Trang blog này nhằm lưu lại những bài viết của chính tác giả hoặc của những tác giả khác đã viết và công bố trên các ấn phẩm chính thức, trên phương tiện truyền thông đại chúng, và trên mạng Internet, về những vấn đề Kinh Tế, Văn hoá, Xã hội, Y tế & Giáo dục đang cần tìm hiểu...lúc tuổi già. Không biết nói gì hơn, ngoài lời được xin phép và trân trọng cám ơn các bạn có bài đăng lại trên Blog này.
Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2016
Thứ Tư, 27 tháng 4, 2016
‘Tôi đã kể một câu chuyện trung thực về Sài Gòn năm ấy…’
Tôi luôn trả lời rất thật: buồn vui lẫn lộn. Sau này, tôi tâm đắc câu nói của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt: Có triệu người vui, có triệu người buồn. Sau ngày 30/4, gia đình tôi tan nát như bao gia đình khác của miền Nam.
Sáng ngày 30/4/1975, chàng thanh niên 19 tuổi Nguyễn Đạt (tên đầy đủ là Nguyễn Đình Đạt) liều lĩnh cầm chiếc máy ảnh Nikon FTN lao ra đường Trương Minh Giảng (nay là đường Lê Văn Sỹ, quận 3, TPHCM) để chụp những tấm ảnh mà sau này ông đặt tên: “Sài Gòn – những khoảnh khắc ngày 30/4/1975”.
41 năm sau, vào một buổi chiều cuối tuần của tháng 4/2016, trong ngôi nhà trên đường Huỳnh Tấn Phát (quận 7), ông tâm sự: “Gần nửa thế kỷ rồi mà cứ tưởng như ngày hôm qua.Trong đầu vẫn phảng phất mùi thuốc súng, tiếng pháo xa xa vọng về, hình ảnh của những người lính hai phía, tiếng nói lao xao của người dân Sài Gòn… Mình đã già rồi, chỉ biết nhớ những chuyện ngày xưa”.
Ông nói rằng, đây là phóng sự ảnh đầu tay nhưng cũng là “báu vật” của cuộc đời ông.
Ông kể: Gần 10 giờ sáng ngày 30/4/1975, từ trên bancông của nhà cậu tôi (nằm trong một con hẻm lớn trên đường Trương Minh Giảng), tôi thấy hai anh lính phi công cởi bỏ quân phục.
Trước đó, nghe tin tức đã biết không ổn, nay thấy hình ảnh trên, rồi tiếng người dân trong xóm la to “lính về Sài Gòn”, lúc đó chụp chỉ để thoả mãn đam mê vì vừa học xong nghề chụp ảnh.
Bức ảnh đầu tiên tôi chụp là hình ảnh của những người lính dù Việt Nam Cộng hoà (VNCH) từ Hóc Môn đi bộ về trung tâm Sài Gòn.
Thái độ của những người lính lúc đó rất nghiêm túc, đi nhanh nhưng nhìn trang phục của họ, tôi biết là đã rã hàng. Cứ chụp xong vài tấm là tôi di chuyển theo hình chữ Z để phòng thân, lỡ…
Sau một loạt ảnh về người lính dù VNCH, khoảng 30 phút sau là những người lính Giải phóng, cũng đi bộ từ ngoại thành vào. Lúc đó tôi chỉ nghĩ một điều là sẽ có đánh lớn.
Chụp được vài tấm thì Tùng, người bạn của tôi, nhanh trí viết hai chữ “phóng viên” trên giấy tập để dán vào ngực và lưng với niềm tin rằng sẽ không có ai bắn nhà báo!
Thấy không có chuyện gì xảy ra, sau đó tôi và Tùng bạo gan leo lên xe hơi của tôi đi chụp tiếp, chạy từ Trương Minh Giảng qua Yên Đỗ, ngã tư Phú Nhuận, Bà Chiểu, Hai Bà Trưng rồi qua dinh Độc Lập…
Lúc đó tôi chụp vì đam mê, như một bài tập lớn để nộp cho những người thầy: Cao Đàm, Nguyễn Ngọc Hạnh.
Tôi chẳng sợ điều gì cả, vì tin rằng, chẳng có ai để ý chuyện một người chụp ảnh vì họ còn có những mối lo lớn hơn.
Hay nói cách khác, tôi là người đứng giữa hai bên nên dễ dàng len lỏi để chụp nhiều góc ảnh riêng cho mình…
Tối đó, tôi lập tức rửa ngay bộ ảnh vì sợ sau này không có cơ hội để rửa. Sau khi hỏi ý kiến bác vợ là thiếu tướng Lê Thiện, năm 2010, lần đầu tiên tôi công bố bộ ảnh này tại một diễn đàn về xe hơi nhưng còn sơ sài.
Năm 2015, bộ ảnh trên được bổ sung thêm một vài tấm nhưng cũng chưa đủ. Vừa rồi, đầu tháng 4/2016, tôi lại công bố bộ ảnh trên một lần nữa, có bổ sung thêm hai tấm ảnh là chiếc nón cối và hai anh bộ đội đi xe máy. Nhưng tôi cũng nói thêm, vẫn chưa đầy đủ.
Nhiều người bạn đã từng hỏi tôi cảm giác về ngày 30/4.
Tôi luôn trả lời rất thật: buồn vui lẫn lộn. Sau này, tôi tâm đắc câu nói của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt: Có triệu người vui, có triệu người buồn. Sau ngày 30/4, gia đình tôi tan nát như bao gia đình khác của miền Nam.
Nhà cửa bị tịch thu, mẹ và anh trai tôi đi kinh tế mới. Em gái phải vội vã lấy chồng. Sài Gòn lúc đó chỉ còn mình tôi. Tan nát là vậy nhưng tôi nghĩ: thôi, điều gì đến sẽ đến. Gia đình tôi chấp nhận tất cả.
Xin được nói thêm, sau ngày 30/4/1075 không lâu, tôi được tuyển vào làm việc tại văn phòng 2 của bộ Thương mại. Làm ở đó cho đến ngày nghỉ hưu, cách đây mười năm”.
Nhiếp ảnh gia Nguyễn Đạt vẫn còn đam mê chụp ảnh, trước là vui, sau là cơ hội kiếm thêm “càphê”, vi vu sau tay lái của hai chiếc xe Jeep.
“Hai con giờ lo cho ba mẹ, nói chính xác là tụi nhỏ nuôi hai vợ chồng già”, ông Đạt cười.
Minh Phúc thực hiện
Thế Giới Tiếp Thị
Thế Giới Tiếp Thị
Vụ cá chết: Nhận định rùng mình của 3 nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài
Trong lúc chờ kết luận của cơ quan chức năng, chúng tôi đưa ra những bằng chứng sau để dự đoán khả năng hai trường hợp có thể xảy ra.
Để khẳng định một cách chính xác, các phương pháp phân tích hóa chất thường dùng trong các phòng thí nghiệm hóa học, phân tích chất lượng nước... có thể xác định chính xác hóa chất gây cá chết .
Thí dụ dùng phương pháp Atomic Absorption Spectroscopy (AAS) có thể tìm ra những kim loại nặng hấp thụ trong cá chết hoặc Gas Chromatography Mass Spectroscopy (GC-MS) xác định hàm lượng vết các chất hữu cơ.
Những thí nghiệm này không quá phức tạp chỉ cần trình độ cử nhân hóa học là làm được.
Tuy nhiên không hiểu lý do vì sao cho đến giờ chưa có một báo cáo nào công bố cụ thể các chỉ số cho toàn dân biết để phòng tránh.
Trong lúc chờ kết luận của cơ quan chức năng, chúng tôi đưa ra những bằng chứng sau để có thể đưa ra nguyên nhân cá chết do nhiễm độc kim loại nặng.
Trường hợp 1: Nhiểm độc kim loại nặng (KLN)
Chất có khả năng giết hàng loạt cá biển trên một diện rộng như thế phải là chất kịch độc như KLN và kể cả chất phóng xạ.
Theo thiết kế của khu công nghiệp, cổng xả thải được đặt ở vị trí 1,5 km ngoài khơi, nơi được cho là có khả năng làm loãng mọi hóa chất một cách nhanh chóng do dung lượng lớn của nước biển.
Tuy nhiên, đối với các KLN như chì thì một lượng rất nhỏ chỉ cần 1 g trong 1,000,000 litter nước cũng đủ chết người (Nồng độ IDLH (Immediately Detrimental to Life and Health) từ Environmental Protection Agency (EPA -Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ) và 1 g trong 10 triệu litter nước đủ nguy hại đến cá).
KLN khối lượng riêng nặng nên khi bị phát tán sẽ dần chìm xuống dưới nên mới gây chết rất nhiều cá ở tầng đáy.
Như các thông tin báo chí đăng có thể thấy cá sống ở lớp nước sâu bị ảnh hưởng nhiều hơn cá sống ở lớp nước mặt.
Điều đó có thể là dấu hiệu cho thấy do các hợp chất chứa KLN chìm xuống dưới làm chết các loại cá và sinh vật dưới đáy biển.
Kết luận kiểm tra của Sở NN&PTNT Thừa Thiên - Huế cho biết, nguyên nhân cá chết hàng loạt là do pH nước thay đổi đột ngột, chất lượng phú dưỡng (PO43-) tăng cao đột ngột.
Câu hỏi đặt ra “PO4 từ đâu ra và tại sao pH nước tăng đột ngột?”
So sánh đá ở khu vực Vũng Áng và đá phosphorite
Nước thải từ Formosa
Đá ở khu vực Vũng Áng rất giống loại đá phosphorite: có lỗ nhỏ và màu ngả vàng.
Ta có thể thấy nước thải của Formosa có màu vàng, rất giống với màu đặc trưng của nước thải khi khai thác phosphorite.
Cấu trúc của đá phosphorite điển hình thường có chứa gốc iôn kim loại nặng và PO43-
(Một số ít ion bạc trong cấu trúc này có thể được thay thế bởi các loại kim loại nặng khác nhau). Khi khai thác đá phosphorite sẽ giải thoát một lượng lớn PO4, ion Ag cũng như một số kim loại nặng vào nước thải.
