Nam Cường
TP - Cậu học sinh của làng S.O.S Đà Nẵng Vũ Như Tiến (1989), người có thành tích học tập xuất sắc đã được tổ chức S.O.S bảo trợ sang học ở trường ĐH Luther College (bang Iowa- Hoa Kỳ). Tiến là sinh viên duy nhất của làng S.O.S ở Việt Nam nhận được phần thưởng trên.
Vũ Như Tiến (đứng ngoài cùng bên trái) tại ĐH Luther College (ảnh do bà Amy Webber cung cấp).
Niềm tự hào của làng
Vũ Như Tiến cùng em gái, Vũ Thị Thương (sinh viên trường ĐH Sư phạm Đà Nẵng) là niềm tự hào của mẹ Bảy, cái tên thân thương mà những trẻ mồ côi lớn lên từ nhà 12B trong làng S.O.S Đà Nẵng gọi cô Nguyễn Thị Bảy.
Tiến và Thương mồ côi cả cha lẫn mẹ, lớn lên trong sự đùm bọc của một số người bà con. Nhưng rồi, ở những năm 90 của thế kỷ trước, trong cái đói của người dân Điện Nam – Điện Ngọc, huyện Điện Bàn, Quảng Nam, hai anh em đành phải xin vào làng S.O.S, chỉ với mong muốn được ăn và tiếp tục học.
Cô Nguyễn Thị Bảy nhớ lại: “Thật bất ngờ, mới vào làng được 5 ngày, Tiến đã bỏ trốn, trở về Điện Nam không lời giải thích. Chúng tôi phải vào tận quê, nỉ non vận động, thuyết phục mãi em mới chịu quay về”.
Mẹ Bảy phải thầm cảm ơn chính mình bởi sự nhiệt tình vào tận quê lôi Tiến ra học, bởi sau đó, Tiến dường như lột xác hoàn toàn, chăm chỉ và sáng dạ.
Vào làng lúc 6 tuổi, học ngay lớp 1 và tiến một lèo lên tận THPT. Năm 2008, xong chương trình THPT, với thành tích xuất sắc, Tiến được quỹ S.O.S chọn là sinh viên duy nhất của làng sang Mỹ du học tại trường Luther College.
Bà Webber xem lại bức ảnh của Tiến ngày vào làng. Ảnh: Nam Cường.
Ngày chúng tôi đến làng S.O.S cũng là dịp bà Amy Webber- cán bộ Ban quốc tế của ĐH Luther College từ Mỹ sang Việt Nam, với mục đích kiếm tìm những học sinh có thành tích học tập tốt của S.O.S Việt Nam.
Bà Webber kể, trong số 70 sinh viên quốc tế (có 14 sinh viên học bổng S.O.S) ở ĐH Luther College thì Tiến thuộc tốp những người xuất sắc nhất.
Giờ đây, cậu đã học xong chương trình đại học, được cấp bằng cử nhân CNTT ở Luther College, đang làm việc cho một ngân hàng ở Iowa và sắp tới, em sẽ tiếp tục ở lại Mỹ 2 năm để hoàn thành khóa học master (cao học) về Công nghệ sinh học.
Bà Webber cười vui: “Tiến kể với tôi nhiều chuyện, về vẻ đẹp Việt Nam, về tình yêu thương của thầy cô ở làng, nhưng có hai chuyện em giấu. Đó là chuyện em đã trốn khỏi làng S.O.S khi mới vào đây 5 ngày và ước mơ của em sau này. Em đang làm master, đang có công việc tốt ở một ngân hàng, nhưng tôi hiểu, trong suy nghĩ của Tiến, em chưa dừng lại ở đó”.
Lệch múi giờ giữa Mỹ với Việt Nam, nên chát với tôi vội vàng trên facebook, Tiến chỉ nói, rằng em chưa nghĩ đến một công việc ổn định thật sự ở Mỹ, dù mỗi giờ kiếm được 20 USD. Tiến nói em sẽ tiếp tục học xong master, nếu có điều kiện sẽ học lên nữa và sau đó trở về Việt Nam, trả nợ quê hương.
Không được xuất sắc sang Mỹ như anh trai, song em của Tiến, cô bé Vũ Thị Thương (1991) cũng là một trong 14 niềm tự hào trong lịch sử 20 năm của làng S.O.S Đà Nẵng. Sau 20 năm, với 343 lượt trẻ mồ côi được trung tâm nuôi dạy, chỉ có 14 em vào được đại học, mở cánh cửa tương lai bằng con đường học vấn.
Thương, đang học năm thứ 3 ĐH Sư phạm Đà Nẵng, kể: Em rất tự hào về anh trai mình, coi anh như tấm gương để phấn đấu. Thương nhớ lại, khi cả hai anh em mới sinh ra, ba bị bệnh qua đời, vài năm sau, cũng là một căn bệnh quái ác đã cướp đi vòng tay của mẹ. Hai anh em từ đó trở nên côi cút giữa đời.
Bà Amy Webber nhìn bức ảnh ngày mới vào làng của Vũ Như Tiến, rồi đem một bức ảnh mà, Tiến chụp chung với các bạn ở ĐH Luther College, nhận xét: “Trông tự tin hơn rất nhiều”.
Rồi bà chỉ vào người đứng trước Tiến, một cô gái Mỹ xinh đẹp: “Bạn gái của Tiến đấy”. Cô gái này cũng là một sinh viên xuất sắc của khoa CNTT, vì cảm mến nghị lực sống, tư duy sáng tạo và thái độ học tập, làm việc chăm chỉ của Tiến mà chuyển từ tình bạn sang tình yêu.
Theo bà Webber, dù Tiến đã hoàn thành xong khóa học 4 năm ở Luther College, nhưng bà vẫn quan tâm đặc biệt đến chàng sinh viên có đôi mắt sáng, tràn trề ý chí quyết tâm nên bà luôn theo dõi bước đi của cậu.
Thiên đường của trẻ mồ côi
Bước vào làng S.O.S Đà Nẵng, tôi như tách hẳn với phố xá đông đúc bên ngoài. 16 nhà trong làng, mỗi nhà là một lớp học, như những biệt thự trong các khu nghỉ mát hiện đại. Khung cảnh thanh bình và thơ mộng, khó mà nghĩ rằng, nơi đây dành cho những trẻ mồ côi cơ nhỡ.
Cô bé Trần Thị Lý (16 tuổi) ở huyện Đông Giang, Quảng Nam mồ côi cha, vào làng từ lúc 6 tuổi. Giờ chỉ còn bà mẹ già ở miệt rừng núi Quảng Nam, thỉnh thoảng Lý về thăm mẹ. Lớn tuổi nhất trong nhà 12B nên Lý kiêm luôn cả việc trợ giúp mẹ Bảy nấu cơm, dọn dẹp.
Buổi trưa, món chính là cá ngừ, canh chua, Lý làm thoăn thoắt. “Em đang học lớp 10, thầy cô nhận xét em học khá. Nếu không vào đây, có lẽ bây giờ em vẫn là cô bé suốt ngày lên rừng làm rẫy, lăn lộn với nắng mưa để nuôi mẹ. Từ khi bố mất, mẹ đau yếu thường xuyên, không làm được việc gì cả” – Lý ngùi ngùi.
Cô Lê Thị Thu Hà – Phó GĐ làng S.O.S Đà Nẵng cho hay, hầu hết các em vào đây khi còn rất nhỏ nên không nhớ gì về quê hương bản quán hay người thân. Làng có hồ sơ chặt chẽ, làm công việc kết nối để một ngày nào đó, khi các em lớn khôn có thể quay về tìm nguồn gốc của mình.
