Thứ Bảy, 31 tháng 3, 2012

Nhớ Trịnh Công Sơn
Nhân ngày mất Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (1.4.2001-1.4.20012)
Trần Mạnh Hảo

Trịnh Công Sơn
Mười một năm qua, Trịnh Công Sơn đã đi vào cõi bất tử. Anh chọn ngày cá tháng tư- ngày nói dối toàn thế giới để ra đi. Hóa ra, tin anh đi khỏi cuộc đời này, về thực chất là một tin bịa đặt. Trịnh Công Sơn không bao giờ chết khi các ca khúc tuyệt vời của anh còn sống mãi với dân tộc.
Trịnh Công Sơn là bạn với cả nước. Hỏi có gia đình Việt nào không một lần mê mẩn vì các ca khúc “gây nghiện” của anh.. Trong chừng mực ấy, kẻ viết bài này cũng là bạn của Trịnh.
Nhớ cuối năm 1992, ngồi uống café với Trịnh Công Sơn trước Hội Âm nhạc TP.HCM. Anh bảo : “Hảo có thơ gì mới đọc cho mình nghe với ?”. Hầu như lần nào gặp nhau, có cơ hội yên lặng là anh hỏi tôi có làm được bài thơ nào mới, đọc cho “moi” nghe chơi ! Thơ phú lênh láng một hồi xong, Trịnh Công Sơn bảo : “Mình sắp in một tập nhạc có tựa đề: “Bên đời hiu quạnh”, đã xin được giấy phép, do Hội Âm nhạc thành phố đứng ra in, đây là tập nhạc đầu tiên của mình được phép ra trong chế độ mới ( CS) nên phải cẩn thận. Từng bản nhạc đã được “cơ quan chức năng” duyệt, kể cả lời tựa do bạn mình là Bửu Ý viết. Mình muốn Hảo viết cho mình mấy dòng in trân trọng nơi bìa bốn, đồng ý chứ?”. Tôi hơi bất ngờ, bảo anh: “ Anh Sơn này, theo Hảo, anh nên mời anh Nguyễn Quang Sáng hoặc anh Nguyễn Duy, hai bạn nhậu của anh viết cho có phải thú vị hơn không?”. Anh Sơn bảo: “Sáng và Duy có viết về mình mấy bài in báo, nhưng dài quá, không thể trích mấy dòng nơi bìa bốn của tập nhạc được; vậy “moi” mới nhờ Hảo, cũng muốn có một kỷ niệm với Hảo cho vui…”. Tôi đồng ý!
Hai ngày sau tôi chưa kịp viết thì anh Trịnh Xuân Tịnh, người em trai thứ hai của anh Sơn tìm tôi giục, rằng: “ Bìa một đã làm, anh Sơn bảo chờ mấy dòng của anh Hảo mới làm tiếp bìa bốn của tập nhạc…”. Tôi ngồi viết ngẫu hứng mấy dòng sau đưa cho anh Tịnh: “Nghệ thuật hi vọng của Trịnh Công Sơn là nghệ thuật băng qua tuyệt vọng, có đi qua lò bát quái của phần số, nhân tính mới còn cơ phát lộ. Trong lò lửa luyện ngục của anh, chúng ta được gặp cái mát lành của tuyết đầu mùa. Anh chỉ ra rằng băng tuyết cũng có thể dùng để sưởi ấm. Anh làm ta tin vào khả năng lặng im của loài quạ. Thực ra thiên chức của nghệ thuật là thức tỉnh nỗi cô đơn cùng tận của con người. Chính cô đơn là hình ảnh tư duy của chàng Hamlet. Chừng như sự chết và hư vô là hai tên gọi khác của nỗi cô đơn? Thức tỉnh nỗi cô đơn, nghệ thuật đồng thời cũng thức tỉnh cả cái chết và niềm hư vô. Âm nhạc của Sơn làm ta có cảm giác vừa rơi lên đỉnh vực nỗi cô đơn. Chỉ có thể đi hết cái tôi, chúng ta mới có cơ gặp cả loài người” – Trần Mạnh Hảo 10-1992 (Bìa bốn, tập nhạc BÊN ĐỜI HIU QUẠNH –TRỊNH CÔNG SƠN -Tình khúc -Nhân Bản 1993 – Hội Âm Nhạc TP-Giấy phép xuất bản số 345 ngày 9 tháng 01 năm 1993 – In và nộp lưu chiểu tháng 06 năm 1993)
Bằng thiên tài của mình, quả thực Trịnh Công Sơn đã đi hết nỗi cô đơn kiếp người, đi hết niềm hư vô và đi băng qua cái chết để đến với sự bất tử của anh trong lòng dân tộc ViệtNamvà thế giới. Trịnh Công Sơn không chỉ là một hiện tượng âm nhạc hậu bán thế kỷ thứ XX của ViệtNam; anh còn là một hiện tượng văn hóa của dân tộc đau thương và bất hạnh vào bậc nhất của thế giới này. Tuồng như không phải anh cô độc ôm đàn hát lên nỗi niềm day dứt mê ly của mình mà chính là những vết thương của lịch sử đang cất tiếng hát, vết thương của nỗi cô đơn, vết thương của tình yêu, vết thương của bất hạnh và hạnh phúc, vết thương của vô thường, vô ngã, vô vi, vô ưu, vô vọng, vô biên, vô lượng … cùng cất tiếng hát.
Trịnh Công Sơn, chính anh mới là cây đàn của mẹ ViệtNam. Mẹ ViệtNamđã ôm anh vào lòng như bức tranh người đàn ông ôm cây Tây Ban Cầm của Pablo Picasso để hát lên tình yêu và nỗi buồn vô tận của kiếp người. Hay nỗi buồn mượn anh mà hát lên những giai điệu có thể làm “đá ngây ngô” cũng ứa nước mắt ? Hay cỏ cây, mây trời, núi sông, ruộng đồng… đã mượn anh mà hát lên nỗi niềm vạn thưở của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du…?
Âm nhạc của Trịnh Công Sơn không chỉ là ma thuật giai điệu hài hòa với phần lời rất thi ca sâu thẳm mà còn là thiền học, triết học cất lời, rót vào tâm hồn người cả nỗi ưu tư của đất trời, những thắc thỏm, u hoài trần thế, những băn khoăn, day dứt, sầu thương, hoài vọng, hoài nghi, hụt hẫng, ngơ ngác nhân sinh. Tôi cho rằng một số nhạc sĩ chê phần nhạc của Trịnh Công Sơn là đều đều, đơn điệu… là vô căn cứ nếu không phải là do đố kị tài năng. Nhạc Trịnh bỏ lời đi, vẫn vô cùng quyến rũ, vẫn làm mê mẩn hàng triệu người. Phần lời của nhạc Trịnh quả tình siêu việt, là thi ca được hát lên. Bằng chứng là rất nhiều bài hát Trịnh Công Sơn được hòa tấu không lời vẫn cứ tuyệt vời, làm thổn thức hàng triệu triệu trái tim người nghe.
Đánh tên Trịnh Công Sơn lên công cụ tìm kiếm Google, sẽ thấy rất nhiều bài báo vu cho Trịnh là Việt Cộng nằm vùng, là tên văn công hạng bét, là phản bội Việt Nam cộng hòa, nơi đã sản sinh ra thiên tài Trịnh… Ngay cả một người bạn thân của anh Sơn là họa sĩ T.C. cũng cho Trịnh có ý đồ chính trị… Không, Trịnh Công Sơn trước hết là một con người phi chính trị, một văn nghệ sĩ thuần túy. Âm nhạc của anh vượt lên mọi đối kháng chính trị trong suốt cuộc chiến Việt Nam. Nếu Trịnh từng là Việt Cộng nằm vùng, không đời nào năm Mậu Thân 1968, anh lại viết bài hát “Tôi đã thấy”: “Chiều đi lên Bãi Dâu hát trên những xác người…” than khóc cho hàng nghìn người bị tàn sát ? Nếu Trịnh là Việt Cộng nằm vùng, không bao giờ anh viết về cuộc chiến Việt Nam là:“hai mươi năm nội chiến từng ngày”? Nếu Trịnh là Việt Cộng, không bao giờ anh dám viết bài hát (Requiem – Kinh cầu hồn) “Cho một người nằm xuống” là đại tá Lưu Kim Cương bị quân đỏ bắn chết năm Mậu Thân 1968 tại sân bay Tân Sơn Nhất? Nếu Trịnh là Việt Cộng nằm vùng, sau năm 1975, sinh viên Huế sao lại dám mang nhạc anh ra đấu tố, anh phải đi lao động cải tạo trồng sắn trên núi; và quan trọng hơn là nhạc của anh mấy năm liền vẫn bị cấm hát? Anh phải bỏ Huế vào Sài Gòn sống với mẹ và các em.
Sau năm 1975, tôi có dịp sinh hoạt chi bộ với nhà văn Nguyễn Quang Sáng lúc anh Sáng bắt đầu cặp kè với Trịnh Cộng Sơn như bóng với hình. Chi bộ hỏi anh Sáng về chuyện đó, anh Sáng khai: “Thành ủy và anh Sáu Dân (Võ Văn Kiệt) chỉ thị cho tôi bám sát Trịnh Công Sơn để lôi kéo anh ta về phía cách mạng. Trên bảo: nhạc sĩ này là thành phần đáng ngờ, có thể anh ta từng làm việc cho CIA, cần phải theo dõi anh ta trong mọi nơi mọi lúc”. Có thể vì chưa hiểu được nhiệm vụ cách mạng này của nhà văn Nguyễn Quang Sáng mà nhà văn Đặng Tiến (bên Pháp) mới viết rất không đúng rằng: “Nguyễn Quang Sáng và Nguyễn Duy điếu đóm cho Trịnh Công Sơn” chăng? Có thể vài bài hát của Trịnh Công Sơn như: “Huyền thoại mẹ”, “Em ở nông trường em ra biên giới”, “Ngọn lửa Matxcơva”… anh làm trong lúc bị “phê” rượu Tây với sự tranh thủ hết sức thân tình của Nguyễn Quang Sáng chăng? Nếu anh Sơn là Việt Cộng, anh đã để cho nhà nước tổ chức đám tang mình ở Hội văn nghệ hay tại nhà tang lễ Lê Qúy Đôn giành cho những cán bộ công khai và cán bộ ngầm có công với hai cuộc kháng chiến. Anh Sơn trối lại cho các em là tang lễ anh sẽ chỉ tổ chức tại nhà mình 37D Phạm Ngọc Thạch mà thôi ! Nếu anh Sơn là Việt Cộng nằm vùng, ít nhất anh đã được giải thưởng quốc gia về văn học nghệ thuật ?
Trịnh Công Sơn không phải người của quân đỏ hay quân xanh. Anh là con của mẹ Việt Nam, đến đất mưa bom bão đạn này để hát lên niềm hi vọng về nỗi tuyệt vọng con người, hát lên tình yêu bi thảm kiếp người, hát lên nỗi buồn mang mang thiên cổ nhân sinh của một gã du tử đến từ khu vườn các thiên sứ.
Chừng như từ khi sinh ra Trịnh Công Sơn đã bị thần thi ca, thần âm nhạc Apollon cướp mất cả hồn xác, biến anh thành âm nhạc, thành thi ca thuần túy . Bao nhiêu người đàn bà đẹp mê anh, yêu anh chừng như đã không giành được thân xác anh và linh hồn anh mãi mãi ? Tình yêu anh đã hiến tế cho âm nhạc, thi ca, cho triết học, thiền học, không còn chỗ cho phái đẹp cư trú. Những người đàn bà ghé qua âm nhạc anh trú ngụ ít ngày rồi cũng “bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ”. Nói cho cùng, tình yêu của Trịnh Công Sơn dành cho các người đẹp là một tình yêu thiên sứ. Mà thiên sứ thì chỉ yêu bằng tâm hồn thôi ! Còn thể xác anh đã tận hiến cho đất trời, cho cát bụi, cho Phật, cho Chúa…cho âm nhạc của mình muôn thưở trường tồn cùng dân tộc ViệtNam. Mười một năm trước, Trịnh Công Sơn đã mang nguyên vẹn niềm trinh nguyên thiên sứ của mình về với cát bụi để mãi mãi thủy chung cùng cõi hư vô, thủy chung cùng thần Apollon mà bất tử với cây đàn Lia vĩnh cửu trên Niết Bàn ẩn cư trong trái tim mỗi người Việt yêu nhạc Trịnh.