Phosphoric acid là một acid yếu do đó với lượng lớn PO4 3- ion, theo nguyên tắc chuyển dịch cân bằng Le Chatelie, chiều phản ứng sẽ bị đẩy ngược để tạo nhiều OH ion hơn và do đó nâng cao độ pH của nước.
Theo nghiên cứu của Salamon, chỉ cần 0.1 ppb (part per billions) lượng ion bạc là đủ giết cá. 0.1 ppb tương đương với 1 g cho 10 triệu litter nước (hệ số biến đổi: 1 ppb = 1 g/1 triệu L).
Trường hợp 2: Nhiễm độc bởi cyanide
Trong kỹ thuật khai thác mỏ kim loại, NaCN thường dùng để chiết xuất vàng và các kim loại quí hiếm.
Thí dụ trong trường hợp chiết xuất vàng từ quặng, NaCN giúp biến vàng thành chất có thể tan trong nước theo phản ứng sau và đồng thời sản xuất NaOH, một bazơ mạnh theo phương trình sau:
4 Au + 8 NaCN + O2 + 2 H2O → 4 Na[Au(CN)2] + 4 NaOH
NaCN là một loại muối rất dễ tan trong nước. Do đó nếu không kết hợp với kim loại thì ion cyanua sẽ xuất hiện ở dạng ion trong nước thải.
Vì phản ứng hóa học thải ra NaOH do đó nồng độ pH của nước sẽ tăng phù hợp với báo cáo của Sở NN&PTNT Thừa Thiên - Huế.
Ion Cyanua (CN-) tan trong nước là một chất cực kỳ độc. Nó làm hệ thống hô hấp của động vật mất chức năng tiêu thụ oxy. Nồng độ IDLH của CN là 25 g/ 1 triệu L.
Tuy không độc bằng KLN nhưng với lượng lớn cyanua cũng có thể gây cá biển chết hàng loạt.
Khu vực miền Trung được biết có nhiều mỏ vàng. Do đó khả năng chất thải có từ việc khai thác vàng và kim loại quí hiếm cũng không phải là thấp
(Xem hình 2- so sánh nước thải của Formosa và nước thải từ quá trình khai thác vàng)
Tác hại có thể dự đoán trên diện rộng của sự việc ở Vũng Áng
Khi cống thải được đặt ở 1,5 km xa bờ biển thì cột nước thải có thể dài vài chục đến cả trăm mét.
Dòng hải lưu nơi đó đủ mạnh để phát tán chất độc trong diện rộng từ vài trăm đến ngàn km dễ dàng và nhanh chóng. Thực tế cho thấy tác hại đã lan ra trên 250 km bờ biển.
Cột nước thải và sơ đồ vùng biển nhiễm độc
Theo lí thuyết, những chất này nếu là KLN thì tác hại của nó có thể là khôn lường và rất khó ước đoán. Các loại hải sản ở khu vực nhiễm độc đều có thể bị nhiễm nặng.
Lượng độc tố có thể ngấm sâu xuống mạch nước ngầm và gây hại lâu dài.
Tình trạng ở Vũng Áng có tầm nguy hại đến sức khỏe và mưu sinh của dân chúng trên diện rộng do dòng hải lưu và phân phối hải sản tiêu thụ trên cả nước chứ không chỉ giới hạn ở Vũng Áng.
Lịch sử thế giới đã ghi nhận rất nhiều trường hợp thương tâm về việc nhiễm KLN từ môi trường và cuộc đấu tranh pháp lí không hề dễ dàng.
Một vài ví dụ đau thương được ghi nhận về nhiễm độc KLN:
Nạn nhân bị nhiễm bệnh Minamata
Bệnh Minamata là đại thảm họa môi trường của Nhật-như cái giá phải trả cho việc quá nôn nóng phát triển kinh tế mà bỏ qua việc bảo vệ môi trường.
Từ năm 1932-1968, công ty Chisso (Nhật) sử dụng thủy ngân hữu cơ là chất xúc tác để sản xuất acetaldehyde, axit acetic và các chất dẻo.
Methyl thủy ngân là chất kịch độc, độc đến nỗi chỉ vài giọt rơi vào da có thể dẫn đến tử vong ngay lập tức.
Trong quá trình sản xuất, methyl thủy ngân được sinh ra và đổ thẳng xuống vịnh Minamata mà không qua bất kì một sự xử lý nào.
Thủy ngân phát tán trong môi trường nước, bám vào phù du và lắng xuống bùn. Cá hấp thụ oxy trong nước qua mang cá, tích lũy thủy ngân trong cơ thể.
Khi ăn phải những con cá bị nhiễm độc đó dần dần, người ăn sẽ tích lũy lượng thủy ngân đáng kể trong cơ thể.
Khi đi vào trong cơ thể người, thủy ngân tấn công thẳng vào hệ thần kinh trung ương, hệ nội tiết, và các cơ.
Thủy ngân làm con người trở nên loạn trí, các khớp xương bị co rút, dẫn đến biến dạng cơ thể.
Người mẹ nhiễm thủy ngân sẽ đẻ con ra quái thai, dị dạng hoặc bị nhiễm bệnh Minamata bẩm sinh. Hậu quả là hơn 17 000 người dân phải gánh chịu căn bệnh này suốt hơn 60 năm.
Tác hại của việc khai thác KLN cho môi trường có thể biểu hiện trực quan hơn ở chung quanh khu vực nhà máy khai thác KLN ở Baotou, Trung Quốc năm 2012 súc vật bị chết do nhiễm khí độc.
Ngay cả cây ăn trái cũng èo uột và trái có mùi hôi thối.
Nếu là NaCN thì sao?
Tuy tính độc hại lâu dài của cyanua không tàn khốc như KLN, chất độc này có thể phá hủy hệ thần kinh và bộ phận hô hấp, thay đổi hồng cầu.
Người bị nhiễm độc rất khó thở và dễ bị chảy máu mũi. Những triệu chứng này không phù hợp lắm với triệu chứng tìm thấy ở những người bị ngộ độc do ăn cá nhiễm độc báo chí đã đưa thời gian gần đây.
Không ăn cá chết thôi chứ hải sản sống thì ăn không sao? Tắm biển cũng không sao?
Đây là một nhận định sai lầm trầm trọng. Khi cá chết có nghĩa nồng độ chất độc đã vượt ngưỡng. Nhưng cá còn sống không có nghĩa là không có bị ngấm chất độc.
Tuy trường hợp cá chết do NaCN thì ít nguy hại hơn nhưng nếu là KLN thì hệ quả lớn hơn nhiều.
Xin nhắc lại tất cả hải sản từ vùng ô nhiễm có xác suất hấp thụ độc tố rất cao đặc biệt là những loại sinh vật sống sát đáy.
Những độc tố này tồn dư, tích luỹ qua chuỗi thức ăn. Do cơ thể con người không có khả năng thải KLN hiệu quả, nó sẽ tích lũy dần dần và gây tác hại lâu dài như nói trên.
Đã có nghiên cứu chỉ ra lượng nhiễm độc thuỷ ngân vào cơ thể người từ việc ăn cá lên đến 95%.
Ngay cả lí do lần này không liên quan đến KLN thì việc chất độc tồn dư ở những con cá chưa đủ liều lượng giết chêt cá là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
Nếu những chất độc này đã gây ngộ độc cho một số người ở Quảng Bình (Bố Trạch), Hà Tĩnh (Kì Anh), thì có thể thấy rõ tác hại của nó.
Người ngộ độc KLN qua đường tiêu hóa thường có triệu chứng bụng quặng đau, buồn nôn, tiêu chảy, nhức đầu và kiệt sức.
Bên cạnh đó, như chúng tôi đã đưa ra trước đó bên cạnh sự nhiễm độc do hô hấp và qua đường thức ăn thì chất độc có thể đi vào cơ thể qua da (niêm mạc).
Do vậy, trong thời gian này hạn chế việc tắm biển, thậm chí các bạn tham gia điều tra nên có bảo hộ khi lặn sâu vào vùng nhiễm độc.
Không đưa ra lời cảnh báo để tránh việc chặn đi đường sống của hàng triệu dân nghèo?
Cũng có một vài ý kiến cho rằng, khi chưa có bằng chứng cụ thể chúng ta không đưa ra nhận định để tránh làm mất đi nguồn sống của người dân hay làm nhân dân hoang mang.
Theo chúng tôi đây là một nhận định hết sức sai lầm. Khoa học ngoài việc tìm ra bằng chứng còn có chức năng dự báo để đề phòng trường hợp xấu nhất.
Chúng ta đề phòng trường hợp xấu nhất nhưng mong đợi vào tình huống khả quan nhất.
Nếu chúng ta không cảnh báo kịp thời, hậu quả sẽ lan nhanh, sâu và rộng hơn cho cộng đồng đến mức độ không còn khả năng kiểm soát được.
Như ví dụ trên: vụ nhiễm độc Minamata cũng được phát hiện nhờ vào lời cảnh báo của viện trưởng Hosokawa của bệnh viện Kumamoto khi nghi ngờ nhiêm độc thủy ngân hữu cơ của các bệnh nhân.
Tại thời điểm đó, sự việc như này chưa hề có tiền lệ trước đó.
Chúng ta đi sau nên học những bài học của người đi trước để tránh sai lầm. Hơn nữa việc chúng ta được cảnh báo là để chúng ta biết và đề phòng chứ không hề vì thế mà sợ hãi.
Những phát ngôn thiếu trách nhiệm
Thời gian gần đây nhiều cơ quan chức năng nhà nước đưa ra kết luận “nguyên nhân cá biển chết hàng loạt là do độc tố”.
Về điều này, một người dân không có hiểu biết về khoa học cũng có thể kết luận được, đặc biệt là những nạn nhân trúng độc phải cấp cứu do ăn đồ biển ở khu có cá chết.
