Yersin ở Việt Nam (Kỳ 1): Người chế ngự bệnh dịch hạch
Tên tuổi lừng lẫy của Alexandre Yersin khiến bất cứ ngòi bút nào cũng phải chùn bước. Liệu có thể viết về ông theo một cách khác, ví như không nhắc đến phát hiện trực khuẩn gây bệnh dịch hạch? Nhưng cũng giống việc nói về nhà văn gốc Ấn Salman Rushdie mà không thể không gợi lại fatwa (án tử hình) từ giáo chủ Iran Ruhollah Khomeini, chúng ta buộc phải nhắc đến phát hiện năm 1894 bởi nó liên quan đến phần đời Yersin ở Việt Nam và khởi thủy cho rất nhiều dự án quan trọng của ông tại đây.
LTS: Là một bác sĩ, nhà vi trùng học và nhà thám hiểm, lúc sinh thời, tên tuổi của Alexandre Yersin đã vượt khỏi biên giới Thụy Sĩ, nơi ông ra đời vào năm 1863, và khỏi biên giới Pháp, nơi ông theo học Louis Pasteur, nhờ phát hiện ra trực khuẩn gây bệnh dịch hạch ở Hong Kong vào năm 1894 và sau mang tên ông, Yersinia pestis. Nhưng hầu như toàn bộ cuộc đời phi thường của Yersin, với những phát hiện và đóng góp lớn lao mang tính khai sơn phá thạch khác sau cột mốc 1894, đều diễn ra ở Việt Nam, nơi được thừa hưởng toàn bộ di sản của ông.
Tưởng nhớ công lao này, nhân dịp tròn 160 năm ngày sinh (22/9/1863) và 80 năm ngày mất (1/3/1943) của Alexandre Yersin, Tia Sáng xin giới thiệu với bạn đọc một góc nhìn về ông qua loạt bài viết dài kỳ “Yersin ở Việt Nam”.
Ở Nha Trang, mùa du lịch đã nhộn nhịp trở lại sau mấy năm im lìm vì COVID. Tháng sáu, những dòng khách nước ngoài, chủ yếu là khách Trung Quốc, Hàn Quốc, đổ dồn về các khách sạn và làm đầy các bãi tắm ven đường Trần Phú, con đường đẹp nhất thành phố. Nhưng ở đây, trong không gian rộng 100m2 tầng hai của Bảo tàng Yersin, vào ngày chúng tôi tới, hầu như vắng bóng du khách. Chị Cao Hoàng Đoan Thục, hướng dẫn viên da nâu duyên dáng của bảo tàng, cho biết, trung bình mỗi tháng trước dịch có khoảng 300 đến 400 lượt khách thưởng lãm, nhiều nhất là hơn 500 lượt khách, hầu hết là người châu Âu. Cũng giống như mỗi lần dịch bệnh qua đi, mấy ai còn nhớ đến những điều đau đớn tồi tệ, và có lẽ, cả những người âm thầm chế ngự nó, nhất là khi dịch hạch đã im lìm trong quá khứ trăm năm…
Nhưng lẽ nào người ta không nhớ đến Yersin? Ở Nha Trang, đường Yersin kéo dài gần suốt chiều rộng thành phố, nhìn thẳng ra bờ biển lộng gió và vuông góc với đường Pasteur để hình thành một khối liên ngành kỳ lạ: Viện Pasteur Nha Trang, Bảo tàng Yersin, Viện Vaccine và Sinh phẩm Y tế (IVAC), trường Trung cấp KTXN Y học dự phòng, Trung tâm Khí tượng Thủy văn Nam Trung Bộ, Bảo tàng Khánh Hòa… Trực tiếp hay gián tiếp, tất cả đều nhắc nhở về ông. “Trước hết, ông là một bác sĩ, sau đó là nhà thám hiểm, nhà vi trùng học, nhà nông học, nhà thiên văn, nhà khí tượng, nhà cơ khí… Ông cũng đặt nền móng cho ngành thú y Đông Dương và nhiều lĩnh vực khác”, lời giới thiệu của chị Đoan Thục về Yersin, có lẽ được nhắc đi nhắc lại vài trăm lần một năm nhưng vẫn rung lên trong một xúc cảm khó nhận biết.
Các hiện vật trong bảo tàng này đều ẩn chứa một sức hút lạ thường. Nó thôi thúc người ta bước vào cuộc đời của một con người, sống gần một thế kỷ trước, với những niềm đam mê khác nhau, và cả những quan điểm khác biệt với suy nghĩ thông thường. “Mẹ có hỏi liệu con có thích hành nghề y hay không? Có và không, con rất vui khi được chăm sóc những người đến khám, nhưng con không muốn biến y khoa thành một nghề, có nghĩa là không bao giờ con có thể đòi tiền người bệnh cho việc chăm sóc họ. Con coi y khoa như một chuyên môn và nhiệm vụ. Đòi tiền để chăm sóc bệnh nhân chẳng khác nào nói với người đó rằng tiền hay mạng sống. Đó là suy nghĩ mà con biết rằng không phải đồng nghiệp nào cũng chia sẻ nhưng ít nhất thì đó là suy nghĩ của riêng con và con tin là mình sẽ khó có thể từ bỏ nó”, Yersin từng thổ lộ như thế trong một lá thư gửi mẹ từ Sài Gòn, đề ngày 30/1/1891.
Vậy có phải việc phát hiện ra vi khuẩn gây bệnh dịch hạch, với Yersin, chỉ là một nhiệm vụ?
Ngự lâm quân của Pasteur
Trước cơn bão dịch hạch năm 1894 ở Trung Quốc, Alexandre Yersin được biết đến như một trong số các ngự lâm quân của Louis Pasteur. Vào năm 1883, sau khi học Y ở tại Lausanne (Thụy Sĩ) và Marburg (Đức), Yersin sang Paris và bị thu hút bởi nhà hóa học tài ba người Pháp. Lúc này, danh tiếng của Louis Pasteur đã lên tới đỉnh điểm khi phát hiện ra vai trò của vi sinh vật vào quá trình lên men, các nguyên tắc thanh trùng, và hơn thế, khẳng định các bệnh truyền nhiễm ở người và động vật là do các vi sinh vật. Đây là một bước tiến trong ngành miễn dịch học, dịch tễ học và đặt nền móng cho nhiều tiến bộ sau này.
Giáo sư Maxime Schwartz, Giám đốc Viện Pasteur Paris từ năm 1988 đến năm 1999, trong bộ phim tài liệu A. Yersin – Vainqueur de la paste” (A. Yersin – người chiến thắng bệnh dịch hạch) của đạo diễn Stefan Kleeb năm 2016, đã lý giải về nguyên nhân để Yersin lựa chọn phòng thí nghiệm của Pasteur ở trường École Normale Supérieure, mối nhân duyên ảnh hưởng đến sự nghiệp của ông theo nhiều cách: “Yersin dĩ nhiên đã được nghe nhiều về Pasteur và phấn khích những gì mới mẻ trong suốt cuộc đời mình”.
Dường như có sự sắp đặt sẵn của số phận, đó cũng là thời điểm đáng nhớ của Pasteur: ông đang giới thiệu phương pháp điều trị bệnh dại bằng vaccine mình làm ra cho người bị chó dại cắn. Và một sự cố tình cờ đã xảy ra: trong phòng thí nghiệm, Yersin được giao khám nghiệm tủy sống một bệnh nhân chết sau khi bị chó dại cắn; và lúc mổ tủy sống, Yersin bị đứt tay; ông lập tức tiến đến phòng của Pasteur và được Pasteur nhờ Emile Roux, trợ lý của mình, tiêm vaccine phòng bệnh dại. Đó là khởi điểm cho một tình bạn lâu dài giữa ba người lần lượt nắm các vị trí quan trọng ở Viện Pasteur Paris sau này. Đặc biệt Roux, dù lớn hơn Yersin 10 tuổi, đã nhanh chóng trở thành người bạn thân thiết của Yersin đến tận cuối đời. “Roux ủng hộ con hoàn toàn. Những gì khiến con vui nhất là anh ấy thấu hiểu mục tiêu những cuộc khám phá của con bởi với anh ấy, mục tiêu đề ra [trước mỗi hành động] là điều rất quan trọng và cần thiết. Điều khiến con hạnh phúc hơn là từ rất lâu rồi, con đã mong ước có được sự thấu hiểu của một người ngay thẳng và đáng kính như vậy”, Yersin viết trong thư gửi mẹ từ Paris, đề ngày 2/11/1892.
Với ảnh hưởng của mối quan hệ này, Yersin bắt đầu quan tâm đến vi khuẩn học và thường dành thời gian ở các phòng thí nghiệm của Pasteur và Roux. Ông cũng được Roux hỗ trợ trong quá trình chuẩn bị luận án tiến sĩ y khoa tại Pháp. Hai người cùng nhau khám phá ra cơ chế hoạt động của Corynebacterium diphtheriae, vi khuẩn gây ra bệnh bạch hầu, và cách điều trị bệnh bạch hầu bằng kháng độc tố, khi đó là một căn bệnh ác tính gây chết người, đặc biệt trẻ em. “Trong giai đoạn đầu, nghiên cứu của hai người đã chỉ ra, vi khuẩn bạch hầu tiết ra một chất độc gọi là độc tố bạch hầu, độc tố ấy gây bệnh ở động vật như chuột, thỏ, những triệu chứng nhiễm bệnh bạch hầu như ở người, do đó độc tố này là nguyên nhân gây bệnh”, giáo sư Maxime Schwartz, nói về sự kiện phân lập độc tố vi khuẩn đầu tiên trong lịch sử y khoa thế giới này.
Ở Viện Pasteur, cách tiếp cận mà Pasteur và cộng sự nuôi cấy vi khuẩn là cho nó tiếp xúc với oxy hoặc nhiệt – sau được các học trò Albert Calmette và Camille Guérin tối ưu bằng kỹ thuật nuôi cấy trong ống nghiệm hoặc trên vật chủ – để thu được một chủng đã được giảm độc lực để có thể bảo vệ chống lại các bệnh truyền nhiễm ở người (Calmette thành lập Viện Pasteur Sài Gòn vào năm 1891). Đáng chú ý là Yersin đã tham gia vào phát triển huyết thanh chống bệnh chó dại và năm 1888, ở tuổi 25, ông nhận bằng tiến sĩ với luận án “Étude sur le Développement du Tubercule Expérimental” (Nghiên cứu về sự phát triển của bệnh lao bằng thực nghiệm).
