Mời các bạn đọc bài viết ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, thấu tình đạt lý của tác giả Nguyễn Chương.
Không ít người hiện nay, chẳng hiểu sao, vẫn có thái độ xem nhẹ chữ quốc ngữ mà thản nhiên cho rằng bao đời trước đây người Việt cũng dùng chữ Tàu (Hán tự), "đâu có gì mà phải làm ầm ĩ" (!).
TIẾNG NÓI VIỆT ĐỨNG NGOÀI LỀ SUỐT 900 NĂM ĐỘC LẬP
Nếu chỉ nhìn thấy chữ quốc ngữ ở mặt bề nổi là dễ học, dễ nhớ thì khó mà đem lòng quí trọng chữ Việt thực sự. Bởi đó chỉ mới nói về hiệu quả, công dụng. Chữ quốc ngữ Việt, thực ra, mang GIÁ TRỊ sâu thẳm, sâu sắc hơn nhiều.
Tôi cố gắng ghi chú một cách cô đọng để chia sẻ đâu là giá trị nơi chữ Việt mến yêu của tất cả chúng ta, của những ai còn nhớ ra mình mang dòng máu Việt Nam.
/1/ "Tiếng nói" (phát âm), cùng với văn tự (chữ viết), hợp thành ngôn ngữ. "Tiếng nói Việt", mà các bậc tiền nhân như Nguyễn Trãi, Nguyễn Trường Tộ gọi rất hay, là "quốc âm".
Quốc âm ấy của người Việt đã lang thang bên ngoài hệ thống chữ viết chính thức (Hán tự) của biết bao đời vua quan.
Tỉ dụ, chúng ta nói với nhau bằng quốc âm trong đời sống hàng ngày: "vợ chồng" nhưng khi giở Hán tự thì chỉ có 夫 妻 và đọc là "phu thê" (theo âm Hán-Việt).
Chúng ta nói: "trăm năm", nhưng chớ hề tìm thấy chữ nào trong Hán tự mà khi phát âm bật thành tiếng "trăm năm", chỉ có 百年 và phải đọc là "bách niên" (âm Hán-Việt).
Cũng vậy, trong đời sống thường nhựt, ta gọi "hôm nay" nhưng khi nhìn vô văn tự thông dụng của triều đình nước Việt (là Hán tự), có tìm đỏ con mắt cũng không ra con chữ nào đọc thành "hôm nay", mà chỉ là 今天 "kim nhật" đọc theo âm Hán-Việt mà thôi.
QUỐC ÂM ("tiếng nói Việt") đã không tìm được chỗ tá túc trong Hán tự. "Tiếng nói Việt" (quốc âm) đã KHÔNG có được một ngôi nhà "chữ viết" (văn tự) nào hết để trú ngụ một cách đĩnh đạc, chính thống! (*: có ghi chú rõ hơn ở phần /4/, /5/).
Thành thử "tiếng nói Việt" (quốc âm) của chúng ta đã phải lang thang, trong khoảng 900 năm - xin nhấn mạnh - trong khoảng chín thế kỷ của một nước Việt đã độc lập rồi mới oái ăm!
(tính từ năm 938 khi Ngô Quyền xưng vương kéo dài cho đến năm 1884 đánh dấu chính thức nước ta bị lệ thuộc bởi thực dân Pháp)
/2/ Âm "Hán-Việt" là một sự độc đáo đến... tréo ngoe! Thử đọc hai câu trong Bình Ngô Đại Cáo:
"Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp."
Người Tàu mà nghe thì bù trất, không hiểu (trừ phi họ nhin vô mặt chữ Hán tự thì hiểu). Bởi vì người Việt đọc Hán tự không theo âm Tàu mà theo âm gọi là "Hán-Việt".
Nhưng người Việt (ngoại trừ các thầy đồ, vua quan...) nghe xong, cũng điếc lỗ ráy luôn! Phải đợi thầy đồ dịch lại, đại khái là: "Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau / Song hào kiệt thời nào cũng có", à, hiểu, vì thầy đồ tới lúc này ... mới nói tiếng Việt ("quốc âm") mà hàng ngày người Việt vẫn nói!