Có ba nguyên nhân cá biển chết hàng loạt:
1) báo hiệu sắp có thiên tai từ động đất hay núi lửa ở thềm lục địa (điều này xưa nay chưa bao giờ xảy ra ở Việt Nam),
2) có sự thay đổi lớn về số lượng vi sinh vật trong vùng nước (hiện tượng nước nở hoa, hay dịch bệnh);
3) chất kịch độc do con người thải ra trong nước biển. Kết luận của cơ quan chức năng chỉ khẳng định rằng chúng ta sẽ không có thiên tai.
Điều 90 triệu dân Việt cần biết từ cơ quan chức năng là xác định cá chết và người dân bị ngộ độc là do hóa chất gì để cộng đồng khoa học có thể hổ trợ tìm phương án giải quyết.
Lãnh đạo Formosa nói 300 tấn hóa chất nhập về sử dụng để tẩy rửa một số đường ống không gây hại và với khu công nghiệp thì chỉ “bé như hạt gạo”.
Kết luận của lãnh đạo Formosa rất mập mờ và khó hiểu, gây phẫn nộ cho rất nhiều người dân Việt Nam. Xin phép được hỏi hóa chất tẩy rửa đường ống đó có tên hóa học là gì?
Nếu lãnh đạo Formosa không trả lời được thì xin cho biết tên thương mại là gì? Chi cục Hải Quan Hà Tĩnh có thể cho dân biết thông tin cụ thể về 300 tấn hóa chất này không?
Mới đây lãnh đạo Formosa còn tuyên bố để phát triển kinh tế việc chết vài con cá biển là chuyện nhỏ và là cái giá phải đánh đổi.
Chỉ tiếc là việc chết cá biển không phải là chuyện “bé như hạt gạo” mà nó có thể là cảnh báo cho một tai họa đổ xuống các thế hệ tiếp theo của Việt Nam.
Kết luận
Có thể coi sự việc nghiêm trọng này là thảm họa khôn lường và lâu dài.
Với sự nguy hiểm của chất độc chúng tôi cho rằng cần có một nghiên cứu toàn diện với sự hỗ trợ của cộng đồng khoa học quốc tế như World Health Organization (WHO) và nên khẩn cấp trong thời gian này.
Chính phủ cần yêu cầu Formosa dừng ngay việc xả nước thải ra biển cho đến khi có kết quả điều tra chính thức.
Các cơ quan luật pháp cũng như các luật sư cần thu thập thông tin đầy đủ để có thể bắt buộc thủ phạm bồi thường thiệt hại cho dân về sức khỏe cũng như thiệt hại kinh tế.
Người dân ở vùng bị nhiễm, cần phải xét nghiệm mẫu nước sinh hoạt và sản xuất nơi mình đang sống. Chúng tôi đã có bài viết hướng dẫn cách lấy mẫu và gửi đi xét nghiệm để có kết quả chính xác.
Nếu các bạn cần tư vấn thêm về cách xử lý nước hoặc trao đổi về các kết quả nhận được có thể gửi email cho chúng tôi.
Nếu có điều kiện hãy dùng máy lọc để lọc nước trước khi dùng kể cả đó là nguồn nước sinh hoạt.
Đồng thời chúng ta cũng nhanh chóng phổ biến đến người dân, để nhân dân an tâm, có biện pháp đề phòng và cũng cần đề phòng các lực lượng mê tín dị đoan lợi dụng hiện tượng này để tung tin đồn nhảm và trục lợi.
Hơn lúc nào hết người dân cần tự mình trang bị những kiến thức cần thiết để bảo vệ cho chính bản thân và gia đình.
ThS Trần Thị Thanh Thoả - Thiều Mai Lâm - GS.TS Trương Nguyện Thành
Nguồn dẫn: Tạp chí Khoa học Việt Nam (Vietnam Journal of Science)
__________________
* ThS. Trần Thị Thanh Thoả (Khoa Sinh học, Trường Đại học Thủ đô Tôkyo, Nhật Bản)
Thiều Mai Lâm (Viện Khoa học Cao phân tử, Đại học Kỹ thuật Virginia, Mỹ)
GS.TS. Trương Nguyện Thành (Khoa Hóa Học, Đại Học Utah, Mỹ)
Theo: Cafebiz/Trí Thức Trẻ/Soha News
Thứ Ba, 26 tháng 4, 2016
Nước Mỹ sau nội chiến và bài học hòa hợp dân tộc
Tác giả: Nguyễn Hòa Bình (tổng hợp)
.
KD: Bài rất hay. Những sự hòa giải có lẽ chỉ có được khi giữa các bên hành xử với nhau một cách quân tử, trân trọng nhau vì cái nghĩa lớn nhất- lợi ích quốc gia
———–
Tháng 4 của Hoa Kỳ là một ngày tháng đáng lưu ý của lịch sử. Cuộc nội chiến Nam Bắc Hoa Kỳ bắt đầu vào ngày 12 tháng 4-1861. Bốn năm sau vào ngày 9 tháng 4-1865, tướng Lee của miền Nam đầu hàng tướng Grant của miền Bắc…
Tổng thống Abraham Lincoln
Cuộc chiến tranh với hàng trăm trận đánh tại miền Ðông Hoa Kỳ trong trọn vẹn 4 năm đã làm cho quân hai bên chết 620 ngàn và hàng triệu người bị thương tích. Miền Bắc thắng trận, thống nhất đất nước, giải phóng nô lệ và hy sinh thêm vị anh hùng Mỹ quốc. Ðó là Tổng Thống Lincoln.
Trong trận đánh cuối cùng, quân miền Bắc chiếm được Richmond là thủ đô của miền Nam vào ngày 2 tháng 4-1865. Hai ngày sau Tổng Thống Lincoln của Hoa Thịnh Ðốn đến thị sát Richmond, bước vào dinh tổng thống miền Nam đã bỏ chạy. Tiếp theo là Tướng Lee đầu hàng ngày 9 tháng 4 và vào ngày 15 tháng 4-1865, Tổng Thống Lincoln bị ám sát chết.
Vị tổng thống thứ 16 trở thành vĩ nhân thống nhất đất nước và giải phóng nô lệ nhưng chỉ vui với chiến thắng chưa được một tuần lễ.
Sau chiến tranh dành độc lập, mười ba xứ thuộc địa Bắc Mỹ thắng Anh quốc trở thành Hoa Kỳ với tổng thống Washington thì tiếp theo đến trận nội chiến chia đôi Nam Bắc là một vết thương đau đớn nhất.
Vào thời kỳ đó, nước Mỹ gồm các tiểu bang Ðông Bắc có thủ đô Hoa Thịnh Ðốn chủ trương giải phóng nô lệ. Tổng thống Hoa Kỳ là Luật Sư Lincoln tuyên bố quốc gia không thể có hai luật, một nửa có nô lệ, một nửa không.
Quân chính phủ miền Bắc gọi là quân đội Potomac, lấy tên của dòng sông diễm lệ chạy qua thủ đô. Các tiểu bang miền Nam sống về canh nông quyết đòi giữ lại chế độ nô lệ để khai thác cho nông nghiệp. Tổng thống miền Nam là ông Davis. Thủ đô là Richmond và quân đội do tướng Lee chỉ huy được gọi là quân đội Virginia.
Nội chiến xảy ra trong hai nhiệm kỳ của ông Lincoln từ 1861 đến 1865 với hai vị tướng chỉ huy sau cùng là Tướng Ulysses S. Grant của miền Bắc và Tướng Robert E. Lee của miền Nam. Tuy miền Nam với các tiểu bang ly khai bầu ra một Tổng Thống Jefferson Davis nhưng nhân vật anh hùng miền Nam chính là Tướng Lee.
Khi cuộc chiến Nam Bắc bùng nổ, nước Mỹ chia đôi. 11 tiểu bang miền Nam ly khai với 9 triệu dân và thêm 4 triệu dân nô lệ da đen. Chính phủ liên bang Hoa Kỳ còn lại 21 tiểu bang miền Bắc với 20 triệu dân.
Nội chiến Hoa Kỳ
Ông Robert Lee nguyên là tướng lãnh của quân đội liên bang Hoa Kỳ nhưng gốc người miền Nam. Ông đã từng là chỉ huy trưởng trường West Point.
Tháng 4-1861 khởi chiến Nam Bắc, Tướng Lee được đề nghị chỉ huy quân đội miền Bắc nhưng ông không nhận và xin từ nhiệm để về đầu quân miền Nam tại Richmond, tiểu bang Virginia. Ông nói là không thể quay lưng với nơi ông đã sinh ra và trưởng thành.
Trong chiến tranh, ông lập được nhiều chiến công và là vị tư lệnh sau cùng của miền Nam nhưng sau khi thủ đô Richmond của miền Nam bị thất thủ, ông đã quyết định đầu hàng.
Cuộc chiến tranh tương tàn đẫm máu làm tổn hại hàng triệu sinh linh Hoa Kỳ, tan nát các đô thị miền Ðông và vùng Virginia. Tất cả đã thể hiện trong tác phẩm và cuốn phim bất hủ Cuốn Theo Chiều Gió mà chúng ta đã đọc cũng như coi nhiều lần suốt thời niên thiếu.
Ngay cho đến bây giờ, tác phẩm này vẫn còn là tài liệu được đem dạy ở trường học với sự say mê và hãnh diện của nhiều thế hệ Hoa Kỳ.
Lincoln và tướng McClellan (1862)
Trước tiên bắt đầu về câu chuyện đầu hàng. Sau chiến tranh, nước Mỹ sưu tầm và dựng lên khắp miền Ðông hàng trăm viện bảo tàng. Mỗi tiểu bang ít nhất là một viện bảo tàng. Mỗi trận đánh trên chiến trường xưa cũ với các di tích đều có một viện bảo tàng.