Sài Gòn ngày 30-03-2012


Thời gian trôi thật nhanh. Không ngờ mới đó mà Trịnh Công Sơn (TCS) đã chuyển nghiệp được 11 năm. Đọc bài dưới đây của Trần Mạnh Hảo tôi mới biết thêm vài chi tiết có thể nói là đáng chú ý về TCS sau năm 1975.
Có thể nói không ngoa rằng thế hệ của tôi lớn lên với những ca khúc của Phạm Duy và Trịnh Công Sơn. Dĩ nhiên, còn nhiều nhạc sĩ khác nữa, nhưng nếu hỏi vài nhạc sĩ gây ấn tượng lâu dài, tôi nhớ ngay đến hai người trên.
Thời đó, nhạc của TCS được xem như là một marker về trí thức. Nhiều quảng cáo tìm bạn bốn phương trên báo có những câu tự mô tả mình như thích nhạc Trịnh. Cái câu nhạc Trịnh như là một chứng từ rằng đây là người có học, có suy nghĩ và trăn trở về hiện tình xã hội, có sự tinh tế trong cảm nhận về cái đẹp và nghệ thuật nói chung. Tôi phải thú thật là dù thích nhạc của TCS, nhưng chỉ có vài chục bài mà thôi, vì đơn giản một điều là có những bài tôi không hiểu ý nghĩa của lời ca. Làm sao tôi có thể hiểu câu dài tay em mấy thuở mắt xanh xao. Không hiểu thì lời, thì chỉ còn lại là cảm nhận giai điệu, tiết tấu của ca khúc. Mà, nhưng giai điệu của nhạc TCS thì thường đơn giản (chứ không phong phú như nhạc Phạm Duy), nên nghe chỉ vài bài là dẫn đến hiện tượng … emotional fatigue.
Cá nhân tôi rất thích bài Phôi pha. Sau này, mỗi lần đi đâu có văn nghệ văn gừng, người ta yêu cầu tôi hát một bài thì Phôi pha là bài tôi nghĩ đến. Nhớ hôm “giao hoan” với các bạn báo chí ở Vĩnh Phú, tôi cũng đem bài này ra hát. Nhưng có lẽ Tuấn Ngọc hát thì dễ nghe hơn:



