Thứ Năm, 30 tháng 9, 2021

Bàn về sự học của người Việt Nam: “Nhân tài tài năng” và “Nhân tài thi cử”

  

Lời Ban biên tập (BBT): Tiến sĩ Bùi Trân Phượng là một nhà giáo, nhà quản lý giáo dục được ghi nhận qua nhiều danh hiệu cao quý như “Vì sự nghiệp văn hóa và giáo dục”; được chính phủ Cộng hòa Pháp trao Huân chương Bắc đẩu bội tinh, Huân chương Quốc công. Là thành viên hội đồng trường ĐH TBD, bà góp phần phát triển Thái Bình Dương thành một trường đại học cách tân, trách nhiệm và tự do học thuật.
BBT đăng lại bài phỏng vấn TS Bùi Trân Phượng “Bàn về sự học của người Việt Nam: “Nhân tài tài năng” và “Nhân tài thi cử” trên mục Đối thoại và Suy ngẫm của báo An Ninh Thế Giới cuối tháng số 241 tháng 9/2021 do nhà báo Phan Đăng thực hiện.

Những ngày giãn cách xã hội, quan sát các em học sinh liên tục học online và trả bài online tôi đột nhiên nghĩ nhiều về sự học của người Việt xưa nay. Ai cũng nói là người Việt có truyền thống hiếu học, hiểu theo nghĩa là học mọi nơi, mọi cách, mọi kiểu. Vậy thì suy cho cùng những sản phẩm giáo dục được tạo ra từ “cơ chế hiếu học” có tính chất cha truyền con nối qua nhiều thế hệ – nếu chúng ta tin như thế, đã thể hiện mình như thế nào?

Nhìn rộng ra thế giới, liệu có dân tộc nào lại tự nhận mình có truyền thống “lười học” không? Thật vui khi được trao đổi cởi mở tất cả những suy ngẫm này với nhà sử học, nhà giáo, tiến sĩ Bùi Trân Phượng.



Tiến sĩ Bùi Trân Phượng – thành viên Hội đồng trường ĐH TBD

Học để làm gì?

– Nhà báo Phan Đăng: Thưa tiến sĩ Bùi Trân Phượng, xin bắt đầu bằng một câu hỏi rất thời sự thôi, quá trình dạy học online trong suốt những ngày vừa qua đã đem tới cho bà một cảm giác như thế nào?

– Tiến sĩ Bùi Trân Phượng: Cháu tôi học lớp một trường Yersin ở Hà Nội, bài tập là sáng tác một truyện cổ tích theo dạng trả lời câu hỏi do mỗi cháu tự đặt ra, theo kiểu: Vì sao hươu cao cổ có cái cổ dài? Vì sao khủng long bạo chúa trở thành con gà mái? v.v… Qua đó, các cháu vận dụng kiến thức tự học hay trí tưởng tượng phong phú của mình, học viết tiếng Pháp đúng ngữ pháp, rồi đọc diễn cảm bài mình đã viết, vẽ tranh minh họa. Thầy tập hợp bài tập của lớp thành cuốn sách nói vô cùng sinh động. Như vậy, dù trực tuyến, các cháu đã thỏa sức sáng tạo và tương tác, học và vui với tác phẩm của chính mình và các bạn.

Nhưng sẽ có bao nhiêu thầy cô của ta tận dụng được công nghệ theo kiểu đó? Vì vậy, nỗi lo lớn hơn là: học trực tuyến thì chất lượng dạy và học không đồng đều, do thầy và trò có đủ thiết bị phù hợp tới mức nào; do môi trường học tập tại nhà của trẻ có chất lượng rất chênh lệch nhau; do kiến thức, năng lực và từ đó hiệu quả dạy và học trực tuyến càng chênh lệch. Bất bình đẳng trong chất lượng giáo dục mà trẻ mầm non và học sinh phổ thông thực sự nhận được sẽ gia tăng nghiêm trọng, với những dạng thức không dễ dàng nhận biết.

– Nhà báo Phan Đăng: Tôi nghĩ, muốn học online tốt, người học phải có một tinh thần tự giác rất cao. Có phải thế không ạ?

– Tiến sĩ Bùi Trân Phượng: Đúng quá! Điều đáng lo là nhiều học sinh Việt Nam chưa được chuẩn bị tốt để có tinh thần tự giác như vậy.

– Nhà báo Phan Đăng: Giờ thì chúng ta hãy lật dở dòng lịch sử để xem tinh thần học tập của ông cha ta như thế nào. Tôi nghĩ rằng bảo ông cha chúng ta có truyền thống hiếu học cũng đúng, vì có quá nhiều câu chuyện chứng minh cho điều này rồi. Nhưng nhìn rộng ra thế giới, tôi nghĩ để có thể tồn tại được cho đến nửa bán thế kỷ 21 thì về cơ bản dân tộc nào cũng hiếu học cả. Hình như chẳng có dân tộc nào lại tự nhận mình có truyền thống lười học, phải không ạ?

– Tiến sĩ Bùi Trân Phượng: Nhìn nhận thì chắc là không. Tôi cũng không có cơ sở nào để đánh giá mức độ lười học hay ham học của các cộng đồng. Tuy nhiên, cộng đồng hiếu học phải chăng là những cộng đồng không chỉ sống lâu đời trên địa bàn cư trú của mình mà còn biết học hỏi, thích nghi, sử dụng các nguồn lực thiên nhiên một cách hợp lý, có lợi nhất cho sự phát triển bền vững của cộng đồng ấy; biết học hỏi hiệu quả, tiếp biến văn hóa thành công từ việc giao thoa với nhiều nền văn hóa khác, dủ giao thoa đó diễn ra thông qua di dân tự nhiên hay cưỡng chế, giao thương hòa bình hay xung đột, chiến tranh và thuộc địa?



Thầy đồ và học trò (ảnh tư liệu)

– Nhà báo Phan Đăng: Theo tôi có 2 mục tiêu cơ bản của sự học. Một là học để thoả mãn những cựa quậy tri thức ở bên trong con người cá nhân của mình. Càng cựa quậy người ta càng phải đào cùng tát cạn những tri kiến nhân gian, cho tới khi đạt được trạng thái tương đối thoả lòng mới thôi. Hai là học để phấn đấu cho một mục tiêu nào đó, ví dụ như để có quyền vị, chức tước. Theo bà, nhìn một cách tổng thể và tương đối thôi, ông cha chúng ta nghiêng về phía nào nhiều hơn?

– Tiến sĩ Bùi Trân Phượng: Cho dù chỉ nhìn tổng thể và tương đối thôi (cười), tôi e là không chỉ có hai mục tiêu mà thực tế có rất nhiều trạng thái trung gian, hoặc ra ngoài hai xu hướng đó. Nên nhớ chữ đầu tiên “thầy Khổng” dạy, chính là học. Khổng Tử từng nói: “Kẻ mà ta giúp giở một góc lên mà không biết tự mình giở ba góc còn lại, kẻ ấy không đáng cho ta dạy.” Cũng chính ông tự định nghĩa mình là người “học không biết chán, dạy người không biết mỏi”. Ông cha ta từng nằm lòng Luận ngữ, lẽ nào đều không ít nhiều chia sẻ tinh thần hiếu học đúng cái nghĩa tốt đẹp như vậy? Cũng như chia sẻ lý tưởng học để làm người, vì “nhân bất học bất tri lý”, như “ngọc kia chẳng giũa chẳng mài, cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi”. Hồi nhỏ, tôi được học như vậy, và đó là quan niệm phổ biến trong xã hội miền Nam trước 1975, cũng như từ bao đời trước.

Giáo sư Trần Văn Khê kể khi người lớn hỏi đi học để làm gì, cậu học trò tiểu học là ông trả lời vanh vách: “Con đi học để lớn lên có ích cho nhân quần xã hội.” Tôi cho đó là phần tốt đẹp trong truyền thống hiếu học mà chúng ta kế thừa từ Nho giáo: ý thức trách nhiệm xã hội. Ông Bộ trưởng Giáo dục Tharman Shanmugaratnam của Singapore từng tổng kết với tác giả Fareed Zakaria của quyển Biện hộ cho một nền giáo dục khai phóng là cả Singapore và Hoa Kỳ đều có chế độ nhân tài, nhưng Hoa Kỳ là chế độ “nhân tài tài năng”, còn Singapore là “nhân tài thi cử”. Điều đó đúng với nhiều quốc gia Đông Á.

– Nhà báo Phan Đăng: Thật ra cũng chẳng riêng gì Việt Nam, truyền thống Nho giáo khiến nhiều nước Á Đông nuôi dưỡng cơ chế học để thi cử, học để làm quan, vì trong xã hội phong kiến phương Đông thì làm quan gần như là cửa đổi đời duy nhất. Gần như không còn cách lựa chọn nào khả dĩ hơn. Nhưng đứng ở góc độ học thuật thuần tuý, bà thấy kiểu học này có gì hay và chưa hay?

– Tiến sĩ Bùi Trân Phượng: Học trò nhiều năm liền nấu sử sôi kinh là “quyết ném thanh khâm sang cẩm tú, quyết xoay bạch ốc lại lâu đài”, tức muốn từ người học trò nghèo thành ông quan hiển đạt. Đã là học để thi, dễ dẫn đến học giản lược, học thuộc lòng, học để trả bài, viết không để diễn đạt suy nghĩ riêng của mình mà chỉ lặp lại giáo điều sách vở, sáo ngữ rỗng. Nội dung học và thi suốt hơn 400 năm độc tôn Tống Nho chỉ gò bó trong Tứ thư, Ngũ kinh, không đa chiều, tranh biện như thời Bách gia chư tử của Trung Hoa hay như thời Lý, Trần của ta còn thi tam giáo; cũng không có tri thức khoa học kỹ thuật.

Nhiều quy định khắc nghiệt về trường quy, kỵ húy càng khiến người ta tự ép mình vào khuôn khổ. Mỗi kỳ thi, số lấy đậu không nhiều, thường chỉ khoảng 40-50 trên số 5000 đến 6 000 người thi vào những năm thịnh nhất của khoa cử; nên nhiều người thi đi thi lại cũng chỉ dừng ở Tú Kép, Tú Mền, lãng phí nhân lực và hoài bão, đến nỗi người ta coi học trò là hạng “dài lưng tốn vải, ăn no rồi nằm”.

Cái lợi có chăng, chỉ là thói quen coi trọng sự học, sự đầu tư công sức, thời gian của người học, cần cù, bền chí đeo đuổi học hành. Mặt trái của mỹ tục ấy lại là óc bon chen, là trông mong “một người làm quan cả họ được nhờ”. Học để thi càng phát triển thì hiếu học càng dễ trở thành hiếu danh, hiếu lợi, không còn là học điều hay lẽ phải, học để giúp đời, càng không hề là mở tri thức, rèn tư duy.