Yersin gia nhập quốc tịch Pháp, có lẽ là chuẩn bị cho tương lai (vì lúc đó ở Pháp có quy định, chỉ người có quốc tịch Pháp mới được hành nghề y), hơn nữa, cho một sự nghiệp xán lạn ở Viện Pasteur với những đồng sự xuất sắc, nếu không có một sự kiện quan trọng xảy ra.
Đó là cuộc triển lãm thế giới ở Paris vào năm 1889, một màn giới thiệu văn hóa về các thuộc địa nhiệt đới của Pháp không chỉ truyền cảm hứng và chất liệu mới cho những nhà soạn nhạc như Debussy mà còn bứng Alexandre Yersin vĩnh viễn khỏi châu Âu và đặt ông vào vùng đất mới mà thời kỳ đó gọi là Đông Dương thuộc Pháp, trong đó có Việt Nam (lúc đó là An Nam). “Quyết tâm của con là không bao giờ trở lại làm việc tại Viện Pasteur. Con đã dành quá đủ thời gian ở đó và giờ thì con đã ở xa, con có thể tỉnh táo để nói một cách khách quan nhất như vậy. Cuộc đời trong phòng thí nghiệm dường như trở nên không thể với con, sau khi đã nếm trải cảm giác tự do và cuộc sống ngoài trời”, Yersin viết thư gửi mẹ từ Sài Gòn, lá thư đề ngày 6/9/1891.
Bệnh dịch ở Hongkong
Không có chữ nếu tồn tại, có lẽ vào năm 1894, người được cử tới Hong Kong hoặc bất cứ địa điểm nào đó xảy ra bệnh dịch hạch, Vân Nam chẳng hạn, có thể không phải là Yersin bởi những ngự lâm quân của Pasteur, ngoài Roux, Calmette, Guérin như chúng ta đã biết, còn có cả Paul-Louis Simond, nhà sinh vật học sau phát hiện con đường lây truyền bệnh dịch hạch, và Ilya Mechnikov, người sau đó giành giải Nobel Y sinh năm 1908.
Nhưng lịch sử đã xảy ra đúng như cách nó tồn tại, một sự sắp đặt gần như vừa khéo để Yersin xuất hiện và lĩnh lấy nhiệm vụ của mình. Khi đó, trong vòng hai năm (1892-1894), Yersin đã có ba chuyến thám hiểm từ Nha Trang tới Kratié, Stung-Streng (Campuchia), khám phá cao nguyên Langbiang, từ Nha Trang tới Attopeu (Lào) và Đà Nẵng – những điều chúng ta sẽ có dịp bàn tới ở các kỳ sau. Yersin ở tuổi 31 còn đang ngây ngất với thám hiểm, dẫu có lần suýt phải trả giá bằng cả tính mạng, thì nhận được điện tín xuyên châu lục của Roux, từ Paris gửi tới tất cả những nơi có thể gặp được Yersin.
Roux nóng lòng muốn thông tin cho Yersin về việc dịch hạch bùng phát ở Trung Quốc. Với người châu Âu, dịch hạch gắn liền với những ký ức khủng khiếp. Nếu không tính đến cơn bùng phát ở Athens vào năm 430 trước Công nguyên khiến 100.000 người chết và là đại dịch liên vùng đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử loài người, thì có hai đại dịch do dịch hạch gây ra, thứ nhất là dịch hạch Justinian ở vùng Địa Trung Hải, châu Âu, Cận Đông với 30 – 50 triệu người chết, từ năm 541 đến năm 750 sau Công nguyên; thứ hai là Cái chết Đen vào những năm 1340 ở châu Âu khiến 50 triệu người chết, tỷ lệ tử vong khi mắc là 90%, cao hơn cả COVID. Ai nấy đều hoảng sợ, thầy thuốc và nhà thờ đều nghĩ rằng nguồn gốc gây bệnh là do đấng siêu nhiên nào đó và nhiều người bị xử tử do bị cáo buộc làm lây truyền, gieo rắc bệnh dịch. Không có cách nào ngăn chặn nổi dịch hạch, một khi nó đã khởi phát.
Giờ đây nhìn về quá khứ với tâm thế của người thuộc về thời đại đã kiểm soát tốt bệnh dịch hạch, ắt hẳn chúng ta cảm thấy kinh ngạc trước sức tàn phá của căn bệnh này. Không phải ngẫu nhiên trong tiếng Anh, từ “plague” (dịch hạch) lại còn mang thêm các nghĩa tai họa, gây tai hại, làm phiền muộn. Ở màn 1, cảnh một của Othello, vở bi kịch mà William Shakespeare có lẽ viết vào năm 1603 (khoảng 250 năm sau Cái chết Đen), nhân vật phản diện Iago đã nói với Roderigo, một nhân vật phản diện mê muội nhan sắc Desdemona khác, rằng ‘Hãy để anh ta [Othello] gặp tai họa’ (Plague him…).
Lúc Roux gửi điện tín thì tình thế đã rất nguy cấp bởi từ tháng 1/1894, căn bệnh được cho là bắt nguồn từ Vân Nam năm 1792 đã làm tám vạn người chết. Sang tới tháng ba thì các bác sĩ người Anh ở Hong Kong mới coi đây là đại dịch. Hong Kong hay Vân Nam quá gần với Đông Dương và việc để dịch lan truyền tới đây sẽ đe dọa tính mạng của người châu Âu sống tại đây, dĩ nhiên cả người bản xứ. Chính quyền Pháp cầu cứu Pasteur và Pasteur nghĩ ngay đến người học trò xuất sắc đang ở Đông Dương. Ở đây, giáo sư Maxime Schwartz lưu ý, ban đầu, Yersin được gợi ý tới Vân Nam nhưng bằng óc phân tích của mình, Yersin nhận ra tâm điểm của dịch là Hong Kong, nơi có đủ điều kiện gia tốc căn bệnh truyền nhiễm: mật độ người, mật độ giao thương, điều kiện vệ sinh…
Cuộc cạnh tranh ngoài ý muốn
Với hành lý không nhiều nhặn gì – một cái rương đựng ít thiết bị y tế, bao gồm vật liệu nuôi cấy, kính hiển vi và nồi khử trùng, Yersin rời Hà Nội ngày 12/6, cập bến Hong Kong vào ngày 15/6 và nhận ra một nhóm nhà khoa học Nhật Bản đến trước mình ba ngày. Giới chức Anh ở đây đã chọc giận người Pháp bằng việc mời nhà vi trùng học Kitasato Shibasaburō, học trò của Robert Koch, đối thủ truyền kiếp của Pasteur. Chúng ta cần nhớ là nửa cuối thế kỷ 19, thế giới đã chứng kiến cuộc cạnh tranh đầy căng thẳng giữa hai gương mặt hàng đầu lĩnh vực vi sinh học hai quốc gia Đức và Pháp, Robert Koch và Luis Pasteur. Giờ nó lại được nối dài ở thế hệ tiếp theo, Yersin và Kitasato, trong một bối cảnh thu gọn còn cân não hơn, Hong Kong. Yersin cố gắng trao đổi với Kitasato bằng tiếng Đức nhưng không thành công.
Rõ ràng, Yersin ở thế bất lợi. Ông đơn thương độc mã, Kitasato có lợi thế thời gian, 6 trợ tá và hơn thế, sự ủng hộ của người Anh. Lúc đó bệnh viện thành phố Kennedy Town đầy rẫy bệnh nhân đang ốm nặng và chết nhưng Yersin không được vào nhà xác do lệnh cấm của tiến sĩ Lawson, giám đốc bệnh viện. Sau nhiều lần đề xuất, Yersin được phép đặt một cái bàn nhỏ trong góc hành lang, gần phòng bệnh nhưng vẫn không được vào nhà xác.
May mắn theo giới thiệu của bạn bè ở Hà Nội, ông liên lạc với linh mục Ý Vigano, người sau đó hỗ trợ ông làm một cái lều nhỏ bên ngoài bệnh viện, nơi có thể kê một cái giường gấp, một phòng thí nghiệm sơ sài. Theo lời khuyên của cha Vigano, Yersin đưa cho hai lính thủy Anh vài USD để vào được nhà xác. Giờ thì Yersin có thể vào đó trong vòng vài phút, tiếp cận thi hài bệnh nhân dịch tả mới qua đời, chờ khoảng một, hai giờ thì chôn cất. Tài khéo phẫu thuật mà Yersin rèn được ở Đức đã phát huy công dụng: nắp quan tài hé mở, rất nhanh chóng, ông gạt đám vôi rắc trên thi hài ở vùng đùi để trong vòng một phút cắt lấy những hạch bạch huyết, nơi nghi ngờ chứa những vi khuẩn gây ra bệnh. Sau đó, ông chạy về phòng thí nghiệm dã chiến, đặt một ít lên kính hiển vi, một phần khác tiêm thẳng vào mấy con chuột lang chuẩn bị sẵn. Ông cũng kiểm tra thêm một số hạch khác, kết quả cũng tương tự. Vào ngày hôm sau, ông lặp lại thí nghiệm của mình và luôn luôn cùng kết quả. Ông đóng dấu niêm phong ống nghiệm chứa vi khuẩn rồi gửi về Paris cho Roux bằng đường bưu điện, điều có vẻ khó tưởng tượng vào ngày nay.
Sở dĩ chúng ta có thể biết được những điều này là một phần nhờ Ludwik Gross – nhà virus học người Mỹ đã có thời gian nghiên cứu ở Viện Pasteur Paris vào trước Chiến tranh thế giới thứ hai và năm 1938, đã viết thư trao đổi chi tiết với Yersin về khám phá bệnh dịch hạch. Yersin kể với ông là đã vô cùng phấn khích khi nhìn vào kính hiển vi. Sau đó, Yersin cũng ghi lại trong cuốn sổ công tác: “Ngày 20/6/1894. Bệnh phẩm đầy rẫy các con vi khuẩn, tất cả đều giống nhau: đầu tròn, bắt màu rất kém (vi khuẩn gam âm); đây có thể là vi khuẩn gây bệnh dịch hạch”. Trong thư gửi mẹ, ông miêu tả sống động hơn “Thoạt nhìn, con nhận ra một đám vi khuẩn dày đặc, tất cả đều giống nhau: chúng hình que, bé xíu, béo lùn, có đầu tròn và màu xấu xí”. Cuốn sổ ghi chép một, hai ngày sau thêm vài dòng “những con chuột lang bị tiêm dịch từ hạch bạch huyết đã chết, máu chúng và các nội quan đều tràn ngập cùng một loại vi khuẩn”. Vào ngày 23/6, Yersin ghi nhận sự hiện diện của vô số vi khuẩn này trong chuột. Chúng cũng chết với những hạch bạch huyết giống như người. Giờ thì ông đã biết là mình đã phân lập được vi khuẩn gây bệnh dịch hạch. Ông thông báo cho tiến sĩ Lawson các quan sát của mình và được phép vào nhà xác.