Phôi pha

Ôm lòng đêm / nhìn vầng trăng mới về
nhớ chân giang hồ
Ôi phù du 
/ từng tuổi xuân đã già
một ngày kia đến bờ
đời người như gió qua
Không còn ai 
/ đường về ôi quá dài
những đêm xa người
chén rượu cay 
/ một đời tôi uống hoài
trả lại từng tin vui
cho nhân gian chờ đợi
Về ngồi trong những ngày
nhìn từng hôm nắng ngời
nhìn từng khi mưa bay
có những ai xa đời quay về lại
về lại nơi cuối trời
làm mây trôi
Thôi về đi 
/ đường trần đâu có gì
tóc xanh mấy mùa
có nhiều khi 
/ từ vườn khuya bước về
bàn chân ai rất nhẹ
tựa hồn những năm xưa
Nhưng còn một lí do khác để nghe và mê nhạc TCS: chiến tranh. Trịnh Công Sơn đã nói dùm cho những thanh niên thời đó về tâm tư và suy nghĩ của họ về cuộc chiến dã man đang tàn phá đất nước. Thật vậy, nghe mãi những ca khúc sến rồi cũng đến lúc nhàm chán, nên người ta phải đi tìm những ca khúc có nội dung sâu xa và triết lí hơn, thì việc đến với nhạc của TCS là điều không ngạc nhiên. Thời đó, không ai không biết đến Ca khúc da vàng, từng gây sóng gió một thời trong giới thanh niên sôi sục với cuộc chiến mà báo chí có khi nói là huynh đệ tương tàn. Ngoài những ca khúc của Phạm Duy, Trịnh Công Sơn là người nói ý nhị nhất và tài tình nhất về chiến tranh.
Không tương tàn sao được khi chính người mình giết người mình. Có người tính toán rằng mỗi giờ (thời đó) có hàng chục người chết ngoài chiến trường hay hệ quả của chiến tranh. Xác người nằm bơ vơ / dưới mái hiên chùa
/ trong giáo đường thành phố / trên thềm nhà hoang vu. Chính tôi cũng từng chứng kiến những xác người đầu bị đập vỡ trôi trên sông theo những đám lục bình mà không ai dám nhận là thân nhân mình. Bây giờ nhớ lại mà rùng mình và thấy sao người mình quá dã man! Ấn tượng mạnh nhất mà TCS gieo vào tôi lúc đó là bài Gia tài của mẹ, với những lời ca thật thấm:
Một ngàn nô lệ giặc Tàu
một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
gia tài của Mẹ một rừng xương khô
gia tài của mẹ một núi đầy mồ
...
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ một bọn lai căng
Gia tài của mẹ một lũ bội tình
Lai căng, bội tình. Lại còn một lũ. Những từ ngữ rất nặng nề, nhưng có lẽ cũng thích hợp để mô tả những ai tin vào những triết lí phi dân tộc tính hay triết lí có hại cho văn hoá dân tộc. Chỉ tiếc một điều là những ca khúc này chưa được cho phép phổ biến ở Việt Nam. Đất nước đã hoà bình và thống nhất cả 40 năm, thế hệ mới cần phải biết về một thời sôi động, cần phải biết thế hệ ngày xưa nghĩ gì. Thật ra, trong bối cảnh biển đảo bị của chúng ta đang bị uy hiếp và xâm phạm, tôi nghĩ những ca khúc da vàng rất đáng được cất lên ở Việt Nam.

NVT

alt
Trịnh và Ngô Minh, Huế 1989


Ngô Minh

1.Trưa ngày 1-4 năm 2001, nhà thơ Thạch Quỳ ở Vinh vào chơi, cùng các nhà thơ Mai Văn Hoan, Phương Xích Lô uống rượu tại nhà tôi. Không hiểu do thần giao cách cảm hay linh cảm mà câu chuyện bên chiếu rượu của chúng tôi hôm đó chỉ bàn về một thế hệ đông đảo người Huế tài hoa nổi tiếng từ những năm 60 của thế kỷ trước như Trịnh Công Sơn, Đinh Cường, Bửu Ý, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Vàng Sao, Ngô Kha, Trần Quang Long... Thế rồi buổi tối, hàng chục cú điện thoại của bạn bè ở Sài Gòn, Huế tới tấp phôn cho tôi báo tin dữ : ‘Ngô Minh ơi, Trịnh Công Sơn... mất rồi !”. Ôi, nhạc sĩ tài hoa của đất nước, người con thân yêu của Huế đã về cùng cát bụi ! Mồng 1 tháng Tư là ngày nói dối, hay là tạo hoá đùa trêu ?...

...Hát bụi nào hoá kiếp thân tôi
Rồi một mai tôi về làm cát bui
Ôi, cát bụi tuyệt vời…

Đứa con trai út Ngô Hải Tân của tôi, lúc đó sinh viên năm thứ hai Đại học kiến trúc Hà Nội, học ở Huế, đi học về vội vàng mở băng đĩa CD Hạ Trắng của Trinh Công Sơn do Khánh Ly hát thật to. Nó trầm ngâm bảo :” Ba biết không, bác Sơn đi rồi ! Không phải cá tháng Tư đâu !”.Suốt đêm mùng một và ngày mùng hai tháng Tư, hầu như cả thành phố Huế mở nhạc Trịnh.Tôi ghé nhà của nhà phóng viên báo Thế giới Điện Ảnh Thanh Tú, anh mở nhạc Trịnh Công Sơn , rồi nằm một mình lặng im bên chiếc máy hát và chén rượu... Mấy ngày đó tôi thẫn thờ như người mất hồn. Mới hôm nào đây anh Sơn ra Huế, nâng cùng bạn bè chén rượu. Tôi ôm eo anh nâng lên nhấc nhấc xem anh độ bao nhiêu ký. “Ôi, sao anh nhẹ như xốp thế này”. Anh bảo :” Anh bây giờ là hư vô !”. Anh xốp vì uống nhiều rượu và hút thuốc lá quá độ. Anh bị bệnh tiểu đường và nhiêù thứ bệnh nan ý khác hành hạ bao nhiêu năm nay. Nên bây giờ anh nhẹ như hư vô :

Chiều mong manh quá nắng vàng ơi
Lá hát đời sông tóc trắng trời
Thân gầy bóng đổ dài phương gió
Người thôi thoáng chốc đã mù khơi… (NM)

2. Một chiều chủ nhật nắng tắt, tôi ngồi uống rượu đẻn cùng mấy anh bạn thơ Đồng Hới trong quán Hạ Trắng bên biển Hải Thành, Nhật Lệ, nhấm với tiếng hát Khánh Ly trong Sơn ca 7 từ cái cat-sét của cô chủ quán. Nhà thơ Lê Đình Ty thốt lên:” Không có gì có lý hơn ngồi uống trong quán Trịnh , nghe bài hát Trịnh trong một chiều biển hoang vắng gió nồm như thế này !”. Quán Trịnh, cách gọi của bạn tôi là một phát hiện thú vị về Trịnh Công Sơn. Vâng, có Nhạc Trịnh, Phố Trịnh , nên cuộc đời cũng có rất nhiều Quán Trịnh .

Trịnh Công Sơn có giọng hát rất hay, nhưng rất buồn : Chiều nay em ra phố về . Thấy đời mình là những quán không...”. Ấy là tâm linh, tâm cảm của người nhạc sĩ .Còn trên khắp các phố thị , thôn quê trong cả nước, các quán Trịnh bao giờ cũng đông khách. Ở miền Nam trước 1975 đã có rất nhiều quán mang tên các ca khúc Trịnh Công Sơn như Da Vàng, Hạ Trắng.... Sau ngày giải phóng, quán Trịnh phát triển ra các tỉnh thành miền Bắc. Tôi thường đến công tác ở các thành phố thị xã như Pleiku, Buôn Ma Thuột, Kon Tum, Đà Lạt ,Quy Nhơn, Nha Trang, Đà Nẵng...ở đâu tôi cũng gặp Quán Trịnh . Ngay trên con đường Hải Thành , Đồng Hới này, tôi đếm được ba quán lấy tên bài hát Trịnh Công Sơn đặt tên quán: Hạ Trắng, Biển Nhớ, Môi Hồng . Còn ở Hà Nội , Huế và Thành phố Hồ Chí Minh , nơi Trịnh Công Sơn đã sống trong thời gian dài đến cuối đời , thì không thể đếm hết các Quán Trịnh: Diễm Xưa, Da Vàng, Rừng Xưa, Xuân Hồng, Nguồn Cội, Quỳnh Hương, Bống Bống, Địa Đàng, Thiên Thu, Heo May .v.v. Có thể nói : không có nhạc sĩ Việt Nam nào lại được giới thương nhân mến mộ , tên các ca khúc của mình lại được “tham dự”vào tên nhiều quán trên thương trường như Trịnh Công Sơn ! Quán Trịnh là những quán rượu, quán cà phê, karaoke , cả nhà hàng đặc sản ... Đặc điểm chung của các quán Trịnh là có “ đặc sản” nhạc Trịnh phát bằng băng sat-sét, đĩa hình.v.v..và khách đến , ngoài việc nhấm nháp , gặp gỡ nhau, còn có thêm một nhu cầu nữa là để được cùng bạn bè, người tình ngồi một góc im lặng lắng nghe những bài hát hay của Trịnh. Dù những chủ quán trẻ hôm nay chưa một lần gặp nhạc sĩ Trịnh Công Sơn , nhưng họ đặt tên quán để thổ lộ tình yêu , sự ngưỡng mộ của mình đối với nhạc Trịnh . Và tất nhiên là để thu hút khách nữa. Người Huế bảo :” Hạnh phúc là ly ca phê và nhạc Trịnh”. Từ ngày nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua đời đến nay, các quán Trịnh càng phát triển hơn. Nhiều quán nhậu còn mời các ca sĩ có tiếng đến hát ca khúc Trịnh cho khách nghe hàng đêm , vì các thương gia đã nhận chân được sự ngưỡng mộ lớn lao của cả nước đối với nhạc sĩ tài hoa của mình.