Những phát triển ngoài khuôn mẫu

– Nhà báo Phan Đăng: Cùng chịu ảnh hưởng bởi Khổng giáo như nhiều nước Đông Á khác, nhưng ở Nhật Bản có câu chuyện nổi tiếng: một vị thầy hỏi những học trò của mình rằng nếu một ngày Khổng Tử, Mạnh Tử mang quân xâm lược thì phải làm gì? Câu trả lời: Phải vung gươm đánh lại. Câu chuyện này cho thấy ở một góc độ nào đó người Nhật không tiếp cận Khổng giáo một cách xơ cứng, bị động, mà ít nhiều lật đi lật lại vấn đề. Bà đánh giá gì về một tinh thần học tập như thế?

– Tiến sĩ Bùi Trân Phượng: Trái với nhiều người kể lại giai thoại ấy, tôi không “mặc cảm” tự ti với người Nhật khi nói về “chống xâm lược”. Tổ tiên ta không chỉ nói, mà đã nghĩ và làm, rất kiên trì, quyết liệt trong việc chống ngoại xâm đến từ quê hương Khổng Mạnh. Khi bài thơ thần trên sông Như Nguyệt gọi kẻ thù là “nghịch lỗ” và viện dẫn “định phận tại thiên thư”, khi Nguyễn Trãi định nghĩa lại “nhân nghĩa” và “điếu phạt” để làm rõ chính nghĩa dân tộc bằng chính những khái niệm mà con cháu Khổng Mạnh dùng làm lý cớ xâm lược, thì họ đâu có lệ thuộc Nho giáo một cách nô lệ.

Điều đáng nói của Việt Nam chính là chỗ hình như chúng ta chỉ tranh biện một vấn đề ấy mà thôi, khi đất nước bị xâm lăng, chủ quyền bị đe dọa. Tôi được đọc bài giáo sư Cao Huy Thuần tường thuật và bình luận nội dung quyển sách của học giả Nhật Maruyama, giới thiệu những trường phái trí thức Nhật từ thế kỷ 17-18 đã phê phán Tống Nho, đề cao quốc học của Nhật Bản.

Không phải các trường phái triết học đó đã đạt chân lý tuyệt đối, nhưng thật đáng suy nghĩ khi họ đã đặt lại vấn đề trước khi tiếp xúc với phương Tây, từ bên trong chứ không do áp lực bên ngoài.Việt Nam thì phải đến khi họa xâm lược từ phương Tây, khi mà sức mạnh khoa học kỹ thuật đã được nhận biết từ khi ta còn chìm trong xung đột nồi da xáo thịt Trịnh-Nguyễn, Nguyễn-Tây Sơn – trở thành hiện thực mới xuất hiện những tư tưởng kêu gọi canh tân, trước hết và quan trọng nhất là canh tân sự học.

– Nhà báo Phan Đăng: Có một câu vè rất chua chát để nói về thực trạng “học để làm quan” trong xã hội quân chủ chuyên chế Việt Nam: Một giỏ ông đồ/Một bồ ông cống/Một đống ông nghè/Một bè tiến sĩ/Một bị trạng nguyên/Một thuyền bảng nhãn. Câu vè ấy khiến chúng ta cắc cớ tự hỏi: trong hàng ngàn năm, chẳng nhẽ ông cha chúng ta chỉ học Khổng Mạnh hay sao? Theo bà, trước và sau khi Khổng giáo vào Việt Nam, sự học của người Việt có điều gì khác?

– Tiến sĩ Bùi Trân Phượng: Như mọi loài sinh vật, muốn sống con người phải học. Họ càng học nhiều hơn từ khi có nông nghiệp, chăn nuôi, tức là tự tạo nguồn thức ăn nuôi sống mình, chứ không chỉ phụ thuộc thiên nhiên như thời săn bắn, hái lượm. Tiếng nói là một tiến bộ khác của sự học, chia sẻ tiếng nói chung là yếu tố quan trọng cấu thành cộng đồng, thành dân tộc. Chữ viết cao hơn tiếng nói. Dân tộc mình không có chữ viết, phải học và dùng chữ Hán trong nhiều thế kỷ, có cái lợi và bất lợi. Một trong những bất lợi là giáo dục chính thống cho đến ngày nay vẫn quá “độc tôn” tài liệu viết, mà thiếu quan tâm học từ văn hóa vật chất, từ văn hóa truyền khẩu. Một di hại lâu dài của Nho giáo là khinh lao động chân tay; nghề thủ công, thương nghiệp. Lý do quan trọng khác là khi nhìn lịch sử chỉ thấy chiến tranh chống ngoại xâm, chỉ muốn nhớ chiến thắng. Tất cả những điều đó khiến ngày nay chúng ta ít biết về xã hội nói chung, sự học nói riêng, ngoài cái học khoa cử.

Từ vài trăm năm trước công nguyên, nhà Tần, nhà Hán đến đồng bằng sông Hồng và lưu vực sông Mã, sông Cả đã thấy những xã hội có tổ chức, biết khai thác nguồn lực thiên nhiên hiệu quả. Họ còn ghi nhận hàng chục điều khác biệt với luật Trung Hoa, khiến họ phải ra sức thay đổi cả pháp luật và phong tục để đồng hóa. Sau hàng ngàn năm, nỗ lực của họ không phải là vô hiệu, nhưng cũng không hoàn toàn thành công; ngược lại, nhiều lượt di dân từ phương bắc đã hòa nhập với cư dân và văn hóa bản địa; nội lực Việt gia tăng từ học hỏi, từ đề kháng văn hóa, nuôi chí quật cường cho đến khi giành độc lập, tự chủ, không phải chỉ bằng thắng lợi quân sự.

Cội nguồn xa xưa tiền Bắc thuộc là văn hóa Đông Nam Á với những tri thức, tín ngưỡng đặc trưng. Trước Lê-Nguyễn và ngay cả trong thời Nho giáo độc tôn vẫn tồn tại mạnh mẽ những biểu hiện của Phật-Lão, của văn hóa bản địa, chưa kể sự xâm nhập của văn hóa phương Tây từ cuối thế kỷ 16, đầu 17 thông qua giao thương và truyền giáo. Quá trình mở đất, di dân về phương nam càng làm phong phú vốn hiểu biết, tín ngưỡng và văn hóa Việt với những giao thoa, tiếp biến với văn hóa Chăm, Khơ-me. Nho học ở Việt Nam, ngay cả thời độc tôn Tống Nho vẫn rất ít trường quốc lập và nhiều trường dân lập nơi thầy đồ không chỉ truyền kiến thức sách Nho mà còn học lại từ dân, đúc kết kinh nghiệm dân gian thành minh triết.

Chữ Nôm giúp phát triển nền văn học Nôm rực rỡ bằng tiếng mẹ đẻ, dễ truyền khẩu trong dân.

Một số thành quả không phủ nhận được từ sự học ngoài sách vở ấy: hệ thống đê điều ở Bắc, kinh nghiệm trồng lúa rẫy và lúa nước ở những địa hình khác biệt, kinh nghiệm sống chung với lũ, khai khẩn đất bồi, đất giồng ở Nam; vai trò quan trọng của phụ nữ ; rồi quan họ, chèo, tuồng, lục bát, ca dao hò vè với nhiều sắc thái khác biệt địa phương… Nhà phê bình văn học Nhật Chiêu từng nói: “Sẽ không thể có Nguyễn Du hay Hồ Xuân Hương nếu họ không học từ ca dao và văn chương truyền khẩu.”, tôi hoàn toàn đồng ý. Cho nên những câu vè anh dẫn cũng cho thấy người dân “không có chữ” luôn hiểu giá trị thật của mình so với những giỏ, những bồ, những đống kia, chứ không phải lúc nào cả dân tộc cũng chỉ biết nhắm mắt “tôn sư trọng đạo” như người ta hay nói (cười).

Thời đại mới, cách học mới

– Nhà báo Phan Đăng: Giai đoạn cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 có lẽ là giai đoạn thức tỉnh về sự học lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Một lớp người trí thức mới cổ suý cách học mới, tư tưởng mới, nhưng cái mới ấy có vẻ vẫn bị quán tính của cái cũ kéo lại theo cách này hay cách khác. Và có người nhận xét cái quán tính có từ truyền thống học hành cả ngàn năm đó vẫn ảnh hưởng đến tâm lý học tập của người Việt hôm nay. Bà nghĩ sao ạ?

– Tiến sĩ Bùi Trân Phượng: Thứ nhứt, tình trạng Tống Nho là nội dung chính thống của học hành, thi cử chỉ kéo dài hơn 400 năm, không phải hàng ngàn năm. Trong hơn bốn thế kỷ ấy, nếu chúng ta biết truy vấn nhiều nguồn hơn là tài liệu thành văn, sự độc tôn của nó không bao giờ tuyệt đối mà luôn bị thách thức bởi nhiều xu thế văn hóa khác. Đến đầu thế kỷ 20, từ Nguyễn Trường Tộ đến Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh – là tôi chỉ kể vài cái tên tiêu biểu đúng là đánh dấu sự thức tỉnh. Ngay dưới thời quân chủ chuyên chế, đi giữa hai làn đạn, tiếng nói Nguyễn Trường Tộ còn đến được triều đình, các bản điều trần được Cơ Mật viện nghiên cứu và lưu trữ, đích thân nhà vua đọc, suy nghĩ và cố gắng làm theo trong chừng mực ông hiểu được và tương quan thế lực cho phép ông cựa quậy.



Lớp học chữ quốc ngữ (ảnh tư liệu )

Giữa thời thuộc địa, Nguyễn An Ninh còn diễn thuyết trước công chúng bằng tiếng Tây, thách thức mật thám Pháp; đám tang Phan Châu Trinh huy động đoàn biểu tình đông đảo giữa Sài Gòn, có đủ đại diện thành phần yếu thế như phụ nữ, thợ thuyền, nông dân, không cần sự tổ chức lãnh đạo của đảng phái nào. Trí thức canh tân thực sự có ảnh hưởng trong quần chúng. Còn ngày nay, hỏi tên các vị ấy, nhiều thanh niên có học thức hẳn hoi ú ớ, phát ngôn của các vị họ sửng sốt nghe lần đầu khi có người nhắc đến, tác phẩm của họ có ai đọc, tư tưởng của họ có ai theo? Sau họ, cũng có những thế hệ kế thừa, cả ở miền Bắc và đông hơn, ở miền Nam sau 1954. Chúng ta đã biết gì, làm gì với những di sản ấy?

– Nhà báo Phan Đăng: Chúng ta chắc chắn sẽ không làm một việc điên rồ là “bắn súng lục vào quá khứ”, nhưng chúng ta được phép rút kinh nghiệm từ quá khứ. Với một cái nhìn như thế, bà nghĩ người Việt hôm nay nên học điều gì, và không nên học điều gì từ cách học của ông cha mình?