Cậu bé Hồ Văn Hùng (12 tuổi), đen nhẻm, đôi mắt sáng là người dân tộc Cor (Trà Bồng- Quảng Ngãi), kể: Từ ngày em mất cả cha lẫn mẹ, phải sống nhờ tình thương của bà con trong bản. 5 tuổi, may mắn được các cô chú đưa vào làng. Giờ đây, mẹ Bảy là người mẹ thứ hai của đời em.
Cô Lê Thị Thu Hà nói rằng, niềm vui lớn nhất của mình trong hơn 20 năm công tác tại làng là nhìn những phận đời mồ côi được làng S.O.S nuôi dạy trưởng thành. “Ngoài 14 em đậu đại học, 22 em đậu cao đẳng và 41 em học trung cấp, số còn lại được đào tạo nghề, có công việc làm, thu nhập ổn định. Các em ra đời đều được chúng tôi dõi theo bước chân. Tôi mừng vì phần lớn đều thành đạt, có em là kỹ sư, nhà báo, và rất hạnh phúc trong cuộc sống” – cô Hà nói.
Ngoài 135 trẻ mồ côi đang được nuôi dạy, làng S.O.S còn nuôi, đào tạo nghề cho 36 trẻ khó khăn ở nhà lưu xá thanh niên; nuôi 12 cháu ra trường bằng học phí cho trò nghèo; nuôi trẻ khó khăn ở cộng đồng là 355 cháu (300.000 đồng/cháu, vào đại học sẽ trợ cấp 900.000 đồng/cháu).
Chương trình này ra đời sau cơn bão Chan Chu (2006) cướp nhiều sinh mạng ngư dân Quảng Nam, Đà Nẵng...
Một thiếu niên đạp xích lô ở Việt Nam trở thành khoa học gia nguyên tử ở Mỹ
Tuần rồi, trên Tạp chí Thanh Niên, chúng ta có dịp làm quen với gương thành công đáng nể của một cậu bé bán vé số dạo ở Việt Nam trở thành một nhà khoa học tài danh ở Mỹ, Giáo sư-Tiến sĩ Trương Nguyện Thành. Trong buổi tái ngộ hôm nay, Trà Mi hân hạnh kể cho quý vị và các bạn nghe một cuộc lột xác đổi đời kỳ diệu khác, từ một thiếu niên đạp xích lô ở Việt Nam biến thành một khoa học gia nghiên cứu vật lý nguyên tử ở Mỹ, Tiến sĩ Võ Tá Đức.
Trà Mi-VOA
Washington DC
http://media.voanews.com/images/480*300/VoTaDuc+0+480.jpg
Tiến sĩ Võ Tá Đức lúc ở trại tị nạn Bataan (Philippines) trước khi sang Mỹ định cư
Tiến sĩ Đức hiện công tác tại Phòng thí nghiệm Quốc gia Los Alamos, một trong hai phòng thí nghiệm của Mỹ chuyên nghiên cứu chế tạo các loại võ khí nguyên tử và là một trong các viện nghiên cứu đa ngành lớn nhất thế giới. Cậu bé đạp xích lô ở Việt Nam ngày nào giờ đây đã góp công nghiên cứu sáng chế ra những máy móc, thiết bị dò tìm nguyên tử đang được ứng dụng để ngăn ngừa các hình thức vận chuyển nguyên tử bất hợp pháp vào biên giới Hoa Kỳ.
Là con trưởng trong gia đình 11 anh chị em, năm lên 14 tuổi, cậu bé Võ Tá Đức đã trở thành lao động chính trong nhà vì gia cảnh khó khăn. Ba cậu làm thợ nề, nhưng do bệnh tật nên bị mất sức lao động. Mẹ Đức tảo tần buôn bán lặt vặt chạy bữa qua ngày. Hằng ngày, sau giờ tan học, Đức ăn vội cơm trưa rồi cuốc chiếc xe xích lô rong ruổi khắp mọi góc phố ở Tuy Hòa để kiếm tiền phụ cha mẹ nuôi 14 miệng ăn trong gia đình.
Tiến sĩ Đức nhớ lại:
‘Sau biến cố năm 1975, lúc đó tôi còn rất nhỏ đang học trung học, nhưng vì nhà nghèo quá, nên cũng phải phụ giúp gia đình. Sáng đi học, trưa về ăn cơm xong liền xách xích lô chạy. Đạp xích lô tới chiều tối. Ăn cơm tối xong lại lên xe đi tiếp. Tôi chỉ học buổi sáng, đạp xích lô từ trưa tới sáng hôm sau luôn. Tối đến tôi đậu xích lô ở bến xe ngủ. Hễ nghe tiếng xe đò tới thì tôi tỉnh dậy, chạy về nhà tắm rửa, thay quần áo đi học. Lúc đó tôi đâu có thời giờ học đâu, thỉnh thoảng khi rãnh, tôi ngồi trên xe xích lô lấy bài vở ra làm chút chút vậy thôi. Thời đó, tôi học rất dở vì không có giờ học.’
5 năm trời dầm mưa dãi nắng còng lưng trên chiếc xích lô đạp, việc học hành của Đức hoàn toàn sa sút, nên cậu đã không thi đại học. Tới năm 1981, ba Đức cố xoay sở tìm cách cho cậu theo một người bà con trong Nam đi vượt biên, và cũng từ đó, cuộc đời cậu bé đạp xích lô bước sang một ngã rẽ mới. Thời gian trong trại tị nạn chờ được một nước thứ ba cho đi định cư chính là giai đoạn bước ngoặt đối với Đức, khi chàng thanh niên lam lũ, cơ hàn quyết chí phải đổi đời, phải phấn đấu tiến thân bằng con đường học vấn.
Tiến sĩ Đức cho biết:
“Vượt biên qua tới trại tị nạn, tôi cảm thấy như vậy là từ đây mình có cơ hội đi học, phát triển. Ngay từ lúc đó, tôi đã quyết định phải cố gắng học hành cho thành tài. Còn hồi trước ở Việt Nam, tôi không dám có ước mơ đó vì đi đạp xích lô cả ngày, học hành sao được mà có ước mơ học cho thành công?”
Sau thời gian ở trại tị nạn, anh tới Mỹ và được một gia đình ở bang Iowa nhận làm con nuôi. Thành tích học tập của chàng trai nghèo từ Việt Nam bắt đầu tỏa sáng sau 1 năm rưỡi ở trường trung học Mỹ.
Thông thường sinh viên ở Mỹ khi vào đại học phải trả học phí. Ngoài một số ít sinh viên xuất sắc nhận được học bổng, đa số phải vay từ các nguồn quỹ hỗ trợ của chính phủ dành cho sinh viên. Thế nhưng, cậu bé đạp xích lô ở Tuy Hòa suốt thời gian đại học và cao học ở Mỹ không phải trả bất kỳ khoản tiền học phí nào, nhờ vào thành tích lao động trí óc cần cù. Năm học lớp 12, Đức đoạt giải nhất một kỳ thi khoa học cấp tiểu bang, mang lại cho cậu học trò nghèo học bổng toàn phần cho suốt 4 năm học ở khoa vật lý trường đại học Bắc Iowa. Tốt nghiệp đại học, anh đi thẳng vào chương trình tiến sĩ chuyên ngành vật lý nguyên tử, và trong suốt thời gian cao học, anh liên tục nhận được các nguồn học bổng dành cho nghiên cứu sinh. Còn các khoản sinh hoạt phí khác anh trang trải từ thu nhập làm trợ giảng cho các vị giáo sư.
