trước 1975. Tôi vô sau nên học mấy anh đó. Trước đó có kinh nghiệm 9 năm ngoại khoa nên tôi học rất nhanh dù đối tượng chữa trị của tôi là các em nhỏ.
Năm 1988, có một cặp song sinh tên là Song - Pha dính nhau cần phải tách rời. Lúc đó tôi với vai trò trưởng khoa cùng với anh em mổ tách Song - Pha thành công. Lịch sử ngoại nhi từ trước đến giờ cũng có tách nhưng sau khi tách đứa còn đứa mất. Ca của tôi hai đứa đều sống. Đó là ca mổ đã đi vào lịch sử ngành y. Sáu tháng sau tôi tham gia ê kíp mổ tách cặp song sinh Việt - Đức với anh Trần Đông A. Sau đó một số người gợi ý tôi ứng cử hội đồng nhân dân thành phố. Tôi ứng cử và trúng. Làm được thời gian, khi có uy tín có người gợi ý tôi ứng cử đại biểu Quốc hội, tôi ra ứng cử và tiếp tục trúng đại biểu Quốc hội. Lịch sử Quốc hội khi đó mới có người trước đó làm cho chế độ cũ tự ứng cử và đắc cử. Một trong những lời tuyên thệ của đại biểu Quốc hội là trung thành với tổ quốc. Lúc đó tôi nghĩ không phân biệt cũ mới mà lúc đó ngoài bệnh nhân mình có một tổ quốc để mà lo lắng. Phòng mạch tôi khi đó ở đường 3/2 vừa là phòng khám vừa là phòng tiếp dân. Khi đó nhiều báo chí cả trong và ngoài nước phỏng vấn tôi. Tôi còn nhớ một phóng viên tờ báo của HongKong hỏi ông thuộc chế độ cũ ứng cử và đắc cử. Như vậy ông là đại diện cho gần 20 triệu người dân ở lại miền Nam phải không. Tôi trả lời tôi không phải đại diện của 20 triệu người dân miền Nam nhưng tôi tự hào là một trong 20 triệu người miền Nam ở lại xây dựng đất nước sau ngày 30.4.1975.
“Tôi đã có tất cả” Tôi ở lại Sài Gòn một phần tin tưởng vào những người lãnh đạo thời đó. Lãnh đạo thành phố có Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt, ở ngành y thì có bác sĩ Dương Quang Trung - Giám đốc Sở Y tế. Đó là những người tài và biết sử dụng người giỏi. Họ không phân biệt bên này hay bên kia mà cái gì tốt cho đất nước, tổ quốc thì họ làm. Cho nên khi bác sĩ Dương Quang Trung mất, quàn ở nhà tang lễ Lê Quý Đôn, tôi đến viếng và viết vào sổ tang: “Em còn ở lại ngày này là do anh đó anh Tư Trung. Anh là nguồn động viên để em và một số người ở lại quê hương của mình”. Chính nhờ bác sĩ Dương Quang Trung cho nên lúc đó mới có được một đội ngũ bác sĩ giỏi ở lại Việt Nam. Nhiều khi tôi vẫn hay nghĩ về câu nói của Thủ tướng Võ Văn Kiệt: “Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn”. Ngày 30.4.1975 có thể với con tôi đó là một ngày buồn vì ba chúng mất hết mọi thứ. Ngay đứa con út của tôi mãi một tháng sau mới biết ba mình là ai. Riêng tôi giờ ngẫm lại thấy không có gì phải buồn vì giờ đây tôi có được tất cả những gì mà mình mất. Điều quan trọng là được sống với người thân, con cháu ngay chính ở quê hương mình. |
Kỳ 6: Vị Tổng trưởng quyết không rời quê hương
(TNO) Sau gần 30 năm, di cốt của Giáo sư (GS) Nguyễn Duy Xuân - Tổng trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh Niên cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa - đã được người con gái đưa từ nghĩa địa trại cải tạo Ba Sao (Nam Định) về gửi trong một ngôi chùa ở Sài Gòn.
(TNO) Sau gần 30 năm, di cốt của Giáo sư (GS) Nguyễn Duy Xuân - Tổng trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh Niên cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa - đã được người con gái đưa từ nghĩa địa trại cải tạo Ba Sao (Nam Định) về gửi trong một ngôi chùa ở Sài Gòn.
GS Nguyễn Duy Xuân - Ảnh: chụp lại tư liệu gia đình GS Xuân |
|
Bà Nguyễn Thị Nguyệt Nga ôm di cốt ba mình gửi lên chùa Thiên Hưng ở đường Vạn Kiếp, Bình Thạnh (TP.HCM) - Ảnh: chụp lại tư liệu gia đình GS Xuân |
Bà Nguyễn Thị Nguyệt Nga nhớ về những kỉ niệm với GS Nguyễn Duy Xuân - Ảnh: Trung Hiếu |
GS Nguyễn Duy Xuân sinh năm 1925 tại Ô Môn, tỉnh Cần Thơ, cựu học sinh Collège de Cần Thơ. Sau khi đậu bằng Diplôma (văn bằng thành chung). GS sang Pháp du học tốt nghiệp cử nhân kinh Tế. Ông tiếp tục theo học chương trình sau đại học ở Anh, lấy bằng Thạc sĩ về kinh tế học; tiếp đến sang Mỹ theo học ở đại học Vanderbilt, và lấy học vị Tiến sĩ kinh tế học rồi trở về Việt Nam năm 1963. Trong thời gian giữ chức Viện trưởng Viện Đại học Cần Thơ, GS Xuân đã nỗ lực phát triển viện đại học trên mọi lãnh vực từ chương trình giảng dạy, đào tạo cán bộ giảng huấn,ngân sách, tài trợ, xây cất thêm giảng đường, phòng thí nghiệm đến tổ chức hành chánh, y tế sinh viên và thiết lập ký túc xá dành cho sinh viên đến từ các tỉnh miền Tây. GS Xuân đã đẩy mạnh phát triển hai ngành sư phạm và nông nghiệp với viễn kiến nhằm đạo tạo những giáo chức trung cấp để mở rộng mạng lưới giáo dục, nâng cao trình độ dân trí và những cán bộ chuyên môn với những kiến thức về khoa học và kỹ thuật nông nghiệp để gia tăng tiềm năng sản xuất của đồng bằng sông Cửu Long. |