– Tiến sĩ Bùi Trân Phượng: Là người học sử từ chối giáo điều xơ cứng mà luôn đi tìm dấu vết sinh động của con người, cuộc sống thật, tôi đã học được bao điều và vẫn còn thấy rất nhiều điều muốn học từ cách học của tổ tiên, xin nhấn mạnh lần nữa, không chỉ có sự học từ sách vở, trường lớp và khoa cử. Trong Nho, Phật, Lão đều có điều phải học, nhưng cũng có những điều phải dứt khoát chối từ, hoặc vì không có căn cứ rõ ràng từ tài liệu, sự kiện xác thực, hoặc vì nội dung đó nay đã lỗi thời, thậm chí có hại.

Trong cách học của chúng ta, cũng như của các nước láng giềng có chung di sản Nho giáo, cái mạnh là coi trọng sự học, là sự chăm chỉ siêng năng, tinh thần vượt khó… như đã nêu. Nhưng thách thức cho giáo dục ở các quốc gia Đông Á, như chuyên gia người Mỹ Levin đã nêu về giáo dục đại học là “truyền thống” học vẹt, học để hiểu và làm theo người xưa, không phải để tìm cái mới, cái chưa biết, tri thức cần cho hiện tại và tương lai; là khả năng “tiêu hóa” thông tin mới; là tư duy phản biện, nói rộng hơn là lý tính, là tư duy khoa học, biết nhìn đa chiều, lật đi lật lại vấn đề, biết tôn trọng khác biệt; là tự do học thuật, suy nghĩ bằng cái đầu của mình chứ không chỉ học theo, nói theo, nghĩ theo, làm theo. Như vậy không phải là “bảo tồn truyền thống”, mà, nói như giáo sư Cao Huy Thuần, là “không xứng đáng với tổ tiên”.

Quan niệm thế nào là giáo dục, tôi cho rằng chúng ta – các quốc gia Đông Á có chung di sản Nho giáo và chữ Hán – nên thay đổi căn bản nội hàm của thuật ngữ này. Xét về từ nguyên, giáo có nghĩa « dạy dỗ, truyền thụ ; tôn giáo, đạo ; sai bảo, khiến ; cho phép », hàm ý quyền lực áp đặt chân lý của người trên với người dưới ; dục có nghĩa « nuôi dưỡng, nuôi cho lớn ; sinh con ». Hán Việt từ điển Đào Duy Anh định nghĩa giáo dục là « dạy dỗ người ta khiến cho thoát ly trạng thái tự nhiên tạo vật sinh ra ». Học, chữ Hán có nghĩa là « bắt chước, lĩnh hội », Đào Duy Anh định nghĩa : « chịu thầy dạy cho đạo lý, tập cho nghề nghiệp ». Tất cả đều hàm ý người trên dạy, người dưới học ; dạy là hướng dẫn, chỉ đạo, đưa ra khuôn mẫu, học là học theo, làm theo, nghĩ theo, tuân thủ khuôn phép.

Cũng trong mạch ấy, có giáo hóa (dạy để thay đổi người học), giáo huấn (dạy bảo, giải thích), đều là truyền đạt, áp đặt cách nghĩ của mình, hiểu biết của mình cho người học. Từ education của phương Tây có gốc từ tiếng la tinh educare có nghĩa chăm sóc, nuôi dưỡng, làm cho lớn lên ; sinh viên (student, là người học nói chung, không phân biệt cấp học) có gốc từ studeo nghĩa là nghiên cứu, chăm chú tìm hiểu sâu về đối tượng nào đó.

Chúng ta thấy vì sao giáo dục của ta thiên về áp đặt, uốn nắn người học theo chủ định của người dạy, trong khi giáo dục phương Tây thuận lợi hơn để chấp nhận quan điểm coi người học là chủ thể, coi giáo dục là tạo điều kiện cho chủ thể ấy tự học, tìm tòi, phát kiến cái mới, cái chưa biết. Trong thời đại ngày nay, quan niệm nào sẽ hữu dụng và hiệu quả hơn, chắc không khó để xác định.

– Nhà báo Phan Đăng: Thế kỷ 21 được nhận diện là một thế kỷ phức tạp, với sự lên ngôi của chủ nghĩa hỗn độn, với những sự kiện/sự cố không thể nào biết trước. Chỉ cách đây 2 năm thôi, chúng ta cũng không thể nào dự đoán trước về việc lại có ngày học sinh của chúng ta phải học online triền mai, thậm chí là phải làm quen với khai giảng online như lúc này. Trong một thế kỷ khôn lường như vậy, theo bà sự học của người Việt cần nhấn mạnh đến những khía cạnh nào?

– Tiến sĩ Bùi Trân Phượng: Cách đây mấy năm, tôi may mắn dự cuộc tọa đàm về sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, giữa hai chuyên gia tầm cỡ quốc tế và… người máy Sophia. Cơ may đó đến với tôi không phải ở New York hay Paris, mà ở Erevan, thủ đô nước Armenia không hề là nước lớn, nước giàu, nước mạnh, làm tôi ngậm ngùi nhớ Việt Nam. Nhưng ấn tượng mạnh nhất là tận mắt gặp, ngắm nhìn và nghe Sophia chào hỏi duyên dáng, tham gia đàm luận sôi nổi với các chuyên gia, cuộc trao đổi không hề có “kịch bản” soạn trước như chúng ta hay thấy ở xứ mình (cười). Tôi không khỏi rùng mình khi trong cuộc nói chuyện, Sophia bật cười rất đúng lúc, một tiếng cười thú vị, hóm hỉnh.

Trước đó, vì ít nhiều hiểu thế nào là cờ vây, tôi đã chia sẻ sự bàng hoàng của làng cờ vây và dư luận quan tâm khi kỳ thủ hàng đầu thế giới bị người máy đánh bại. Rồi nay chứng kiến Rô bốt biết suy tư, tranh luận và cả biết… cười. Tôi tự hỏi: “Sẽ còn chỗ nào cho con người, nhất là người chỉ biết học vẹt và chép lại văn mẫu?” Ừ thì có thể tự an ủi: “Dẫu sao, người máy ấy, AI ấy vẫn là sản phẩm sáng tạo của con người.”.

Nhưng là những con người nào, được dạy ra sao và biết học ra sao? Và mọi người sẽ phải học ra sao để chung sống với những sản phẩm khoa học công nghệ ngày càng thông minh hơn, biết không ngừng tự học lại còn biết cảm xúc. Đó là những cơ sở để chúng ta phải tiếp tục cùng nhau suy nghĩ về cách học trong thế kỷ này.

Nhà báo Phan Đăng (thực hiện)

(Nguồn: Báo An ninh Thế giới Cuối tháng số 241 tháng 9/2021)


Đôi điều về sự học ngày trước, bây giờ


Bùi Trân Phượng


Những ngày giãn cách xã hội, quan sát các em học sinh liên tục học online và trả bài online tôi đột nhiên nghĩ nhiều về sự học của người Việt xưa nay. Ai cũng nói là người Việt có truyền thống hiếu học, hiểu theo nghĩa là học mọi nơi, mọi cách, mọi kiểu. Vậy thì suy cho cùng những sản phẩm giáo dục được tạo ra từ “cơ chế hiếu học” có tính chất cha truyền con nối qua nhiều thế hệ - nếu chúng ta tin như thế, đã thể hiện mình như thế nào? Nhìn rộng ra thế giới, liệu có dân tộc nào lại tự nhận mình có truyền thống “lười học”, hoặc học không đúng nơi, đúng chỗ, đúng kiểu hay không? Thật vui khi được trao đổi cởi mở tất cả những suy ngẫm này với nhà sử học, nhà giáo, tiến sĩ Bùi Trân Phượng.

Phan Đăng


Nhà báo Phan Đăng:

Thưa tiến sĩ Bùi Trân Phượng, xin bắt đâu bằng một câu hỏi rất thời sự thôi, quá trình dạy học online trong suốt những ngày vừa qua đã đem tới cho bà một cảm giác như thế nào?

Tiến sĩ Bùi Trân Phượng:

Cuối năm học trước, tôi đã trải nghiệm dạy trực tuyến lớp Cao học, tôi thấy khá ổn, tiết kiệm được thời gian và phiền nhiễu đi lại trên đường cho cả người dạy, người học. Nhưng đó là học viên đã trưởng thành.

Đối với học sinh phổ thông phải học toàn bộ online, tôi lo lắng hơn nhiều. Biết là cần thiết vì dịch bệnh, nhưng ngay cả về sức khỏe thể chất, trẻ ngồi nhiều giờ trước màn hình đã rất có hại rồi, chưa kể cám dỗ “lợi dụng” để chơi game hay lướt FB. Còn nhiều nỗi lo khác.

Học sinh và cả sinh viên đều phát sinh nhiều vấn đề khi không được hưởng không khí thân quen của trường lớp với thầy, với bạn, vốn là môi trường giao tiếp xã hội quan trọng. Thầy và trò hầu hết không được đào tạo, hướng dẫn bài bản về phương thức dạy và học trực tuyến; nếu chỉ đơn thuần là ghi âm bài giảng, ghi hình thầy cô bất động trước màn hình Zoom thì hiệu quả sư phạm giảm đi nhiều lắm. Nếu thầy cô được đào tạo tốt, biết sử dụng công nghệ và yêu nghề, sáng tạo thì có thể phát huy lợi thế của việc học trực tuyến trên một số phương diện.

Cháu tôi học lớp một trường Yersin ở Hà Nội, bài tập là sáng tác một truyện cổ tích theo dạng trả lời câu hỏi do mỗi cháu tự đặt ra, theo kiểu: Vì sao hươu cao cổ có cái cổ dài? Vì sao khủng long bạo chúa trở thành con gà mái? v.v… Qua đó, các cháu vận dụng kiến thức tự học hay trí tưởng tượng phong phú của mình, học viết tiếng Pháp đúng ngữ pháp, rồi đọc diễn cảm bài mình đã viết, vẽ tranh minh họa. Thầy tập hợp bài tập của lớp thành cuốn sách nói vô cùng sinh động. Như vậy, dù trực tuyến, các cháu đã thỏa sức sáng tạo và tương tác, học và vui với tác phẩm của chính mình và các bạn. Nhưng sẽ có bao nhiêu thầy cô của ta tận dụng được công nghệ theo kiểu đó?
Vì vậy, nỗi lo lớn hơn là: học trực tuyến thì chất lượng dạy và học sẽ rất không đồng đều, do thầy và trò có đủ thiết bị phù hợp tới mức nào; do môi trường học tập tại nhà của trẻ có chất lượng rất chênh lệch nhau; do kiến thức, năng lực và từ đó hiệu quả dạy và học trực tuyến càng chênh lệch. Bất bình đẳng trong chất lượng giáo dục mà trẻ mầm non và học sinh phổ thông thực sự nhận được sẽ gia tăng nghiêm trọng, với những dạng thức không dễ dàng nhận biết.

PĐ. Tôi nghĩ, muốn học online tốt, người học phải có một tinh thần tự giác rất cao. Có phải thế không ạ?