Ở Paris, ngày 30/6, tiến sĩ Émile Duclaux, Giám đốc Viện Pasteur khi đó, đã thông báo phát hiện của Yersin trong cuộc họp của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp. Người Pháp phất cờ chiến thắng.
Nhưng Kitasato không phải người tầm thường. Năm 1889, ông đã tìm ra vi trùng Clostridium tetani trong máu bệnh nhân uốn ván và sau là phát triển huyết thanh kháng. Ở Hong Kong, ông không đi tìm vi khuẩn trong hạch bạch huyết như Yersin mà tìm trong máu bệnh nhân, một cách làm quen thuộc của mình. Yersin cũng lưu ý trong sổ ghi chép là Kitasato dường như phớt lờ các hạch trong khám nghiệm bệnh lý.
Trong lịch sử y khoa khó có trường hợp dịch bệnh nào lại có đầy rẫy vi khuẩn trong máu và trong các hạch bạch huyết như thế. Vấn đề là Kitasato đã phát hiện ra vi khuẩn gây bệnh sớm hơn Yersin vài ngày nhưng các báo cáo ban đầu của ông thì không thiếu mơ hồ và mâu thuẫn. Việc xác định Kitasato có là đồng khám phá ra vi trùng dịch hạch hay không còn được giới khoa học tranh luận vào những năm 1970 và cuối cùng, vi khuẩn chính thức mang tên Yersinia pestis như một hành động vinh danh Yersin.
Ludwik Gross, người của “phe Pasteur”, đã nhận xét về Yersin vào năm 1995 “Phát hiện này không đòi hỏi những phương pháp hay kỹ thuật phức tạp, ngoại trừ sự tò mò, các khả năng phán đoán, quan sát tốt của người làm nghiên cứu thông minh, kiên trì, được trang bị một cái kính hiển vi và một ý chí vững vàng”. Mặt khác, Yersin không hẳn chỉ gặp bất lợi. Vi khuẩn dịch hạch trớ trêu lại phát triển tốt hơn ở nhiệt độ thấp, phù hợp với điều kiện dã chiến của Yersin và giúp ông có lợi thế hơn Kitasato, người sử dụng một tủ sấy ở Bệnh viện Kennedy Town.
Trong một bài báo xuất bản ngày 18/2/1897, Nature nhấn mạnh vào việc Yersin quan sát khu nhà ổ chuột không có cửa sổ, thấp hơn mặt đường của người bản xứ, xác chuột chết đầy trên phố ngay từ ngày đầu tới Hong Kong, xác ruồi đầy trong các phòng có bệnh nhân dịch hạch. Sau khi lấy mẫu chuột và ruồi, ông phát hiện ra các mẫu đều chứa đầy vi khuẩn dịch hạch. Dù cho đây cũng là nguyên nhân gây bệnh nhưng ông chưa lý giải được vì sao chúng lây cho người. Công việc của Yersin với bệnh dịch hạch, sau này được Simond hoàn tất khi phát hiện con đường lây truyền vào năm 1898: con bọ chét (Xenopsylla cheopis) sống ký sinh trên chuột, làm nhiễm bệnh cho chuột, sau đó nhảy từ vật chủ chuột chết sang người, đúng theo cách thức các bệnh truyền nhiễm có nguồn gốc từ động vật.
Ngày nay nhìn lại, có thể thấy góp phần đem lại thành công của Yersin chính là sự quan sát rất kỹ lưỡng những biểu hiện lâm sàng của người bệnh cũng như môi trường xung quanh. Dù trước cả thế kỷ nhưng cách tiếp cận của ông rất gần với One Health hiện nay – một cách tiếp cận liên ngành, thực hiện từ quy mô địa phương, vùng, quốc gia đến toàn cầu nhằm tìm hiểu cơ chế phát sinh và tiến triển của bệnh truyền nhiễm thông qua mối tương tác giữa con người, động vật, môi trường.
Yersin hậu khám phá như thế nào? Ông về Paris điều chế huyết thanh chống dịch hạch cùng với hỗ trợ của Roux, Calmette, Roux và Borrel, nơi họ chủng vi khuẩn dịch hạch đã nuôi cấy trong môi trường nhiệt độ cao lên ngựa, con ngựa suýt chết nhưng sau sáu tuần, cung cấp một thứ huyết thanh chống độc tố hiệu quả. Yersin trở lại Đông Dương và làm nên điều kỳ diệu với thứ huyết thanh ấy: cứu sống một chàng trai Trung Quốc 18 tuổi gần như cận kề cửa tử vào ngày 26/6/1896. Ông đã chứng minh căn bệnh truyền nhiễm ấy có thể chữa khỏi được.
Yersin ở lại Viện Pasteur như mong muốn của mẹ? Ồ không, ông vẫn kiên định với lựa chọn của mình. Ông rồi sẽ về Nha Trang, ấp ủ những kế hoạch khác, ví dụ sản xuất các loại huyết thanh chống dịch bệnh như cách đã làm ở Paris bởi xứ Đông Dương đầy rẫy lam sơn chướng khí và mầm bệnh cần nó. Nhưng để làm như thế, ông phải có ngựa, chuột, thỏ. Được thôi, ông sẽ lập một phòng thí nghiệm, tìm mảnh đất phù hợp để gây dựng một trại chăn nuôi. Đó là khởi điểm cho sự ra đời của Viện Pasteur Nha Trang, và Trại Chăn nuôi Suối Dầu (nay trực thuộc IVAC), một di sản rực rỡ ông để lại cho Việt Nam mà nay vẫn vươn cành đơm trái, từ tầm nhìn của con người xuất chúng ấy.□
(Còn tiếp)
———————————
Tài liệu tham khảo:
“Travels of Alexandre Yersin: Letters of a Pastorian in Indochina, 1890-1894”. Jack E. Moseley. Perspectives in Biology and Medicine, Volume 24, Number 4, Summer 1981.
“How the plague bacillus and its transmission through fleas were discovered: Reminiscences from my years at the Pasteur Institute in Paris”. Ludwik Gross. PNAS. Vol. 92, pp. 7609-7611, August 1995
“Plague history: Yersin’s discovery of the causative bacterium in 1894 enabled, in the subsequent century, scientific progress in understanding the disease and the development of treatments and vaccines”. Thomas Butler. Clinical Microbiology and Infection. 2014
“Alexandre Yersin’explorations (1892-1894) in French Indochina before the discoverry the Plague baccillus”. Antonis A. Kousoulis et all. Acta med-hist Adriat. 2012.
Phim tài liệu “A. Yersin – Vainqueur de la paste”, đạo diễn Stefan Kleeb, năm 2016.
“Dr. Yersin, and plague virus”. Nature. 1897
Nhìn lại lịch sử hàng nghìn năm tồn tại của bệnh dịch hạch, không còn nghi ngờ gì nữa, chiến công phát hiện ra trực khuẩn Yersinia pestis có thể đưa Yersin vào một vị trí vững chắc ở Viện Pasteur và mở ra con đường nghiên cứu không thể thuận lợi hơn. Nhưng tại sao Yersin lại quay về Nha Trang? Ông có nghĩ mình sẽ tạo ra một di sản rực rỡ ở Việt Nam?
Để trả lời những câu hỏi này, chúng ta thử cùng trở lại Nha Trang. Bất chấp tình trạng các rạn san hô đang ngày một chết mòn, Nha Trang hiện vẫn là một điểm đến hút du khách nước ngoài. Nha Trang của thế kỷ 21, với những khách sạn cao tầng và nhà hàng sang chảnh ở mặt tiền con đường Trần Phú ven biển, như một thế giới khác với chính mình ở điểm giao thời cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Từ những bức ảnh do Yersin chụp vào năm 1894 và 1895, nay được chọn lọc in thành tập nhỏ và được bán ở Bảo tàng Yersin, người ta có thể thấy thành phố biển này khi đó phần lớn là những mái nhà tranh vách nứa, cửa liếp lụp xụp được cất ngay trên mặt cát, cạnh các con thuyền nhỏ đánh cá buồm cuộn lại thảnh thơi, dập dềnh theo sóng nước. Hơn trăm năm trước, tất cả đều hoang sơ nhưng quá đỗi thanh bình.
Vậy điều gì khiến Yersin lại về Nha Trang mà không chọn trở lại Viện Pasteur, một trong hai tiền đồn nghiên cứu về vi sinh vật của thế giới lúc đó? Để hiểu được sự lựa chọn này, chúng ta phải quay về giai đoạn ông làm việc cho Công ty Vận tải đường biển: vào đầu năm 1891, ông đã chuyển sang làm bác sĩ trên con tàu nhỏ Saigon, chạy chuyến Sài Gòn – Hà Nội. Nha Trang là điểm dừng chân đầu tiên của con tàu xuất phát từ Sài Gòn này và lịch sử ghi ngày 8/8/1891. Chính vẻ đẹp hoang sơ lộng lẫy và thanh bình của cái vịnh nhỏ, hơn bất cứ nơi nào khác trên dải bờ biển dài hơn 3.300 km của xứ An Nam, khiến ông choáng ngợp. Từ khoảnh khắc ban đầu, trái tim ông đã vĩnh viễn thuộc về Nha Trang. Và nói như nhà văn Cung Giũ Nguyên “Yersin đã chọn được ở Nha Trang, một cảnh không chỉ là toàn núi, hay toàn thung lũng, hay biển sông, mà đúng ra một khung cảnh hài hòa, có trời có nước, có đất liền với những non cao, oai dũng nhưng cố định, cân bình với biển cả, linh hoạt với độ sâu không ngờ được, và từ nơi đó, chân trời bao la kích thích, nuôi dưỡng những sự suy ngẫm trước vô cực và về vô cực”.
Việc nếm trải ba cuộc thám hiểm sau đó, chủ yếu xuất phát từ nơi này và vùng lân cận, từ năm 1892 đến 1894, khiến ông cảm nhận rõ rệt hơn sự gắn bó của mình. Đây cũng là lý do mà ông chú tâm vào học tiếng Việt, dẫu đã có thể bập bẹ một vài câu đơn giản như từng khoe với mẹ trong bức thư gửi từ Sài Gòn, đề ngày 13/12/1890.
Một chương mới đầy kỳ lạ của cuộc đời ông, sau phát hiện vi khuẩn Yersinia pestis vào năm 1894, đã được mở ra, ngay với những thứ ông từng muốn chối bỏ.