Danh nhân Nguyễn Trường Tộ trong bản điều trần về QUỐC ÂM gửi cho vua, ông thẳng thắn: "Nếu một người nói ra một câu, lại phải nhờ một người khác dịch ra, tức là một người nước khác mất rồi. Một nước Nam ta mà có hai thứ âm thoại, chẳng hóa ra một nước mà ngăn ra hai thứ người hay sao?
Những người thông minh ở nước ta, đua nhau học chữ Tàu (Hán tự), hao công đèn sách, cặm cụi suốt năm, hình như muốn học để làm những người Tàu. Nhưng đem tiếng ấy nói với người Tàu, họ không thể hiểu, mà nói với dân mình thì dân cũng chẳng hiểu".
3/ Xin dẫn tiếp lời của danh nhân Nguyễn Trường Tộ: "Ta hãy mượn Hán tự mà đọc ra tiếng ta. Hai chữ 吃 飯 sao không đọc là ‘’ăn cơm", mà cứ phải giữ cách đọc "thực phạm", không lẽ ‘’thực phạm’’ thì quý hơn ‘’ăn cơm’’? Nếu ta mượn chữ Hán mà đọc ra tiếng ta, thì một người đọc ra, mọi người đều có thể hiểu được".
Ông muốn nói đến nhu cầu khẩn thiết đưa tiếng nói Việt (quốc âm) vô trong văn tự, đừng để tiếng nói Việt phải vất vưởng bên lề. Bởi vì tiếng nói (quốc âm) là cái hồn thổi vô trong cái vỏ chữ viết để làm cho sống động.
Hán tự áp dụng trên nước Việt bao đời nhưng không tài nào chứa được quốc âm (tiếng nói Việt) nên chẳng khác nào cái xác không hồn.
4/ Thành thử có chữ Nôm. Mượn từ chữ Hán, mặc dù khá rắc rối và phức tạp, nhưng nên nhìn thấy giá trị của chữ Nôm: đó là một nỗ lực để tiếng nói Việt không bị ruồng rẫy ngay trên quê hương, bằng mọi giá phải có được một hệ thống chữ viết chứa được tiếng nói Việt (quốc âm)!
Khi bạn nhìn thấy dòng chữ (đây là chữ Nôm) trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: 𤾓 𢆥 𥪝 𡎝 𠊛 嗟 , bạn có thể không hiểu nhưng hãy nghe đọc lên câu thơ này: "Trăm năm trong cõi người ta", là hiểu ngay! Bởi vì, chữ Nôm chứa âm Việt (chớ không phải âm "Hán-Việt"), chứa tiếng nói Việt của chúng ta.
Các bậc ưu thời mẫn thế đều canh cánh bên lòng trách nhiệm tôn vinh "cái chữ" gắn liền với tiếng nói Việt. Tỉ dụ như cụ Nguyễn Trãi viết "Quốc âm thi tập" toàn những bài thơ viết bằng chữ Nôm, tức là đọc bằng tiếng Việt (không phải âm "Hán-Việt" tréo cẳng ngỗng), để một người đọc ra thì mọi người đều hiểu.
5/ NHƯNG, chữ Nôm được viết trong các chiếu chỉ, sắc lệnh này kia của triều đình chỉ vào đời Hồ Quý Ly, chỉ vào đời Quang Trung, hoặc vua Tự Đức có lòng quan tâm đến chữ Nôm... Quá ngắn ngủi, hệt như một cái chớp mắt, giữa cơn ngủ dài về mặt chữ viết suốt biết bao nhiêu triều đại nối nhau dài đăng đẳng!
Chữ Nôm không được thừa nhận trong hệ thống chánh trị của nước Việt. Cũng có nghĩa là tiếng nói Việt (quốc âm) chỉ được phép có mặt bên lũy tre làng, bên bờ ao cái giếng, có mặt ngoài ruộng đồng chớ không được bén mảng vô trong triều đình, nơi đó khi đọc chiếu chỉ sắc lệnh toàn ... "âm Hán-Việt" ráo trọi.