Bằng hội họa, nhiếp ảnh, dữ kiện, thêm vào âm thanh ánh sáng người ta dựng lại lịch sử các cuộc thương thuyết, các cuộc điều binh và các trận liệt. Quân đội hai bên Nam Bắc, quân phục màu xanh, quân phục màu xám, các tướng lãnh, sĩ quan, binh sĩ và dân chúng. Những cái chết đau thương và anh hùng của cả hai bên, những mối tình bất hủ, tràn đầy hình ảnh em hậu phương, anh tiền tuyến.
Nội chiến Hoa Kỳ với 2 màu cờ
Không phải hàng trăm mà có đến hàng ngàn tác phẩm điện ảnh về chiến tranh Nam Bắc. Cả những phim vĩ đại mới ra đời trong vài năm gần đây vẫn còn hình ảnh của cuộc nội chiến ngày xưa.
Cuộc nội chiến đau thương xưa cũ đã là niềm cảm hứng cho tinh thần nhân bản xây dựng trên tro tàn của một thời nội chiến Hoa Kỳ.
Bài học phải bắt đầu từ câu chuyện đầu hàng.
Ðúng như vậy, trong hàng trăm bảo tàng viện về Civil War của Hoa Kỳ, thì viện bảo tàng Appomattox Court House ở Virginia là nơi nổi tiếng nhất vì dựng lên ngay tại một ngôi nhà mà Tướng Lee đã đến ký văn bản đầu hàng ngày 9 tháng 4-1865.
Tại đây, câu chuyện về vị tướng phe bại trận miền Nam lại được viết ra và hình ảnh của ông lại được chiêm ngưỡng nhiều hơn cả phe thắng trận.
Tượng vị tướng Robert E Lee
Lịch sử ghi lại rằng vào sáng ngày 9 tháng 4 cách đây 140 năm, thủ đô miền Nam là Richmond thất thủ, kỵ binh của miền Bắc cùng với 3 quân đoàn bộ binh vây hãm quân miền Nam hết đường tháo lui.
Bộ tham mưu của Tướng Lee đề nghị phân tán để giữ lực lượng đánh du kích, nhưng Tướng Lee quyết định đầu hàng. Vị danh tướng của Hoa Kỳ trải qua bao nhiêu chiến thắng nhưng sau cùng vì quân số và tiếp vận bị giới hạn nên đành bất lực chấp nhận thua cuộc. Với lá thư riêng ông gửi cho Tướng Grant của miền Bắc yêu cầu thu xếp buổi họp mặt.
Ông Grant nhận được thư hết sức vui mừng và bỗng nhiên thấy hết ngay cơn bệnh nhức đầu ghê gớm hành hạ ông từ nhiều ngày qua.
Vị tư lệnh miền Bắc ra lệnh nghiêm cấm các sĩ quan và binh sĩ trực thuộc không được tỏ ra bất cứ hành động nào vô lễ với ông tướng tư lệnh miền Nam bại trận.
Trưa ngày lịch sử 9 tháng 4-1865, Tướng Lee và một đại tá tùy tùng cưỡi ngựa vượt qua phòng tuyến đến nơi hẹn ước. Hình ảnh ghi lại hai người đi qua đoàn quân nhạc của lính miền Bắc thổi kèn chào đón. Các sĩ quan miền Bắc đưa vị tư lệnh miền Nam vào phòng họp. Nửa giờ sau Tướng Grant và đoàn tùy tùng miền Bắc đến.
Cả hai vị tư lệnh đã biết nhau trong cuộc chiến tranh với Mễ Tây Cơ. Họ đã nhắc lại một thời bên nhau trong quá khứ. Tướng Grant sau này thú nhận là ông rất ngần ngại và thực sự hổ thẹn khi phải hỏi Tướng Lee nói về quyết định đầu hàng.
Theo quy luật chiến tranh thời đó, quân miền Nam phải giải giới, tước bỏ khí giới và quân dụng. Tự do trở về quê cũ như các dân thường. Tướng Lee đồng ý nhưng chỉ đòi hỏi một điều sau cùng là yêu cầu cho binh sĩ của ông được giữ lại lừa ngựa, vì lính miền Nam đem ngựa từ các nông trại của họ đi chiến đấu. Không phải ngựa của chính phủ cấp như lính miền Bắc.
Tướng Grant thỏa hiệp là sẽ không sửa chữa chính thức trên văn bản nhưng thực tế sẽ cho lệnh để lính miền Nam đem lừa ngựa về nhà mà xây dựng lại nông trại.
Phe bại trận có cờ hình gạch chéo
Sau này khi viết về văn bản đầu hàng, lịch sử ghi rằng đây là thỏa hiệp của những người quân tử (The Gentlemen’s Agreement). Trên các bảo tàng viện và đặc biệt là bảo tàng viện ở Appomattox Virginia có tranh sơn dầu hình Tướng Lee hiên ngang quắc thước trong bộ quân phục xanh dương, tóc và râu bạc, thể hiện hình ảnh người Mỹ anh hùng không bị khuất phục dù thua trận. Toàn thể nước Mỹ hiểu rằng khi một người Mỹ bị nhục, thì dù là Mỹ miền Nam hay Mỹ miền Bắc cũng vẫn là một người Mỹ bị sỉ nhục.
Thực vậy, 140 năm sau, cô Mary quản thủ viện bảo tàng đầu hàng đã nói rằng dù hình ảnh của miền Nam hay miền Bắc, lịch sử không muốn ghi lại các hình ảnh xấu xa của bất cứ phe nào.
Ở đây là nơi lưu giữ hình ảnh của các anh hùng miền Nam lẫn miền Bắc. Ðặc biệt là hình ảnh của phe bại trận lại được lưu ý hơn cả phe chiến thắng. Lá cờ rách của miền Nam thua trận treo tại thủ đô Richmond bây giờ lại là bảo vật hào hùng của bảo tàng viện đầu hàng.
Và hình Tướng Lee cưỡi ngựa đi đến nơi họp mặt với đoàn quân nhạc miền Bắc chào đón. Hình Tướng Lee ký tên xong ra đi được sĩ quan và binh sĩ miền Bắc tiễn đưa và vẫy tay chào.
Bây giờ hình tượng của tướng Lee tràn ngập ở miền Nam Virginia. Câu lạc bộ Lee, bảo tàng viện Lee, Lee High Way, Fort Lee và các đồn trại của quân đội liên bang mang tên vị tướng thua trận như là một biểu tượng anh hùng. Bởi vì người Mỹ đã thấm nhuần bài học rất Hoa Kỳ. Bài học của người lính dũng cảm cả hai phe trong chiến tranh và người quân tử của thời hậu chiến.
Trong cuộc nội chiến tại nước Mỹ vào thế kỷ 19, sau cùng được thua thì cũng vẫn là nước Mỹ và người Mỹ.
Chiến thắng của miền Bắc đặt dấu chấm hết cho Liên minh miền Nam cũng như chế độ nô lệ Hoa Kỳ, và làm tăng cường vai trò của chính phủ liên bang. Các vấn đề xã hội, chính trị, kinh tế và chủng tộc của cuộc Nội chiến đã có vai trò quyết định trong việc định hình Thời kỳ Tái thiết, kéo dài đến năm 1877.
Sau bản tuyên ngôn giải phóng nô lệ của Lincoln, khoảng 190 nghìn dân nô lệ tình nguyện tòng quân, quân số của miền Bắc lên gấp bội. Trong khi đó miền nam không dám cho nô lệ nhập ngũ vì sợ đi ngược lại chính sách nô lệ của mình. Quân da đen miền Bắc chiến đấu anh dũng trong nhiều trận then chốt của cuộc nội chiến. Ngoài ra còn có dân di cư từ châu Âu cũng gia nhập quân miền Bắc. Khoảng 23.4% quân miền Bắc có gốc Đức, với gần 216 nghìn sanh tại Đức.
Bài học nghĩa trang và mộ phần của các liệt sĩ phe chiến bại tại Hoa Kỳ.
Tại nước Mỹ có một nghĩa trang quốc gia nổi tiếng khắp thế giới. Ðó là nghĩa trang Arlington. Ðây là nghĩa trang chính thức của liên bang Hoa Kỳ, của người miền Bắc trong trận chiến Bắc Nam.
Sau cuộc nội chiến, các tiểu bang miền Nam có hàng ngàn nghĩa trang lớn nhỏ chôn cất tử sĩ của phe bại trận và trên đó luôn luôn có lá cờ gạch chéo đã một thời tung hoành trên chiến trường.
Nghĩa trang và mộ phần của các liệt sĩ phe chiến bại tại Hoa Kỳ.
Ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, hoàn toàn không có tù binh, ai về nhà đó, cùng xây dựng lại quê hương.
Nghĩa trang bên nào bên đó tự lo lấy, xấu đẹp tùy sức. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là ngay tại nghĩa trang quốc gia của phe miền Bắc ở thủ đô Hoa Thịnh Ðốn có một khu chôn cất tử sĩ miền Nam với tượng đài gọi là Confederate Memorial.
Cũng phải nói rằng, thực sự sau nội chiến, dư vị cay đắng giữa Nam Bắc Hoa Kỳ vẫn còn nhiều. Dễ gì mà trút bỏ hận thù ngay sau khi hai bên chết cả gần một triệu người mà một số lớn đã giết nhau khi giáp mặt bằng gươm dao. Hai phe cùng đốt nhà của nhau và cùng tàn phá đô thị và nông trại, đôi khi có cả những hành động dã man như hãm hiếp phụ nữ và tàn sát trẻ em. Cuộc chiến nào mà không có những lần quá độ.
Năm 1900 tức là gần 40 năm sau cuộc chiến, mở đầu cho giai đoạn hòa giải dân tộc và năm 1991 thì các liệt sĩ miền Nam được cải táng đưa vào một khu đặc biệt trong nghĩa trang Arlington gọi là Confederate Section. Tổng cộng gần 500 mộ phần quây tròn chung quanh một tượng đài do nhà tạc tượng danh tiếng là điêu khắc gia Moses Ezekiel thực hiện.