Tiến sĩ Đức cho biết những điều kiện học tập có được ở Mỹ đã khuyến khích ông thêm say mê học tập, nên ông đã không dừng lại ở tấm bằng đại học như dự định ban đầu:
‘Mình đi học ráng học cho lẹ, lấy thiệt nhiều lớp để mau ra trường lấy bằng đi làm kiếm tiền gửi về Việt Nam phụ gia đình. Nhưng tới lúc học gần xong đại học, tôi lại thấy sức mình vẫn còn đi học tiếp được. Cho nên năm cuối đại học, tôi lại nộp đơn xin vào cao học. Tôi thấy vấn đề học hành không khó lắm. Nếu mình chịu khó thì chuyện gì cũng vượt qua được hết. Mỹ là một nước tự do và có cơ hội để mọi người, ai có chí, thì có thể làm nên. Tôi nghĩ nếu không qua Mỹ mà còn ở Việt Nam thì giờ này chắc tôi cũng còn đạp xích lô, không có cơ hội để phát triển thành tài. Nghĩa là phải có cơ hội nào đó đưa đến cho người ta có dịp để phát triển tài năng. Đối với tôi, cơ hội đưa đến là được qua Mỹ để rồi được phát triển đầu óc. Ở Mỹ này tôi thấy nếu mình chịu khó học sẽ có cơ hội đưa cuộc sống mình đi lên. Còn ở Việt Nam, dù cũng có, nhưng cơ hội không đồng đều.’
Ai có ngờ một nhà khoa học đang làm việc cho một phòng thí nghiệm nguyên tử nổi tiếng ở Mỹ xuất thân là một người đạp xích lô ở bến xe Tuy Hòa. Điều kỳ diệu ấy đã xảy ra đối với Tiến sĩ Võ Tá Đức thì cũng có thể xảy ra với các bạn, nhất là các bạn trẻ nghèo khó tại Việt Nam, nếu các bạn quyết tâm phấn đấu, cần cù chịu khó học tập để thay đổi số phận của mình.
Tiến sĩ Đức:‘Một thông điệp tôi muốn nói với các bạn trẻ ở Việt Nam, nhất là các bạn nghèo, rằng nếu có ý chí sẽ vượt qua được những khó khăn. Nếu các bạn chịu khó đặt một mục đích nào đó cho tương lai, cho cuộc sống của mình và ráng sống theo mục đích đó, thì sẽ thành công.’
Một nhà khoa học thành danh ở Mỹ với nhiều công trình nghiên cứu và hằng trăm bài viết được đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế xuất thân từ một cậu bé bán thuốc lá dạo ở chợ Gò Vấp, Sài Gòn. Câu chuyện của Giáo sư-Tiến sĩ Hóa học Trương Nguyện Thành hiện đang giảng dạy tại trường đại học Utah, Hoa Kỳ, là niềm hãnh diện của người Việt trên trường quốc tế và là tấm gương đáng khâm phục để giới trẻ Việt Nam noi theo.
Trà Mi-VOA
Washington DC
http://media.voanews.com/images/480*...+o+VKHCNTT.JPG
Giáo sư Trương Nguyện Thành chụp tại Viện Khoa Học-Công Nghệ-Thông Tin ở Sài Gòn
Năm 11 tuổi, cậu bé Thành đã bắt đầu bươn chải, dãi dầu mưa nắng để kiếm tiền phụ mẹ nuôi 9 anh chị em sau khi cha mình bị liệt bán thân. Ngày ngày, sau giờ tan trường từ giữa trưa đến tận 9, 10 giờ đêm, cậu bé rong ruổi với thùng thuốc lá trên vai đi bán dạo quanh bến xe lam chợ Gò Vấp. Năm 1976, khi Việt Nam mở chiến dịch đưa cư dân ra các vùng kinh tế mới xa xôi, hẻo lánh, gia đình Thành chuyển xuống Lái Thiêu xoay sở tậu được một miếng ruộng nhỏ và một cặp trâu. Ở tuổi 15, Thành bỏ nghề bán thuốc lá dạo để chuyển sang đi cày thuê cuốc mướn. Việc học của cậu bé bị cản trở và chi phối rất nhiều bởi công cuộc mưu sinh vất vả hằng ngày, nhưng ý chí quyết tâm theo đuổi con đường học vấn để đổi đời đã vun đúc trong lòng cậu bé từ rất sớm.
Tiến sĩ Thành chia sẻ:
“Tôi có tư duy thích học, những lúc rảnh rỗi, tôi thường lấy sách đọc. Chỉ có môn toán là tôi học được vì không đòi hỏi tập trung nhiều. Cứ rảnh là tôi ngó qua một cái rồi để cái đầu tôi làm việc. Tôi được sự dạy dỗ của ông nội và ba tôi. Họ thường khuyên rằng học vấn là con đường ngắn nhất để đưa một người không có gì tới thành công.”
Tới năm học lớp 12, con đường học vấn của cậu bé nghèo, lam lũ bắt đầu rẽ bước ngoặt, xuất phát từ một đáp án dí dỏm của Thành trước câu hỏi của thầy đố các học sinh giỏi. Ấn tượng trước sự thông minh của Thành, người thầy đã soạn đưa cho cậu bé một số sách để tham khảo.
Giáo sư Trương Nguyện Thành kể lại:
“Năm 1979, Việt Nam lần đầu tiên tổ chức kỳ thi toán toàn quốc. Thầy tôi có đem mười mấy cuốn sách cho tôi mượn, bảo tôi đọc cho biết rồi tới dự lớp thầy dạy cho các học sinh giỏi dự thi toán. Tôi rất cảm động trước nghĩa cử này. Mỗi tối sau giờ làm ruộng, tôi đốt đèn dầu đọc sách từ 9 giờ tới 12 giờ đêm. Thời điểm đó, ở Việt Nam, hạnh kiểm là vấn đề khá quan trọng. Hạnh kiểm tôi tương đối xấu nên cô hiệu trưởng không cho tôi đi thi học sinh giỏi toán. Ông thầy lén đưa tôi đi theo đội tuyển, may quá tôi thi đậu. Tỉnh Bình Dương lúc đó chọn khoảng 30-40 em học sinh giỏi toán lên trên tỉnh học chuyên toán trong 3 tháng. Sau 3 tháng, họ tuyển lại lấy 5 em. Tôi cũng may mắn lọt vào trong 5 em đó. Cũng vì thế, ba tôi nhận ra rằng tôi có tiềm năng. Từ lúc đó, ông khuyên tôi nên nghỉ đừng đi cày thêm mà tập trung học. Và từ đó, ông tìm cách cho tôi ra nước ngoài.”
19 tuổi, sau khi thi đậu vào đại học Bách Khoa, chàng thanh niên Trương Nguyện Thành vượt biên sang Mỹ. Sau 1 năm ở trung học với những khó khăn bước đầu về ngôn ngữ, anh từ giã gia đình bảo trợ người Mỹ để bắt đầu cuộc sống tự lập ngay từ năm thứ nhất đại học. Để trang trải sinh hoạt phí trong thời đèn sách, phần đông các bạn trẻ ở đây thường phụ việc ở nhà hàng, tiệm giặt ủi, hay đi giao báo. Riêng trường hợp của Thành, anh tìm đến một người thầy và xin được theo chân làm việc trong phòng thí nghiệm để bắt đầu công việc nghiên cứu ngay từ năm đầu đại học, một công việc thường bắt đầu ở bậc cao học. Số tiền kiếm được đủ trang trải các khoản chi phí hết sức tiết kiệm hằng ngày. Còn học phí của anh chủ yếu nhờ các khoản vay từ nguồn quỹ dành cho sinh viên và các phần học bổng của chính phủ. Sau 4 năm đại học, anh ra trường với bằng cử nhân hóa học cùng với 4 văn bằng phụ về lý, toán, công nghệ thông tin, và thống kê.