Nhánh mới của Viện Pasteur Paris tại hải ngoại
Trước khi đến với cột mốc thành lập Viện Pasteur đầu tiên tại nước ngoài thì chúng ta có thể cùng nhìn vào lịch sử đặc biệt của “viện mẹ”, Viện Pasteur Paris. Thành công của vaccine dại do Pasteur điều chế (dù vẫn còn gây nhiều tranh cãi) đã làm khuấy lên một cuộc vận động quyên góp ở tầm quốc tế, thu hút cả những nhân vật nổi tiếng như Sa hoàng Nga và Hoàng đế Brazil, để có kinh phí xây một cơ sở nghiên cứu độc lập cho cha đẻ của vaccine chống bệnh than và dại. Điều này đem lại cho viện một vinh quang đặc biệt ngay từ khi khởi đầu, một nơi dành riêng cho nghiên cứu về sinh học, vi sinh vật, bệnh dịch, vaccine… “Pasteur có phẩm chất của một kẻ mộng mơ và một nghệ sĩ lãng mạn; ông cho phép mình dẫn lối và truyền cảm hứng về sự kỳ diệu của sức tưởng tượng vượt ra ngoài chân trời kiến thức, tại những thời điểm thậm chí còn ở ngoài phạm vi lẽ thường”, nhà vi trùng học René Dubos viết như vậy trong cuốn Louis Pasteur: Free Lance of Science, xuất bản năm 1950.
Được khánh thành vào năm 1888, có thể Viện Pasteur không chứng kiến thêm một phát hiện mới nào của chính Pasteur nhưng giúp ông tạo ra một không khí tự do, khuyến khích những ngự lâm quân của mình có được khám phá mới ghi danh vào lịch sử y học thế giới. Kể từ năm 1908, có 10 nhà khoa học ở Viện Pasteur được trao giải Nobel Y sinh, riêng năm 2008, hai nhà khoa học ở đây cùng đón giải thưởng bởi “những khám phá ra virus làm suy giảm hệ miễn dịch của người”.
Được làm việc ở Viện Pasteur là một vinh dự, và rõ ràng Yersin đã khước từ cơ hội. Nhưng ở đời, không ai biết trước được chữ ngờ. Bất chấp việc nói lên nguyện vọng với mẹ, trong bức thư đề ngày 6/9/1891, là sẽ không trở lại Viện Pasteur và làm việc trong phòng thí nghiệm dường như trở nên không thể, nhưng cuộc đời Yersin sẽ là gì, nếu không phải là tìm hiểu các mầm bệnh, trên vật chủ này hay vật chủ khác. Rút cục thì từ Paris, ông bạn chí cốt Emile Roux (mà chúng ta đã biết ở kỳ một), đã bố trí cho Yersin gặp Albert Calmette, một ngự lâm quân khác của Pasteur nhưng gia nhập nhóm muộn hơn, ngay tại Sài Gòn. Căn nguyên là theo gợi ý của Sở Y tế Thuộc địa, Pasteur quyết định mở chi nhánh đầu tiên của Viện Pasteur tại hải ngoại, với địa điểm là Sài Gòn, và đề nghị Calmette làm viện trưởng.
Gặp Yersin ở Sài Gòn, Calmette cảm thấy phấn chấn bởi có thể đây là cơ hội để hai người cùng nghiên cứu các bệnh nhiệt đới truyền nhiễm mà mình quan tâm, bởi ông nhận ra rằng đây là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu của người dân thuộc địa. Yersin quả là một đối tác hoàn hảo, nhất là đã mở một phòng khám ở chính Xóm Cồn, Nha Trang, sau khi thôi việc ở Công ty Vận tải đường biển. Nhưng Yersin thận trọng chưa nhận lời ngay, sau đó còn từ chối đi Sydney cùng Adrien Loir, cháu của Pasteur, bởi ấp ủ việc lên đường khám phá những vùng đất chưa ai đặt chân tới, cuối cùng diễn ra từ năm 1892 đến 1894. Vậy là Viện Pasteur Sài Gòn chính thức mở cửa vào ngày 1/4/1891 mà không có Yersin như mong muốn của Calmette.
Tình thế chỉ xoay chiều sau sự kiện năm 1894. Yersin đột nhiên thấy ham thích trở lại với phòng thí nghiệm và mong muốn mở một thứ như thế ở Xóm Cồn. Khi trở về từ Paris vào tháng 8/1895, với sự hỗ trợ của Văn phòng Thuộc địa và cả Calmette, người mà bây giờ đã là bạn chí cốt như Roux, ông lập phòng thí nghiệm ở Nha Trang, cơ sở để hình thành Viện Pasteur Nha Trang (Institut Pasteur de Nha Trang). Theo lời kể của giáo sư Nguyễn Thị Thế Trâm, người tiếp quản Viện Pasteur Nha Trang sau năm 1975 và là viện trưởng trong nhiều năm, phòng thí nghiệm tiền thân của Viện đã có khuynh hướng đặc biệt: ở Sài Gòn, Calmette hướng về độc học – một lĩnh vực đang ở thuở bình minh của nó và có kết nối quan trọng với miễn dịch học – nghiên cứu về nọc rắn, ong, nhiễm độc thực vật, sản xuất vaccine phòng dại, đậu mùa, dịch tả…; ở Nha Trang, Yersin tập trung vào các bệnh nhiễm trùng của gia súc, cách phòng bệnh và điều trị, đồng thời tiếp nhận huyết thanh chống dịch hạch do Viện Pasteur Paris bào chế.
Có thể thấy rằng, ngay từ điểm khởi đầu, cả hai cơ sở Nha Trang và Sài Gòn đều có kết nối với Paris và điều hành theo cách mà ngày nay người ta vẫn gọi là “theo tiêu chuẩn quốc tế”. Điều này luôn được giữ vững trong suốt quá trình Yersin và Calmette dẫn dắt viện, bởi các kết quả nghiên cứu đều được xuất bản trên các tập san quốc tế, không chỉ trong tạp chí của Viện Pasteur Paris. Khoa học không biên giới. Nền y học Việt Nam hiện đại thực sự bắt đầu từ đây, từ chính nỗ lực của những người đã xuất hiện ở mặt tiền khoa học. Giáo sư Jean Luc Durosoir, tổng đại diện điều phối mạng lưới quốc tế các Viện Pasteur trên thế giới, đã tự hào “Yersin, cũng như Louis Pasteur, đều thuộc trào lưu tư tưởng khoa học đã mở đường cho y khoa hiện đại”.
Việc đưa Yersin vào vị trí dẫn dắt phòng thí nghiệm ở Nha Trang – khi Calmette về nước để mở một nhánh khác của viện ở Lille, Pháp thì ông phụ trách cả Nha Trang lẫn Sài Gòn – là một sự phân công hoàn hảo, không chỉ ông là nhà nghiên cứu xuất sắc mà còn vì ông có tài xoay xở và tổ chức. Chúng ta đã rõ sự linh hoạt của Yersin ở Hong Kong nhưng chưa mấy người biết chuyện ông từng được đích thân Pasteur cử sang Đức ‘học’ hai tháng ở Viện Nghiên cứu Bệnh truyền nhiễm mà sau mang tên Viện Robert Koch, chủ yếu để quan sát cách thức Robert Koch bố trí các phòng thí nghiệm rồi xây dựng một loạt phòng thí nghiệm mới theo đúng cách thức như vậy ở Paris và vẫn dùng tốt ở thế kỷ 20, giáo sư Maxime Schwartz, nguyên Giám đốc Viện Pasteur Paris từ năm 1988 đến năm 1999, cho biết trong bộ phim tài liệu A. Yersin – Vainqueur de la paste” (A. Yersin – người chiến thắng bệnh dịch hạch).
Trong hội thảo “Alexandre Yersin: Nửa thế kỷ ở Việt Nam”, diễn ra vào tháng 3/1991 tại Nha Trang, giáo sư Jean Luc Durosoir đã nhận xét xác đáng “Lúc đầu chỉ là một phòng thí nghiệm khiêm tốn, Viện Nha Trang không bao lâu đã trở thành một cơ sở khoa học mà tiếng tăm đã vượt qua các biên giới… Có lẽ thiên chức của Yersin đã nảy sinh ở Paris, tại nơi ông là đồ đệ của Louis Pasteur, một cộng sự riêng và bạn thân của Emile Roux. Nhưng chính tại châu Á, tại Việt Nam, tại Nha Trang, cuộc đời ông mới có bước ngoặt quyết định”.
Nhưng đó là chuyện về sau còn giờ, chúng ta hãy nhìn vào lưng vốn của Yersin ở điểm xuất phát. Cũng như khi đến Hong Kong một năm trước, ông chả có gì nhiều nhặn trong tay, như lời kể của giáo sư Thế Trâm, “một căn nhà làm bằng vật liệu tạm bợ, chừng 20 con ngựa để làm huyết thanh, và duy nhất một bác sĩ thú y”, đó là Eugène Pesas 29 tuổi từ Sài Gòn ra vào năm 1896 nhưng chẳng bao lâu sau qua đời vì nhiễm độc tố trong phòng thí nghiệm khi điều chế huyết thanh dịch hạch (năm 1897). Và rồi cả “những con ngựa cái sản xuất huyết thanh sau đó lại lăn đùng ra chết vì một căn bệnh không rõ nguyên nhân”.
Được hung tin khi đang ở Bombay, Ấn Độ cứu chữa bệnh nhân dịch hạch, Yersin vội vã trở về để vực dậy cả phòng thí nghiệm đang chực chờ rời rã. Rút cục thì cũng phải có cách nào đó chứ nhỉ?
Tầm nhìn trăm năm ở Suối Dầu
Lẽ đời luôn công bằng theo cách của mình. Gian nan đặt trước mắt Yersin có thể là dịp để ông sắp xếp lại cách thức tổ chức nghiên cứu và sản xuất huyết thanh chống dịch hạch của cơ sở Nha Trang, đồng thời tách nơi nuôi ngựa, lấy huyết thanh ngựa, cùng với việc nuôi một số loài chuột, thỏ xa nơi làm thí nghiệm để đảm bảo tính an toàn và có thể sẵn sàng mở rộng quy mô.