Các Quán Trịnh không chỉ lấy chữ của Trịnh để đặt tên quán, mà đã mời cả Trịnh Công Sơn làm “tiếp thị” cho họ . Năm 1995, tập đoàn rượu nổi tiếng Martell trong chiến lược mở thị trường sang Đông Nam Á của mình đã chọn Trịnh Công Sơn làm “sứ giả” ! Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, người bạn thân của Trịnh kể rằng, nhân kỷ niệm 280 năm thành lập Martell , ông Patrick chủ hãng sang Sài Gòn đã trực tiếp đưa giấy mời sang Châu Âu làm khách quý của tập đoàn Martell . Dịp đó Trịnh Công Sơn đến Luân Đôn cùng với những người nổi tiếng, các hoàng tử trên thế giới làm khách quý của Martell , được mời sang Anh dự cuộc đua ngựa ở thành phố Lyverpool do hãng Martell bảo trợ và sang Pháp tham quan lò rượu Martell, uống rượu Martell không mất tiền. Ở trên tủ buýp phê trong phòng khách của Trịnh Công Sơn ở thành phố Hồ Chí Minh có một tấm bằng kỷ niệm lồng kính, chữ viết tay bằng mực đen: ‘’ Martell thành lập năm 1715. Ngày hôm nay những cánh của Thiên đường của chúng tôi đã mở ra để cho phép ông Trịnh Công Sơn nếm thử một ly Cognac của năm 1848 để lâu trong thùng và già đến 65 năm. Một ly Cognac của năm 1875 để lâu trong thùng và già đến 49 năm. Sự kiện này đã được lưu giữ trong cuốn sổ vàng của chúng tôi đề ngày 11 tháng 4 năm 1995. Patrick Firino Martell . “

Quán Trịnh còn mở sang thị trường du lịch. Hiện nay nhiều điểm du lịch ở Thành phố Hồ Chí Minh có quảng cáo ca nhạc Trịnh Công Sơn. Ở khu du lịch Bình Quới I, có “ Nhà lưu niệm Trịnh Công Sơn”. “Cõi đi về” này dành riêng cho Trịnh lúc đầu mang tên “ Hội quán Hội Ngộ” theo sáng kiến và nhạy bén thị trường của SaiGonTourist. Đây là nơi dành cho Sơn nghỉ ngơi, sáng tác, gặp gỡ bạn bè, công chúng...Ở Hội Quán này đã mấy lần triển lãm tranh Trịnh, và anh thường xuyên đến đây để giao lưu với những người mến mộ. Khách du lịch đến Khu du lịch Bình Quới đều ghé Quán Trịnh để xem tranh do nhạc sĩ vẽ, trực tiếp anh anh đàn hát, trò chuyện cùng anh.v.v..Khi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rời ” cõi tạm” , thì Hội Quán trở thành nhà lưu niệm trưng bày các kỷ vật, tác phẩm hôi họa, âm nhạc, những hình ảnh, tư liệu, các đồ dùng hàng ngày của nhạc sĩ... để phục vụ người mến mộ. Hội quán Hội Ngộ (Nhà lưu niệm Trịnh Công Sơn) đã trở thành địa chỉ du lịch hấp dẫn ở Bình Quới! Mới đây, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã đồng ý xây dựng một Khu lưu niệm Trịnh Công Sơn ở Huế và giao cho Hội Văn nghệ tỉnh thực hiện Huế . Đây cũng là một hình thức tạo nên một điểm du lịch mang tên Trịnh. Ậm ạch hai năm rồi, Khu lưư niệm Trịnh Công Sơn vẫn chỉ dừng trên giấy. Tôi cứ mong có một cõi Trịnh Công Sơn như thế...

3. Trịnh Công Sơn là thiên tài âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX . Di sản âm nhạc Trịnh Công Sơn là vô giá , mãi mãi là niềm tự hào của người Việt Nam. Trịnh Công Sơn vẫn đi về trong lòng người mỗi ngày. Tám năm Trịnh Công Sơn về “với cát bụi” , đã có hàng chục sách viết về anh, cuốn văn học mới nhất là tập bút xuất sắc “ Cây đàn lia của Hoàng tử bé” của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường . Âm nhạc Trịnh ngày càng lay động chiều sâu tâm thức hàng chục triệu người. Đã là người Việt, từ già đến trẻ không ai không hát Trịnh , không gia đình nào không có trong nhà một băng hay đĩa nhạc Trịnh ....Sống trong đời sống .Cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không ? Để gió cuốn đi. Để gió cuốn đi...

Không chỉ ở Việt Nam, âm nhạc Trịnh Công Sơn cũng ngày càng chinh phục thế giới . Ngay từ năm 1972, Trịnh Công Sơn đã được vào Đĩa Vàng ở Nhật Bản với bài Ngủ đi con, trong Ca khúc Da vàng, qua giọng hát Khánh Ly, phát hành trên 2 triệu đĩa . Trịnh Công Sơn có tên trong từ điển Bách khoa Pháp “ Encyclopédie de tous les pays du momde”. Hiện nay nhạc Trịnh đã có mặt tại nhiều nước Châu Á, châu Âu, Châu Mỹ... Có một chàng trai người Đức mang họ Trịnh luôn cùng mới bạn bè hát Trịnh Công Sơn; Có một cô gái Nhật Bản năm nào cũng sang Việt Nam để viếng mộ Trịnh, có nhà nghiên cứu phương Tây John C. Schafer cũng đam mê viết cả cuốn sách Hiện tượng Trịnh Công Sơn ...

Đặc biệt , ngày 3-2-2004, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York đã công bố “Giải thưởng Âm nhạc hòa bình thế giới” (WPMA). Sáu tên tuổi âm nhạc nổi tiếng thế giới được giải thưởng lần này là Bob Dylan , Conuntry Joe & the Fish, Hary Belafonte, Joan Baez, Peter, Paul & Mary và Trịnh Công Sơn. WPMA tôn vinh những người đã đem âm nhạc của mình cống hiến cho cuộc đấu tranh vì hòa bình và nhân đạo trên thế giới. Đây là sự kiện âm nhạc quốc tế lớn nhất Việt Nam từ trước tới nay!