Tốt nghiệp đại học, anh đi thẳng vào chương trình tiến sĩ. Trong thời gian nghiên cứu hậu tiến sĩ, anh dành được học bổng của Qũy Khoa học Quốc gia dành cho các tiến sĩ trẻ có tiềm năng vì lúc tốt nghiệp tiến sĩ, anh đã có 16 bài nghiên cứu trong khi trung bình một tiến sĩ khi ra trường xuất bản chừng 4-5 bài nghiên cứu. Năm 1992, anh về làm Giáo sư hóa cho trường đại học Utah. Một năm sau, anh được chọn là 1 trong những nhà khoa học trẻ nhiều triển vọng của Hoa Kỳ, với giải thưởng 500 ngàn đô la cho công tác nghiên cứu. Năm 2002, anh được cấp bằng Giáo sư Cao cấp, tức bậc cao nhất trong 3 cấp Giáo sư của Mỹ.
Những yếu tố nào giúp một cậu bé lam lũ, nghèo khó từng bán thuốc lá dạo, cày thuê cuốc mướn ở đáy xã hội Việt Nam lột xác, đổi đời thành một nhà khoa học danh tiếng tại Mỹ?
Giáo sư-Tiến sĩ Trương Nguyện Thành cho biết:
“Người đó có tiềm năng trời phú. Thứ hai, có môi trường giúp họ phát triển. Thứ ba, người đó có nhận thức được rằng mình có cơ hội đó hay không.
Tiềm năng chỉ là khả năng, muốn đạt được thành công đòi hỏi phải có môi trường để phát triển. Môi trường không cho phép người đó phát triển, thì cũng không làm được. Điển hình là người Việt ở Mỹ hay ở nước ngoài thành công rất cao, thế nhưng tại sao ngay tại Việt Nam không có những ngôi sao như vậy?
Khi tôi bước chân vào trung học ở Mỹ, có một cậu vượt biên cũng giống trường hợp như tôi, đi một mình, được một gia đình Mỹ bảo lãnh. Cậu ta cũng ở gần nhà tôi. Khi tới Mỹ, tôi và cậu ấy có cùng một cơ hội như nhau. Tôi cố gắng hơn, tôi vào đại học. Còn cậu ta làm việc cho một hãng gà Tây, kiếm tiền liền. Một năm sau, tôi về lại làng thăm ba mẹ nuôi và ghé thăm thằng bạn. Công việc nó làm chỉ đứng móc ruột gà Tây thôi, chờ con gà chạy qua, đưa tay vào móc ruột gà ra. Nó khoe với tôi nó có được chiếc xe hơi. Còn tôi lúc đó vẫn chưa có gì. Sau 4 năm đại học, tôi trở về, anh bạn vẫn còn móc ruột gà Tây. Anh đã có được một căn hộ, có TV lớn, dàn máy xịn, xe hơi sports. Còn tôi vẫn chỉ một thùng sách quèn. Sau 5, 6 năm sau, tôi trở về, cậu bạn vẫn còn làm chỗ cũ nhưng cho biết phải đổi nghề vì đau nhức xương khớp tay do làm việc ở phòng lạnh. Lúc đó, tôi sắp ra tiến sĩ. Đó là cái điều kiện thứ 3 mà tôi muốn nói: người có tiềm năng, có môi trường, mà không nhận thức được cơ hội của mình và quyết tâm đạt được cơ hội đó. Thật sự, tôi không có xe hơi, không có bạn gái, không có tình phí, ở nội trú, ăn mì gói. Cho nên, chi phí tôi rất ít. Tôi làm việc trong phòng nghiên cứu chỉ đủ sống. Tôi ra đại học trong túi chỉ có 200 đô la, nợ nhà nước khoảng 15 ngàn đô la (mỗi năm khoảng 3-4 ngàn tiền học phí cộng với tiền phụ thêm để sống), cùng một thùng sách và một giỏ quần áo cũ.”
Thành công ở xứ người, Giáo sư Thành trở lại Việt Nam, giúp thành lập Viện Khoa học Công nghệ Tính toán TP.HCM bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2009. Vừa tiếp tục giảng dạy tại trường đại học Utah ở Mỹ, vừa giúp điều hành Viện nghiên cứu tại Việt Nam, Viện trưởng Trương Nguyện Thành nói về công việc của mình:
“Điều khiển một viện nghiên cứu từ xa rất khó. Cho nên, có một viện trưởng tại Việt Nam chuyên lo các vấn đề hằng ngày như làm việc với chính phủ, hợp đồng, hay mướn người. Còn tôi phụ trách chiến lược phát triển về khoa học, kêu gọi những người khác về giúp phát triển.”
Ngoài ra, cá nhân ông còn nhận bảo trợ cho các sinh viên giỏi từ Việt Nam sang Mỹ du học bằng chính nguồn quỹ nghiên cứu của ông. Đích thân Giáo sư Thành đứng ra phỏng vấn tuyển chọn người tài, và từ năm 2001 tới nay, ông đã tài trợ cho trên dưới 20 sinh viên Việt Nam sang Mỹ học tập, nghiên cứu. Trong số này có nhiều người đã trở về giúp ông phát triển Viện nghiên cứu tại Việt Nam.
Tiến sĩ Trương Nguyện Thành tâm sự:
“Thời còn đi cày mướn, lời nguyền của tôi là nếu tôi thành công, tôi sẽ đem cơ hội đó cho lại những người khác. Đó là tâm nguyện của tôi lúc còn ở đáy xã hội Việt Nam. Tôi thường nói chuyện với học trò của tôi khi họ tới cảm ơn tôi đã cho họ cơ hội. Tôi bảo họ không cần cảm ơn tôi. Điều họ có thể trả ơn tôi là đem cơ hội đó cho một vài người khác. Chính vì vậy, một số đệ tử của tôi về lại Việt Nam, giúp tôi lập Viện. Tôi gieo những hạt giống và từ đó sẽ nhân thành những hạt giống khác. Một con én không làm nên nổi mùa xuân. Tôi chỉ là người mở đường. Những người khác bước chân theo, làm cho con đường rộng ra, nhẵn thêm, dễ đi hơn.”
Giáo sư Thành nói ai cũng mơ ước thành công, nhưng chỉ có những người chịu khó nỗ lực mới tới được đích đến:
“Tôi chỉ có một lời nhắn nhủ với các sinh viên ở Việt Nam rằng trên đời cái gì cũng có giá phải trả. Nếu muốn thành công, phải chấp nhận trả cái giá đó. Thành công là một con đường đi chứ không phải là một điểm đích. Tôi không nói tôi đã thành đạt điều gì, chỉ là một con đường mà khi quay lại tôi thấy tôi đã đi được rất xa rồi.”
Con đường thành công của Giáo sư -Tiến sĩ Trương Nguyện Thành trải qua bao nhiêu năm gian nan, thử thách. Cậu bé bần cùng, lam lũ ở Việt Nam qua đến Mỹ cũng đã nếm trải bao nhiêu những thiếu thốn, khó nhọc để có được vị trí đáng nể như ngày hôm nay. Đó là nhờ sự quyết tâm vượt khó vươn lên, sẵn sàng trả giá cho con đường đã chọn.
TP - Cậu học sinh của làng S.O.S Đà Nẵng Vũ Như Tiến (1989), người có thành tích học tập xuất sắc đã được tổ chức S.O.S bảo trợ sang học ở trường ĐH Luther College (bang Iowa- Hoa Kỳ). Tiến là sinh viên duy nhất của làng S.O.S ở Việt Nam nhận được phần thưởng trên.