Vào năm 1899, Toàn quyền Đông Dương đã cấp cho ông 500 ha đất ở cách Nha Trang 20 km, nơi có dòng sông nhỏ mang tên Suối Giao chảy qua, nay thuộc Cam Lâm, Khánh Hòa. Theo Khánh Hòa online, phát nguyên tại Hòn Bà, con sông này trở thành phụ lưu cuối cùng của sông Cái, chảy theo hướng Ðông Bắc rồi chia thành hai nhánh ở xã Suối Hiệp, một chảy xuống phía Đông, một chảy ra sông Cái Nha Trang rồi đổ ra biển. Có lẽ không cần tưởng tượng nhiều thì cũng có thể hình dung cả vùng đất này, khi đó, toàn là rừng rú, đầm lầy lau lách hoang vu. Quanh sông chủ yếu là cây dầu, đó là lý do vì sao mà mọi người đều gọi đây là Suối Dầu. “Trước đây quanh khu vực này, cây dầu nhiều lắm nhưng sau cơn bão năm 2017, những cây lớn như thế đã bị bão quật đổ gần hết”, ThS. Nguyễn Văn Minh, Trại trưởng Trại Chăn nuôi Suối Dầu, ngày nay thuộc Viện Vaccine và Sinh phẩm Y tế (IVAC), nói.
Trên diện tích 135 ha mà hiện IVAC quản lý, Suối Dầu, như một ốc đảo xanh yên ả, được bao bọc bằng hồ trữ nước tưới và các cánh đồng trồng cỏ xen kẽ với những bãi mía để cung cấp thức ăn cho ngựa. Con đường bao quanh trại cũng rợp bóng cây, đâu đó lác đác trái dầu rụng sớm, hai cánh xoay xoay theo chiều gió như cả trăm năm trước. Giữa cao điểm hè tháng sáu, cái nắng như đổ lửa được lọc qua những tán lá chợt như dịu lại, không khí trở nên trong lành, dễ chịu hơn. “Nơi này vô cùng đặc biệt và được thiên nhiên rất ưu đãi. Ông [Yersin] thực sự là một thiên tài về nông nghiệp, khí tượng bởi ông đã chọn vùng có lượng mưa trung bình hằng năm lớn nhất cả tỉnh, thường cứ hai, ba giờ chiều lại có một cơn mưa. Nhiệt độ vì thế luôn ổn định, thuận lợi cho nuôi động vật làm thí nghiệm”, ThS. Nguyễn Văn Minh nói về những điều mình trải nghiệm trong hơn 20 năm làm việc ở Suối Dầu. Anh cũng lý giải việc trại trồng nhiều cây xung quanh khu vực đường đi, vùng đệm giữa khu vực hành chính, sản xuất với chăn nuôi giống như ý tưởng của người khởi tạo, “chủ yếu để không khí được trao đổi thường xuyên và ngăn cách mầm bệnh”.
Trại Chăn nuôi Suối Dầu giờ vẫn là một nơi nuôi chuột, thỏ làm thí nghiệm, ngựa lấy huyết thanh đúng theo thiết kế thuở đầu của Yersin. Những gì ông gây dựng ở Suối Dầu vẫn còn sừng sững, theo cả nghĩa bóng và nghĩa đen. “Thời trước, ông nuôi chuột lang và thỏ trong dãy nhà này, nuôi theo điều kiện tự nhiên nên thiết kế chuồng đã rất thông thoáng”, ThS. Nguyễn Văn Minh giới thiệu dãy nhà xinh xắn có khuôn cửa hình chữ U ngược, thoạt trông có nét giống nhà của Baggins trong loạt phim Người Hobitt. Nhà mái lệch, tường dày 30 cm, xung quanh trổ những ô cửa để lấy ánh sáng và gió tự nhiên lùa vào đủ “nên luôn thoáng mát vào mùa hè, mùa đông luôn ấm”, anh nói và chỉ những ống phun nước li ti quanh nhà. “Thông thường, 27oC là mức lý tưởng trong chăn nuôi, trên 27oC phải có điều hòa để làm mát nhưng ở đây, mình dùng hơi nước để làm mát”.
Ngay từ ban đầu, Yersin đã thiết kế dãy nhà chữ U này gồm 176 ô, với đầy đủ chỗ thoát nước để công nhân có thể vệ sinh chuồng thường xuyên. Ông cũng không khi nào nuôi chuột thỏ đầy các ô, và không nuôi liên tục mà để chuồng nghỉ cho sát trùng, vệ sinh, trống một thời gian mới nuôi trở lại. Những quy tắc an toàn sinh học ấy vẫn được tiếp nối ở Suối Dầu ngày nay.
Qua khung cửa sổ nhỏ có bịt lớp rào mắt cáo, người ta có thể thấy lũ chuột lang bụ bẫm với màu lông vàng, nâu, trắng kêu chít chít trong các ô chuồng. Chúng sẽ được chăm sóc mỗi ngày ở đây cho đến khi có đơn đặt hàng với những yêu cầu cụ thể từ nhiều trường, viện trong cả nước. Mỗi năm, trại nuôi khoảng 3.500 đến 4.000 con chuột nhắt, 2.000 con chuột lang, 500 con thỏ. “Tùy từng loại vaccine mà sử dụng chuột lang hay chuột nhắt để đánh giá tiền lâm sàng về an toàn và công hiệu, ví dụ với vaccine BCG phòng lao thì an toàn đặc hiệu trên chuột lang, an toàn chung trên chuột nhắt”, ThS. Nguyễn Thành Tín (IVAC) nói.
Không khí xưa nay đan xen hòa quyện trong Suối Dầu, không chỉ ở những bức ảnh “đôi” quanh cảnh quá khứ – hiện tại của trại được xếp đặt một cách tự hào trong phòng họp xây cách đây vài năm mà cả ở việc bố trí các khu vực nuôi theo đúng cách thức bố trí của bậc tiên tổ. Nhìn vào những bức ảnh, thấy rõ không có nhiều đổi khác ở bộ khung nhà nuôi thỏ, chuột, chỉ có cái khác là thay đổi mái. Dấu ấn của Yersin đậm đặc đến mức người ta có thể mường tượng ra trong phút chốc, thấp thoáng đâu đó những bước chân của ông và cộng sự từ dãy nhà chữ U, rẽ vào con đường mòn, đi qua vùng đệm ra đến những tàu ngựa, được đặt biệt lập trong một khu có rào kín và cổng. “Chuồng ngựa này cũng được xây từ thời ông luôn. Do qua ngày tháng bị hư hỏng, xuống cấp nên chúng tôi có sửa sang, thay ngói tô tường lại trên cái nền, cái móng ngày xưa”, ThS. Nguyễn Văn Minh giới thiệu, không dấu sự ngưỡng mộ về một thiết kế tổng thể không lỗi thời sau cả trăm năm.
Ở đây, hai dãy chuồng yên tĩnh cách nhau cả khoảng sân rộng lớn, lũ ngựa đang rì rầm ăn cỏ, thi thoảng hí vang phấn khích. Không rõ chính xác ban đầu ở Suối Dầu, Yersin nuôi bao nhiêu con ngựa để có các sản phẩm, “chủ yếu là các loại vaccine và huyết thanh phòng, điều trị bệnh cho động vật (trâu, bò) như dịch hạch, tụ huyết trùng, tả…, sau này phát triển sản phẩm dùng cho người chuyên biệt như hiện nay như huyết thanh kháng uốn ván, kháng dại, kháng nọc rắn…”, như giới thiệu của TS. Dương Hữu Thái, Viện trưởng IVAC. Giờ đây, “Suối Dầu có 357 con ngựa được luân phiên khai thác máu để làm huyết thanh kháng uốn ván, kháng dại, kháng các loại nọc rắn – hổ đất, hổ mang, lục, cạp nia, chàm quạp… IVAC là nơi duy nhất ở Việt Nam cung cấp các loại huyết thanh này”, ThS. Nguyễn Văn Minh nói.
Việc lấy máu ngựa được tuân theo một quy trình nghiêm ngặt mà từ khởi thủy, Yersin và cộng sự đã thiết lập cơ bản, thậm chí quy trình này cũng tránh cả sự gây đau đớn cho ngựa. “Thực ra không cần gây mê nhưng khi khai thác vẫn cần phải cột dây vào vị trí để cố định ngựa. Con ngựa khôn đều biết khi dắt nó như vậy là vào lấy máu, nó để yên, gần như nó thấy như một nghĩa vụ của mình trong cứu người. Suối Dầu cũng có những kỹ thuật viên rất giỏi, đưa kim tiêm vào động mạch rất nhanh cho ngựa ít đau đớn nhất”, ThS. Nguyễn Thành Tín nói. Cũng như thời Yersin, việc dùng huyết thanh kháng độc tố hay kháng khuẩn đều vào thời điểm cấp bách của người bệnh, nếu không kịp thời có thể sẽ dẫn đến cái chết, như giải thích của ThS. Nguyễn Văn Minh “trong trường hợp bị chó cắn, mình nghi ngờ nó bị dại nhưng nếu tiêm vaccine vào để nó sinh kháng thể diệt virus dại thì lại chậm, không còn đủ thời gian nữa. Do đó, phải tiêm huyết thanh có sẵn kháng thể vào để nó trung hòa, nó diệt con virus dại liền”.
Tầm nhìn trăm năm của Yersin thể hiện trong mọi ngóc nghách ở Suối Dầu, ngay cả vấn đề tưởng rất bình dị là nước. Với một cơ sở chăn nuôi lớn như Suối Dầu, ngay từ khởi thủy, nhu cầu về nước rất cao, thậm chí sống còn. Nếu lấy nước từ sông Suối Giao thì sẽ phải đào kênh dẫn mất rất nhiều công sức, tốn kém, Yersin chọn cách khác. “Ông là một nhà địa chất tài ba”, ThS. Nguyễn Văn Minh tấm tắc. “Ông đã cho đào giếng đúng túi nước có trữ lượng lớn nhất khu vực này. Cách đây mấy năm, chúng tôi đã mời cả cán bộ địa chất ở Khánh Hòa đi khảo sát các nguồn nước ở đây và họ xác nhận như vậy”. Do mở rộng quy mô chăn nuôi và sản xuất, không chỉ cho chuột, thỏ, ngựa mà còn ba nhà gà và nhà máy sản xuất vaccine cúm dựa trên công nghệ trứng gà có phôi, mỗi ngày cần 200m3 nước, Trại đã nhờ tới một nguồn nước bên ngoài là hồ Suối Dầu. Nước được dẫn về một nhà máy xử lý nước riêng có công suất 43m3/giờ để cung cấp cho toàn bộ trại.