The Confederate Memorial, Arlington
Trên đỉnh của chân bệ hình vòng cung như nóc Tòa Quốc Hội là hình tượng cao 32 feet của một thiếu phụ tượng trưng cho miền Nam. Ðây là hình ảnh bà mẹ của phe bại trận đã có con trai hy sinh cho cuộc chiến. Phía dưới là bài thơ đại ý như sau:
“Ở đây chẳng có vinh quang hay tưởng lệ.
Ở đây chẳng phải binh đoàn hay cấp bậc.
Ở đây chẳng có tham vọng hay mưu cầu.
Ở đây chỉ đơn thuần là nhiệm vụ.
Những người nằm ở đây đã hiểu rõ
là họ trải qua gian khổ, đã hy sinh
đã liều thân và sau cùng đã chết.”
Ở đây chẳng phải binh đoàn hay cấp bậc.
Ở đây chẳng có tham vọng hay mưu cầu.
Ở đây chỉ đơn thuần là nhiệm vụ.
Những người nằm ở đây đã hiểu rõ
là họ trải qua gian khổ, đã hy sinh
đã liều thân và sau cùng đã chết.”
Ðó là câu chuyện về các tử sĩ của phe thua trận tại Hoa Kỳ.
Bảo tàng viện “Ðầu hàng” và nghĩa trang phe thua trận ở Arlington. Nơi đó thường dạy chúng ta bài học làm người văn minh.
Xem lại lịch sử, chiến cuộc Nam Bắc Hoa Kỳ trong 4 năm rất khốc liệt, máu lửa và ghê gớm vô cùng.
Trong một thời gian ngắn các trận đánh dồn dập, các đô thị bốc cháy lửa cao ngút trời. Cũng tản cư, cũng loạn lạc và chiến tranh để lại các cánh đồng toàn xác chết trong các trận giáp lá cà, đâm chém nhau mặt đối mặt.
Nhưng rồi vết thương nào cũng phải được hàn gắn. Nước Mỹ đã có những bước ngoạn mục đầy màu sắc văn minh ngay từ khi chiến tranh chấm dứt để chấp nhận và tôn trọng người bại trận như những anh hùng.
Tổng thống Obama đến viếng nghĩa trang chung cả thắng và thua
Trong chiến tranh và hậu chiến luôn luôn cần có các nhà lãnh đạo, các tướng lãnh quân tử. Và nhà lãnh đạo quân tử là phải biết xưng tụng các bậc anh hùng trong hàng ngũ kẻ thù, biết nâng người xuống ngựa và biết tôn trọng các tử sĩ của hàng ngũ đối nghịch. Nước Mỹ ngày nay còn hùng mạnh bởi vì biết tôn trọng giá trị của phe đối nghịch.
Trước khi chết, Tổng Thống Lincoln đã nói: “Người ta có thể từ bỏ mọi thứ, nhưng không ai từ bỏ được lịch sử. Trước sau gì, lịch sử của bậc anh hùng sẽ phải được dựng lại ở chính nơi mà những con người vĩ đại đã ngã xuống.”
Ðó là những bài học mà chiến tranh, giết người, đốt nhà, nồi da nấu thịt và sau đó là hành sử của người chiến thắng biết tôn trọng giá trị của kẻ thù đã đem lại cho thế hệ nối tiếp.
———–
Chủ Nhật, 24 tháng 4, 2016
S và S: Cuộc đua 50 năm
Tôi gặp lại cái nóng rang của Sài Gòn vào một chiều cuối tháng 5 ở Singapore, khi bước ra khỏi những toà nhà máy lạnh. Đứng ở Orchard, tôi nhận ra con đường phồn hoa bậc nhất tại đây ngày càng nhiều những cao ốc khách sạn, thương xá mới toanh hay vừa được tân trang, “siêu lộng lẫy”. Cái nắng vàng cuối ngày choáng ngợp trên các ô cửa kính bỗng làm tôi nhớ đến một bức hình chụp Orchard năm 1930, trên bìa một quyển sách bưu ảnh xưa.
Từ hai con đường hoa lệ
Đường Orchard lúc ấy xem ra “một trời, một vực” với bây giờ. Hai bên đường Orchard xưa chỉ có những căn phố hai ba tầng ngắn ngủi và thưa vắng. Và ô hay, trên những khung cửa sổ, la liệt những chiếc sào phất phơ quần áo và những bảng quảng cáo chữ Hoa, chữ Anh. Trên đường Orchard năm đó và cho đến bây giờ không có cây xanh. Bức ảnh chụp thời điểm nào ban ngày không rõ, chỉ thấy đường phố điểm xuyết một vài chiếc xe hơi và xe kéo lặng lẽ. Lạ chưa, người đi bộ đi xuống ngay lòng đường vì dường như vỉa hè đã trở thành nơi bán hàng của các cửa hiệu. Xem chừng, đường Orchard xưa khá bình thường không tấp nập nhộn nhịp như hiện nay. Mặc dầu, đấy vẫn là con đường quan trọng của Singapore, nơi ngự trị tòa dinh thự Istana của Toàn quyền Anh, xây dựng năm 1867.
Và rồi, tôi nhớ đến những bức ảnh chụp đường Charner (sau năm 1954 đổi tên là Nguyễn Huệ) - con đường đô hội số 1 của Sài Gòn. Trong ảnh ở cùng thời điểm 1920-1930, nếu so Charner với Orchard thì đó lại là “một trời, một vực” khác. Đường Charner là Đại lộ (Boulevard) đúng nghĩa với một đường chính và hai đường phụ song song, có đủ hai hàng cây xanh cao lớn. Điểm độc đáo lớn nhất của Charner - không phải thành phố nào cũng có, chính là con đường chạy thẳng từ Tòa thị chính đổ ra công viên dọc bờ sông. Lần lượt từ bờ sông đổ vào là một loạt những kiến trúc nguy nga, khởi đầu bằng Tòa nhà Quan thuế (Hải quan), kế đến là Kho bạc và rồi Thương xá Charner (Thương xá Tax), cuối cùng là Tòa thị chính ra đời năm 1910. Đan xen với những kiến trúc độc đáo ấy, chạy dài hai bên đại lộ là những dãy nhà phố thương mại, nhà hàng, khách sạn, văn phòng công ty, căn hộ, gara xe hơi…Tất cả đều là kiến trúc hai ba tầng với mái ngói xinh xắn, theo kiểu Beau Arts, Gothique… hài hòa và trang nhã.
Trong những hình này, không thấy tòa nhà nào có quần áo treo ngoài cửa sổ, không thấy bảng quảng cáo phô trương lộn xộn. Càng khác với Orchard, giữa vòng xoay giao lộ Charner và Bonard (đường Lê Lợi ngày nay) đối diện với Tòa thị chính có đặt một chiếc “bồn kèn” - nơi cuối tuần quân nhạc đến biểu diễn (những năm 1950, bồn kèn bị thay bằng bồn phun nước khá đẹp nhưng rất tiếc mới đây nó lại bị xóa sổ).
Vật đổi sao dời, Charner và Orchard – hai con đường hoa lệ 85 năm sau đều đổi khác. Orchard hầu như thay đổi hoàn toàn, trở thành một “ lady“ quý phái. Còn Charner - Nguyễn Huệ, vẫn là một tiểu thư kiều diễm nhưng không giấu được đôi nét nhan sắc tàn phai. Than ôi, không chỉ hai con đường, nhìn rộng ra Sài Gòn và Singapore – sau một thế kỷ phát triển song hành đã có nhiều nét khác biệt. Vì sao thế?
Đầu thế kỷ 20, Sài Gòn từng là “Hòn ngọc Viễn Đông” trong mắt người phương Tây. Thế nhưng, đừng quên vùng Đông Á không chỉ có một hòn ngọc duy nhất mà cả vùng hợp lại chính là một chuỗi ngọc lưu ly. Chuỗi ngọc đó có những hòn ngọc xinh đẹp như Tokyo, Thượng Hải, Hồng Kông, Manila, Rangoon, Bangkok…. Trong đó, Singapore và Sài Gòn, hai hòn ngọc kế cận - cách nhau chỉ 90 phút đường bay và khoảng 770 hải lý, đã chia sẻ cùng một định mệnh.
Về mặt địa lý, Singapore là đảo, Sài Gòn là đất liền song cả hai đều có thiên nhiên nhiệt đới, khí hậu ôn hòa. Cả hai tên gọi đều bắt đầu bằng chữ S, đều có dòng sông lớn thẳng đường ra biển. Về mặt lịch sử, cả hai tuy có quá khứ khác nhau nhưng đều lần lượt trở thành thuộc địa của thực dân Tây Âu vào thế kỷ 19. Trong đó, đầu tiên Singapore bị quản trị bởi người Anh vào năm 1819, lúc còn là đảo vắng, chưa có hoạt động kinh tế nào đáng kể. Còn Sài Gòn mãi đến 1859 mới bị người Pháp xâm chiếm khi đã là một kinh thành, một cảng thị sầm uất. Người Anh nhanh chân và may mắn hơn có được một Singapore đất trống hoàn toàn để lên quy hoạch, thiết kế một thành phố mới từ A đến Z. Người Pháp gặp nhiều khó khăn vì vừa phải đối phó với các cuộc phản kháng và nổi dậy của người Việt, vừa dốc sức làm nên thành phố mới trong lúc vẫn phải dung hòa với đô thị cổ Gia Định và Chợ Lớn.
Trong cuộc bươn chải ấy, Sài Gòn không chỉ khai thác được nguồn lực của Paris, mà còn cả Đông Dương. Ngay từ đầu Sài Gòn đã tận dụng được các nguồn lực quốc tế đến từ “Đảo Sư tử” và nhiều nơi khác. Chính các đô đốc Pháp khi mở mang Sài Gòn đã không ngại nhập khẩu cả phương tiện lẫn nhân lực từ các thuộc địa Anh để làm nên một Sài Gòn mới. Năm 1863, chính quyền Pháp mua khung nhà bằng gỗ từ Singapore về để dựng lên “soái phủ”, trước khi chuyển sang xây dựng dinh Norodom (1868-1871) - tiền thân của Dinh Độc lập sau này. Chính quyền Pháp cũng đã cho người Ấn Độ, người Hoa Peranakan từ Singapore, Malaysia đến Sài Gòn khai phá những nghề mà người Việt, người Hoa Chợ lớn chưa từng làm. Nhiều nhà buôn Anh, Trung Hoa, Ấn độ, Nhật Bản và ngay cả Hà Lan, Mỹ đã nhanh chóng đầu tư và làm ăn lâu dài tại Sài Gòn. Những sắc dân tứ xứ hợp cùng người bản địa làm nên một Sài Gòn phồn thịnh, đa dạng đúng như trải nghiệm đã có ở Singapore.