Vũ Như Tiến (đứng ngoài cùng bên trái) tại ĐH Luther College (ảnh do bà Amy Webber cung cấp).
Niềm tự hào của làng
Vũ Như Tiến cùng em gái, Vũ Thị Thương (sinh viên trường ĐH Sư phạm Đà Nẵng) là niềm tự hào của mẹ Bảy, cái tên thân thương mà những trẻ mồ côi lớn lên từ nhà 12B trong làng S.O.S Đà Nẵng gọi cô Nguyễn Thị Bảy.
Tiến và Thương mồ côi cả cha lẫn mẹ, lớn lên trong sự đùm bọc của một số người bà con. Nhưng rồi, ở những năm 90 của thế kỷ trước, trong cái đói của người dân Điện Nam – Điện Ngọc, huyện Điện Bàn, Quảng Nam, hai anh em đành phải xin vào làng S.O.S, chỉ với mong muốn được ăn và tiếp tục học.
Cô Nguyễn Thị Bảy nhớ lại: “Thật bất ngờ, mới vào làng được 5 ngày, Tiến đã bỏ trốn, trở về Điện Nam không lời giải thích. Chúng tôi phải vào tận quê, nỉ non vận động, thuyết phục mãi em mới chịu quay về”.
Mẹ Bảy phải thầm cảm ơn chính mình bởi sự nhiệt tình vào tận quê lôi Tiến ra học, bởi sau đó, Tiến dường như lột xác hoàn toàn, chăm chỉ và sáng dạ.
Vào làng lúc 6 tuổi, học ngay lớp 1 và tiến một lèo lên tận THPT. Năm 2008, xong chương trình THPT, với thành tích xuất sắc, Tiến được quỹ S.O.S chọn là sinh viên duy nhất của làng sang Mỹ du học tại trường Luther College.
Bà Webber xem lại bức ảnh của Tiến ngày vào làng. Ảnh: Nam Cường.
Ngày chúng tôi đến làng S.O.S cũng là dịp bà Amy Webber- cán bộ Ban quốc tế của ĐH Luther College từ Mỹ sang Việt Nam, với mục đích kiếm tìm những học sinh có thành tích học tập tốt của S.O.S Việt Nam.
“Khi về đây tôi biết vì sao Tiến lại có một nghị lực phi thường như vậy” - Bà Amy Webber
Bà Amy Webber nói: “Tôi rất tò mò nên phải về tận làng S.O.S, đến tận quê Điện Nam của cậu Vũ Như Tiến cũng như gặp cho bằng được cô Nguyễn Thị Bảy, người mà Tiến hay kể khi ở Mỹ. Khi về đây, tôi nhận thấy những lời của Tiến quả không sai và tôi biết vì sao em lại có một nghị lực phi thường như vậy”. Bà Webber kể, trong số 70 sinh viên quốc tế (có 14 sinh viên học bổng S.O.S) ở ĐH Luther College thì Tiến thuộc tốp những người xuất sắc nhất.
Giờ đây, cậu đã học xong chương trình đại học, được cấp bằng cử nhân CNTT ở Luther College, đang làm việc cho một ngân hàng ở Iowa và sắp tới, em sẽ tiếp tục ở lại Mỹ 2 năm để hoàn thành khóa học master (cao học) về Công nghệ sinh học.
Bà Webber cười vui: “Tiến kể với tôi nhiều chuyện, về vẻ đẹp Việt Nam, về tình yêu thương của thầy cô ở làng, nhưng có hai chuyện em giấu. Đó là chuyện em đã trốn khỏi làng S.O.S khi mới vào đây 5 ngày và ước mơ của em sau này. Em đang làm master, đang có công việc tốt ở một ngân hàng, nhưng tôi hiểu, trong suy nghĩ của Tiến, em chưa dừng lại ở đó”.
Lệch múi giờ giữa Mỹ với Việt Nam, nên chát với tôi vội vàng trên facebook, Tiến chỉ nói, rằng em chưa nghĩ đến một công việc ổn định thật sự ở Mỹ, dù mỗi giờ kiếm được 20 USD. Tiến nói em sẽ tiếp tục học xong master, nếu có điều kiện sẽ học lên nữa và sau đó trở về Việt Nam, trả nợ quê hương.
Không được xuất sắc sang Mỹ như anh trai, song em của Tiến, cô bé Vũ Thị Thương (1991) cũng là một trong 14 niềm tự hào trong lịch sử 20 năm của làng S.O.S Đà Nẵng. Sau 20 năm, với 343 lượt trẻ mồ côi được trung tâm nuôi dạy, chỉ có 14 em vào được đại học, mở cánh cửa tương lai bằng con đường học vấn.
Thương, đang học năm thứ 3 ĐH Sư phạm Đà Nẵng, kể: Em rất tự hào về anh trai mình, coi anh như tấm gương để phấn đấu. Thương nhớ lại, khi cả hai anh em mới sinh ra, ba bị bệnh qua đời, vài năm sau, cũng là một căn bệnh quái ác đã cướp đi vòng tay của mẹ. Hai anh em từ đó trở nên côi cút giữa đời.
Bà Amy Webber nhìn bức ảnh ngày mới vào làng của Vũ Như Tiến, rồi đem một bức ảnh mà, Tiến chụp chung với các bạn ở ĐH Luther College, nhận xét: “Trông tự tin hơn rất nhiều”.
Rồi bà chỉ vào người đứng trước Tiến, một cô gái Mỹ xinh đẹp: “Bạn gái của Tiến đấy”. Cô gái này cũng là một sinh viên xuất sắc của khoa CNTT, vì cảm mến nghị lực sống, tư duy sáng tạo và thái độ học tập, làm việc chăm chỉ của Tiến mà chuyển từ tình bạn sang tình yêu.
Theo bà Webber, dù Tiến đã hoàn thành xong khóa học 4 năm ở Luther College, nhưng bà vẫn quan tâm đặc biệt đến chàng sinh viên có đôi mắt sáng, tràn trề ý chí quyết tâm nên bà luôn theo dõi bước đi của cậu.
Làng S.O.S với những ngôi nhà như resort. Ảnh: Nam Cường.
Thiên đường của trẻ mồ côi
Bước vào làng S.O.S Đà Nẵng, tôi như tách hẳn với phố xá đông đúc bên ngoài. 16 nhà trong làng, mỗi nhà là một lớp học, như những biệt thự trong các khu nghỉ mát hiện đại. Khung cảnh thanh bình và thơ mộng, khó mà nghĩ rằng, nơi đây dành cho những trẻ mồ côi cơ nhỡ.
Cô bé Trần Thị Lý (16 tuổi) ở huyện Đông Giang, Quảng Nam mồ côi cha, vào làng từ lúc 6 tuổi. Giờ chỉ còn bà mẹ già ở miệt rừng núi Quảng Nam, thỉnh thoảng Lý về thăm mẹ. Lớn tuổi nhất trong nhà 12B nên Lý kiêm luôn cả việc trợ giúp mẹ Bảy nấu cơm, dọn dẹp.
Buổi trưa, món chính là cá ngừ, canh chua, Lý làm thoăn thoắt. “Em đang học lớp 10, thầy cô nhận xét em học khá. Nếu không vào đây, có lẽ bây giờ em vẫn là cô bé suốt ngày lên rừng làm rẫy, lăn lộn với nắng mưa để nuôi mẹ. Từ khi bố mất, mẹ đau yếu thường xuyên, không làm được việc gì cả” – Lý ngùi ngùi.