BTP. Đúng quá! Điều đáng lo là nhiều học sinh VN chưa được chuẩn bị tốt để có tinh thần tự giác như vậy vì từ gia đình đến nhà trường, người lớn thường xuyên “theo dõi, giám sát” và cả gây áp lực đối với việc học của các em nhiều hơn mức cần thiết rất xa! Trẻ càng bị “quản lý chặt” thì càng lệ thuộc vào sự quản lý ấy, sao mà tự giác được?

Biết, hiểu và giữ gì từ di sản?


PĐ. Giờ thì chúng ta hãy lật dở dòng lịch sử để xem tinh thần học tập của ông cha ta như thế nào, và thế hệ người học hôm nay có thể học hỏi điều gì về tinh thần ấy. Tôi nghĩ rằng bảo ông cha chúng ta có truyền thống hiếu học cũng đúng, vì có quá nhiều câu chuyện chứng minh cho điều này rồi. Nhưng nhìn rộng ra thế giới, tôi nghĩ để có thể tồn tại được cho đến nửa đầu thế kỷ 21 thì về cơ bản dân tộc nào cũng hiếu học cả. Hình như chẳng có dân tộc nào lại tự nhận mình có truyền thống lười học, phải không ạ?

BTP. Nhìn nhận thì chắc là không. Tôi cũng không có cơ sở nào để đánh giá mức độ lười học hay ham học của các cộng đồng.
Tuy nhiên, cộng đồng hiếu học phải chăng là những cộng đồng không chỉ sống lâu đời trên địa bàn cư trú của mình mà còn biết học hỏi, thích nghi, sử dụng các nguồn lực thiên nhiên một cách hợp lý, có lợi nhứt cho sự phát triển bền vững của cộng đồng ấy; biết học hỏi hiệu quả, tiếp biến văn hóa thành công từ việc giao thoa với nhiều nền văn hóa khác, dủ giao thoa đó diễn ra thông qua di dân tự nhiên hay cưỡng chế, giao thương hòa bình hay xung đột, chiến tranh và thuộc địa? Về việc chịu học, ham học và học có hiệu quả trên những phương diện tôi vừa kể (tất nhiên còn nhiều phương diện khác), lịch sử Việt Nam có những minh chứng xuất sắc, cũng có những sự trì trệ kéo dài, không biết có phải là lười học không, nhưng chắc chắn là chậm tiếp thu cái mới, hoặc tiếp thu không hiệu quả, hay ngủ yên quá lâu trên tri thức và thói quen “truyền thống” của mình. Phải chăng ta cần học lại tử tế hơn về lịch sử sự học của mình để biết trong đó có cái gì hay, cái gì dở, cái gì cần phát huy, cái gì cần đổi mới và cả cái gì cần vĩnh viễn đào sâu, chôn chặt vì sức trì kéo và sự độc hại của nó?

PĐ. Theo tôi có hai mục tiêu cơ bản của sự học. Một là học để thoả mãn những cựa quậy tri thức ở bên trong con người cá nhân của mình. Càng cựa quậy người ta càng phải đào cùng tát cạn những tri kiến nhân gian, cho tới khi đạt được trạng thái tương đối thoả lòng mới thôi. Hai là học để phấn đấu cho một lý tưởng, một mục tiêu gì đó, ví dụ như để có quyền vị, chức tước. Theo bà, nhìn một cách tổng thể và tương đối thôi, ông cha chúng ta nghiêng về phía nào nhiều hơn?

BTP. Tổng thể và tương đối thôi (cười), tôi e là không chỉ có hai mục tiêu mà thực tế có rất nhiều trạng thái trung gian, hoặc ra ngoài hai xu hướng đó. Riêng tôi, sẽ không gọi chức quyền là lý tưởng, vì tôi hiểu lý tưởng là cái chúng ta hướng về, vươn tới mà biết rõ là mình không bao giờ đạt được nó trọn vẹn và hoàn hảo. Và nếu lý tưởng của người ta lại chính là khao khát biết cái mới, không ngừng tiệm cận chân lý mà mình biết sẽ không bao giờ nắm trong tay, vĩnh viễn, một lần cho muôn đời? Thì phải chăng đó chính là cái anh gọi là sự cựa quậy bên trong, là khao khát hiểu biết, là ý nghĩa giản dị của khái niệm “hiếu học”?
Nên nhớ chữ đầu tiên “thầy Khổng” dạy, chính là học. Khổng Tử từng nói: “Kẻ mà ta giúp giở một góc lên mà không biết tự mình giở ba góc còn lại, kẻ ấy không đáng cho ta dạy.” Cũng chính ông tự định nghĩa mình là người “học không biết chán, dạy người không biết mỏi”. Ông cha ta từng nằm lòng Luận ngữ, lẽ nào đều không ít nhiều chia sẻ tinh thần hiếu học đúng cái nghĩa tốt đẹp như vậy? Cũng như chia sẻ lý tưởng học để làm người, vì “nhân bất học bất tri lý”, như “ngọc kia chẳng giũa chẳng mài, cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi”. Hồi nhỏ, tôi được học như vậy, và đó là quan niệm phổ biến trong xã hội miền Nam trước 1975, cũng như trong cả nước từ bao đời. Giáo sư Trần Văn Khê kể khi người lớn hỏi đi học để làm gì, cậu học trò tiểu học là ông trả lời vanh vách: “Con đi học để lớn lên có ích cho nhân quần xã hội.” Tôi cho đó là phần tốt đẹp trong truyền thống hiếu học mà chúng ta kế thừa từ Nho giáo: ý thức trách nhiệm xã hội.
Nếu ngày nay, ta thấy nhan nhản cái thực tế học vì mảnh bằng chứ không vì tri thức, học để làm quan, học để làm giàu bất chấp đạo đức và lẽ phải, xin đừng đổ lỗi tất cả cho tiền nhân. Nó còn có nguyên nhân từ những trầm luân dâu biển qua chiến tranh và cách mạng, từ tính hoang dã của chủ nghĩa tư bản chưa trưởng thành, từ áp lực của giá trị vật chất đang thống trị xã hội toàn cầu.

Tất nhiên, cũng có nguyên nhân từ thời độc tôn Tống Nho, từ chế độ khoa cử kéo dài hàng trăm năm. Người đeo đuổi mục tiêu đỗ đạt, có người tầm thường vì danh lợi, cũng có người thực tâm lấy đó làm đường lập thân, lập nghiệp hiểu theo nghĩa tốt là đem sở học của mình giúp dân, giúp nước, thực hành những giá trị học từ thánh hiền. Nhưng chế độ quân chủ chuyên chế không phải là môi trường phát triển nhân tài hiểu theo nghĩa tài năng, đức độ cá nhân, nhứt là khi cá nhân có suy nghĩ, chính kiến khác số đông, ngược ý cấp trên. Ông Bộ trưởng Giáo dục Tharman Shanmugaratnam của Singapore từng tổng kết với tác giả Fareed Zakaria của quyển Biện hộ cho một nền giáo dục khai phóng là cả Singapore và Hoa Kỳ đều có chế độ nhân tài, nhưng Hoa Kỳ là chế độ “nhân tài tài năng”, còn Singapore là “nhân tài thi cử”. Điều đó đúng với nhiều quốc gia Đông Á.

PĐ. Thật ra cũng chẳng riêng gì Việt Nam, truyền thống Nho giáo khiến nhiều nước Á Đông nuôi dưỡng cơ chế học để thi cử, học để làm quan, vì trong xã hội phong kiến phương Đông thì làm quan gần như là cái cửa đổi đời duy nhất. Gần như không còn cách lựa chọn nào khả dĩ hơn. Nhưng đứng ở góc độ học thuật thuần tuý, bà thấy kiểu học này có gì hay và chưa hay?

BTP. Trong xã hội truyền thống, không phải ai cũng muốn đổi đời. Tư tưởng Nho, Phật, Lão đều dạy người ta sửa mình theo nhân nghĩa, coi trọng sự thật, lẽ phải, điều thiện hơn danh lợi, xảo trá, độc ác; chuyên tâm tìm đường diệt khổ chứ không chấp vào tham, sân, si; tiêu dao với thiên nhiên thay vì đua chen chốn bụi trần. Từ “đổi đời” thật ra rất hiện đại, đâu phải thuộc về truyền thống (cười)! Ngày xưa, người đi học không phải ai cũng đi thi, số đông chỉ “kiếm năm ba chữ” để biết sống làm người. Thực trạng đó có lợi, mà cũng có hại cho sự phát triển của khoa học, sự tiến bộ của xã hội.

Tất nhiên, học trò nhiều năm liền nấu sử sôi kinh là “quyết ném thanh khâm sang cẩm tú, quyết xoay bạch ốc lại lâu đài”, tức muốn từ người học trò nghèo thành ông quan hiển đạt. Đã là học để thi, dễ dẫn đến học giản lược, học thuộc lòng, học để trả bài, viết không để diễn đạt suy nghĩ riêng của mình mà chỉ lặp lại giáo điều sách vở, sáo ngữ rỗng. Nội dung học và thi suốt hơn 400 năm độc tôn Tống Nho chỉ gò bó trong Tứ thư, Ngũ kinh, không đa chiều, tranh biện như thời Bách gia chư tử của Trung Hoa hay như thời Lý, Trần của ta còn thi tam giáo; cũng không có tri thức khoa học kỹ thuật. Nhiều quy định khắc nghiệt về trường quy, kỵ húy càng khiến người ta tự ép mình vào khuôn khổ. Mỗi kỳ thi, số lấy đậu không nhiều, thường chỉ khoảng 40-50 trên số 5 đến 6 000 người thi vào những năm thịnh nhứt của khoa cử; nên nhiều người thi đi thi lại cũng chỉ dừng ở Tú Kép, Tú Mền (2, 3 lần thi đậu Tú tài mà không đậu được cao hơn), lãng phí nhân lực và hoài bão, đến nỗi người ta coi học trò là hạng “dài lưng tốn vải, ăn no rồi nằm”. Cái lợi có chăng, chỉ là thói quen coi trọng sự học, sự đầu tư công sức, thời gian của người học, cần cù, bền chí đeo đuổi học hành, kiên trì vượt khó, sự quan tâm của gia đình, làng xã vun bồi cho việc học của con em. Mặt trái của mỹ tục ấy lại là óc bon chen, là trông mong “một người làm quan cả họ được nhờ”. Học để thi càng phát triển thì hiếu học càng dễ trở thành hiếu danh, hiếu lợi, không còn là học điều hay lẽ phải, học để giúp đời, càng không hề là mở tri thức, rèn tư duy.

Truyền thống hiếu học, phải chăng chỉ có một khuôn khổ?