Bước vào đầu thế kỷ 20, sau 50 năm xây dựng, Sài Gòn định hình là một đô thị quốc tế, có phố xá văn minh và cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh. Sài Gòn nhanh chóng trở thành một vị trí giao thương không thể thiếu trên bản đồ thế giới. Thời điểm đó, Sài Gòn sánh vai toàn diện cùng Singapore và trong một số mặt đã có điểm này điểm kia nổi trội, như quản lý đô thị (phố xá, giao thông, xe cộ, sân bay… ) hay cơ sở công nghiệp (đóng tàu, điện nước, may dệt…). Có lẽ, với lợi thế của người đi sau và sự năng động của cả người Pháp, người Việt và các cộng đồng cư dân mà Sài Gòn đã làm nên kỳ tích trên.
Thêm nữa, thành công của Singapore và Sài Gòn vào đầu thế kỷ 20 xét cho cùng chính là nhờ cơ chế vận hành. Cả hai S và S đều được thực dân Anh và Pháp áp dụng chế độ trực trị, đều được coi là tĩnh thành của chính quốc. Nhờ đó Singapore và Sài Gòn đều sử dụng luật lệ, tiêu chuẩn quy hoạch và điều hành thành phố như ở châu Âu. Từng viên gạch xây nhà, từng viên ngói đỏ và hệ thống pháp lý ngay từ buổi đầu đều được nhập khẩu trực tiếp từ London hay Paris. Cả hai thành phố nhanh chóng có Hội đồng Nghị viên, bao gồm người tại chỗ và các viên chức thuộc địa, để tư vấn và giám sát chính quyền - một thiết chế dân chủ còn xa lạ ở phương Đông. Cả hai lần lượt có Luật Ngân sách riêng, có Tòa án, có Cảnh sát, có Nhà hát, Bệnh viện, Trường học và những cơ quan, trang thiết bị cần thiết để “chiếc xe đô thị ” có thể chạy độc lập. Người “tài xế” chiếc xe ấy là những viên chức cai trị “lành nghề” được chọn lựa gắt gao, có thu nhập xứng đáng và làm việc theo nhiệm kỳ. Cơ chế vận hành ấy ngày càng hoàn thiện nhưng rồi qua nửa cuối thế kỷ 20, những biến động của lịch sử đã làm S và S thay đổi theo những hướng khác nhau, cách vận hành khác nhau.
Tháng 6.1940, nước Pháp thua trận, Phát xít Đức tràn vào chiếm đóng. Ở Đông Dương, tháng 9.1940, Phát xít Nhật chiếm Lạng Sơn, ném bom Hải Phòng, Thực dân Pháp nhường bước, mở cửa cho Nhật vào chiếm đóng. Sài Gòn trở thành nơi đặt đại bản doanh của quân Nhật chỉ huy toàn khu vực Đông Nam Á. Tháng 2.1942, Nhật dội bom tàn khốc, quân Anh thất trận, Phát xít Nhật chiếm trọn Singapore. Chiến tranh thế giới thứ Hai kết thúc, người Anh trở lại Singapore trong khung cảnh thanh bình nhưng người Pháp lại dấy lên cơn binh lửa mới ở Đông Dương. Từ ấy Sài Gòn và cả Việt Nam lâm vào cảnh đình đốn và phát triển chậm lại, suốt chín năm chiến tranh. Từ năm 1954 đến 1965, Sài Gòn có được mười năm hồi phục, dần trở lại hình ảnh Hòn ngọc Viễn Đông duyên dáng và nhộn nhịp. Nhưng rồi, chiến tranh lại bùng nổ khốc liệt, Sài Gòn vừa trở thành căn cứ hậu cần khổng lồ của nửa triệu quân Mỹ, vừa trở thành tiền tuyến sôi động, nhất là sau tết Mậu Thân 1968. Sài Gòn mất đi nhiều cơ hội để lớn mạnh.
Với Singapore, giai đoạn 1945 -1965 là thời gian bươn chải vượt lên nhiều cuộc khủng hoảng chính trị, sắc tộc và kinh tế. Bằng thể chế bầu cử dân chủ do người dân đấu tranh giành được, Singapore đã nỗ lực và tự tin chuyển từ chính quyền tự trị trong liên bang sang chính quyền quốc gia độc lập, tách khỏi Malaysia. Cộng hòa Singapore ra đời cách đây 50 năm với nguồn lực quý giá nhất là con người, đặc biệt có được một đảng cầm quyền quyết liệt cải cách đất nước. Từ 1965 - 1995, Singapore tạo ra cơ chế vận hành mới, định hướng phát triển không cào bằng, xây dựng những mũi nhọn cạnh tranh với khu vực và thế giới. Từ một đô thị chỉ dựa vào cảng biển và làm hậu cần cho quân đội Anh với một số công nghiệp, dịch vụ thông thường, Singapore nhanh chóng tập trung phát triển công nghiệp kho vận, hóa dầu, hàng không, viễn thông, điện tử… Singapore còn dồn sức xây dựng công nghiệp tài chính - ngân hàng, chạy đua với Hồng Kông và Tokyo. Người Singapore tỏa ra khắp thế giới học hỏi và thu hút từ cây xanh đến kinh nghiệm quản lý đô thị và nhân lực chất lượng cao. Ba mươi năm bươn chải sáng tạo đã làm nên một diện mạo Singapore hiện đại, ngang hàng với các đô thị trung tâm Âu Mỹ. Những hình ảnh xưa cũ về một Singapore đan xen giữa giàu sang với lam lũ và nhếch nhác đã lùi nhanh vào quá khứ.
Năm 1994, lần đầu đến Singapore tôi chứng kiến một đô thị nóng bức quanh năm nhưng rất xanh và sạch. Hệ thống xe điện MRT ngày ấy mới khai trương có các toa xe và nhà ga sang trọng và an toàn. Các Viện Đại học công lập NUS và NTU có cơ sở rộng lớn, nhộn nhịp sinh viên và giảng viên nhiều nước, bắt đầu đĩnh đạc đi vào danh sách các đại học Top thế giới. Hàng ngàn công ty đa quốc gia đặt hãng xưởng và trụ sở khu vực ở Singapore. Trong đó nhiều công ty Mỹ đã gởi đến gần một trăm chuyên viên Việt kiều làm nên một cộng đồng nói tiếng Việt ở Singapore, từ trước lúc Mỹ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Lúc ấy, một biểu tượng về sự cất cánh của Singapore chính là sân bay Changi. Đây là sân bay mới xây dựng trên nền đất lấn biển từ năm 1981, tấp nập hàng trăm chuyến bay một tuần. Đến năm 1988, Changi được bình bầu là sân bay số một thế giới.
Trong lúc Singapore phát triển vũ bão như thế thì mười năm đầu sau chiến tranh, sân bay Tân Sơn Nhất và cả Sài Gòn chuyển thành một “ga xép” với nhiều ký ức buồn. Sau 1975, Sài Gòn được vận hành bởi một cơ chế chung, quản lý sai và duy ý chí, thiếu vắng hình bóng của thị trường và ý nguyện của người dân. Cơ sở hạ tầng của thành phố hư hao, xuống cấp trầm trọng. Thành phố ba triệu dân loay hoay chạy gạo trong vòng “ngăn sông, cấm chợ”. Hoạt động công nghiệp, giao thương, du lịch chỉ quẩn quanh nội địa và khối COMECON. Nhân tâm ly tán, nhiều người phải ra đi, trong đó nhiều tư sản người Hoa, người Ấn Độ không đi đâu xa mà dừng chân ở Singapore, dựng lại cơ đồ. May mắn và không thể nào khác, chính những người lãnh đạo cấp tiến và người dân Sài Gòn năng động đã đi tiên phong trong chuyện “xé rào”, “tháo gỡ”, phản kháng quyết liệt với cơ chế quan liêu bao cấp. Những năm 1986 - 1995 là những năm Sài Gòn cùng cả nước chòi đạp dữ dội để vừa xác lập cơ chế mới, vừa đấu tranh thoát khỏi bao vây và cấm vận.
Sài Gòn và cả nước đã thành công khi mở được cánh cửa Đổi Mới, về lại với kinh tế thị trường, về lại với liên thông quốc tế. Thú vị thay, Singapore lại trở thành một trong những đột phá khẩu đầu tiên, một đầu cầu quan trọng để Sài Gòn và Việt Nam ra bên ngoài. Năm 1992, lãnh đạo Singapore đã được thuyết phục bằng thực tế năng động của Sài Gòn và các chính sách Đổi Mới của cả nước để quyết định bãi bỏ cấm vận Việt Nam, tái lập bang giao, đúng ba năm trước khi người Mỹ làm chuyện này.
***
Hiện giờ, mỗi năm Singapore đang đón gần nửa triệu lượt người Việt Nam đi chơi, đi học và làm việc. Nhiều người trong họ đến từ Sài Gòn, hẳn đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc của Singapore và không thể không tự hỏi: đến khi nào Sài Gòn ngang hàng với Singapore?