Nỗi lòng yêu mến quốc âm (tiếng nói Việt) của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Trường Tộ ... rốt cuộc hệt như tiếng vọng đến khản giọng giữa đồng trống minh mông.
Mà, có ai lại không đồng cảm với lời lẽ thống thiết của Nguyễn Trường Tộ "sở dĩ người Việt mình không bị đồng hóa bởi người Tàu là vì mình còn GIỮ ĐƯỢC TIẾNG NÓI RIÊNG của mình"?
Tiếng nói Việt (quốc âm) tìm đâu ra hệ thống chữ viết để trú ngụ, mà hệ thống chữ viết đó cần được sử dụng thống nhứt trên mọi lãnh vực từ quyền bính chánh trị, quản trị hành chánh cho tới văn chương?
Theo Nguyễn Chương
ĐÂU LÀ SỨC SỐNG & GIÁ TRỊ THỰC SỰ CỦA CHỮ QUỐC NGỮ?
Bài này tiếp theo bài "Tiếng nói Việt đứng ngoài lề suốt 900 năm độc lập": quốc âm Việt bị ruồng rẫy trong sinh hoạt quyền bính chánh trị & học thuật của hầu hết các triều đại suốt hàng mấy trăm năm, thành thử bằng mọi giá phải có được một hệ thống chữ viết chứa được tiếng nói Việt - đó là chữ Nôm. Nhưng chữ Nôm cũng vất vưởng, bị xem nhẹ (https://www.facebook.com/nguyenchuong158/posts/525888821178436 )
1/Có người tưởng rằng giá trị của chữ Quốc ngữ abc nằm ở sự dễ học, dễ nhớ. Không phải vậy, "dễ học/dễ nhớ" là thuộc về mặt công dụng, hiệu quả thôi.
Chữ Quốc ngữ mà chúng ta đang dùng sở hữu một GIÁ TRỊ vô cùng hệ trọng: hệ thống chữ viết này chứa được tiếng nói Việt ("quốc âm"). Nói cách khác, tiếng nói Việt hàng ngày của chúng ta từ nay đã có được ngôi nhà văn tự để trú ngụ một cách đàng hoàng, chánh thống!
2/ Chữ Quốc ngữ abc được phổ dụng là do chánh quyền thời Pháp thuộc đã ra lịnh phải dùng trong các trường học, công sở.
2.1) Trước nhứt, cần thấy rằng: việc phổ dụng bất cứ hệ thống chữ viết nào cũng đòi hỏi vai trò hậu thuẫn rất lớn từ quyền bính chánh trị.
Vậy mà, trong suốt mấy trăm năm các triều đại vua chúa nước ta chớ hề cất nhắc chữ Nôm (chứa được tiếng nói Việt) làm văn tự chánh thống!
Xin nhắc lại lời điều trần thống thiết của danh nhân Nguyễn Trường Tộ: "Ta hãy mượn Hán tự mà đọc ra tiếng ta" (tức chữ Nôm) - bởi vì việc dùng Hán tự rồi đọc theo "âm Hán-Việt" là tréo cẳng ngỗng hết sức: "đem tiếng ấy nói với người Tàu, họ không thể hiểu, mà nói với dân mình thì dân cũng chẳng hiểu" (lời Nguyễn Trường Tộ).
Lỗi lầm ruồng rẫy chữ Nôm, hãy coi lại đi, trách ai? "Tiên trách kỷ, hậu trách bỉ" ("hãy tự trách mình trước khi trách người").
2.2) Bất luận ngoại bang nào cũng đều muốn dân nước ta học ngôn ngữ của họ hết ráo. Chánh quyền Pháp, cũng như Tàu thời đô hộ ngàn năm, đều rắp tâm ve vãn người VN học ngôn ngữ của họ. Nhưng, hiệu quả không được nhiêu bởi vì giới chí sĩ ái quốc VN không chấp nhận việc từ bỏ tiếng nói Việt để thay bằng tiếng Pháp.