PĐ. Cùng chịu ảnh hưởng bởi Khổng giáo như nhiều nước Đông Á khác, nhưng ở Nhật Bản có câu chuyện nổi tiếng: một vị thầy hỏi những học trò của mình rằng nếu một ngày Khổng Tử, Mạnh Tử mang quân xâm lược thì phải làm gì? Câu trả lời: Phải vung gươm đánh lại. Câu chuyện này cho thấy ở một góc độ nào đó người Nhật không tiếp cận Khổng giáo một cách xơ cứng, bị động, mà ít nhiều lật đi lật lại vấn đề. Bà đánh giá gì về một tinh thần học tập như thế?

BTP. Trái với nhiều người kể lại giai thoại ấy, tôi không “mặc cảm” tự ti với người Nhật khi nói về “chống xâm lược”. Tổ tiên ta không chỉ nói, mà đã nghĩ và làm, rất kiên trì, quyết liệt trong việc chống ngoại xâm đến từ quê hương Khổng Mạnh. Khi bài thơ thần trên sông Như Nguyệt khẳng định quyền của “Nam đế” trên sông núi nước Nam, gọi kẻ thù là “nghịch lỗ” và viện dẫn “định phận tại thiên thư”, khi Nguyễn Trãi định nghĩa lại “nhân nghĩa” và “điếu phạt” để làm rõ chính nghĩa dân tộc bằng chính những khái niệm mà con cháu Khổng Mạnh dùng làm lý cớ xâm lược, thì họ đâu có lệ thuộc Nho giáo một cách nô lệ. Lịch sử bang giao Việt-Trung còn nhiều giai thoại hay về “di biện”, tức là biện biệt, tranh luận với vua quan Tàu để không cho phép họ gọi sứ mình là “di sứ”, xem nước mình là man di, mọi rợ. Phân biệt Hoa, Di và ép cả “thiên hạ” phục tùng thiên tử là nội dung rất cơ bản của Nho giáo từ đời nhà Hán (206TCN-220), tức từ khi tư tưởng Khổng Tử trở thành ý thức hệ quốc gia của Trung Hoa, và nay đang được phục hồi, chẳng hạn qua các Viện Khổng Tử được thành lập ở nhiều nước.

Bất hạnh của Việt Nam lại chính là chỗ hình như chúng ta chỉ tranh biện một vấn đề ấy mà thôi, khi đất nước bị xâm lăng, chủ quyền bị đe dọa hay bị mất. Tôi được đọc bài giáo sư Cao Huy Thuần tường thuật và bình luận nội dung quyển sách của học giả Nhật Maruyama giới thiệu những trường phái trí thức Nhật từ thế kỷ 17-18 đã phê phán Tống Nho, đề cao quốc học của Nhật Bản khác biệt với giáo huấn của thánh nhân và Nghiêu Thuấn thời cổ đại Trung Hoa. Không phải các trường phái triết học đó đã đạt chân lý tuyệt đối, nhưng thật đáng suy nghĩ khi họ đã đặt lại vấn đề trước khi tiếp xúc với phương Tây, từ bên trong chứ không do áp lực bên ngoài.
Việt Nam thì phải đến khi họa xâm lược từ phương Tây – mà sức mạnh khoa học kỹ thuật đã được nhận biết từ khi ta còn chìm trong xung đột nồi da xáo thịt Trịnh-Nguyễn, Nguyễn-Tây Sơn – trở thành hiện thực mới xuất hiện những tư tưởng kêu gọi canh tân, trước hết và quan trọng nhứt là canh tân sự học, từ Nguyễn Trường Tộ đến Phan Châu Trinh rồi Nguyễn An Ninh. Ngậm ngùi và đáng lo thay, khi ngót trăm năm sau ngày giành độc lập, nửa thế kỷ sau ngày thống nhất, những tư tưởng ấy vẫn còn bị giáo dục chính thống lãng quên!

PĐ. Có một câu vè rất chua chát để nói về thực trạng “học để làm quan” trong xã hội quân chủ chuyên chế Việt Nam: Một giỏ ông đồ/Một bồ ông cống/Một đống ông nghè/Một bè tiến sĩ/Một bị trạng nguyên/Một thuyền bảng nhãn. Câu vè ấy khiến chúng ta cắc cớ tự hỏi: trong hàng ngàn năm, chẳng nhẽ ông cha chúng ta chỉ học Khổng Mạnh hay sao? Theo bà, trước và sau khi Khổng giáo vào Việt Nam, sự học của người Việt có điều gì khác?

BTP. Như mọi loài sinh vật, muốn sống con người phải học. Họ càng học nhiều hơn từ khi có nông nghiệp, chăn nuôi, tức là tự tạo nguồn thức ăn nuôi sống mình, chứ không chỉ phụ thuộc thiên nhiên như thời săn bắn, hái lượm. Tiếng nói là một tiến bộ khác của sự học, chia sẻ tiếng nói chung là yếu tố quan trọng cấu thành cộng đồng, thành dân tộc. Chữ viết cao hơn tiếng nói. Dân tộc mình không có chữ viết, phải học và dùng chữ Hán trong nhiều thế kỷ, có cái lợi và bất lợi. Một trong những bất lợi là giáo dục chính thống cho đến ngày nay vẫn quá “độc tôn” tài liệu viết, mà thiếu quan tâm học từ văn hóa vật chất, từ văn hóa truyền khẩu. Một di hại lâu dài của Nho giáo là khinh lao động chân tay; nghề thủ công, kinh nghiệm thương nghiệp cũng ít được trân trọng. Lý do quan trọng khác là khi nhìn lịch sử chỉ thấy chiến tranh chống ngoại xâm, chỉ muốn nhớ chiến thắng. Tất cả những điều đó khiến ngày nay chúng ta ít biết về xã hội nói chung, sự học nói riêng, ngoài cái học khoa cử.
Từ vài trăm năm trước CN, nhà Tần, nhà Hán đến đồng bằng sông Hồng và lưu vực sông Mã, sông Cả đã thấy những xã hội có tổ chức, biết khai thác nguồn lực thiên nhiên hiệu quả. Họ còn ghi nhận hàng chục điều khác biệt với luật Trung Hoa, khiến họ phải ra sức thay đổi cả pháp luật và phong tục để đồng hóa. Sau hàng ngàn năm, nỗ lực của họ không phải là vô hiệu, nhưng cũng không hoàn toàn thành công; ngược lại, nhiều lượt di dân từ phương bắc đã hòa nhập với cư dân và văn hóa bản địa; nội lực Việt gia tăng từ học hỏi, từ đề kháng văn hóa, nuôi chí quật cường cho đến khi giành độc lập, tự chủ, không phải chỉ bằng thắng lợi quân sự.
Cội nguồn xa xưa tiền Bắc thuộc là văn hóa Đông Nam Á với những tri thức, tín ngưỡng đặc trưng. Trước Lê-Nguyễn và ngay cả trong thời Nho giáo độc tôn vẫn tồn tại mạnh mẽ những biểu hiện của Phật-Lão, của văn hóa bản địa, chưa kể sự xâm nhập của văn hóa phương Tây từ cuối thế kỷ 16, đầu 17 thông qua giao thương và truyền giáo. Quá trình mở đất, di dân về phương nam càng làm phong phú vốn hiểu biết, tín ngưỡng và văn hóa Việt với những giao thoa, tiếp biến với văn hóa Chăm, Khơ-me, văn hóa các tộc người vùng cao. Nho học ở Việt Nam, ngay cả thời độc tôn Tống Nho vẫn rất ít trường quốc lập và nhiều trường dân lập nơi thầy đồ không chỉ truyền kiến thức sách Nho mà còn học lại từ dân, đúc kết kinh nghiệm dân gian thành minh triết. Chữ Nôm giúp phát triển nền văn học Nôm rực rỡ bằng tiếng mẹ đẻ, dễ truyền khẩu trong dân.
Một số thành quả không phủ nhận được từ sự học ngoài sách vở ấy: hệ thống đê điều ở Bắc, kinh nghiệm trồng lúa rẫy và lúa nước ở những địa hình khác biệt, kinh nghiệm sống chung với lũ, khai khẩn đất bồi, đất giồng ở Nam; vai trò quan trọng của phụ nữ (là đối tượng hoàn toàn bị gạt ra ngoài cái học khoa cử) trong xã hội Việt khác hẳn Trung Hoa; rồi quan họ, chèo, tuồng, lục bát, ca dao hò vè với nhiều sắc thái khác biệt địa phương… Nhà phê bình văn học Nhật Chiêu từng nói: “Sẽ không thể có Nguyễn Du hay Hồ Xuân Hương nếu họ không học từ ca dao và văn chương truyền khẩu.”, tôi hoàn toàn đồng ý. Tôi không nhắc lại những thành tựu từ khi ta có chữ quốc ngữ và tiếp thu văn hóa phương Tây, cũng không chỉ thông qua hệ thống nhà trường vì nó rất ít về số lượng. Có một thành tựu rực rỡ khác chúng ta trải nghiệm hàng ngày: ẩm thực Việt ngon và phần nhiều lành, vô cùng phong phú, đa dạng và tinh tế, là do học từ trường lớp, sách vở Nho hay từ sự học hỏi của người làm bếp, nấu ăn về cách chế biến thịt cá, tôm cua, rau củ, và cả hoa lá bản địa trong tầm tay mình, và từ khẩu vị sành sỏi, đòi hỏi cao của người ăn?
Cho nên những câu vè anh dẫn cũng cho thấy người dân “không có chữ” luôn hiểu giá trị thật của mình so với những giỏ, những bồ, những đống kia, chứ không phải lúc nào cả dân tộc cũng chỉ biết nhắm mắt “tôn sư trọng đạo” như người ta hay nói (cười).

Ngày nay, ta có muốn học, có học được không?


PĐ. Giai đoạn cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 có lẽ là giai đoạn thức tỉnh về sự học lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Một lớp người trí thức mới cổ suý cách học mới, tư tưởng mới, nhưng cái mới ấy có vẻ vẫn bị quán tính của cái cũ cãi lại theo cách này hay cách khác. Và có người nhận xét cái quán tính có từ truyền thống học hành cả ngàn năm đó vẫn ảnh hưởng đến tâm lý học tập của người Việt hôm nay. Bà nghĩ sao ạ?

BTP. Thứ nhứt, tình trạng Tống Nho là nội dung chính thống của học hành, thi cử chỉ kéo dài hơn 400 năm, không phải hàng ngàn năm. Trong hơn bốn thế kỷ ấy, nếu chúng ta biết truy vấn nhiều nguồn hơn là tài liệu thành văn, sự độc tôn của nó không bao giờ tuyệt đối mà luôn bị thách thức bởi nhiều xu thế văn hóa khác. Xét về thời gian, chúng ta làm quen với văn hóa phương Tây cũng hơn 400 năm nay rồi; là tôi không tính đến đồng tiền La Mã thời Marc-Aurèle được tìm thấy trong di tích Óc Eo, vì mối quan hệ giữa dân tộc ta với văn minh Óc Eo là quá xa xôi. Nhưng vì sao, một bên vẫn được coi như máu thịt, đụng đến thì sợ xúc phạm bàn thờ; còn một bên cứ bị coi như xa lạ, ngoại lai, hấp thụ sợ mình mất gốc, chí ít cũng lo “không phù hợp”? Có phải là căn cứ vào sự thật lịch sử hay thực tế cuộc sống đâu!