Ở thời điểm 2015, khi kinh tế thế giới và khu vực đang hồi phục, cộng đồng kinh tế ASEAN sắp ra đời thì đó chính là thời điểm S và S trở lại cuộc đua “The Tales of two cities ” trước đây. Nói đúng hơn, Sài Gòn phải là người nghĩ ra cuộc đua đó để cố gắng bắt kịp Singapore đang bỏ xa phía trước. Khoảng cách S và S ngày nay không chỉ đo bằng GDP hay doanh thu công nghiệp và du lịch. Ở thế kỷ 21, Singapore đã tăng tốc tiến sang những lĩnh vực phát triển mới như công nghiệp sinh học, công nghiệp giải trí và ngay cả du lịch chất lượng cao. Thêm nữa, trong văn hóa và giáo dục, Singapore đã và đang tạo nên nhiều thành tích cao, kể cả trong lĩnh vực an sinh. Hãy chờ xem tháng 8 này, nhân kỷ niệm 50 năm lập quốc, Singapore sẽ công bố những thành tựu và đích đến tương lai như thế nào. Và rồi, người Sài Gòn lại thêm một lần suy nghĩ, chính quyền và xã hội của mình sẽ cần đến những mục tiêu phát triển cụ thể ra sao cho cuộc bươn chải 10 - 20 năm tới, trong tương quan với thành phố Sư tử láng giềng.
Mọi so sánh đều khập khiễng, nhất là so sánh quá khứ và tương lai. Nhưng so sánh những mô hình phát triển, những cơ chế vận hành khác nhau vẫn là cách cần thiết để chúng ta học hỏi nhằm tránh những phút giây tự huyễn hoặc mình, hay chỉ biết “tự sướng” trong những giấc mơ cô đơn, không đi cùng nhân loại.
Bài và ảnh: Phúc Tiến
(*): Tiểu thuyết xuất bản năm 1859, với hơn 200 triệu bản bán ra, được Charles Dickens viết tại London và Paris trước và trong cuộc Cách mạng Pháp, mô tả hoàn cảnh tương đồng xã hội ở London và Paris.
Đường Orchard lúc ấy xem ra “một trời, một vực” với bây giờ. Hai bên đường Orchard xưa chỉ có những căn phố hai ba tầng ngắn ngủi và thưa vắng. Và ô hay, trên những khung cửa sổ, la liệt những chiếc sào phất phơ quần áo và những bảng quảng cáo chữ Hoa, chữ Anh. Trên đường Orchard năm đó và cho đến bây giờ không có cây xanh. Bức ảnh chụp thời điểm nào ban ngày không rõ, chỉ thấy đường phố điểm xuyết một vài chiếc xe hơi và xe kéo lặng lẽ. Lạ chưa, người đi bộ đi xuống ngay lòng đường vì dường như vỉa hè đã trở thành nơi bán hàng của các cửa hiệu. Xem chừng, đường Orchard xưa khá bình thường không tấp nập nhộn nhịp như hiện nay. Mặc dầu, đấy vẫn là con đường quan trọng của Singapore, nơi ngự trị tòa dinh thự Istana của Toàn quyền Anh, xây dựng năm 1867.
Hình ảnh Orchard road năm 1930 trên sách 500 bức Bưu ảnh xưa của Singapore và Đại lộ Charner thời điểm 1925 -1930 (sau năm 1954 đổi tên là đường Nguyễn Huệ). Ảnh: TL
Và rồi, tôi nhớ đến những bức ảnh chụp đường Charner (sau năm 1954 đổi tên là Nguyễn Huệ) - con đường đô hội số 1 của Sài Gòn. Trong ảnh ở cùng thời điểm 1920-1930, nếu so Charner với Orchard thì đó lại là “một trời, một vực” khác. Đường Charner là Đại lộ (Boulevard) đúng nghĩa với một đường chính và hai đường phụ song song, có đủ hai hàng cây xanh cao lớn. Điểm độc đáo lớn nhất của Charner - không phải thành phố nào cũng có, chính là con đường chạy thẳng từ Tòa thị chính đổ ra công viên dọc bờ sông. Lần lượt từ bờ sông đổ vào là một loạt những kiến trúc nguy nga, khởi đầu bằng Tòa nhà Quan thuế (Hải quan), kế đến là Kho bạc và rồi Thương xá Charner (Thương xá Tax), cuối cùng là Tòa thị chính ra đời năm 1910. Đan xen với những kiến trúc độc đáo ấy, chạy dài hai bên đại lộ là những dãy nhà phố thương mại, nhà hàng, khách sạn, văn phòng công ty, căn hộ, gara xe hơi…Tất cả đều là kiến trúc hai ba tầng với mái ngói xinh xắn, theo kiểu Beau Arts, Gothique… hài hòa và trang nhã.
Trong những hình này, không thấy tòa nhà nào có quần áo treo ngoài cửa sổ, không thấy bảng quảng cáo phô trương lộn xộn. Càng khác với Orchard, giữa vòng xoay giao lộ Charner và Bonard (đường Lê Lợi ngày nay) đối diện với Tòa thị chính có đặt một chiếc “bồn kèn” - nơi cuối tuần quân nhạc đến biểu diễn (những năm 1950, bồn kèn bị thay bằng bồn phun nước khá đẹp nhưng rất tiếc mới đây nó lại bị xóa sổ).
Vật đổi sao dời, Charner và Orchard – hai con đường hoa lệ 85 năm sau đều đổi khác. Orchard hầu như thay đổi hoàn toàn, trở thành một “ lady“ quý phái. Còn Charner - Nguyễn Huệ, vẫn là một tiểu thư kiều diễm nhưng không giấu được đôi nét nhan sắc tàn phai. Than ôi, không chỉ hai con đường, nhìn rộng ra Sài Gòn và Singapore – sau một thế kỷ phát triển song hành đã có nhiều nét khác biệt. Vì sao thế?
Singapore phát triển hài hòa giữa cổ xưa và hiện đại.
Hai hòn ngọc kế cận và cuộc chạy đua 50 nămĐầu thế kỷ 20, Sài Gòn từng là “Hòn ngọc Viễn Đông” trong mắt người phương Tây. Thế nhưng, đừng quên vùng Đông Á không chỉ có một hòn ngọc duy nhất mà cả vùng hợp lại chính là một chuỗi ngọc lưu ly. Chuỗi ngọc đó có những hòn ngọc xinh đẹp như Tokyo, Thượng Hải, Hồng Kông, Manila, Rangoon, Bangkok…. Trong đó, Singapore và Sài Gòn, hai hòn ngọc kế cận - cách nhau chỉ 90 phút đường bay và khoảng 770 hải lý, đã chia sẻ cùng một định mệnh.
Về mặt địa lý, Singapore là đảo, Sài Gòn là đất liền song cả hai đều có thiên nhiên nhiệt đới, khí hậu ôn hòa. Cả hai tên gọi đều bắt đầu bằng chữ S, đều có dòng sông lớn thẳng đường ra biển. Về mặt lịch sử, cả hai tuy có quá khứ khác nhau nhưng đều lần lượt trở thành thuộc địa của thực dân Tây Âu vào thế kỷ 19. Trong đó, đầu tiên Singapore bị quản trị bởi người Anh vào năm 1819, lúc còn là đảo vắng, chưa có hoạt động kinh tế nào đáng kể. Còn Sài Gòn mãi đến 1859 mới bị người Pháp xâm chiếm khi đã là một kinh thành, một cảng thị sầm uất. Người Anh nhanh chân và may mắn hơn có được một Singapore đất trống hoàn toàn để lên quy hoạch, thiết kế một thành phố mới từ A đến Z. Người Pháp gặp nhiều khó khăn vì vừa phải đối phó với các cuộc phản kháng và nổi dậy của người Việt, vừa dốc sức làm nên thành phố mới trong lúc vẫn phải dung hòa với đô thị cổ Gia Định và Chợ Lớn.
Không chỉ có London là nơi hỗ trợ, Singapore còn nhận được chi viện đáng kể, gần gũi của các thuộc địa khác trong vùng của Anh như: Penang -1786, Malacca – 1824 và Hồng Kông - 1842. Chính từ những nguồn lực vật chất và bề dày thời gian như thế, vào đầu thế kỷ 20, Singapore từ một chấm đỏ vô danh đã trở thành cảng thị phồn hoa, một London nhỏ ở Viễn Đông. Thế nhưng, vào cùng thời điểm ấy, lại nổi lên Sài Gòn cũng là một cảng thị náo nhiệt cùng cỡ, một Paris nhỏ yêu kiều. Giá mà văn hào Charles Disken (1812 - 1870) đến được Singapore và Sài Gòn thời ấy hẳn là ông sẽ có cảm hứng để viết một tiểu thuyết mới cùng mang tên “The Tales of Two cities” (*). Quyển tiểu thuyết sẽ kể chuyện cuộc bươn chải của London nhỏ và Paris nhỏ diễn ra như thế nào.
So sánh những mô hình phát triển, những cơ chế vận hành khác nhau là cách cần thiết để học hỏi, nhằm tránh những phút giây tự huyễn hoặc mình, hay chỉ biết “tự sướng” trong những giấc mơ cô đơn, không đi cùng nhân loại. |
Bước vào đầu thế kỷ 20, sau 50 năm xây dựng, Sài Gòn định hình là một đô thị quốc tế, có phố xá văn minh và cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh. Sài Gòn nhanh chóng trở thành một vị trí giao thương không thể thiếu trên bản đồ thế giới. Thời điểm đó, Sài Gòn sánh vai toàn diện cùng Singapore và trong một số mặt đã có điểm này điểm kia nổi trội, như quản lý đô thị (phố xá, giao thông, xe cộ, sân bay… ) hay cơ sở công nghiệp (đóng tàu, điện nước, may dệt…). Có lẽ, với lợi thế của người đi sau và sự năng động của cả người Pháp, người Việt và các cộng đồng cư dân mà Sài Gòn đã làm nên kỳ tích trên.