Kể từ ca khúc đầu tiên Ướt mi công bố năm 1959, trải 40 năm sáng tác, Trịnh Công Sơn đã để lại gia sản trên 600 ca khúc lay động lòng người . Người ta chia ca khúc Trịnh thành “ ba dòng” : Dòng trữ tình, dòng phản chiến và dòng giải thoát bản ngã!. Lý thuyết là thế , nhưng tôi nghĩ dưới góc nhìn “ hòa bình và nhân đạo” thì hầu như ca khúc nào của Trịnh cũng là vút lên từ tận cùng sâu thẳm của tình yêu cuộc sống và nỗi đau phận người . Đó chính là tầm cao , sự vĩnh cửu của âm nhạc Trịnh

Nhưng phải nói dòng ca khúc phản chiến , ca khúc vì hòa bình của Trịnh Công Sơn đã góp một sức nặng lớn lao trong cuộc chiến đấu của nhân dân ta vì hòa bình và thống nhất Tổ Quốc. Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng :”..Từ năm 1966, trong vòng 10 năm, Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ phản chiến duy nhất ở “ miền Nam” . Nhạc sĩ yêu nước thì có nhiều người, nhưng nhạc sĩ phản chiến duy nhất chỉ có một “. Những bài hát trong các tập Ca khúc Da Vàng và Kinh Việt Nam, không mô tả chiến tranh, mà vạch ra những vết sẹo chiến tranh : Mẹ cầu cho em. Tuổi xanh đừng biến mất... Tiếng hát Trịnh Công Sơn là tiếng hát đòi được sống, đòi được làm người, đòi được hưởng hạnh phúc trên đất nước thanh bình : Yêu quê hương nước mắt lưng tròng. Người con gái ngồi mơ thanh bình... Người con gái chợt ôm tim minh . Trên da thơm vết máu loang dần... Những ca khúc Chỉ có em, Chưa mất niềm tin, Người con gái Việt Nam da vàng, Kinh Việt nam, Đại bác ru đêm ,Gia tài của Mẹ... luôn xoáy vào lòng người vết thương nhân loại, cất lên như tiếng kinh cầu nguyện cho số phận con người, nên có sức cuốn hút, tập hợp con người đứng lên chống chiến tranh rất lớn :

Đại bác đêm đêm dội về thành phố
Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe

( Đại bác ru đêm)

Không chỉ “phản chiến”, âm nhạc Trịnh Công Sơn ở Sài Gòn trước ngày 30-4- 1975 còn công khai rất nhiều bài hát về nỗi khát khao thống nhất đất nước : Huế -Sài Gòn- Hà Nội quê hương ơi sao vẫn còn xa...Việt Nam ơi còn bao lâu. Những con người ngồi nhớ thương nhau .... Ngày mai đây những con đường Nam-Bắc nở hoa... Ngày vui lớn sẽ qua trăm cầu... Mẹ dâng miếng cau mẹ dâng ngọn trầu...( Huế- Sài Gòn- Hà Nội) . Trịnh Công Sơn đã cùng bè bạn hát vang ở Sài Gòn ca khúc Nối vòng tay lớn loan tin thống nhất đất nước đến mỗi gia đình!

Mỗi ngày tôi chợt ngồi thiệt yên
Chợt nghĩ quê hương, nghĩ lại mình
Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống
Vì đất nước cần một trái tim...

Nhiều năm sau chiến tranh, Trịnh Công Sơn vẫn ám ảnh về nỗi đau chiến tranh và khát vọng hòa bình. Ca khúc Huyền thoại mẹ là một trong những bài hát hay nhất về mẹ anh hùng trong cuộc chiến đấu, hy sinh của dân tộc ta vì hòa bình và thống nhất đất nước. Anh Sơn kể với chúng tôi trong một cuộc rượu ở Huế rằng : “ Dạo mình ra Quảng Bình, được nhìn bức ảnh mẹ Suốt tóc bay ngang trời chống thuyền qua sông giữa bom đạn, rồi kết hợp với những thực tế cùng những câu chuyện nghe được, rồi tôi nghĩ đến mẹ của mình, viết thành bài hát...” . Sau giải phóng 1975, sinh viên học sinh miền Nam phải đi đào mương, làm thủy lợi khắc phục tàn tích chiến tranh, có người cho rằng “ Nhà nước cộng sản đày đọa học sinh”. Nhưng Trịnh Công Sơn lại làm ca khúc để động viên họ : Em ở nông trường, em ra biên giới / Có những bước chân đi không về...Có tình yêu lớn bao trùm mọi thành kiến mới thấu hiểu được lòng người. Trịnh Công Sơn viết về mùa thu Hà Nội hay da diết : Hà Nội mùa thu/ Cây cơm nguội vàng/ Cây bàng lá đỏ / Nằm kề bên nhau/ phố xưa nhà cổ/ mái ngói thâm nâu... là một trong những bài hát hay nhất về Hà Nội . Anh viết nhạc cho thiếu nhi Em sẽ là mùa Xuân của mẹ... cũng được trẻ em cả nước hát mấy chục năm nay

4. Anh Nguyễn Văn Hóa, giám đốc Xí nghiệp in chuyên dùng ở Huế là người rất say mê Trịnh Công Sơn. Trong phòng giám đốc của anh treo một bức ảnh phóng to chụp bức tranh họa sĩ Bửu Chỉ vẽ khuôn mặt Trịnh Công Sơn trong cây đàn ghi ta rất ấn tượng . Đến nỗi khi đến mừng nhà mới của tôi, anh cũng mang bức hình phóng to chụp tranh của hoạ sĩ Bửu Chỉ vẽ Trịnh đóng khung sang trọng tặng vợ chồng tôi. Trong chuyến tôi theo xe anh Hóa lên Khe Sanh ( huyện Hướng Hóa, Quảng Trị) thăm Hoàng Phủ Ngọc Tường đang chữa bệnh ở đấy, dọc đường tôi nghe anh Hóa ngâm những đoạn ca từ của Trịnh, như ngâm thơ vậy . Vâng, ca từ trong nhạc Trịnh Công Sơn là những áng thơ tuyệt tác. Đó là nhận xét của rất nhiều người. Nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc Hiến gọi ca từ của bài hát Đêm thấy ta là thác đổ của Trịnh Công Sơn là là một trong những bài thơ tình hay nhất của thế kỷ 20. Ca từ cũng là một phần làm nên sức mạnh trường tồn của âm nhạc Trịnh.

Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi...
...Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi...

Bởi thế mà nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, khi làm tập sách :” Trịnh Công Sơn- Một Cõi đi về” đã chọn in riêng trên 60 ca từ của Trịnh, in thành những bài thơ. Cách làm đó làm cho độc giả dễ nhận ra chất thơ bi tráng và sâu thẳm trong ca từ của Trịnh. Câu ca từ nào cũng là câu thơ hiện đại, ám ảnh :

Nghe bao nỗi đau trên hai bàn tay
( Tôi đang lắng nghe)
Dưới vành nôi mọc từng nấm mộ
( Có một dòng sông đã qua đời)
Sống trong đời sống cần có một tấm lòng
Để làm gì em biết không
Để gió cuốn đi...
( Để gió cuốn đi)
Ngày sau sỏi đá vẫn cần có nhau...

Trịnh Công Sơn có hàng ngàn câu thơ viết ra từ cõi tâm linh, từ sự chiêm cảm của kiếp người. Ca khúc Trịnh là thế giới hiện sinh, cũng chính là tư tưởng Phật Giáo hiện hữu trong máu của anh. Huế là đất Phật. Trịnh bảo : ‘ Huế và đạo Phật ảnh hưởng sâu đậm trên tình cảm thời thơ ấu của tôi’. Trịnh lại bảo : ‘ Bậc thượng thừa của hiện sinh chính là ông Phật’. Những chữ như ‘ hư vô’, ‘hư không’, ‘ cõi đi về’ , ‘ Đoá hoa vô thường’ ‘ ở trọ’ ,cát bụi.v.vv.. là ngôn ngữ Phật thường xuyên xuất hiện trong ca từ Trịnh : Con chim ở đậu cành tre / Con cá ở trọ trong khe nước nguồn / Tôi nay ở trọ trần gian / Trăm năm về chốn xe xăm cuối trời ...Những Lời ca đó là triết học, là nhân sinh thăm thẳm. Tôi thầm ước mình làm được những câu thơ thần linh đó !