Từ Nguyễn Trường Tộ đến Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh – là tôi chỉ kể vài cái tên tiêu biểu, chứ đến đầu thế kỷ 20 họ đã không còn là cá biệt – đúng là đánh dấu sự thức tỉnh. Nhưng là “truyền thống lâu đời” bướng bỉnh cãi họ, hay là con cháu đời sau lãng quên, không biết học tiền nhân, càng không làm tiếp sự nghiệp dở dang của họ? Ngay dưới thời quân chủ chuyên chế, đi giữa hai lằn đạn, tiếng nói Nguyễn Trường Tộ còn đến được triều đình, các bản điều trần được Cơ Mật viện nghiên cứu và lưu trữ, đích thân nhà vua đọc, suy nghĩ và cố gắng làm theo trong chừng mực ông hiểu được và tương quan thế lực cho phép ông cựa quậy. Giữa thời thuộc địa, Nguyễn An Ninh còn diễn thuyết trước công chúng bằng tiếng Tây, thách thức mật thám Pháp; đám tang Phan Châu Trinh huy động đoàn biểu tình đông đảo giữa Sài Gòn, có đủ đại diện thành phần yếu thế như phụ nữ, thợ thuyền, nông dân, không cần sự tổ chức lãnh đạo của đảng phái nào. Trí thức canh tân thực sự có ảnh hưởng trong quần chúng. Còn ngày nay, hỏi tên các vị ấy, nhiều thanh niên có học thức hẳn hoi ú ớ, phát ngôn của các vị họ sửng sốt nghe lần đầu khi có người nhắc đến, tác phẩm của các vị có ai đọc, tư tưởng của các vị có ai theo? Sau đó, cũng có những thế hệ kế thừa, cả ở miền Bắc và đông hơn, ở miền Nam sau 1954. Chúng ta đã biết gì, làm gì với những di sản ấy? Sao không thấy trách nhiệm của mình, chỉ đổ thừa bóng ma quá khứ ngàn năm?
Khi cái lạc hậu, lỗi thời chẳng những không bị thay thế mà còn được củng cố, tiếp sức, tôi không phủ nhận là nó trỗi dậy, mạnh mẽ hơn, gây tác hại nghiêm trọng hơn. Nhưng có phải tác hại ấy chỉ xuất phát từ quá khứ?

PĐ. Chúng ta chắc chắn sẽ không làm một việc điên rồ là “bắn súng lục vào quá khứ”, nhưng chúng ta được phép rút kinh nghiệm từ quá khứ. Với một cái nhìn như thế, bà nghĩ người Việt hôm nay nên học điều gì, và không nên học điều gì từ cách học của tổ tiên, ông cha mình?

BTP. Là người học sử từ chối giáo điều xơ cứng mà luôn đi tìm dấu vết sinh động của con người, cuộc sống thật, tôi đã học được bao điều và vẫn còn thấy rất nhiều điều muốn học từ cách học của tổ tiên, xin nhấn mạnh lần nữa, không chỉ có sự học từ sách vở, trường lớp và khoa cử. Trong Nho, Phật, Lão đều có điều phải học, nhưng cũng có những điều phải dứt khoát chối từ, hoặc vì không có căn cứ rõ ràng từ tài liệu, sự kiện xác thực, hoặc vì nội dung đó nay đã lỗi thời, thậm chí có hại. Nhưng ngoài Nho, Phật, Lão, còn vô vàn điều đáng học trong văn minh vật chất và tinh thần của người Việt Nam đa chủng tộc, đa văn hóa. Có điều, theo tôi, ít nhứt là ở thời đại mình, không thể nghiên cứu lịch sử dân tộc mình hay lịch sử Á Đông mà không dùng đến lý tính và phương pháp khoa học đã thịnh hành ở phương Tây trước chúng ta, vững mạnh hơn chúng ta, mà nay đã thuộc tài sản trí tuệ chung của loài người.
Trong cách học của chúng ta, cũng như của các nước láng giềng có chung di sản Nho giáo, cái mạnh là coi trọng sự học, là sự chăm chỉ siêng năng, tinh thần vượt khó… như đã nêu. Nhưng thách thức cho giáo dục ở các quốc gia Đông Á, như chuyên gia người Mỹ Levin đã nêu về giáo dục đại học là “truyền thống” học vẹt, học để hiểu và làm theo người xưa, không phải để tìm cái mới, cái chưa biết, tri thức cần cho hiện tại và tương lai; là khả năng “tiêu hóa” thông tin mới; là tư duy phản biện, nói rộng hơn là lý tính, là tư duy khoa học, biết nhìn đa chiều, lật đi lật lại vấn đề, biết tôn trọng khác biệt; là tự do học thuật, suy nghĩ bằng cái đầu của mình chứ không chỉ học theo, nói theo, nghĩ theo, làm theo. Bao lâu chúng ta còn xem những giá trị phổ quát của khoa học là sản phẩm đặc thù của văn minh phương Tây, là ngoại lai và không phù hợp, thì chúng ta còn chưa chịu học, làm sao tồn tại và phát triển? Như vậy không phải là “bảo tồn truyền thống”, mà, nói như giáo sư Cao Huy Thuần, là “không xứng đáng với tổ tiên”.

Quan niệm thế nào là giáo dục, tôi cho rằng chúng ta – các quốc gia Đông Á có chung di sản Nho giáo và chữ Hán – nên thay đổi căn bản nội hàm của thuật ngữ này. Xét về từ nguyên, giáo có nghĩa « dạy dỗ, truyền thụ ; tôn giáo, đạo ; sai bảo, khiến ; cho phép », hàm ý quyền lực áp đặt chân lý của người trên với người dưới ; dục có nghĩa « nuôi dưỡng, nuôi cho lớn ; sinh con ». Hán Việt từ điển Đào Duy Anh định nghĩa giáo dục là « dạy dỗ người ta khiến cho thoát ly trạng thái tự nhiên tạo vật sinh ra ». Học, chữ Hán có nghĩa là « bắt chước, lĩnh hội », Đào Duy Anh định nghĩa : « chịu thầy dạy cho đạo lý, tập cho nghề nghiệp ». Tất cả đều hàm ý người trên dạy, người dưới học ; dạy là hướng dẫn, chỉ đạo, đưa ra khuôn mẫu, học là học theo, làm theo, nghĩ theo, tuân thủ khuôn phép. Cũng trong mạch ấy, có giáo hóa (dạy để thay đổi người học), giáo huấn (dạy bảo, giải thích), đều là truyền đạt, áp đặt cách nghĩ của mình, hiểu biết của mình cho người học. Từ education của phương Tây có gốc từ tiếng la tinh educare có nghĩa chăm sóc, nuôi dưỡng, làm cho lớn lên ; sinh viên (student, là người học nói chung, không phân biệt cấp học) có gốc từ studeo nghĩa là nghiên cứu, chăm chú tìm hiểu sâu về đối tượng nào đó. Chúng ta thấy vì sao giáo dục của ta thiên về áp đặt, uốn nắn người học theo chủ định của người dạy (thường đại diện cho mô hình, tư tưởng thống trị đương thời) ; trong khi giáo dục phương Tây thuận lợi hơn để chấp nhận quan điểm coi người học là chủ thể ; coi giáo dục là tạo điều kiện cho chủ thể ấy tự học, tìm tòi, phát kiến cái mới, cái chưa biết. Trong thời đại ngày nay, quan niệm nào sẽ hữu dụng và hiệu quả hơn, chắc không khó để xác định. Vấn đề là chúng ta có muốn học và có học được quan niệm phù hợp hơn ấy hay không.

PĐ. Thế kỷ 21 được nhận diện là một thế kỷ phức tạp, với sự lên ngôi của chủ nghĩa hỗn độn, với những sự kiện/sự cố không thể nào biết trước. Chỉ cách đây 2 năm thôi, chúng ta cũng không thể nào dự đoán trước về việc lại có ngày học sinh của chúng ta phải học online triền miên, thậm chí là phải làm quen với khai giảng online như lúc này. Trong một thế kỷ khôn lường như vậy, theo bà sự học của người Việt cần nhấn mạnh đến những khía cạnh nào?

BTP. Đã là “thế kỷ khôn lường”, tôi làm sao dám đề xuất việc cần làm? Chỉ xin kể hai trải nghiệm cá nhân qua đó tôi học được đôi điều.
Cách đây mấy năm, tôi may mắn dự cuộc tọa đàm về sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, giữa hai chuyên gia tầm cỡ quốc tế và… người máy Sophia. Cơ may đó đến với tôi không phải ở New York hay Paris, mà ở Erevan, thủ đô nước Armenia không hề là nước lớn, nước giàu, nước mạnh, làm tôi ngậm ngùi nhớ Việt Nam. Nhưng ấn tượng mạnh nhứt là tận mắt gặp, ngắm nhìn và nghe Sophia chào hỏi duyên dáng, tham gia đàm luận sôi nổi với các chuyên gia, cuộc trao đổi không hề có “kịch bản” soạn trước như chúng ta hay thấy ở xứ mình (cười). Tôi không khỏi rùng mình khi trong cuộc nói chuyện, Sophia bật cười rất đúng lúc, một tiếng cười thú vị, hóm hỉnh. Trước đó, vì ít nhiều hiểu thế nào là cở vây, tôi đã chia sẻ sự bàng hoàng của làng cờ vây và dư luận quan tâm khi kỳ thủ hàng đầu thế giới bị người máy đánh bại. Rồi nay chứng kiến rô bốt biết suy tư, tranh luận và cả biết… cười. Tôi tự hỏi: “Sẽ còn chỗ nào cho con người, nhứt là người chỉ biết học vẹt và chép lại văn mẫu?” Ừ thì có thể tự an ủi: “Dẫu sao, người máy ấy, AI ấy vẫn là sản phẩm sáng tạo của con người.” Nhưng là những con người nào, được dạy ra sao và biết học ra sao? Và mọi người sẽ phải học ra sao để chung sống với những sản phẩm khoa học công nghệ ngày càng thông minh hơn, biết không ngừng tự học (đó là lý do quan trọng khiến người máy thắng được kỳ thủ cờ vây đã tích lũy bao tri thức, kinh nghiệm), lại còn biết cảm xúc?