Vậy, tại sao các nhân sĩ trí thức đều cổ võ việc học chữ Quốc ngữ (mượn từ bộ chữ Latin)? Bởi vì họ nhìn thấy giá trị ĐỘC ĐÁO của chữ Quốc ngữ, đó là: QUỐC ÂM VIỆT ĐƯỢC GÌN GIỮ nơi bộ chữ này!
Nên không lạ gì các phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa thục... của đông đảo nhân sĩ trí thức đều kêu gọi quốc dân hãy học chữ Quốc ngữ (chớ không chỉ một chiều từ quyến bính chánh trị đưa xuống).
3/ Vẫn còn không ít người bị ấn tượng thị giác "đó là thứ chữ Latin bên tây" nên không đủ bình tâm mà suy nghĩ để nhận ra giá trị của chữ Quốc ngữ.
Ai cũng biết chữ viết là cái vỏ, còn phần "tiếng nói" của mỗi dân tộc mới hệ trọng hơn cả. Trước, tiếng nói Việt chúng ta đi mượn cái vỏ chữ Hán để chế tác ra chữ Nôm. Bất hạnh thay, chữ Nôm rơi vào sự hẩm hiu, và quốc âm Việt (chứa trong chữ Nôm) phải hứng chịu thân phận đứng ngoài lề ngay trên quê hương (nhường vai trò chủ nhân cho chữ Hán đọc theo "âm Hán-Việt").
Nay, quốc âm Việt đã tìm được cái vỏ chữ Quốc ngữ abc để trú ngụ, hơn nữa còn chiếm lĩnh trong mọi lãnh vực: từ quyền bính chánh trị, quản trị hành chánh cho tới học thuật, văn chương. Từ nay, TIẾNG NÓI VIỆT (quốc âm) được trở thành CHỦ NHÂN trên quê hương của mình!
4/ Trên tờ Gia Định báo, ông Trương Vĩnh Ký gọi bộ chữ abc là "chữ Quốc ngữ", thứ chữ của quốc gia chúng ta. Cách gọi này rất hay. Tắt một lời, bộ chữ abc này là: CHỮ VIỆT.
4.1) Trước nhứt, cần hiểu bộ chữ Quốc ngữ "mượn từ trời tây" nhưng, xin chú ý, "không độc quyền tây"! Nói rõ hơn: chữ Quốc ngữ không thuộc "độc quyền" của riêng nước tây phương nào ráo trọi.
Ủa, ủa, là sao?
Trong cuốn "Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659", nhà nghiên cứu Đỗ Quang Chính phân tích tỉ mỉ tiến trình hình thành buổi đầu của chữ quốc ngữ, và đưa ra nhận xét đó là kết quả "dùng mẫu tự Latin rồi dựa vào phần nào của chữ Bồ Đào Nha, Ý và mấy dấu Hi Lạp để làm thành chữ mà chúng ta đang dùng"! Tức chữ Quốc ngữ là một sự hợp thành nhiều nguồn, có văn minh văn tự của Latin, lại có một phần văn minh văn tự từ Hi Lạp, có rút tỉa từ chữ Bồ, rồi chữ Ý...
Vai trò đầu tiên thuộc về linh mục dòng Tên người Bồ Đào Nha Francisco de Pina, các vị linh mục người Ý Francesco Buzomi, Cristoforo Borri, rồi mới tới linh mục Alexandre de Rhodes (với tên Việt "Đắc Lộ"), cùng với một số người Việt...
(CHỮ VIỆT là một sự hợp thành, một tiến trình vượt khỏi những hạn định ban đầu; ai muốn hiểu "Việt" 越, nghĩa là "vượt khỏi / vượt lên", coi bộ cũng thú vị lắm đa...)