Thêm nữa, thành công của Singapore và Sài Gòn vào đầu thế kỷ 20 xét cho cùng chính là nhờ cơ chế vận hành. Cả hai S và S đều được thực dân Anh và Pháp áp dụng chế độ trực trị, đều được coi là tĩnh thành của chính quốc. Nhờ đó Singapore và Sài Gòn đều sử dụng luật lệ, tiêu chuẩn quy hoạch và điều hành thành phố như ở châu Âu. Từng viên gạch xây nhà, từng viên ngói đỏ và hệ thống pháp lý ngay từ buổi đầu đều được nhập khẩu trực tiếp từ London hay Paris. Cả hai thành phố nhanh chóng có Hội đồng Nghị viên, bao gồm người tại chỗ và các viên chức thuộc địa, để tư vấn và giám sát chính quyền - một thiết chế dân chủ còn xa lạ ở phương Đông. Cả hai lần lượt có Luật Ngân sách riêng, có Tòa án, có Cảnh sát, có Nhà hát, Bệnh viện, Trường học và những cơ quan, trang thiết bị cần thiết để “chiếc xe đô thị ” có thể chạy độc lập. Người “tài xế” chiếc xe ấy là những viên chức cai trị “lành nghề” được chọn lựa gắt gao, có thu nhập xứng đáng và làm việc theo nhiệm kỳ. Cơ chế vận hành ấy ngày càng hoàn thiện nhưng rồi qua nửa cuối thế kỷ 20, những biến động của lịch sử đã làm S và S thay đổi theo những hướng khác nhau, cách vận hành khác nhau.
Đường Nguyễn Huệ mới với diện mạo phố đi bộ.
Chiến tranh, rào chắn và tầm nhìnTháng 6.1940, nước Pháp thua trận, Phát xít Đức tràn vào chiếm đóng. Ở Đông Dương, tháng 9.1940, Phát xít Nhật chiếm Lạng Sơn, ném bom Hải Phòng, Thực dân Pháp nhường bước, mở cửa cho Nhật vào chiếm đóng. Sài Gòn trở thành nơi đặt đại bản doanh của quân Nhật chỉ huy toàn khu vực Đông Nam Á. Tháng 2.1942, Nhật dội bom tàn khốc, quân Anh thất trận, Phát xít Nhật chiếm trọn Singapore. Chiến tranh thế giới thứ Hai kết thúc, người Anh trở lại Singapore trong khung cảnh thanh bình nhưng người Pháp lại dấy lên cơn binh lửa mới ở Đông Dương. Từ ấy Sài Gòn và cả Việt Nam lâm vào cảnh đình đốn và phát triển chậm lại, suốt chín năm chiến tranh. Từ năm 1954 đến 1965, Sài Gòn có được mười năm hồi phục, dần trở lại hình ảnh Hòn ngọc Viễn Đông duyên dáng và nhộn nhịp. Nhưng rồi, chiến tranh lại bùng nổ khốc liệt, Sài Gòn vừa trở thành căn cứ hậu cần khổng lồ của nửa triệu quân Mỹ, vừa trở thành tiền tuyến sôi động, nhất là sau tết Mậu Thân 1968. Sài Gòn mất đi nhiều cơ hội để lớn mạnh.
Với Singapore, giai đoạn 1945 -1965 là thời gian bươn chải vượt lên nhiều cuộc khủng hoảng chính trị, sắc tộc và kinh tế. Bằng thể chế bầu cử dân chủ do người dân đấu tranh giành được, Singapore đã nỗ lực và tự tin chuyển từ chính quyền tự trị trong liên bang sang chính quyền quốc gia độc lập, tách khỏi Malaysia. Cộng hòa Singapore ra đời cách đây 50 năm với nguồn lực quý giá nhất là con người, đặc biệt có được một đảng cầm quyền quyết liệt cải cách đất nước. Từ 1965 - 1995, Singapore tạo ra cơ chế vận hành mới, định hướng phát triển không cào bằng, xây dựng những mũi nhọn cạnh tranh với khu vực và thế giới. Từ một đô thị chỉ dựa vào cảng biển và làm hậu cần cho quân đội Anh với một số công nghiệp, dịch vụ thông thường, Singapore nhanh chóng tập trung phát triển công nghiệp kho vận, hóa dầu, hàng không, viễn thông, điện tử… Singapore còn dồn sức xây dựng công nghiệp tài chính - ngân hàng, chạy đua với Hồng Kông và Tokyo. Người Singapore tỏa ra khắp thế giới học hỏi và thu hút từ cây xanh đến kinh nghiệm quản lý đô thị và nhân lực chất lượng cao. Ba mươi năm bươn chải sáng tạo đã làm nên một diện mạo Singapore hiện đại, ngang hàng với các đô thị trung tâm Âu Mỹ. Những hình ảnh xưa cũ về một Singapore đan xen giữa giàu sang với lam lũ và nhếch nhác đã lùi nhanh vào quá khứ.
Năm 1994, lần đầu đến Singapore tôi chứng kiến một đô thị nóng bức quanh năm nhưng rất xanh và sạch. Hệ thống xe điện MRT ngày ấy mới khai trương có các toa xe và nhà ga sang trọng và an toàn. Các Viện Đại học công lập NUS và NTU có cơ sở rộng lớn, nhộn nhịp sinh viên và giảng viên nhiều nước, bắt đầu đĩnh đạc đi vào danh sách các đại học Top thế giới. Hàng ngàn công ty đa quốc gia đặt hãng xưởng và trụ sở khu vực ở Singapore. Trong đó nhiều công ty Mỹ đã gởi đến gần một trăm chuyên viên Việt kiều làm nên một cộng đồng nói tiếng Việt ở Singapore, từ trước lúc Mỹ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Lúc ấy, một biểu tượng về sự cất cánh của Singapore chính là sân bay Changi. Đây là sân bay mới xây dựng trên nền đất lấn biển từ năm 1981, tấp nập hàng trăm chuyến bay một tuần. Đến năm 1988, Changi được bình bầu là sân bay số một thế giới.
Trong lúc Singapore phát triển vũ bão như thế thì mười năm đầu sau chiến tranh, sân bay Tân Sơn Nhất và cả Sài Gòn chuyển thành một “ga xép” với nhiều ký ức buồn. Sau 1975, Sài Gòn được vận hành bởi một cơ chế chung, quản lý sai và duy ý chí, thiếu vắng hình bóng của thị trường và ý nguyện của người dân. Cơ sở hạ tầng của thành phố hư hao, xuống cấp trầm trọng. Thành phố ba triệu dân loay hoay chạy gạo trong vòng “ngăn sông, cấm chợ”. Hoạt động công nghiệp, giao thương, du lịch chỉ quẩn quanh nội địa và khối COMECON. Nhân tâm ly tán, nhiều người phải ra đi, trong đó nhiều tư sản người Hoa, người Ấn Độ không đi đâu xa mà dừng chân ở Singapore, dựng lại cơ đồ. May mắn và không thể nào khác, chính những người lãnh đạo cấp tiến và người dân Sài Gòn năng động đã đi tiên phong trong chuyện “xé rào”, “tháo gỡ”, phản kháng quyết liệt với cơ chế quan liêu bao cấp. Những năm 1986 - 1995 là những năm Sài Gòn cùng cả nước chòi đạp dữ dội để vừa xác lập cơ chế mới, vừa đấu tranh thoát khỏi bao vây và cấm vận.
Sài Gòn và cả nước đã thành công khi mở được cánh cửa Đổi Mới, về lại với kinh tế thị trường, về lại với liên thông quốc tế. Thú vị thay, Singapore lại trở thành một trong những đột phá khẩu đầu tiên, một đầu cầu quan trọng để Sài Gòn và Việt Nam ra bên ngoài. Năm 1992, lãnh đạo Singapore đã được thuyết phục bằng thực tế năng động của Sài Gòn và các chính sách Đổi Mới của cả nước để quyết định bãi bỏ cấm vận Việt Nam, tái lập bang giao, đúng ba năm trước khi người Mỹ làm chuyện này.
***
Hiện giờ, mỗi năm Singapore đang đón gần nửa triệu lượt người Việt Nam đi chơi, đi học và làm việc. Nhiều người trong họ đến từ Sài Gòn, hẳn đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc của Singapore và không thể không tự hỏi: đến khi nào Sài Gòn ngang hàng với Singapore?
Ở thời điểm 2015, khi kinh tế thế giới và khu vực đang hồi phục, cộng đồng kinh tế ASEAN sắp ra đời thì đó chính là thời điểm S và S trở lại cuộc đua “The Tales of two cities ” trước đây. Nói đúng hơn, Sài Gòn phải là người nghĩ ra cuộc đua đó để cố gắng bắt kịp Singapore đang bỏ xa phía trước. Khoảng cách S và S ngày nay không chỉ đo bằng GDP hay doanh thu công nghiệp và du lịch. Ở thế kỷ 21, Singapore đã tăng tốc tiến sang những lĩnh vực phát triển mới như công nghiệp sinh học, công nghiệp giải trí và ngay cả du lịch chất lượng cao. Thêm nữa, trong văn hóa và giáo dục, Singapore đã và đang tạo nên nhiều thành tích cao, kể cả trong lĩnh vực an sinh. Hãy chờ xem tháng 8 này, nhân kỷ niệm 50 năm lập quốc, Singapore sẽ công bố những thành tựu và đích đến tương lai như thế nào. Và rồi, người Sài Gòn lại thêm một lần suy nghĩ, chính quyền và xã hội của mình sẽ cần đến những mục tiêu phát triển cụ thể ra sao cho cuộc bươn chải 10 - 20 năm tới, trong tương quan với thành phố Sư tử láng giềng.
Mọi so sánh đều khập khiễng, nhất là so sánh quá khứ và tương lai. Nhưng so sánh những mô hình phát triển, những cơ chế vận hành khác nhau vẫn là cách cần thiết để chúng ta học hỏi nhằm tránh những phút giây tự huyễn hoặc mình, hay chỉ biết “tự sướng” trong những giấc mơ cô đơn, không đi cùng nhân loại.
Bài và ảnh: Phúc Tiến
(*): Tiểu thuyết xuất bản năm 1859, với hơn 200 triệu bản bán ra, được Charles Dickens viết tại London và Paris trước và trong cuộc Cách mạng Pháp, mô tả hoàn cảnh tương đồng xã hội ở London và Paris.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)