(Petrotimes) - Với cách suy nghĩ của người Á Đông và với cơ chế sử dụng cán bộ như hiện nay, việc vận động hoặc để người đứng đầu tự nguyện từ chức xem ra hơi bất khả thi.
Gần đây, người ta nói nhiều đến “văn hóa từ chức”, thậm chí, trong Dự thảo Luật Phòng chống tham nhũng (sửa đổi) còn đề cập đến việc rằng, nếu người đứng đầu cơ quan để xảy tham nhũng mà chủ động từ chức thì được giảm nhẹ hình phạt (?)
Rồi không ít người đã lấy những chuyện từ chức ở nước ngoài để so sánh với Việt Nam. Và rồi đã có không ít lời mỉa mai, nhiếc móc một cán bộ nào đó mà để xảy ra chuyện không hay ở đơn vị mình… Rằng “sao không từ chức”?
Thật đúng là nói theo kiểu: “Thọc gậy xuống nước chẳng giá”.
Cho đến nay (cứ tạm tính trong khoảng 20 năm trở lại đây), hình như chưa có cán bộ đầu ngành nào của Trung ương và địa phương dám hiên ngang tuyên bố: “Tôi chịu trách nhiệm về việc đó. Và tôi xin từ chức” .
Xin từ chức - câu nói giản dị, ngắn gọn, nhưng xem ra có sức nặng ngàn cân, hay nói sâu sa hơn thì có sức nặng của cả một đời người.
Muốn từ chức, khó lắm!
Quá trình đề bạt cán bộ của ta là “tuần tự nhi tiến”, là mất nhiều năm, được sắp xếp, quy hoạch một cách có bài bản. Và việc bổ nhiệm được tiến hành theo những trình từ, thủ tục khắt khe, chứ không phải bỗng chốc mà lên được ghế nọ ghế kia…
Để có được chức vụ đó là gian khổ lắm (mà chức vụ càng cao thì đòi hỏi sự hy sinh càng lớn); là tốn thời gian lắm.
Nay bảo người ta nói: “Tôi xin từ chức” - đâu có dễ.
Ấy là cái khó thứ nhất.
Có được chức vụ thì kèm theo là không ít quyền lợi và thậm chí là “đặc lợi” (ngoài lương). Nào là được sử dụng xe công như xe riêng, đi thoải mái mà không lo mua xăng, không mất tiền chăm sóc xe. Rồi được ưu tiên cấp đất, cấp nhà, hoặc được mua nhà với giá ưu đãi, hoặc cộng “điểm” năm công tác… Và vô vàn các thứ bổng lộc khác. Thứ thì do cơ chế, do chính sách; thứ thì do quan hệ… Cho nên không lấy gì làm lạ, khi có nhiều cán bộ vẫn than vãn rằng lương thấp quá, nhưng họ vẫn thừa tiền đi chơi golf, vẫn có trang trại, vẫn có biệt thự, vẫn có xe sang…
Cho nên, từ bỏ chức vụ, có nghĩa là phải từ bỏ những quyền lợi vật chất mà họ đang hưởng.
Việc ấy đâu có dễ.
Ấy là cái khó thứ hai.
“Một người làm quan, cả họ được nhờ”, câu nói đó từ xưa đã đúng, và bây giờ càng đúng. Một người làm quan to, nhiều khi không chỉ “cả họ” mà còn cả huyện, cả tỉnh và vô số bạn bè, chiến hữu khác nữa. Một người làm quan, có uy thì không biết bao nhiêu người khác dựa vào cái “bóng” sừng sững ấy để làm giàu, để thăng quan, tiến chức. Chỉ có điều, những trường hợp dựa “bóng” này, không thể “chỉ mặt, đặt tên” được. Thiên hạ biết đấy, hiểu đấy, nhưng chẳng thể nào “nói có sách, mách có chứng”. Nay người có chức từ chức, cái “bóng” biến mất, thế thì đám con cháu, họ hàng, chiến hữu kia nấp vào đâu? Cho nên tất cả phải xúm lại, giữ cho cái “bóng”.