Cả cơ ngơi bề thế được thiết kế và xây dựng đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng để Yersin hình thành một viện nghiên cứu hiện đại với đầy đủ cơ sở hạ tầng cần thiết ở Nha Trang. Nhưng cơ nghiệp kỳ diệu mà Yersin gây dựng nên không chỉ dừng lại ở chỗ đó. Từ năng lực giải quyết thách thức và ham thích khám phá của mình, Yersin đã mở rộng sự phát triển sang những hướng khác. Ở góc Nha Trang bé tí này, ông đã đi song song (hay là đi trước?!) với Emil von Behring ở lục địa già trong việc mà ngày nay người ta vẫn gọi là thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Behring lập Behringwerke, công ty sản xuất huyết thanh kháng độc từ bò và ngựa ở Marburg vào năm 1904, còn Yersin từ Suối Dầu cung cấp huyết thanh phòng, điều trị bệnh cho động vật cho toàn Việt Nam, một nguồn thu không nhỏ để cho Viện Pasteur Nha Trang và cả Suối Dầu có thể tồn tại.
Sau này, nếu von Behring thành lập thêm công ty Aventis Behring, ngày nay là một phần của Sanofi Pasteur, thì Yersin còn đi xa hơn và táo bạo hơn: thành lập Trường Y khoa Đông Dương, đặt nền móng cho nền thú y Việt Nam hiện đại, mở công ty “Các ông Yersin, Roux & Calmette” – một dạng công ty spinoff chuyên kinh doanh mủ cao su để tự tìm nguồn thu đầu tư cho nghiên cứu…
Di sản đồ sộ ấy, giờ đây, vẫn khiến người ta không thôi kinh ngạc, không chỉ ở cái nhìn viễn vọng xuyên thời gian mà cả sức lao động phi thường của ông.□
(Còn tiếp)
———-
Tài liệu tham khảo:
“Alexandre Yersin (1863- 1943): Nửa thế kỷ ở Việt Nam”. Tháng 3/1991. Thư viện Lâm Đồng
“Lịch sử Viện Pasteur Nha Trang từ năm 1895 đến năm 1975”. Bảo tàng Yersin
“History of Passive Antibody Administration for Prevention and Treatment of Infectious Diseases”. Current Opinion in HIV and AIDS. May 2015.
“The Story of the Pasteur Institute and Its Contributions to Global Health”. Marie-Hélène Marchand. Cambridge Scholars Publishing. 2018.
Yersin ở Việt Nam (Kỳ cuối): Chuyến đi cuối cùng của một đời phi thường
Nếu nói như văn hào Bernard Shaw “Cuộc sống không phải là để tìm kiếm bản thân mình, mà là để tạo ra chính mình” thì Alexandre Yersin đã vượt khỏi lằn ranh này. Dẫu sự lao động miệt mài đủ đem lại cho mình một vị trí vững chắc trong lịch sử khoa học thế giới và Việt Nam, điều ông hướng đến chính là sự nhân văn, bởi “ý nghĩa duy nhất của cuộc đời là phụng sự con người” (Lev Tolstoy).
Ở bảo tàng nhỏ mang tên Yersin đặt trên lầu ngôi nhà sơn màu vàng nhạt nằm trong khuôn viên Viện Pasteur Nha Trang, thời gian như ngưng đọng hàng thập kỷ. Chúng tôi và cả hướng dẫn viên Cao Hoàng Đoan Thục lặng lẽ đi thêm một vòng nữa quanh bảo tàng… Không gian vỏn vẹn 100m2 tĩnh lặng, ánh nắng chói chang giữa hè được lọc qua tán cây và rèm cửa chợt trở nên nhẹ nhõm, hắt những dải sáng dịu dàng lên các bức ảnh, tủ sách, kính hiển vi và những hiện vật được trưng bày khác trong bảo tàng. “Nước sơn son thếp vàng phai đi, chỉ có da còn mãi”, người kể chuyện thần tiên Hans Christian Andersen từng nghe thấy tiếng thì thầm như lời nhắc nhở về sự trường tồn của những giá trị đích thực, khi đi qua hàng lang ngôi nhà cổ một thời hội hè phù hoa. Tinh thần ấy cũng toát lên ở đây, một hiển thị đời người quá đỗi giản dị và khiêm cung, khiến mọi tụng ca cũng tự thấy e dè bởi nỗi sợ mạo phạm đến chính sự giản dị ấy.
Yersin có đọc chuyện thần tiên của Andersen không nhỉ? Khi Yersin ra đời vào năm 1863 thì Andersen đã là một tên tuổi lớn trên văn đàn châu Âu, tác phẩm của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng… Một tâm hồn trong trẻo như Yersin chắc hẳn không bỏ lỡ. Đến tận cuối đời, ông vẫn giữ được sự trong trẻo, tươi mới và óc tò mò như trẻ thơ. Tủ sách hơn 2.200 cuốn của Yersin không thiếu những cuốn sách đẹp đẽ dành cho nhi đồng, và một điều lạ là ở những năm trước khi qua đời, “ông bắt đầu học trở lại tiếng Hy Lạp và Latin một lần nữa”, dòng cuối về người ngự lâm quân ưu tú này trên trang web Viện mẹ Pasteur ẩn giấu một sự kinh ngạc trìu mến và cả niềm ngưỡng mộ khôn nguôi.
“Cuộc đời tự nó đã là một câu chuyện thần tiên kỳ diệu nhất”, Andersen từng nói vậy, bất chấp bầu không khí kỳ ảo ông vẽ lên từ những trang sách. Khi soi chiếu ánh sáng này vào Yersin, người ta thấy tỏa rạng sự thuần khiết, vô vụ lợi, những thứ không phải cứ cố là có được.
Theo thời gian, nếu Đông Dương chỉ là một dấu chấm trên hành trình của những người Pháp xuất sắc như Albert Calmette, Noël Bernard, Paul Simond, Henri Jacotot… thì ngược lại, Yersin vĩnh viễn khắc vào tim mình địa danh này, hay ở độ phân giải chi tiết hơn là Nha Trang, để rồi không bao giờ lìa xa nó.
Phải chăng Yersin được sinh ra là cho Việt Nam?
***
Khi đến xứ An Nam, một Yersin ở độ tuổi “tam thập nhi lập” háo hức với những miền đất mới. Thật khó diễn tả thành lời cảm xúc nảy nở từng ngày trong ông, một phần ngay từ khi ở Viện Pasteur, ông cũng không ưa bộc lộ ý nghĩ sâu kín của mình. Trong cuốn Alexandre Yersin, le vainqueur de la peste (Alexandre Yersin, người chiến thắng bệnh dịch hạch), xuất bản năm 1985, Henri H. Mollaret và Jacqueline Brossollet đã nhấn mạnh đến sự thật là ông “chỉ cảm thấy thoải mái ở giữa bọn trẻ và những người yếm thế trong xã hội”. Có thể lý giải thêm theo cái nhìn của Hubert Marneffe, người kế vị chức Viện trưởng Viện Pasteur Sài Gòn và Viện trưởng Viện Pasteur Đông Dương, “ông đã hào phóng trao toàn bộ trái tim và lòng tốt cực độ của mình cho họ”.
Thật khó hình dung ra một Yersin nào khác. Cũng không khó để cắt nghĩa vì sao con người rụt rè ấy lại có thể thu phục được nhân tâm người Tây Nguyên. Có điều gì đó toát ra ở con người này khiến người bản địa cảm thấy dễ chịu, tin tưởng ngay từ lần gặp đầu. Những thước phim ông chụp trong chuyến thám hiểm năm 1892-1894, trước thời điểm ông nhận lệnh lên đường sang HongKong, giờ được lưu trữ ở bảo tàng Pasteur Paris. Một số rất ít ỏi trong đó được in thành các bưu ảnh xinh xắn, bày bán ở rìa phòng trưng bày của bảo tàng Yersin. Trong các bức ảnh ông chụp, những khuôn mặt đẹp đẽ, ánh nhìn tin cậy, vẻ thoải mái, tự do pha chút tò mò, những con lợn, con voi cũng bình thản… – tất cả cho thấy người cầm thiết bị quang học ghi lại những khoảnh khắc ấy không phải một quan Tây hiếu kỳ trước những biểu hiện của văn hóa ngoại lai mà là người bình đẳng với họ. “Đó là những con người có vóc dáng cao lớn, thân chỉ quấn khố. Khuôn mặt họ khác rất nhiều so với người An Nam, dáng vẻ cũng kiêu hãnh hơn và man dã hơn… Các làng chỉ gồm duy nhất một ngôi nhà nhưng rất lớn, được dựng trên các cây cột. Đây thực sự là một cuộc sống cộng đồng. Ở chỗ người Mọi, tiền không có giá trị gì”, các dòng miêu tả ngắn gọn của ông về người Tây Nguyên trong bức thư gửi mẹ rất gần với những ghi chép dân tộc học. Bản thân từ “Mọi” mà ông dùng, thuở ấy cũng không mang nghĩa hạ thấp như cách hiểu sau này; nguyên thủy của từ này là “tơ moi” (khách) của người Ba Na.
Trong ba chuyến đi khám phá các vùng đất chưa có trên bản đồ, Yersin thường được đón tiếp theo tục lệ địa phương – “ở làng của B Doï, anh ta trải chiếu xuống trước mắt các vị khách rồi đặt nước và mấy bình rượu gạo xuống” – thậm chí khi đến làng của tù trưởng Kheung, ông được Kheung mời làm trung gian hòa giải với làng bên cạnh khỏi một mối bất hòa tồn tại đã lâu. Ông thường chất đầy những vải vóc, đồ dùng thiết yếu và cả thuốc men, vaccine… trong chiếc rương nổi tiếng – giờ được phủ tấm vải đỏ và đặt trong bảo tàng – để tặng, tiêm phòng hoặc trao đổi với người Mọi…
Nếu chiếu theo phương pháp tiếp cận dân tộc học là hòa nhập vào đời sống của cộng đồng dân cư địa phương, cùng ăn, cùng ở, cùng sinh hoạt hằng ngày với họ, phỏng vấn và ghi chép lại tỉ mỉ những gì quan sát được, những tương tác qua lại với người bản địa thì có lẽ, Yersin đã có những quan sát dân tộc học theo đúng nghĩa của nó. “Những người Pháp ở Phnom Penh không thể tin được là con không ăn gì ngoài gạo trong vòng hai tháng. Người bản xứ hài lòng với điều đó và khi không có gì khác để ăn thì con cũng phải làm như họ thôi”, Yersin viết trong thư gửi mẹ từ Phnom Penh ngày 16/6/1892. “De Nha Trang à Tourane par les pays moïs” (Từ Nha Trang đến Tourane qua vùng đất người Mọi), tập ghi chép dày 35 trang được ông xuất bản ở Sài Gòn vào năm 1894. Sau đó, Yersin được Bộ môn Nhân học, Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Quốc gia Pháp mời nói chuyện về những phát hiện mới này. Năm 2016, NXB độc lập Editions Olizane Thụy Sĩ đã tập hợp các bài viết của Yersin trên nhiều tạp chí và ấn phẩm khác nhau từ năm 1893 đến năm 1943 để in thành cuốn sách dày 218 trang “Voyages chez les Moïs d´Indochine” (Những chuyến đi đến vùng đất người Mọi ở Đông Dương).