5. Năm 1976, tôi từ Sài Gòn ra Hà Nội rồi về Huế gia nhập đội quân văn nghệ của tỉnh Bình Trị Thiên. Mặc dù đã nhẩm hát nhạc Trịnh Công Sơn suốt bốn năm trời ở rừng miền Đông Nam Bộ, nhưng những ngày tháng ấy tôi mới được làm quen với anh. Đại hội Văn nghệ Bình Trị Thiên lần thứ nhất, Trịnh Công Sơn ngồi bên bàn trước hội trường để thu tem phiếu lương thực và ghi tên đại biểu . Đó là công việc hành chính ở cơ quan Hội. Anh tươi cười bắt tay từng người , đeo kính cận dày cộp ngồi đếm đi đếm lại từng ô tem phiếu, vì thời bao cấp ấy, thiếu tem phiếu thì không thể nào bù được, không thể báo cơm ở khách sạn cho đại biểu được ! Rồi anh cùng cơ quan lên Bình Điền ( Huế), Cồn Tiên (Quảng Trị) cuốc đất trồng sắn, khoai. Đất đồi thì cứng, thân anh thì mảnh mai, gầy yếu, cuốc được ngày thì anh phồng dộp cả bàn tay.( bởi thế mà sau này có cây bút hải ngoại vu cho Hoàng Phủ Ngọc Tường , lúc đó là Phó chủ tịch Hội Văn nghệ tỉnh đã bắt Trịnh Công Sơn phải làm bản kiểm điểm về việc đi tăng gia!). Trong lúc cả nước đói, ai cũng phải cuộc đất trồng sắn, trồng khoai, riêng gì anh Sơn. Nhưng tôi thấy anh đi ‘tăng gia’ rất vui vẻ, vừa làm vừa hát. Anh còn đi tham gia lao động tại công trường Nam Thạch Hãn... Không việc gì anh không làm. Nhưng thời gian đó, dường như anh viết nhạc ít đi. Đó là sự thực

Một số nhạc sĩ ở miền Bắc vào ở Huế lúc đó cho rằng, nhạc Trịnh Công Sơn là “nhạc vàng” . Họ tổ chức cho sinh viên hội thảo phản đối nhạc vàng ! Họ giăng cả biểu ngữ trước cửa trường Đại học Sư Phạm phản đối nhạc vàng . Một số nhà quản lý văn hoá cực đoan còn cấm hát rất nhiều bài hát phản chiến của Trịnh. Vì họ cho rằng Trịnh chống chiến tranh chung chung, không phân biệt địch- ta, không phân biệt chính nghĩa và phi nghĩa. Thời kỳ đó, ở Huế người ta tổ chức một số cuộc họp để thảo luận về âm nhạc Trịnh Công Sơn với cách mạng. Những người bạn của Trịnh như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân đã tìm mọi cách nói cho các quan chức văn hoá biết rằng, Trịnh Công Sơn là một người yêu nước, trước và sau năm 1975 đã viết nhiều ca khúc cách mạng . Nhưng một số người vẫn chưa tin. Ngay cả bài hát nổi tiếng Nhớ mùa thu Hà Nội viết năm 1984, cũng bị cho là ‘có vấn đề’, nên bị đình chỉ cấm hát đến hơn 2 năm. Tất cả chỉ vì câu hỏi lặp đi lặp lại : ‘Từng con đường nhỏ trả lời cho tôi’. Người ta cho rằng câu hỏi đó là câu hỏi gì, ai sẽ trả lời, đó là ‘biểu tượng hai mặt’. Những người đó không hề biết hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng đa nghĩa, càng đa nghĩa càng tốt . Vì viết “ nhạc vàng”, nhạc không phân biệt địch-ta, nên mãi đến đầu những năm 90 của thế kỷ trước , Trịnh Công Sơn mới được “kết nạp” vào Hội nhạc sĩ Việt Nam ! Nhưng họp thì họp, nói thì cứ nói, cấm mặc cấm. Họp xong, nói xong. cấm xong mọi người lại hát Trịnh Công Sơn suốt đêm ngày ! Có lẽ vì sự đối xử đó mà năm 1979, Trịnh Công Sơn đã chuyển vào sống ở Sài Gòn và ngay lập tức được bầu vào Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật thành phố, uỷ viên điều hành Hội nhạc sĩ Thành phố Hồ Chí Minh .

Sau này tôi thường lui tới căn hộ chung cư của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở đường Nguyễn Tường Tộ, bên bờ An Cựu, gần nhà thơ Phú Cam. Đây chính là căn nhà Trịnh Công Sơn đã ở trong một thời gian dài. Khi chuyển vào sống ở Sài Gòn, anh Sơn đã bảo chính quyền tỉnh sang tên ngôi nhà cho vợ chồng Tường- Dạ. Đứng bên ban công dưới hàng long não, nhìn ra bờ sông, nhìn qua Thánh đường Phú Cam trong chiều sương tím Huế, nghe âm hưởng của cây lá, của gió, của sông của bước chân con gái đi bộ qua đường... Hoặc đi bộ dọc sông An Cựu qua cầu Bến Ngự lên chùa Phổ Quang , nơi Trịnh Công Sơn gửi pháp danh Phật của mình , nghe dế kêu trong cỏ, gió rì rào trong lá, tôi nhận ra đây chính là giai điệu Trịnh Công Sơn ! Trịnh Công Sơn đã viết hàng trăm ca khúc ở căn phòng này. Lần ra Huế dự “ Đêm nhạc Trịnh Công Sơn quyên góp tiền giúp trẻ em nghèo học giỏi”, anh Sơn nâng cùng anh em chén rươụ Chuồn, tâm sự :” Trong lời bài hát của mình không có một từ nào về các địa danh của Huế, nhưng toàn bộ âm nhạc của mình chính là Huế đấy, Huế của kiếp người...”. Vâng, trên 600 ca khúc của Trịnh Công Sơn để lại là một phần của Di sản văn hóa Huế , tồn tại mãi với thời gian...

Âm nhạc Trịnh Công Sơn là âm nhạc vì con người nên ở lại mãi với hồn người, không biên giới, “cao hơn mọi thành kiến trên đời “ ( chữ của Anh Ngọc) . Giải thưởng Âm nhạc hòa bình thế giới của Liên Hiệp Quốc là sự tôn vinh ở tầm cỡ thế giới về Di sản âm nhạc của Trịnh . Đây cũng là sự tôn vinh một nhân cách sống và bản lĩnh sáng tạo của một thiên tài âm nhạc.



Một: Giới trẻ cũng có nhiều người thích “nhạc Trịnh”. Họ còn để ý nhiều chi tiết ngộ nghĩnh trong các bản nhạc như: ca từ là lạ, độc đáo: *“ lòng như khăn mới thêu”, * “lòng như nắng qua đèo”, * “mừng như bão cát quay cuồng”.. có tính tiên tri, tiên đoán: * phá rừng: “rừng đã cháy và rừng đã héo… rừng đã khô và rừng đã tàn”, * ô nhiễm môi trường: “ôi cát bụi mệt nhoài, tiếng động nào gõ nhịp không nguôi”, *kẹt xe: “tiến thoái lưỡng nan, đi về lận đận”…*tai nạn giao thông: “Hôm nay ra phố với người, chật trong phố xá những lời phân ưu”, *thuỷ điện tràn lan: “Đàn bò tìm dòng sông, nhưng dòng nước cạn khô”, *ngư dân bị bắt bớ trên biển Đông: “Ngày mai em đi biển có bâng khuâng gọi thầm… bàn tay nghe ngóng tin sang… sỏi đá trông em từng giờ”, *đạo đức suy đồi (vợ đốt, thuốc độc chồng, chồng chém vợ thiêu vợ, nữ sinh rạch mặt nhau, cha búa đầu con..): “Trên nhân gian chia lìa, lòng đầy những oán thù”, “gia tài của mẹ, một bọn lai căng, gia tài của mẹ, môt lũ bội tình”……
Hai: Đúng ngày này năm trước, Thành phố Huế chọn con đường mới, khá đẹp, dọc bên bờ sông Hương đặt tên là đường Trịnh Công Sơn. Ngày khai sinh đường, 01/4/2011, đường còn thưa vắng, ít người qua lại. Chỉ một năm trôi qua, đường Trịnh Công Sơn bây giờ rất phát triển, đông vui vì văn hóa “nhậu nhẹt”, hàng quán mọc lên san sát… Cũng có người than phiền, nhưng nghĩ lại chẳng có gì phải làm ầm ỉ cả !!!