Để từ bỏ sự “tỏa bóng”, cá nhân một người không phải là không thể làm được. Nhưng còn bao nhiêu người khác nữa chứ? “Mình vì mọi người” mà!
Cho nên phải cố mà giữ.
Ấy là cái khó thứ ba.
Người Việt mình vốn thích danh, thậm chí là danh hão. Cho nên bây giờ mới nảy nòi ra chuyện đua nhau chạy bằng cấp để ghi vào cạc-vi-dít cho oai. Và vì thế mới có câu, nào là: “Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng”, rồi: “Trăm năm bia đá thì mòn. Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ”… Người có chút danh, nhiều khi trở thành niềm tự hào, là chỗ dựa tinh thần không chỉ cho người thân trong gia đình, mà còn cả họ hàng, cả vùng quê…
Cho nên khi tuyên bố từ chức, có nghĩa là phải bỏ cái danh mà mình đã khổ công xây dựng bấy lâu, phải trải trăm đắng ngàn cay mới có được… Đâu có dễ.
Ấy là cái khó thứ tư.
Cứ xem gương bao nhiêu cán bộ khi đương chức, đương quyền thì nói chuyện “rời ghế” nhẹ như lông hồng và rất cao đạo, coi chức tước là phù vân, coi danh lợi là như gió thoảng… Nhưng khi sắp đến lúc phải về hưu thì họ vội vàng, cuống quýt “chạy” để ở lại. Họ xin xỏ, nằn nèo và lôi ra đủ mọi lý do để mong cấp trên giữ lại cho thêm thời gian. Nhiều thì vài ba năm, ít thì vài ba tháng… Và không ít người, khi rời ghế về nghỉ theo chế độ thì đã bị sốc nặng…
Đấy, chuyện về nghỉ hưu mà còn không đơn giản như vậy, huống chi xin “từ chức”.
Ấy là cái khó thứ năm.
Ở nước ta vẫn đang duy trì chế độ tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách, người đứng đầu phải làm theo Nghị quyết, theo những kế hoạch do tập thể đề ra. Cho nên, dấu ấn cá nhân ở trong mỗi đơn vị thường là không cao. Chỉ có những ai dám quyết, dám làm, dám chịu và luôn mang tâm thế: “Đã làm thì làm cho ra hồn, còn nếu không, về ngay”, thì mới có thể có những quyết đoán, mạnh mẽ, mang tính đột phá.
Những người như thế rất hiếm. Cho nên, mỗi khi xảy ra việc gì rất khó có thể quy trách nhiệm cụ thể cho cá nhân. Và cái gọi là “trách nhiệm của người đứng đầu” ở ta hiện nay còn rất mơ hồ.
Vậy mà lại đòi người ta phải từ chức khi có vụ việc gì xảy ra ở ngành ấy? Đâu có đơn giản.
Ấy là cái khó thứ sáu.
Với sáu cái khó như vậy (nhưng chắc là chưa hết) - mà đòi hỏi người có chức vị phải sẵn sàng từ chức thì xem ra nói thế chứ nói nữa cũng không ai muốn từ chức. Vì vậy, muốn để cho người cán bộ sẵn sàng từ chức khi thấy mình không làm được việc, hoặc không đáp ứng được sự phát triển của thời cuộc thì cần phải có những cơ chế nào đó và đặc biệt là phải làm cho người cán bộ đang giữ chức vụ thấy rằng: Người cán bộ không phải là hòn đất sét được nặn lên thành ông Bụt và khi đã đặt lên bệ rồi thì cứ thờ mãi như thế. Chức vụ đó có thể có ngày hôm nay, nhưng ngày mai mất đi thì đó cũng là việc bình thường. Và một điều rất quan trọng là cái chức vụ ấy không mang lại nhiều lợi lộc về vật chất.
Tất nhiên, với cách suy nghĩ của người Á Đông và với cơ chế sử dụng cán bộ như hiện nay, việc vận động hoặc để người đứng đầu tự nguyện từ chức xem ra hơi bất khả thi.
Như Thổ
(Báo Năng lượng Mới số 171, ra ngày 9/11/2012)