Những cuộc tiếp xúc với người bản địa có tác động nhiều đến Yersin không? Ngoài những dữ liệu về nhân khẩu xã hội học và môi trường, ắt hẳn Yersin cũng thấm thía hơn rằng trên trái đất này, không có nền văn hóa nào cao hơn hay thấp hơn, tốt hơn hay đúng hơn, bởi tất cả mọi người đều nhìn thế giới qua lăng kính văn hóa của chính họ và đánh giá nó theo quan điểm của riêng họ.
Đó là lý do khiến Yersin đồng cảm với người dân địa phương. Ngay trong bức thư gửi mẹ từ Sài Gòn, đề ngày 8/2/1891, chúng ta có thể lờ mờ nhận ra điều đó: “Một trong số những bệnh nhân của con có ngón tay sưng tấy, đau nhức khủng khiếp nhưng sau điều trị đã trở nên tốt hơn nhiều. Ông ấy trao cho con hai con vật nhỏ, một con chim và một con tôm mà giờ đang được treo ở cửa sổ phòng con. Khi đến túp lều của ông ấy để khám bệnh, con đã nhìn thấy chúng và nói với ông ấy là chúng thật thú vị… Con dần hiểu tại sao sẽ không dễ dàng gì, sau khi sống một thời gian nhất định ở đất nước này, ai rồi cũng khó điều chỉnh lại nhịp sống của mình để phù hợp trở lại với lề thói châu Âu”.
***
Ở Xóm Cồn, Yersin xây một ngôi nhà vuông một trệt, hai lầu có hành lang chạy dọc xung quanh trên nền một lô cốt cũ sát mép nước, nơi một nhánh của con sông Cái đổ ra biển. Người Xóm Cồn gọi đó là lầu ông Tư, chốn thân thuộc họ thường ghé chơi, thậm chí trú ngụ khi có bão lớn về. Không chỉ cởi mở với người ở đây, Yersin thường mở cửa cho người chốn khác tới tham quan. Trong số ra ngày 17/6/1943 của Nam Kỳ tuần báo – tờ báo Quốc ngữ xuất bản số đầu tiên vào tháng 10/1897 – có bài viết đề cập đến ngôi nhà của Yersin “Một người khách đàn bà coi đã thạo Nha Trang xen vào ‘Nó không phải ngôi nhà đồ sộ đâu. Ông sống giản dị, nhà cửa đơn sơ. Nhưng sách thì nhiều lắm. Lại đó mà coi sách của ông. Ông rất dễ. Ai muốn đi coi cũng được. Nhiều khi sợ khách ngại, ông lánh mặt để khách được tự do xem xét’”.
Ở ngôi nhà mà giờ chỉ còn hiển thị trên những bức ảnh do chính tay Yersin chụp, Yersin đã có một cuộc sống bình dị, đầm ấm giữa những người ông cảm mến, gắn bó. Sau cái chết của thầy Pasteur, mẹ và chị gái, Yersin đã coi dân Xóm Cồn là người trong nhà. Nhà văn Cung Giũ Nguyên, một trong những người trẻ tuổi may mắn được tiếp xúc với Yersin khi ấy, đã ghi lại “Yersin yêu mến đám dân hèn mọn mà ông biết ngôn ngữ, ông ưa thích dân tộc tầm thường ấy vì nhận ra được sự tế nhị, lễ phép, hiền hậu, tính tình bỉnh thản, cũng như sự khéo tay, tài quan sát, lanh lẹ, những đức tính ăn khớp với tính ông. Và những người Việt Nam cũng yêu đức tính Yersin vì nhận ra nơi ông sự giản dị, kín đáo, nhút nhát được xem như là một dạng của lễ phép, sự dịu hiền, lòng khoan dung vô hạn, sự khinh miệt hào nhoáng giả dối và những bề ngoài vô bổ, bao nhiêu điều phù hợp với truyền thống nhân bản của họ, phù hợp với những quan niệm lâu đời của họ về cái tâm”. Nam Kỳ tuần báo nhận xét về tính nhân hậu của ông mà người đời ngưỡng mộ “Có tích mới dịch ra tuồng. Người ta không bỗng dưng bịa đặt ra sự nhơn đức của một kẻ bạc ác để mà tán tụng”.
Trong thế giới quan của Yersin, mọi người, mọi vật đều bình đẳng một cách lạ lùng. Vào những năm 1990, ông Phạm Văn Phê, điều chế viên làm việc tại Viện Pasteur Nha Trang từ năm 1927, kể Yersin có thói quen dùng đại từ nhân xưng “người ta” cho tất thảy người, vật, dù ở số ít hay số nhiều. “Tôi thả người ta ra hết rồi. Tôi nhốt người ta lâu quá, người ta buồn. Người ta muốn ở với tôi thì ở, người ta không muốn ở thì người ta cứ đi…”, Yersin từng nói như vậy khi ông Phê hỏi vì sao lại thả đám chim mình vẫn chăm chút. Kỳ lạ là “người ta” cứ quyến luyến, không chịu bay đi, dù đã được thả.
Những tháng ngày đẹp đẽ của Yersin trôi đi như vậy ở Nha Trang. Những thập kỷ sau, đôi khi, người ta vẫn tự hỏi vì sao một người xuất sắc, một ngự lâm quân mà tương lai ở Viện mẹ Pasteur hứa hẹn rực rỡ, có thể kế thừa vị trí của Pasteur hay Roux, lại chọn chốn này? Ông nghĩ rằng mình sẽ làm được nhiều thứ ở đây ư? Trong những thước phim tài liệu A. Yersin – Vainqueur de la paste” (A. Yersin – người chiến thắng bệnh dịch hạch) của đạo diễn Stefan Kleeb năm 2016, đứa trẻ con một điều chế viên Viện Pasteur Nha Trang mà khi phỏng vấn đã ngoài 70, nghẹn ngào kể rằng “ông thường hay lái ô tô đi làm nhưng kể từ khi có một đứa trẻ nhìn thấy ô tô, sợ quá ngã lăn ra, ông không đi ô tô nữa mà đi xe đạp… Khi chúng tôi hỏi ông về chiến tích ở HongKong, ông không nói gì mà chỉ làm động tác vất vật gì đó qua vai”.
Một Yersin coi việc phát hiện ra trực khuẩn gây bệnh dịch hạch chỉ là một trong những việc đáng làm và cần làm chứ không phải để lưu danh tên tuổi. Năm thập niên sau, Peter Friederich, đại sứ Thụy Sĩ, cho rằng “Yersin là nhà tiên tri theo nghĩa ngay từ đầu ông đã hiểu rõ được những thành tựu của khoa học đạt được ở châu Âu sẽ được áp dụng để phục vụ cho những vùng luôn bị dịch bệnh đe dọa. Yersin thực sự đã làm điều mà ngày nay chúng ta mới có từ để chỉ, đó là giúp đỡ cho sự phát triển”.
***
Ở Nha Trang, Yersin có ba ngôi nhà, một là lầu ông Tư giữa Xóm Cồn, hai là mái nhà nhỏ ven sườn núi nhìn xuống trang trại Suối Giao/Suối Dầu và ba là căn nhà gỗ hai tầng ở đỉnh Hòn Bà, nơi ông chăm chút ương trồng cây cối. Đó cũng là toàn bộ chốn địa đàng Utopia mà ông dựng lên, một nơi đẹp đẽ như thiên tiên, nơi mang lại những liều vaccine hay huyết thanh kháng bệnh cho người và trâu bò.
Ông có tự cô lập mình khỏi thế giới ông từng sống? Không, trong suốt cuộc đời mình, ông viết cả ngàn bức thư gửi mẹ Fanny Moschell (từ năm 1884 đến năm 1905), trong đó nhiều bức dài tới hơn 10 trang, và cho chị Emilie (từ năm 1906 đến năm 1936) cũng như hàng trăm bức khác cho Roux, Calmette… Đó là một di sản vô giá mở cánh cửa đưa hậu thế bước vào thế giới tâm hồn của ông, đồng thời có thể giúp hiểu được những quan sát, suy nghĩ, hành động của một người Pháp ở Đông Dương.
Việc định cư và lập nghiệp ở Nha Trang và tạo dựng chốn Utopia của mình, Yersin đã trốn thoát khỏi chiến tranh, những âm mưu chính trị đầy rẫy ở châu Âu thời kỳ đó, một chốn phản địa đàng Dystopia, theo cách nhìn của ông. Đó là hai cuộc chiến tranh thế giới khiến cả Roux, Calmette và những người ở Viện Pasteur đều phải dự phần, đó cũng là nơi ông mất đi những người bạn như Paul Doumer… Có lẽ, ở góc độ nào đó thì cả chiến tranh cũng bắt kịp ông…
Và cả thời gian. Cuộc đời con người, dài ngắn vô chừng, Yersin còn chứng kiến những chia cắt vĩnh viễn mà ông không thể thản nhiên nghĩ rằng “từ cát bụi lại trở về cát bụi”. Đó là một phần của cuộc đời ông, một phần của thế giới ông sống. Calmette nồng hậu và tràn đầy tình nhân ái qua đời vào tháng 10/1933 ở tuổi 70, vị thánh khổ hạnh Roux, người từng khiến Yersin chia sẻ với mẹ “điều khiến con hạnh phúc hơn là từ rất lâu rồi, con đã mong ước có được sự thấu hiểu của một người ngay thẳng và đáng kính như vậy”, cũng ra đi một tháng sau ở tuổi 80. Có lẽ, cảm giác của Yersin cũng như cảm giác của Pierre Darriulat, nhà vật lý Pháp chọn Việt Nam làm quê hương thứ hai, khi phải lìa xa những người bạn “Khi chúng ta ngày một già hơn thì những người bạn của chúng ta ngày một mất dần. Thế giới mà chúng ta sống đang mờ dần đi trong sương mù, cái thế giới ấy dường như không thuộc về chúng ta nữa”…
Yersin hiểu rằng phải tự chuẩn bị một cuộc từ giã cho chính mình, điều ông không thể lần lữa. Vào ngày 9/9/1938, ông lặng lẽ lập di chúc, để lại tài sản trong ngân hàng Thụy Sĩ cho các cháu ở Thụy Sĩ, để lại nhà cửa, thiết bị cho Viện Pasteur Nha Trang, và “tôi mong muốn những người An Nam đã phục vụ tôi, đã già và trung thành, hưởng những món tiền trợ cấp trọn đời từ tiền lãi một trái phiếu mà tôi đã mua cho mục đích này tại ngân hàng HongKong Shanghai ở Sài Gòn và do ông M.A Galois ở Suối Dầu đứng tên. Ông Jacotot sẽ phụ trách việc phân chia những món tiền này cho họ…”.