Cô Lê Thị Thu Hà – Phó GĐ làng S.O.S Đà Nẵng cho hay, hầu hết các em vào đây khi còn rất nhỏ nên không nhớ gì về quê hương bản quán hay người thân. Làng có hồ sơ chặt chẽ, làm công việc kết nối để một ngày nào đó, khi các em lớn khôn có thể quay về tìm nguồn gốc của mình.
Cậu bé Hồ Văn Hùng (12 tuổi), đen nhẻm, đôi mắt sáng là người dân tộc Cor (Trà Bồng- Quảng Ngãi), kể: Từ ngày em mất cả cha lẫn mẹ, phải sống nhờ tình thương của bà con trong bản. 5 tuổi, may mắn được các cô chú đưa vào làng. Giờ đây, mẹ Bảy là người mẹ thứ hai của đời em.
Cô Lê Thị Thu Hà nói rằng, niềm vui lớn nhất của mình trong hơn 20 năm công tác tại làng là nhìn những phận đời mồ côi được làng S.O.S nuôi dạy trưởng thành. “Ngoài 14 em đậu đại học, 22 em đậu cao đẳng và 41 em học trung cấp, số còn lại được đào tạo nghề, có công việc làm, thu nhập ổn định. Các em ra đời đều được chúng tôi dõi theo bước chân. Tôi mừng vì phần lớn đều thành đạt, có em là kỹ sư, nhà báo, và rất hạnh phúc trong cuộc sống” – cô Hà nói.
Ngoài 135 trẻ mồ côi đang được nuôi dạy, làng S.O.S còn nuôi, đào tạo nghề cho 36 trẻ khó khăn ở nhà lưu xá thanh niên; nuôi 12 cháu ra trường bằng học phí cho trò nghèo; nuôi trẻ khó khăn ở cộng đồng là 355 cháu (300.000 đồng/cháu, vào đại học sẽ trợ cấp 900.000 đồng/cháu).
Chương trình này ra đời sau cơn bão Chan Chu (2006) cướp nhiều sinh mạng ngư dân Quảng Nam, Đà Nẵng...
Một thiếu niên đạp xích lô ở Việt Nam trở thành khoa học gia nguyên tử ở Mỹ
Tuần rồi, trên Tạp chí Thanh Niên, chúng ta có dịp làm quen với gương thành công đáng nể của một cậu bé bán vé số dạo ở Việt Nam trở thành một nhà khoa học tài danh ở Mỹ, Giáo sư-Tiến sĩ Trương Nguyện Thành. Trong buổi tái ngộ hôm nay, Trà Mi hân hạnh kể cho quý vị và các bạn nghe một cuộc lột xác đổi đời kỳ diệu khác, từ một thiếu niên đạp xích lô ở Việt Nam biến thành một khoa học gia nghiên cứu vật lý nguyên tử ở Mỹ, Tiến sĩ Võ Tá Đức.
Trà Mi-VOA
Washington DC
http://media.voanews.com/images/480*300/VoTaDuc+0+480.jpg
Tiến sĩ Võ Tá Đức lúc ở trại tị nạn Bataan (Philippines) trước khi sang Mỹ định cư
Tiến sĩ Đức hiện công tác tại Phòng thí nghiệm Quốc gia Los Alamos, một trong hai phòng thí nghiệm của Mỹ chuyên nghiên cứu chế tạo các loại võ khí nguyên tử và là một trong các viện nghiên cứu đa ngành lớn nhất thế giới. Cậu bé đạp xích lô ở Việt Nam ngày nào giờ đây đã góp công nghiên cứu sáng chế ra những máy móc, thiết bị dò tìm nguyên tử đang được ứng dụng để ngăn ngừa các hình thức vận chuyển nguyên tử bất hợp pháp vào biên giới Hoa Kỳ.
Là con trưởng trong gia đình 11 anh chị em, năm lên 14 tuổi, cậu bé Võ Tá Đức đã trở thành lao động chính trong nhà vì gia cảnh khó khăn. Ba cậu làm thợ nề, nhưng do bệnh tật nên bị mất sức lao động. Mẹ Đức tảo tần buôn bán lặt vặt chạy bữa qua ngày. Hằng ngày, sau giờ tan học, Đức ăn vội cơm trưa rồi cuốc chiếc xe xích lô rong ruổi khắp mọi góc phố ở Tuy Hòa để kiếm tiền phụ cha mẹ nuôi 14 miệng ăn trong gia đình.
Tiến sĩ Đức nhớ lại:
‘Sau biến cố năm 1975, lúc đó tôi còn rất nhỏ đang học trung học, nhưng vì nhà nghèo quá, nên cũng phải phụ giúp gia đình. Sáng đi học, trưa về ăn cơm xong liền xách xích lô chạy. Đạp xích lô tới chiều tối. Ăn cơm tối xong lại lên xe đi tiếp. Tôi chỉ học buổi sáng, đạp xích lô từ trưa tới sáng hôm sau luôn. Tối đến tôi đậu xích lô ở bến xe ngủ. Hễ nghe tiếng xe đò tới thì tôi tỉnh dậy, chạy về nhà tắm rửa, thay quần áo đi học. Lúc đó tôi đâu có thời giờ học đâu, thỉnh thoảng khi rãnh, tôi ngồi trên xe xích lô lấy bài vở ra làm chút chút vậy thôi. Thời đó, tôi học rất dở vì không có giờ học.’
5 năm trời dầm mưa dãi nắng còng lưng trên chiếc xích lô đạp, việc học hành của Đức hoàn toàn sa sút, nên cậu đã không thi đại học. Tới năm 1981, ba Đức cố xoay sở tìm cách cho cậu theo một người bà con trong Nam đi vượt biên, và cũng từ đó, cuộc đời cậu bé đạp xích lô bước sang một ngã rẽ mới. Thời gian trong trại tị nạn chờ được một nước thứ ba cho đi định cư chính là giai đoạn bước ngoặt đối với Đức, khi chàng thanh niên lam lũ, cơ hàn quyết chí phải đổi đời, phải phấn đấu tiến thân bằng con đường học vấn.
Tiến sĩ Đức cho biết:
“Vượt biên qua tới trại tị nạn, tôi cảm thấy như vậy là từ đây mình có cơ hội đi học, phát triển. Ngay từ lúc đó, tôi đã quyết định phải cố gắng học hành cho thành tài. Còn hồi trước ở Việt Nam, tôi không dám có ước mơ đó vì đi đạp xích lô cả ngày, học hành sao được mà có ước mơ học cho thành công?”
Sau thời gian ở trại tị nạn, anh tới Mỹ và được một gia đình ở bang Iowa nhận làm con nuôi. Thành tích học tập của chàng trai nghèo từ Việt Nam bắt đầu tỏa sáng sau 1 năm rưỡi ở trường trung học Mỹ.
Thông thường sinh viên ở Mỹ khi vào đại học phải trả học phí. Ngoài một số ít sinh viên xuất sắc nhận được học bổng, đa số phải vay từ các nguồn quỹ hỗ trợ của chính phủ dành cho sinh viên. Thế nhưng, cậu bé đạp xích lô ở Tuy Hòa suốt thời gian đại học và cao học ở Mỹ không phải trả bất kỳ khoản tiền học phí nào, nhờ vào thành tích lao động trí óc cần cù. Năm học lớp 12, Đức đoạt giải nhất một kỳ thi khoa học cấp tiểu bang, mang lại cho cậu học trò nghèo học bổng toàn phần cho suốt 4 năm học ở khoa vật lý trường đại học Bắc Iowa. Tốt nghiệp đại học, anh đi thẳng vào chương trình tiến sĩ chuyên ngành vật lý nguyên tử, và trong suốt thời gian cao học, anh liên tục nhận được các nguồn học bổng dành cho nghiên cứu sinh. Còn các khoản sinh hoạt phí khác anh trang trải từ thu nhập làm trợ giảng cho các vị giáo sư.