Lúc mới gắn bảng tên


Quán xá hiện nay

Ba:  Có một quán nhậu bình dân, rất “Trịnh”, ngay đầu đường Bạch Đằng, sát múi cầu Gia Hội. Nghe đâu ngày trước, nhạc sĩ tài hoa của chúng ta cũng hay nhậu tại đây.
Đến Huế, cũng nên ghé lại đây…một tí.
Quán rượu “Trịnh Công Sơn” (cấp 4, màu vàng)


 Khán giả không ngại trời mưa vẫn nhiệt tình đến tham gia chương trình

 Trịnh Vĩnh Trinh - em gái Trịnh Công Sơn - day dứt trong ca khúc Ru tình.

 Ca sĩ Lan Ngọc thể hiện hai ca khúc Diễm xưaThương một người

Nghệ sĩ saxophone Trần Mạnh Tuấn thể hiện tiếng kèn điêu luyện trong hai ca khúc
 Ru ra ngậm ngùiNhư cánh vạc bay.

Đức Tuấn sôi động và trẻ trung trong liên khúc thiếu nhi.

Nhóm tứ ca MQV lần đầu tham gia chương trình kỷ niệm ngày mất nhạc sĩ họ Trịnh.

Nhóm It's Time thể hiện Con mắt còn lại với phong cách acoustic.

Lân Nhã hát da diết bài Như một lời chia tay.