Trải nghiệm thứ hai là thực tế sống trong Sài Gòn phong tỏa từ mấy tháng qua vì Covid. Hình ảnh đường phố Sài Gòn vắng tanh vắng ngắt; số liệu về người nhiễm, người chết cứ tăng, những tin báo tử bất ngờ; những vật phẩm thông thường như ổ bánh mì, nắm rau gia vị bỗng thành quý hiếm… Nhưng cạnh đó, bao nhiêu hoạt động tận tâm, sáng tạo của tình nguyện viên, người hoạt động thiện nguyện để cứu giúp nhau; chung cư trước đây người đông nhung nhúc trong thang máy mà chẳng ai chào ai, nay người ta tự giác nhường nhau để giãn cách, mỗi người ẩn mặt sau khẩu trang, có người khư khư chai khử khuẩn, nhưng ánh mắt sau kính che giọt bắn vẫn lấp lánh nụ cười thân thiện; chỉ cần tin nhắn trên nhóm Zalo là người ta chia sẻ cho nhau từng lá rau thơm, từng kg gạo, gói mì; rồi nông sản được “giải cứu”, cư dân được mua thịt cá, rau quả giá phải chăng, trẻ em được quà Trung thu dù chỉ post lên Zalo hình mỗi cháu cầm lồng đèn sau cánh cửa đóng kín của căn hộ để cám ơn cô chú TNV…Người bán, người mua đồng lòng thanh toán qua ngân hàng để tránh tiếp xúc, dù số tiền rất nhỏ chỉ vài chục ngàn, nhiều ngân hàng không thu phí chuyển khoản; người bán lẻ, bà nội trợ biết thanh toán qua momo khỏi tốn phí. Người hiểu biết giải thích cho tôi là để làm được như vậy, đằng sau có nhiều thuật toán, nhiều thao tác kỹ thuật đã được công nghệ xử lý thành công. Học và thay đổi hàng loạt thói quen xấu hoặc sự lạnh lùng vô cảm thành ứng xử văn minh, tình nghĩa, để sống còn trong điều kiện khắc nghiệt hơn, mà lại sống tốt hơn, ân tình hơn. Biết học và biết thích nghi như vậy đã cứu đói cho bao người và làm cho cuộc sống phong tỏa bớt nặng nề với bao người khác. Ngược lại, cũng có những minh chứng không chịu học, học chậm, phải trả giá bằng tổn thất không đáng có. Thước đo chân lý không phải là người có quyền hay cấp trên (theo tư duy Nho giáo, giữ đúng tôn ti mới là trật tự, là “phải đạo”, trái lại là “loạn thần tặc tử”, là giặc bên trong); mà là thực tiễn. Cái đó, không phải phương Tây độc quyền nói và làm, mà minh triết dân gian Việt Nam cũng tin vậy, làm vậy, nhờ vậy dân tộc mới sống còn.

PĐ. Một đặc điểm dễ thấy của thời đại hôm nay chính là làn sóng du học. Mọi gia đình nào có điều kiện gần như đều tính đến chuyện cho con em mình ra nước ngoài học hành, nghiên cứu. Sự giao lưu giáo dục, hợp tác giáo dục trong thời toàn cầu hoá là điều hết sức bình thường. Nhưng tôi nghĩ chỉ khi nào điều ngược lại xảy ra, tức là những gia đình có điều kiện đều tự tin cho con em học hành nghiên cứu ngay tại đất nước mình thì sự học của chúng ta mới có những thay đổi mang tính nội lực và thực chất. Quan điểm của bà như thế nào?

BTP. Tôi phần nào đồng ý với anh ở bậc học mầm non và phổ thông, ít nhứt là đến hết trung học cơ sở. Quyền bình thường của trẻ (cũng phù hợp với tâm lý thông thường của phụ huynh) là được lớn lên trong môi trường an toàn, yêu thương của gia đình, quê hương, đất nước mình. Phải cho con rời xa gia đình, đi học dài ngày trong môi trường xã hội, văn hóa khác biệt với nhiều rủi ro, thách thức, hẳn không là chọn lựa dễ dàng. Chắc không vô cớ mà người ta nói đến “tị nạn giáo dục”. Nhưng có biết bao câu chuyện thành công trong học vấn từ người tị nạn thật, dù bằng con đường du học hợp pháp hay sau khi trải qua muôn trùng gian khó, hiểm nguy. Khi chênh lệch về môi trường, chất lượng giáo dục quá lớn, quá hiển nhiên, một lần nữa, thước đo là thực tiễn. Tất nhiên, tôi cũng mơ ước như anh, là con trẻ đỡ phải chịu nhiều bất trắc như vậy trên đường tìm học. Nhưng ta không chỉ mơ ước suông mà được. Người ta sẽ tự tin cho con ở lại khi nào giáo dục trong nước có sự thay đổi thực chất; chỉ e thay đổi đó không thể ngủ một đêm sáng dậy là có. Giải pháp trung gian là trao đổi ngắn ngày giữa học sinh trong và ngoài nước. Ở các nước phát triển, người ta rất chú trọng hoạt động này, không chỉ vì người ta đủ giàu để trang trải, mà chủ yếu vì người ta hiểu lợi ích của việc trẻ được mở rộng tầm nhìn, thích nghi với môi trường sống không quen thuộc. Học, không phải chỉ trong trường lớp là vậy.

Nhưng đến đại học, người học đã trưởng thành. Đại học phương Tây từ thuở khai sinh (khoảng tk 11-12 ở châu Âu) đã có tính quốc tế, nghĩa là có rất ít đại học ở một vài thành phố. Người muốn học đại học phải từ xa đến trọ học. Cách đây hàng chục thế kỷ còn như vậy, huống hồ trong thế giới phẳng ngày nay. Nên tôi cho rằng được đi du học vẫn là một ưu thế mà nếu gia đình có điều kiện giúp con em, hoặc sinh viên nhờ xuất sắc mà có học bổng, đó là điều may mắn không chỉ cho cá nhân du học sinh. Vấn đề không chỉ là chất lượng giáo dục, mà còn là cơ hội trải nghiệm, cọ xát với môi trường mới, lối sống và văn hóa khác, mở rộng quan hệ xã hội, sẽ rất bổ ích cho việc phát triển tri thức và nhân cách thanh niên. Nếu du học sinh quay về, đất nước có lợi; nếu họ không quay về (chọn lựa cá nhân phụ thuộc phần không nhỏ vào thực tiễn sống và làm việc ở quê hương) họ có thể đóng góp từ xa cho đất nước; hoặc làm rạng danh dân tộc bằng cống hiến của mình cho nhân loại. Ngay khi họ chỉ sống bình thường, tử tế nhưng được phát huy năng lực bản thân, cũng góp phần tạo hình ảnh đẹp về người Việt cho cư dân nơi quê mới. Con người ngày càng tự do dịch chuyển để tìm cơ hội sống tốt hơn, kể cả trong và ngoài biên giới quốc gia là xu thế của thời đại không gì cưỡng lại được.

Tôi không muốn giảm cơ hội đó của số ít, mà quan tâm nhiều hơn đến số đông, Tôi mong những thanh niên không có cơ hội du học cũng được hưởng phần nào lợi thế tương tự. Chẳng hạn, bằng cách tạo môi trường quốc tế ngay trong dạy, học và nghiên cứu tại các trường ở Việt Nam, từ phổ thông và đặc biệt ở đại học. Chỉ cần một số ít giảng viên, chuyên gia, sinh viên quốc tế đến làm việc, dạy và học ở trường đại học Việt Nam thì rất đông GV, SV Việt Nam sẽ hưởng lợi. Con đường không trải hoa hồng, nhưng đó là giải pháp căn cơ để giảm dần chênh lệch về chất lượng giáo dục giữa trong và ngoài nước.

PĐ. Câu hỏi cuối cùng: Nếu môi trường giáo dục chưa được như mong muốn thì mỗi gia đình, mỗi cá nhân, mỗi người học cần có những “tự ngộ” như thế nào để có thể vượt thoát khỏi môi trường đó, thưa bà? Nếu được, bà có thể chia sẻ câu chuyện của chính mình được không?

BTP. Tôi nghĩ đã phần nào trả lời. Học là bản năng tự nhiên của muôn loài để sống còn, ai sinh ra cũng có khả năng học. Học không chỉ với thầy, không chỉ qua trường lớp; và trong thế giới ngày nay, thầy và trường lớp đều ngày càng có thể tiếp cận bất chấp khoảng cách địa lý. Ở Việt Nam, chúng ta đang dùng internet khá dễ dàng, rộng rãi. Chỉ cần có công cụ ngoại ngữ (mà ngoại ngữ cũng tự học được miễn phí bằng nhiều cách), bạn đã có cơ hội tự học vô số tri thức, cả qua sách vở hàn lâm và qua nhiều kênh khác. Có môi trường nào giam nhốt bạn được đâu nếu bạn thực sự ham học và biết học; chưa biết thì học từ sách, từ người khác, từ quan sát và hoạt động thực tế, từ trải nghiệm thành công và thất bại của chính mình. Tôi tin các bạn trẻ, nếu muốn, đều có khả năng tự giải độc đối với những định kiến thiếu căn cứ, tự bồi dưỡng nội lực của mình bằng tri thức, bằng năng lực tư duy. Bớt cảm tính, bớt a dua, sử dụng lý trí và sự phán đoán riêng của mình nhiều hơn, tự tin nhưng không tự phụ, cũng không ôm mãi niềm tự hào thiếu căn cứ; và dứt khoát từ bỏ cái ảo tưởng Việt Nam là đặc thù, là ngoại lệ. Các bạn hoàn toàn có khả năng đi xa hơn thế hệ trước, như xác tín dân gian: “Con hơn cha là nhà có phúc”.

Câu chuyện của tôi may lắm chỉ gợi vài suy gẫm chứ chắc không thể “sao y” làm kinh nghiệm, vì tôi sinh ra, lớn lên trong môi trường giáo dục gia đình, nhà trường, xã hội rất khác các bạn trẻ bây giờ. Cho nên, vấn đề của tôi không phải là vượt thoát môi trường giáo dục bất lợi, mà là làm sao không đánh mất những hiểu biết, xác tín, nguyên tắc sống của mình và không ngừng tìm hiểu để theo kịp những đổi thay hiện đại. Làm sao sống có ích (như tôi đã được học và thành tâm thấm nhuần ý nghĩa cuộc đời là như vậy) cho đất nước, dân tộc mình yêu quý, mà vẫn là mình, không đánh mất những giá trị mình tin là chân lý và lẽ phải, bất kể nó đến từ phương trời nào, nó là xưa hay nay, mình biết nó lâu rồi hay mới biết. Tôi cũng may mắn có cơ hội học hỏi từ những con người và nền văn hóa khác, nên tôi quan tâm so sánh, đối chiếu để mở rộng hiểu biết của mình và chia sẻ với người. Là người học sử, tôi dành nhiều thời gian, nỗ lực nghiên cứu quá khứ, nhưng tôi dị ứng với kiểu nhai lại, hay huyền thoại hóa, thiêng liêng hóa lịch sử. Với tôi, học là học cái chưa biết, là không ngừng tìm tòi tư liệu, dữ liệu mới để có hiểu biết mới, kiến giải mới về quá khứ phong phú, đa dạng còn tiềm ẩn bao điều chưa biết, hay chưa biết rõ, chưa hiểu đúng, hiểu đủ, hiểu sâu. Với tôi, học luôn mở rộng sự tự do và niềm vui sống của mình.