Tiến sĩ Đức cho biết những điều kiện học tập có được ở Mỹ đã khuyến khích ông thêm say mê học tập, nên ông đã không dừng lại ở tấm bằng đại học như dự định ban đầu:
‘Mình đi học ráng học cho lẹ, lấy thiệt nhiều lớp để mau ra trường lấy bằng đi làm kiếm tiền gửi về Việt Nam phụ gia đình. Nhưng tới lúc học gần xong đại học, tôi lại thấy sức mình vẫn còn đi học tiếp được. Cho nên năm cuối đại học, tôi lại nộp đơn xin vào cao học. Tôi thấy vấn đề học hành không khó lắm. Nếu mình chịu khó thì chuyện gì cũng vượt qua được hết. Mỹ là một nước tự do và có cơ hội để mọi người, ai có chí, thì có thể làm nên. Tôi nghĩ nếu không qua Mỹ mà còn ở Việt Nam thì giờ này chắc tôi cũng còn đạp xích lô, không có cơ hội để phát triển thành tài. Nghĩa là phải có cơ hội nào đó đưa đến cho người ta có dịp để phát triển tài năng. Đối với tôi, cơ hội đưa đến là được qua Mỹ để rồi được phát triển đầu óc. Ở Mỹ này tôi thấy nếu mình chịu khó học sẽ có cơ hội đưa cuộc sống mình đi lên. Còn ở Việt Nam, dù cũng có, nhưng cơ hội không đồng đều.’
Ai có ngờ một nhà khoa học đang làm việc cho một phòng thí nghiệm nguyên tử nổi tiếng ở Mỹ xuất thân là một người đạp xích lô ở bến xe Tuy Hòa. Điều kỳ diệu ấy đã xảy ra đối với Tiến sĩ Võ Tá Đức thì cũng có thể xảy ra với các bạn, nhất là các bạn trẻ nghèo khó tại Việt Nam, nếu các bạn quyết tâm phấn đấu, cần cù chịu khó học tập để thay đổi số phận của mình.
Tiến sĩ Đức:‘Một thông điệp tôi muốn nói với các bạn trẻ ở Việt Nam, nhất là các bạn nghèo, rằng nếu có ý chí sẽ vượt qua được những khó khăn. Nếu các bạn chịu khó đặt một mục đích nào đó cho tương lai, cho cuộc sống của mình và ráng sống theo mục đích đó, thì sẽ thành công.’
Cậu bé bán thuốc lá dạo ở VN
trở thành nhà khoa học tài giỏi ở Mỹ
Một nhà khoa học thành danh ở Mỹ với nhiều công trình nghiên cứu và hằng trăm bài viết được đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế xuất thân từ một cậu bé bán thuốc lá dạo ở chợ Gò Vấp, Sài Gòn. Câu chuyện của Giáo sư-Tiến sĩ Hóa học Trương Nguyện Thành hiện đang giảng dạy tại trường đại học Utah, Hoa Kỳ, là niềm hãnh diện của người Việt trên trường quốc tế và là tấm gương đáng khâm phục để giới trẻ Việt Nam noi theo.
Trà Mi-VOA
Washington DC
http://media.voanews.com/images/480*...+o+VKHCNTT.JPG
Giáo sư Trương Nguyện Thành chụp tại Viện Khoa Học-Công Nghệ-Thông Tin ở Sài Gòn
Năm 11 tuổi, cậu bé Thành đã bắt đầu bươn chải, dãi dầu mưa nắng để kiếm tiền phụ mẹ nuôi 9 anh chị em sau khi cha mình bị liệt bán thân. Ngày ngày, sau giờ tan trường từ giữa trưa đến tận 9, 10 giờ đêm, cậu bé rong ruổi với thùng thuốc lá trên vai đi bán dạo quanh bến xe lam chợ Gò Vấp. Năm 1976, khi Việt Nam mở chiến dịch đưa cư dân ra các vùng kinh tế mới xa xôi, hẻo lánh, gia đình Thành chuyển xuống Lái Thiêu xoay sở tậu được một miếng ruộng nhỏ và một cặp trâu. Ở tuổi 15, Thành bỏ nghề bán thuốc lá dạo để chuyển sang đi cày thuê cuốc mướn. Việc học của cậu bé bị cản trở và chi phối rất nhiều bởi công cuộc mưu sinh vất vả hằng ngày, nhưng ý chí quyết tâm theo đuổi con đường học vấn để đổi đời đã vun đúc trong lòng cậu bé từ rất sớm.
Tiến sĩ Thành chia sẻ:
“Tôi có tư duy thích học, những lúc rảnh rỗi, tôi thường lấy sách đọc. Chỉ có môn toán là tôi học được vì không đòi hỏi tập trung nhiều. Cứ rảnh là tôi ngó qua một cái rồi để cái đầu tôi làm việc. Tôi được sự dạy dỗ của ông nội và ba tôi. Họ thường khuyên rằng học vấn là con đường ngắn nhất để đưa một người không có gì tới thành công.”
Tới năm học lớp 12, con đường học vấn của cậu bé nghèo, lam lũ bắt đầu rẽ bước ngoặt, xuất phát từ một đáp án dí dỏm của Thành trước câu hỏi của thầy đố các học sinh giỏi. Ấn tượng trước sự thông minh của Thành, người thầy đã soạn đưa cho cậu bé một số sách để tham khảo.
Giáo sư Trương Nguyện Thành kể lại:
“Năm 1979, Việt Nam lần đầu tiên tổ chức kỳ thi toán toàn quốc. Thầy tôi có đem mười mấy cuốn sách cho tôi mượn, bảo tôi đọc cho biết rồi tới dự lớp thầy dạy cho các học sinh giỏi dự thi toán. Tôi rất cảm động trước nghĩa cử này. Mỗi tối sau giờ làm ruộng, tôi đốt đèn dầu đọc sách từ 9 giờ tới 12 giờ đêm. Thời điểm đó, ở Việt Nam, hạnh kiểm là vấn đề khá quan trọng. Hạnh kiểm tôi tương đối xấu nên cô hiệu trưởng không cho tôi đi thi học sinh giỏi toán. Ông thầy lén đưa tôi đi theo đội tuyển, may quá tôi thi đậu. Tỉnh Bình Dương lúc đó chọn khoảng 30-40 em học sinh giỏi toán lên trên tỉnh học chuyên toán trong 3 tháng. Sau 3 tháng, họ tuyển lại lấy 5 em. Tôi cũng may mắn lọt vào trong 5 em đó. Cũng vì thế, ba tôi nhận ra rằng tôi có tiềm năng. Từ lúc đó, ông khuyên tôi nên nghỉ đừng đi cày thêm mà tập trung học. Và từ đó, ông tìm cách cho tôi ra nước ngoài.”
19 tuổi, sau khi thi đậu vào đại học Bách Khoa, chàng thanh niên Trương Nguyện Thành vượt biên sang Mỹ. Sau 1 năm ở trung học với những khó khăn bước đầu về ngôn ngữ, anh từ giã gia đình bảo trợ người Mỹ để bắt đầu cuộc sống tự lập ngay từ năm thứ nhất đại học. Để trang trải sinh hoạt phí trong thời đèn sách, phần đông các bạn trẻ ở đây thường phụ việc ở nhà hàng, tiệm giặt ủi, hay đi giao báo. Riêng trường hợp của Thành, anh tìm đến một người thầy và xin được theo chân làm việc trong phòng thí nghiệm để bắt đầu công việc nghiên cứu ngay từ năm đầu đại học, một công việc thường bắt đầu ở bậc cao học. Số tiền kiếm được đủ trang trải các khoản chi phí hết sức tiết kiệm hằng ngày. Còn học phí của anh chủ yếu nhờ các khoản vay từ nguồn quỹ dành cho sinh viên và các phần học bổng của chính phủ. Sau 4 năm đại học, anh ra trường với bằng cử nhân hóa học cùng với 4 văn bằng phụ về lý, toán, công nghệ thông tin, và thống kê.