Rút cục, chuyến đi cuối cùng của Yersin không phải là chuyến đi dối già về Paris vào tháng 5/1940 để điều phối một cuộc họp ở Viện mẹ Pasteur, nơi ông nói lời vĩnh biệt với cả thầy Pasteur lẫn Roux, những người nằm lại ngôi đền thiêng được xây dựng từ tiền quyên góp của toàn thế giới, mà chính là chuyến về với đất mẹ vào rạng sáng ngày 1/3/1943. Người ta kể lại, buổi chiều hôm trước, ông vẫn ngồi trên chiếc ghế mây bập bênh, ngắm ráng chiều lộng lẫy trên biển, và giữ thói quen “quan sát mực nước thủy triều một ngày bốn lần, vào 6 giờ sáng, 12 giờ trưa, 6 giờ chiều, 12 giờ đêm. Ông ghi chép rất nhiều tư liệu về hải dương học, ghi lại những cơn bão ở Nha Trang rất chi tiết trong vòng bốn thập niên. Có hơn 20 quyển như vậy…”, hướng dẫn viên Đoan Thục nói.
Ông không lập thêm quyển nào nữa, con chữ đã vĩnh viễn dừng lại ở sáu giờ chiều ngày 28/2/1943… Không thời gian được xóa nhòa, giờ thì Thụy Sĩ, Pháp, hay Việt cũng là một. Chốn đặt chân cuối cùng của ông là ngọn đồi nhỏ ở Suối Dầu, giữa những tán lá xanh bốn mùa và dòng Suối Dầu nhỏ bé lượn quanh. Đất mẹ Gaia ôm trọn vào lòng hình hài đứa con kỳ lạ mà phi thường, một bậc thánh nhân không đòi hỏi được tôn vinh, một thiên thần cho đi mà không cần nhận lại.
… Bằng cả đường bộ lẫn đường thủy, dòng người tiễn đưa ông trong cái ngày đau buồn sâu sắc của cuộc đời họ, ngày 3/3/1943, không chỉ có các quan chức Pháp và Nam triều, mà cả dằng dặc những mái đầu bản xứ chít tang trắng mà người ta có thể nhận ra dân Xóm Cồn, người làm ở Suối Dầu, người từ Tây Nguyên xuống… Xóm chài bàng hoàng lập bàn thờ ông, thắp hương, đặt lên đó bát cơm quả trứng, con gà, nải chuối và tấm tình nguyên sơ của họ.
***
Những gì Yersin để lại, theo dòng thời gian, đều nhuốm màu huyền thoại. “Người ở đây thường hay đến mộ ông thắp hương cầu khấn, có người hiếm muộn, có người mong con đỗ đạt thi cử”, anh Nguyễn Trường Vũ, nhân viên của Viện Vắc xin và Sinh phẩm Ytế (IVAC), cho biết khi đưa chúng tôi đến khu mộ Yersin. Không có chỉ dấu nào về nơi an nghỉ của một bậc vĩ nhân. Tất cả quá đỗi giản dị và khiêm nhường, như di chúc của ông “tôi mong muốn được chôn cất đơn giản, không cầu kỳ, không điếu văn”. Xung quanh chỉ có tiếng chim hót lảnh lót và làn gió thổi rì rào qua vòm lá biếc.
Lẽ thường, lịch sử chỉ có một nhưng huyền thoại thì vô số và đẹp hơn lịch sử. Người Nha Trang truyền tai nhau “ông thiêng lắm, chuyện tâm linh không đùa được đâu”. Có người còn nói rằng “ông đã cứu Suối Dầu khỏi bị cắt đất”. Khi chúng tôi đặt câu hỏi này, cả Viện trưởng IVAC Dương Hữu Thái và ThS Nguyễn Văn Minh, trại trưởng Trại chăn nuôi Suối Dầu (IVAC) đều trầm ngâm. “Năm 2018, trong dự án làm đường cao tốc Hồ Chí Minh, phần đi qua Nha Trang – Cam Lâm, có thiết kế đường nối cao tốc Nha Trang – Cam Lâm với quốc lộ 1, tỉnh lộ 3 qua Suối Dầu. Đường nối cao tốc sẽ chạy qua dãy nhà nuôi chuột, gà, thỏ, nghĩa là ảnh hưởng đến sản xuất vaccine và cung cấp động vật thí nghiệm… Chúng tôi đã nêu chức năng, đề đạt nguyện vọng của mình và được UBND tỉnh ủng hộ. Rất may là Bộ Giao thông Vận tải cũng chuyển đổi thiết kế, nắn lại con đường. Dù mất đi 2.230 m2 nhưng đổi lại, trại Suối Dầu và khu mộ Yersin vẫn yên bình”, TS. Dương Hữu Thái nói.
Hằng năm, IVAC vẫn cung cấp cho toàn quốc những liều vaccine chống cúm, lao, uốn ván, bạch hầu… cũng như các liều huyết thanh kháng nọc rắn, kháng dại, từ di sản của Yersin.
Nhưng di sản của Yersin đâu chỉ gói gọn trong những sản phẩm hữu hình. Có nhiều điều còn lớn hơn thế từng ngày, từng ngày được lưu truyền ở mảnh đất này. 30 năm qua, Hội Ái mộ Yersin Nha Trang mở phòng khám thiện nguyện ở số 11 đường Sinh Trung, hỗ trợ người nghèo, trao học bổng cho học sinh nghèo, dạy trẻ em khuyết tật cách pha chế, phục vụ trong các cơ sở du lịch “để các em có thể phần nào tự tin bước vào đời”, theo lời chia sẻ của ông Đống Lương Sơn, chủ tịch Hội.
Dường như tinh thần nhân ái của Yersin có ở khắp nơi nơi, từ bếp cơm thiện nguyện 20 năm tuổi của bệnh viện đa khoa Khánh Hòa ở số 19 đường Yersin đến các bếp “dân sinh”, “tự phát”… Điều đó thật quý giá ở Nha Trang, thành phố biển hiền hòa, khi đằng sau những khách sạn, nhà hàng sang chảnh ven đường Trần Phú, bên lề những resort cao cấp tấp nập hoặc bỏ hoang, thậm chí có cả nhà hát trên đường ra sân bay Cam Ranh chỉ-sử-dụng-một-lần, vẫn tồn tại những nghèo khó. Theo báo Nha Trang, đến cuối năm 2022, toàn thành phố có 2.565 hộ cận nghèo (chiếm 2,31% tổng số hộ), 546 hộ nghèo (chiếm 0,49%), trong đó có 203 hộ không đủ khả năng thoát nghèo.
Tròn tám thập kỷ sau khi Yersin qua đời, Nha Trang vẫn khôn nguôi tự hào về người công dân đặc biệt của mình. Từ đây, bệnh viện, trường học, con đường mang tên Yersin tỏa đi mọi ngả. Ngôi nhà trên đỉnh Hòn Bà mới được công nhận là di tích lịch sử quốc gia. Mái nhà nhỏ ven sườn núi ở Suối Dầu thành một phần của chùa Linh Sơn Pháp Ấn. Yersin được thờ phụng như vị Bồ tát lưu lại trần gian cứu nhân độ thế, cả đời phát tâm vô lượng vì lợi ích chúng sinh.
Và Xóm Cồn không thể quên ông, dù quy hoạch mới đã đưa họ xa khỏi chốn cũ. “Hằng năm, vào ngày giỗ của ông, con cháu Xóm Cồn vẫn thành kính làm giỗ như với bậc cha ông”, hướng dẫn viên Đoan Thục nói. Lòng thương yêu, đức vị tha và sức lao động phi thường của ông, sau cả thế kỷ, vẫn làm rung động mọi người. Có phải vì thế mà chị chấp nhận làm việc ở một nơi không hấp dẫn về lương bổng? Đoan Thục mỉm cười “Lúc mới về bảo tàng, mình từng nản vì môi trường quá khác biệt so với công việc trước đây. Nhưng càng làm, có điều gì đó từ cuộc đời Yersin khiến mình càng hiểu ra và thấy phải làm tốt hơn…”. Chị lặng lẽ dịch một cuốn sách của Yersin, không chắc có xuất bản hay không nhưng đủ mang đến hơi thở mới cho bài trình bày ở bảo tàng. “Việc trưng bày hiện vật và nội dung giới thiệu do Bảo tàng Pasteur Paris thiết kế nhưng nhờ tìm tòi, bổ sung thông tin mà nay bài giới thiệu cũng có nhiều điểm khác ban đầu”.
Lúc sinh thời, chắc hẳn Yersin không bao giờ nghĩ rằng mình lại được ngưỡng mộ, yêu thương đến thế. Dù ở cái góc thiên đường bé tí này nhưng không ai quên ông. Ở Paris, Viện mẹ Pasteur kể từ năm 2020 lập một học bổng mang tên Calmette – Yersin để trao hằng năm cho các kỹ thuật viên, nghiên cứu sinh, postdoc trong mạng lưới Viện Pasteur toàn cầu. Trên các tạp chí chuyên ngành, cộng đồng khoa học quốc tế vẫn lật lại các bài học, các vấn đề quanh cuộc đời ông. Còn ở mảnh đất này, di sản đồ sộ ức vạn cành nhánh của ông ngày một vươn cành đơm trái, lan tỏa đến các thế hệ sau. (Hết) □
* Cám ơn Viện Vắc xin và Sinh phẩm Y tế (IVAC), TS. Nguyễn Anh Nghĩa (Viện Nghiên cứu Cao su), Hội Ái mộ Yersin Nha Trang đã hỗ trợ Tia Sáng nguồn tư liệu quý để hoàn thành chuỗi bài viết “Yersin ở Việt Nam”.
——————————
Tài liệu tham khảo
“Alexandre Yersin’ explorations (1892-1894) in French Indochina before the discovery of the plague bacilius”. AA Kousoulis. Acta Med Hist Adriat. 2012.
“Dân học học tự sự”. Nguyễn Văn Chính. Tạp chí Dân tộc học, số 3/2023.
Kỷ yếu hội thảo “Alexandre Yersin (1863- 1943): Nửa thế kỷ ở Việt Nam”. Tháng 3/1991. Thư viện Lâm Đồng.