Bùi Trân Phượng

Phan Đăng (thực hiện)

(*) Nguồn. Bản tác giả gửi Diễn Đàn, một bản ngắn hơn đã đăng trên An Ninh Thế giới số 241, tháng 9.2021.

Thứ Ba, 21 tháng 9, 2021

Hoài niệm một Tết Trung thu bình thường

 Từ Kế Tường 

Rằm tháng 8 âm lịch, còn gọi là Tết Trung thu hay Tết nhi đồng, khi chưa có dịch COVID-19 khắp các nẻo đường thành phố ngoài những gian hàng bán bánh trung thu với cách bài trí màu sắc sặc sỡ đặc trưng từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong thật bắt mắt.

Và đó cũng là hồn vía mùa trung thu của các thành phố lớn, tiêu biểu cả nước như Hà Nội, Sài Gòn, Hội An... Nhưng ngày này nếu chỉ có những hộp bánh đỏ rực mang các thương hiệu nổi tiếng quen thuộc mà không có những chiếc đèn lồng giấy kiếng, khung tre đủ loại hình: con bướm, con cá, con gà, tàu thủy, xe tăng, ngôi sao… với cách trang trí thuần Việt đi kèm thì cũng không làm nên hồn vía của một đêm rằm tháng tám, một cái Tết Trung thu đúng nghĩa.

trung-thu.jpg

Mấy ai đi mua bánh trung thu cho con mà lại quên mua một chiếc lồng đèn? Và trong lúc rảo xe trên phố, tìm một điểm bán đèn hay trong phút giây dừng chân chọn lựa một chiếc đèn vừa ý, hợp với sở thích của con, mấy ai không khỏi ngậm ngùi nhớ lại thời thơ ấu của mình khi có dịp ngắm nghía những chiếc đèn lồng khung tre, giấy kiếng truyền thống, màu đỏ rực rỡ với nét họa tiết, chấm phá đơn sơ, thậm chí cách điệu mà làm nên hình dáng một con rồng, con gà, con cá, trái bí…

Khi gắn cây nến nhỏ vào bên trong đốt lên, ánh sáng thật lung linh, kỳ ảo càng làm cho trí óc trẻ con trong sáng, hồn nhiên bay bổng hơn với sự tưởng tượng thăng hoa về một đêm trung thu trăng sáng với hình ảnh chú Cuội ngồi gốc cây đa ngóng đợi chị Hằng.        

ADVERTISING
ADVERTISING

Tuy nhiên, có mấy ai biết được những chiếc đèn lồng khung tre, giấy kiếng rất xa xưa ấy mỗi năm đến rằm Trung thu lại xuất hiện rực rỡ trên phố, đi đến tận chợ huyện, chợ làng từ đâu mà có, do ai làm ra, xuất xứ ở một khu phố nghề nào? Tất nhiên có nhiều nơi, nhiều làng nghề làm đèn lồng trung thu nhưng ở Sài Gòn có một khu phố nghề chuyên làm đèn tập trung nhiều hộ gia đình đã nổi tiếng lâu đời được nhiều nơi tín nhiệm đặt hàng phân phối ra thị trường.

Đó là khu phố làm đèn lồng giáo xứ Phú Bình, đường Lạc Long Quân, Q.11 đã tồn tại hàng mấy chục năm mà lúc thịnh hành có đến 100 hộ sản xuất đèn quanh năm, mà sôi nổi nhất là vào những tháng trước Rằm Trung thu tháng Tám.        

Vào những ngày này đến khu phố làm đèn trung thu giáo xứ Phú Bình, người ta sẽ nhận ra ngay những hộ sản xuất đèn lồng theo phong cách truyền thống, hoàn toàn thủ công khi tận mắt ngắm nhiều kiểu đèn được treo giăng giăng trước cửa nhà để tiếp thị, và khi bước vào trong, khách có thể chứng kiến tận mắt những “nghệ nhân” đang thao tác cho từng công đoạn làm đèn từ khâu chẻ tre, vuốt nan, làm khung, dán giấy kiếng, trang trí họa tiết… Không khí làm việc luôn khẩn trương, cảnh người đến lấy hàng về phân phối luôn tấp nập bất kể ngày đêm. 

Do đây là nghề thủ công, những chiếc đèn từ đơn giản đến cầu kỳ, tinh xảo đều được người thợ làm bằng tay theo kiểu gia đình “cha truyền con nối” mà hình thành phố nghề. Trong dây chuyền sản xuất của một hộ gia đình thường bao gồm chồng, vợ, con cái, dâu rể…

Nghề này đòi hỏi sự khéo tay, tỉ mẩn kể cả sự “lao tâm khổ tứ”, nhẫn nại mới vượt qua được và mới theo nghề được. Công đoạn khó nhất để làm ra một chiếc đèn lồng trung thu có lẽ là uốn nan, ráp khung tạo hình cho chiếc đèn. Hình dáng khó làm nhất có lẽ là đèn con rồng bởi đây là sự kết hợp giữa khung tre và chi tiết uốn kẽm tạo dáng đầu rồng, râu rồng…

Nhưng điều này không làm nghệ nhân làm đèn sợ bằng việc hàng phải giao gấp mà trời lại mưa dầm vì giấy kiếng được dán vào khung tre bằng hồ mà gặp không khí ẩm ướt thì giấy kiếng không thẳng, bị nhăn nheo rất khó sửa, hầu như phải gỡ ra làm lại.

trung-thu-2.jpg

Một nghệ nhân làm đèn lồng kỳ cựu có thâm niên trên 15 năm ở khu phố đèn lồng giáo xứ Phú Bình là ông Trí cho biết họa tiết, màu sắc trang trí đèn lồng trung thu của Việt Nam khác với đèn lồng trung thu Trung Quốc bởi những họa tiết này mang bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc Việt do gia đình truyền lại và mỗi thế hệ đều có sự sáng tạo thêm. Cả gia đình ông Trí chia nhau đảm nhận các công đoạn sản xuất đèn lồng. Ông Trí chẻ che, vót nan, vợ ông ráp khung tre tạo dáng cho chiếc đèn, cô con gái vẽ họa tiết trang trí… Hộ gia đình ông Trí chuyên làm đèn lồng loại lớn theo sự đặt hàng của mối quen, mỗi chiếc đèn của hộ ông Trí có giá từ 80.000 - 100.000 đồng.  Còn những hộ làm đèn lồng nhỏ thì giá khoảng 10.000 - 30.000 đồng.

Tất nhiên, đèn lồng trung thu cũng theo thời giá, mỗi năm giá mỗi khác.        

Mấy năm trước một hộ làm đèn lồng kỳ cựu khác trong khu phố đèn lồng giáo xứ Phú Bình là ông Nhân than rằng bây giờ nguyên vật liệu làm đèn đều tăng giá, có chiếc đèn nhiều chi tiết khó, tinh xảo, đòi hỏi nhiều công sức hoàn thành như chiếc đèn con rồng phải mất mấy giờ liền mới làm xong. Thực tế còn phải cạnh tranh với đèn lồng của Trung Quốc giá rẻ nên nghệ nhân làm đèn lồng truyền thống hiện gặp rất nhiều khó khăn. Đèn lồng là mặt hàng không thể “lưu kho” được, phải bán hết ngay trong mùa vụ vì nếu để qua một năm khung tre sẽ bị mối mọt ăn, giấy kiếng sẽ rách nát. Ông Nhân và một số hộ làm đèn lồng truyền thống khác khẳng định nếu không thay đổi mẫu mã cho đèn lồng Việt Nam thì khó cạnh tranh với đèn lồng Trung Quốc.        

Thế nhưng, đèn lồng Trung Quốc mỗi năm tràn vào thị trường Việt Nam, đặc biệt là ở TP.HCM càng nhiều. Đèn của họ mẫu mã phong phú, đa dạng, lại rất đẹp, giá rẻ. Trẻ con Việt Nam ngày nay do tiếp xúc với máy vi tính sớm nên sở thích cũng hiện đại, những mẫu lồng đèn khung tre, giấy kiếng hình dáng con thỏ, con cá, con gà…hình như không còn hấp dẫn với chúng nữa mà cứ đòi bố mẹ mua lồng đèn Trung Quốc chế tác tân kỳ hơn, đèn dùng pin hoặc cắm điện sạc chứ không đốt nến lung linh cứ nơm nớp sợ cháy cả đèn khi gió mạnh.      

Chính vì cạnh tranh không nổi với đèn lồng trung thu của Trung Quốc mỗi năm nhập nhiều hơn nên nhiều nghệ nhân làm đèn lồng truyền thống đã bỏ nghề. Khu phố đèn lồng giáo xứ Phú Bình, đường Lạc Long Quân, Q.11 từ chỗ trước đây có 100 hộ làm nghề, hoạt động tấp nập, đông vui vào những tháng chuẩn bị cho mùa trung thu hiện giờ chỉ còn khoảng 10 hộ theo nghề, những hộ làm đèn này chủ yếu lấy công làm lời và không nỡ bỏ một nghề “cha truyền con nối”. Do đó không khí của phố đèn lồng Phú Bình vào những ngày này đã trở nên buồn tẻ, vắng lặng chứ không rộn ràng, tấp nập, sôi động như xưa.

Năm nay, không chỉ vì đại dịch bùng phát mà làng nghề làm lồng đèn truyền thống Phú Bình đìu hiu, những con đường thành phố vốn là nơi trưng bày các cửa tiệm bán bánh trung thu, bán đèn lồng truyền thống vốn là điểm đến tấp nập của cư dân thành phố cũng vắng bóng.

Một Sài Gòn giãn cách chống dịch đã không còn hồn vía Tết Trung thu, dù đó đây có những shipper công nghệ giao bánh, lồng đèn tới khu phong tỏa cho người Sài Gòn nhớ Trung thu. Hay một vài điểm bán bánh trung thu thương hiệu ở Hà Nội hoặc Sài Gòn có cảnh sắp hàng mua bánh từ sáng sớm bị dư luận phê phán không tuân thủ giải pháp 5K chống dịch cũng không phản ánh được không khí tưng bừng, nhộn nhịp, đầy màu sắc có tính đặc trưng hồn vía trung thu.

Và biết đâu khi đã sống quen với dịch bệnh, những năm tới đây vào dịp Rằm tháng Tám Sài Gòn rồi sẽ mất hẳn một phố nghề chuyên sản xuất đèn lồng nổi tiếng khắp nơi?

Đã có ai nghĩ tới việc hỗ trợ cho một làng nghề, một xóm đèn lồng nổi tiếng từng có đến hơn 100 hộ sản xuất thứ “hồn vía” này tồn tại mấy chục năm đang dần mai một của Sài Gòn?


https://g.co/doodle/d4z78n9