4.2) Thử tưởng tượng bạn viết lên giấy mấy chữ không xài tới dấu (thanh điệu): "Anh chia tay em đi xa". Đưa cho một ông thực dân Pháp, ổng dòm vô, không hiểu. Đưa cho một ông bạn người Bồ, ổng cũng không hiểu. Đưa ông bạn người Ý, khỏi hiểu luôn.
Ủa, ai bày trò dè bĩu viết chữ Quốc ngữ là viết "chữ tây"? Nghĩ lại đi, đó là nói bừa! Trên miếng giấy, chúng ta đâu viết tiếng Bồ, đâu viết tiếng Latin, cũng đâu viết bằng tiếng Pháp, thành thử mấy ông tây mới không hiểu gì ráo.
Chỉ có người Việt mới hiểu.
Bởi vì chúng ta đang viết CHỮ VIỆT!
(ông Pháp thực dân, ông bạn người Bồ, người Ý muốn hiểu? Phải học chữ Việt chớ còn gì nữa!)
Tóm lại, chữ Quốc ngữ (chữ Việt) là hệ thống chữ viết đọc bằng tiếng mẹ đẻ của chúng ta, với cú pháp của tiếng nói Việt.
5/ Nhân đây, nói tạt qua chuyện Nhựt Bổn một chút, bởi có người thắc mắc tại sao người Nhựt - bên cạnh bộ chữ hiragana, katakana, họ vẫn xài chữ Hán (người Nhựt gọi là "Kanji") trong ngôn ngữ hiện nay của họ? Bởi vì họ thành công trong việc buộc chữ Kanji (Hán tự) cũng phải chứa được tiếng nói Nhựt (quốc âm của người Nhựt)!
Tỉ dụ: núi Phú Sĩ 富士山. Chữ 山, nếu đọc theo âm Hán-Nhựt là "san". Tuy nhiên, cũng vẫn viết chữ 山, người Nhựt còn có cách đọc khác, hoàn toàn theo quốc âm của họ (tiếng nói Nhựt) là "yama".
Trong khi đó, chữ 山 chỉ được đọc theo mỗi âm "Hán-Việt" là "sơn" mà thôi, chớ hề có chữ Hán nào đọc theo quốc âm (tiếng nói Việt) là "núi" hết! Chúng ta buộc phải viết chữ Nôm: 𡶀 để được đọc thành tiếng Việt là "núi", thấy bắt thương bắt tội.
* Người Nhựt họ còn giỏi xài Kanji (Hán tự) theo cách của họ. Tỉ dụ đại từ nhân xưng ngôi thứ nhứt: người Tàu viết 我 , người Việt qua các triều đại trước kia cũng viết 我 - đọc theo âm "Hán-Việt" là "ngã", chớ không đọc theo quốc âm Việt (tiếng nói Việt) "tôi/tui/tao".
Trong khi đó, Nhựt Bổn họ không xài chữ 我 mà xài chữ 私 để dùng cho đại từ nhân xưng ngôi thứ nhứt (私, âm Hán-Việt là "tư", riêng tư), và đọc hoàn toàn theo quốc âm của người Nhựt là "watashi".
THAY LỜI KẾT:
Hệ thống chữ viết vay mượn nào mà không chứa được quốc âm của dân tộc thì chỉ dẫn đến sự đình trệ, mất sức sống. Đó là trường hợp vay mượn chữ Hán ở nước Việt trong suốt mấy trăm năm.
Nếu chứa được quốc âm (tiếng nói dân tộc), như Kanji (Hán tự) ở Nhựt Bổn, sức sống vẫn được duy trì.
Hoặc như chữ Quốc ngữ (chữ Việt), nhờ chứa được quốc âm, sức sống được triển nở không ngừng, bất chấp những cơn bão dèm pha, "ăn cháo đá bát"./.
---------------------------------------------------------------------------
Hình ảnh: Linh mục Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ)
Linh mục Bồ Đào Nha Francisco de Pina;
Trương Vĩnh Ký & Gia Định báo cổ súy chữ Quốc ngữ.