Tốt nghiệp đại học, anh đi thẳng vào chương trình tiến sĩ. Trong thời gian nghiên cứu hậu tiến sĩ, anh dành được học bổng của Qũy Khoa học Quốc gia dành cho các tiến sĩ trẻ có tiềm năng vì lúc tốt nghiệp tiến sĩ, anh đã có 16 bài nghiên cứu trong khi trung bình một tiến sĩ khi ra trường xuất bản chừng 4-5 bài nghiên cứu. Năm 1992, anh về làm Giáo sư hóa cho trường đại học Utah. Một năm sau, anh được chọn là 1 trong những nhà khoa học trẻ nhiều triển vọng của Hoa Kỳ, với giải thưởng 500 ngàn đô la cho công tác nghiên cứu. Năm 2002, anh được cấp bằng Giáo sư Cao cấp, tức bậc cao nhất trong 3 cấp Giáo sư của Mỹ.
Những yếu tố nào giúp một cậu bé lam lũ, nghèo khó từng bán thuốc lá dạo, cày thuê cuốc mướn ở đáy xã hội Việt Nam lột xác, đổi đời thành một nhà khoa học danh tiếng tại Mỹ?
Giáo sư-Tiến sĩ Trương Nguyện Thành cho biết:
“Người đó có tiềm năng trời phú. Thứ hai, có môi trường giúp họ phát triển. Thứ ba, người đó có nhận thức được rằng mình có cơ hội đó hay không.
Tiềm năng chỉ là khả năng, muốn đạt được thành công đòi hỏi phải có môi trường để phát triển. Môi trường không cho phép người đó phát triển, thì cũng không làm được. Điển hình là người Việt ở Mỹ hay ở nước ngoài thành công rất cao, thế nhưng tại sao ngay tại Việt Nam không có những ngôi sao như vậy?
Khi tôi bước chân vào trung học ở Mỹ, có một cậu vượt biên cũng giống trường hợp như tôi, đi một mình, được một gia đình Mỹ bảo lãnh. Cậu ta cũng ở gần nhà tôi. Khi tới Mỹ, tôi và cậu ấy có cùng một cơ hội như nhau. Tôi cố gắng hơn, tôi vào đại học. Còn cậu ta làm việc cho một hãng gà Tây, kiếm tiền liền. Một năm sau, tôi về lại làng thăm ba mẹ nuôi và ghé thăm thằng bạn. Công việc nó làm chỉ đứng móc ruột gà Tây thôi, chờ con gà chạy qua, đưa tay vào móc ruột gà ra. Nó khoe với tôi nó có được chiếc xe hơi. Còn tôi lúc đó vẫn chưa có gì. Sau 4 năm đại học, tôi trở về, anh bạn vẫn còn móc ruột gà Tây. Anh đã có được một căn hộ, có TV lớn, dàn máy xịn, xe hơi sports. Còn tôi vẫn chỉ một thùng sách quèn. Sau 5, 6 năm sau, tôi trở về, cậu bạn vẫn còn làm chỗ cũ nhưng cho biết phải đổi nghề vì đau nhức xương khớp tay do làm việc ở phòng lạnh. Lúc đó, tôi sắp ra tiến sĩ. Đó là cái điều kiện thứ 3 mà tôi muốn nói: người có tiềm năng, có môi trường, mà không nhận thức được cơ hội của mình và quyết tâm đạt được cơ hội đó. Thật sự, tôi không có xe hơi, không có bạn gái, không có tình phí, ở nội trú, ăn mì gói. Cho nên, chi phí tôi rất ít. Tôi làm việc trong phòng nghiên cứu chỉ đủ sống. Tôi ra đại học trong túi chỉ có 200 đô la, nợ nhà nước khoảng 15 ngàn đô la (mỗi năm khoảng 3-4 ngàn tiền học phí cộng với tiền phụ thêm để sống), cùng một thùng sách và một giỏ quần áo cũ.”
Thành công ở xứ người, Giáo sư Thành trở lại Việt Nam, giúp thành lập Viện Khoa học Công nghệ Tính toán TP.HCM bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2009. Vừa tiếp tục giảng dạy tại trường đại học Utah ở Mỹ, vừa giúp điều hành Viện nghiên cứu tại Việt Nam, Viện trưởng Trương Nguyện Thành nói về công việc của mình:
“Điều khiển một viện nghiên cứu từ xa rất khó. Cho nên, có một viện trưởng tại Việt Nam chuyên lo các vấn đề hằng ngày như làm việc với chính phủ, hợp đồng, hay mướn người. Còn tôi phụ trách chiến lược phát triển về khoa học, kêu gọi những người khác về giúp phát triển.”
Ngoài ra, cá nhân ông còn nhận bảo trợ cho các sinh viên giỏi từ Việt Nam sang Mỹ du học bằng chính nguồn quỹ nghiên cứu của ông. Đích thân Giáo sư Thành đứng ra phỏng vấn tuyển chọn người tài, và từ năm 2001 tới nay, ông đã tài trợ cho trên dưới 20 sinh viên Việt Nam sang Mỹ học tập, nghiên cứu. Trong số này có nhiều người đã trở về giúp ông phát triển Viện nghiên cứu tại Việt Nam.
Tiến sĩ Trương Nguyện Thành tâm sự:
“Thời còn đi cày mướn, lời nguyền của tôi là nếu tôi thành công, tôi sẽ đem cơ hội đó cho lại những người khác. Đó là tâm nguyện của tôi lúc còn ở đáy xã hội Việt Nam. Tôi thường nói chuyện với học trò của tôi khi họ tới cảm ơn tôi đã cho họ cơ hội. Tôi bảo họ không cần cảm ơn tôi. Điều họ có thể trả ơn tôi là đem cơ hội đó cho một vài người khác. Chính vì vậy, một số đệ tử của tôi về lại Việt Nam, giúp tôi lập Viện. Tôi gieo những hạt giống và từ đó sẽ nhân thành những hạt giống khác. Một con én không làm nên nổi mùa xuân. Tôi chỉ là người mở đường. Những người khác bước chân theo, làm cho con đường rộng ra, nhẵn thêm, dễ đi hơn.”
Giáo sư Thành nói ai cũng mơ ước thành công, nhưng chỉ có những người chịu khó nỗ lực mới tới được đích đến:
“Tôi chỉ có một lời nhắn nhủ với các sinh viên ở Việt Nam rằng trên đời cái gì cũng có giá phải trả. Nếu muốn thành công, phải chấp nhận trả cái giá đó. Thành công là một con đường đi chứ không phải là một điểm đích. Tôi không nói tôi đã thành đạt điều gì, chỉ là một con đường mà khi quay lại tôi thấy tôi đã đi được rất xa rồi.”
Con đường thành công của Giáo sư -Tiến sĩ Trương Nguyện Thành trải qua bao nhiêu năm gian nan, thử thách. Cậu bé bần cùng, lam lũ ở Việt Nam qua đến Mỹ cũng đã nếm trải bao nhiêu những thiếu thốn, khó nhọc để có được vị trí đáng nể như ngày hôm nay. Đó là nhờ sự quyết tâm vượt khó vươn lên, sẵn sàng trả giá cho con đường đã chọn.