 Minh Thuỳ

Nhân tưởng niệm 40 năm Tết Mậu Thân, một bộ phim bị bỏ quên hơn 30 năm bỗng nhiên được đưa ra ánh sáng: phim Đất Khổ dưới hình thức DVD. Ngay cả những người tham gia thực hiện bộ phim từ đạo diễn Hà thúc Cần, nhà văn Nhã Ca, nhạc sĩ Trịnh công Sơn, luật sư kiêm nhà thơ Lưu nguyễn Đạt, các diễn viên Kim Cương, Bích Hợp, Vân Quỳnh...cũng tưởng bộ phim đã bị “biến mất”.
Bấm vào đây để nghe tiết mục này
Download story audio
Đến nay một số người trong đoàn làm phim đã ra đi, nhưng rất may bộ phim vẫn tồn tại sau một thời gian dài lưu lạc. Minh Thùy xin giới thiệu cùng quí thính giả Đài RFA về phim Đất Khổ và phỏng vấn 2 người có liên quan đến bộ phim.
Những âm thanh các bạn đang nghe trích từ một cảnh chạy loạn trong phim Đất Khổ, đạo diễn Hà thúc Cần đã quay được những cảnh sống thật rất đau thương của người dân Việt Nam trong thời điểm chiến tranh năm 1972, vẫn được biết với tên Mùa hè đỏ lửa.
Phim Đất Khổ khởi đầu thực hiện năm 1971, hoàn tất năm 1974, nhưng không được phép trình chiếu ở miền nam Việt Nam với lý do “có tính phản chiến”. Sau biến cố năm 1975, bộ phim cũng theo số phận đa số người dân miền nam di tản ra nước ngoài, được cất giữ gần 20 năm do một nhà đầu tư người Mỹ, George Washnis, có lòng quan tâm đến Việt Nam.
Năm 1996 ông đã nhờ một Viện Đại học ở Washington đưa ra trình chiếu phim Đất Khổ vì ông “muốn cho nhiều người biết về lịch sử, về cuộc chiến tranh Việt Nam”. Rất may và tình cờ, cô Đinh Từ Bích Thúy là giám đốc Liên hoan Phim Á Mỹ năm 1996 đã chú ý và xem phim Đất Khổ. Những cảnh thật trong phim với những thân phận, tâm trạng của người dân, người lính miền nam đã khiến cô xúc động và quyết định đưa phim Đất Khổ vào chương trình Liên hoan phim đồng thời viết bài giới thiệu về Đất Khổ trên trang văn chương mạng Damàu.
Sau đây là bài phỏng vấn của Minh Thùy với Đinh từ Bích Thúy và nhà thơ Lưu nguyễn Đạt, một diễn viên trong phim. Các bạn có thể tìm mua DVD phim Đất Khổ trên web Amazone.com và xem trích đoạn phim Đất Khổ theo website sau đây: http://www.youtube.com/user/DatKhoTheFilm
Minh Thùy: Với tư cách giám đốc phụ trách chương trình phim Việt Nam trong Liên hoan phim Á Mỹ năm 1996, vì sao Bích Thúy và nhóm phim Việt Nam đã chọn phim Đất Khổ làm bộ phim chính trong Liên hoan phim Á Mỹ năm đó?
Thực sự phim Đất khổ không phải là phim chính của Liên hoan phim Á Mỹ năm 1996, phim chính năm đó là của đạo diễn Charlie Trực Nguyễn là phim Thời Hùng Vương thứ 18. Còn phim Đất Khổ là sự may mắn, tình cờ thôi. Vì trước khi Liên hoan phim Á Mỹ ra mắt ở Washington DC, thì Đất Khổ được chiếu trong chương trình của Hội American Film Institute.
Bích Thúy: Thực sự phim Đất khổ không phải là phim chính của Liên hoan phim Á Mỹ năm 1996, phim chính năm đó là của đạo diễn Charlie Trực Nguyễn là phim Thời Hùng Vương thứ 18. Còn phim Đất Khổ là sự may mắn, tình cờ thôi. Vì trước khi Liên hoan phim Á Mỹ ra mắt ở Washington DC, thì Đất Khổ được chiếu trong chương trình của Hội American Film Institute.
Khi xem thì thấy rất ngạc nhiên, rất mừng và cảm động, phim dài khoảng 2 tiếng, đây là phim của miền nam Việt Nam trước năm 75, thấy tên tuổi người trong phim thì nhận ra ngay, nhất là tên Trịnh công Sơn, kịch bản là của Nhã Ca. Sau khi phim chiếu ở Liên hoan phim Á Mỹ 2 tuần, cũng có nhiều người Việt Nam tới xem, sau đó phim đi sang Cali rồi Texas nhờ sự xuất hiện từ Washington DC này.
Cuối tháng 5-2007 thì em liên lạc được với ông Võ tá Hân ở Singapore, là bạn của ông Hà thúc Cần. Ông nói: tôi là bạn thân của ông Hà thúc Cần, nhưng rất tiếc là ông Hà thúc Cần đã qua đời từ năm 2004, ông Hà thúc Cần không chia xẻ những chi tiết tỉ mỉ về phim, chỉ nói phim Đất Khổ là một điều rất thành đạt mà ông hãnh diện nhất trong đời ông.
Minh Thùy: Đa số người Việt Nam không biết đến phim này, chưa từng xem mà cũng chưa từng nghe nói đến tên bộ phim nữa. Riêng Bích Thúy đã xem phim rồi thì Bích Thúy có nhận xét gì về phim Đất Khổ ? Có phải bộ phim có tính phản chiến như từng bị chính phủ miền nam Việt Nam đánh giá, do đó đã cấm phát hành, cấm trình chiếu trước năm 1975 không?
Bích Thúy: Nếu nói là phim phản chiến thì không hẳn đúng. Phim này rất đa dạng, câu chuyện phong phú, cách đóng phim tự nhiên, cách đạo diễn và khái niệm chung về phim là phim sống thực. Nó diễn tả tất cả mặt phải mặt trái của vấn đề (chiến tranh).
Nó là phim khách quan, hay là phim đứng ở giữa, không phải là phim bênh vực chính quyền miền nam Việt Nam, cũng không phải hoàn toàn chống cộng, không phải là phim phản chiến, nó đứng thế đứng ở giữa. Như một vai chính Quân do Trịnh công Sơn đóng thì là người không đi lính, có thể gọi là người trốn lính, mà thật sự ông có lý do về lương tâm tại sao lại không đi lính, lại đứng giữa, đóng vai người nghệ sĩ, quan sát hết những gì xảy ra chung quanh. Đó là cái nhìn của Hà thúc Cần, một người đứng giữa.
Trong cảnh khác, ông đóng vai người anh của Trịnh công Sơn thì cũng là người có lý tưởng, ông nói là ông không hiểu tại sao Trịnh công Sơn lại chọn chuyện trốn lính, không làm gì hết, chỉ đi ca hát, thì ông có cái view của ông, chứ không phải hoàn toàn không có lý tưởng. Phim đưa ra nhiều cái mà mình phải suy nghĩ. Không có ai thật sự là anh hùng mà cũng không có ai xấu, họ là người. Cái nhìn đó rất sống thực.
Cũng có nhân vật cô sinh viên do Vân Quỳnh đóng (ngưòi em gái của Quân và Nghĩa) chống cả người anh đi lính cộng hòa, cô thuộc thế hệ trẻ bất mãn, không muốn ngồi ì đó, cũng không muốn chỉ là nghệ sĩ, muốn làm cái gì đó. Em thấy điều đó cũng sống động, sống thực. Em đọc lại lịch sử thời đó thì biết có những người thời đó họ không biết là ở phe nào, họ cũng bất mãn vì thấy cả hai bên đều có khiếm khuyết, và điều đó có xảy ra.
Trong khi đó thì thấy bên Cộng sản không xuất hiện trong phim, họ là một lực lượng gần như vô hình nhưng họ nguy hiểm, vì có những cảnh chạy loạn, người dân bị đạn lạc, tự nhiên bị chết chóc, giống như mình có cái view về chiến tranh Việt Nam, mà mình thấy hết từng mọi khía cạnh của nó, đầy đủ mà thấm thía. (Ghi chú: đây là những cảnh người dân miền Trung chạy loạn mà đạo diễn Hà thúc Cần đã quay phim sống thật vào năm 1972)
Thời điểm trước năm 75 người ta chưa sẵn sàng nhìn thấy toàn diện như vậy, họ chỉ nhìn thấy một vấn đề, lúc đó trong chiến tranh, họ sợ những vấn đề làm họ hoang mang. Em hiểu tại sao phim bị cấm. Gần 20 năm sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, em rất cảm động thấy may mắn được xem cuốn phim như vậy, vì nó cho em có cái nhìn toàn diện về chiến tranh Việt Nam.
Nó cho mình một cái nhìn toàn diện và cũng rất khách quan, nên em cũng cám ơn ông Hà thúc Cần đã cho em có cái nhìn như vậy.
Lý do tôi nhận vai một nhân vật trong phim Đất Khổ, là trước đây tôi từng quen anh Hà thúc Cần, Trịnh công Sơn, anh Trần dạ Từ, chị Nhã Ca. Khi anh Hà thúc Cần có ý định làm ra phim Đất Khổ có đến gặp tôi, cho tôi xem cốt truyện thì tôi thấy cốt truyện này có giá trị, có thông điệp có tính cách nhân bản dù ngay trong lòng cuộc chiến lúc đó. Đó là lý do tôi nhận vai trung sĩ Nghĩa trong phim.
Minh Thùy: Chào anh Lưu Nguyễn Đạt, tôi có xem qua vài trích đoạn phim Đất Khổ trên Youtube, thấy anh đóng vai một người lính trong phim. Tôi nhớ ngày xưa khi còn ở Saigon cũng ít nghe đến tên diễn viên Lưu nguyễn Đạt nên cũng hơi thắc mắc không biết nhân duyên nào đưa anh tham gia đóng phim Đất khổ?
Lưu nguyễn Đạt: Lý do tôi nhận vai một nhân vật trong phim Đất Khổ, là trước đây tôi từng quen anh Hà thúc Cần, Trịnh công Sơn, anh Trần dạ Từ, chị Nhã Ca. Khi anh Hà thúc Cần có ý định làm ra phim Đất Khổ có đến gặp tôi, cho tôi xem cốt truyện thì tôi thấy cốt truyện này có giá trị, có thông điệp có tính cách nhân bản dù ngay trong lòng cuộc chiến lúc đó. Đó là lý do tôi nhận vai trung sĩ Nghĩa trong phim.
Thực ra tôi không hề đóng trong phim nào khác, tôi chỉ là diễn viên tình cờ, lúc đó tôi là luật sư tòa Thượng thẩm Huế và Saigon, sự tham dự của tôi có tính cách dấn thân vào việc tiêu biểu có ý nghĩa, đó là sự thực hiện cuốn phim Đất Khổ vào năm 1971-72 ở Huế và Saigon.
Minh Thùy: Tôi thấy tuy là diễn viên không chuyên mà anh đóng rất đạt. Anh có bằng lòng với vai người lính trong phim? Sau khi bộ phim hoàn tất, thực hiện xong vai diễn viên người lính, anh suy nghĩ gì về phim Đất Khổ, về thân phận người dân và cả người lính Việt Nam trong cuộc chiến?
Lưu nguyễn Đạt: Tôi thủ vai anh trung sĩ biệt động quân Nghĩa. Nghĩa là một cựu sinh viên tranh đấu và là người tôn trọng bổn phận của mình, thành 1 trung sĩ biệt động quân. Nhưng khi anh trở về làng mạc của mình thì thấy mọi cảnh tan hoang. Anh đã tham dự cuộc chiến nhưng cũng ý thức được sự phi lý của cuộc chiến. Đó là khi anh trở về nhà, bằng phản ứng tự vệ anh định quăng lựu đạn xuống 1 cái hầm, tưởng là để giết địch, nhưng thực ra địch đó là những đứa trẻ con, chính là các em của Nghĩa còn sống sót trong cuộc chiến.
Phim Đất Khổ có nhiều khía cạnh: khía cạnh thông tin thì nó có khuynh hướng phim ảnh sự thực (cinéma vérité) mà nghệ thuật và hiện thực gần sát liền với nhau, tiêu biểu cho thời điểm liên quan tới cuộc tranh đấu Phật giáo 1965, Tết Mậu Thân 68 và mùa hè đỏ lửa 72.
Cuộc chinh chiến ý thức hệ quốc cộng là động lực chính, nhưng ở khía cạnh tiêu biểu, thì những nhân vật trong truyện được giao phó những vai có tính tạm bợ, lúc thì là trợ lực, lúc là đối nghịch trong một vở tuồng quốc tế mà cốt truyện, chương trình, diễn xuất đều không ở trong sự hiểu biết của nhân vật.
Họ chỉ là người tạm bợ được ủy thác trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn phi lý này. Anh vai Nghĩa đã tham dự và đã ý thức là cuối cùng cuộc chiến đó không đưa tới đâu, mà chỉ đến sự tàn phá của cả dân tộc và đất nước Việt mà thôi.
Cái ý nghĩa cuối cùng là ngay trong lòng cuộc chiến, chúng ta thấy được những gia đình, những con người vẫn còn ý thức được tình nghĩa, vẫn có sự nhân từ, còn hy vọng, vẫn còn muốn trở về làng ấp.
Tôi thấy Đất Khổ không phải cuốn phim về chiến tranh mà là tiêu biểu sự phá hoại của chiến tranh, không phải chống chiến tranh, mà coi chiến tranh là sự thử thách, là những khó khăn mà dân tộc chúng ta phải tìm cách vượt thoát đi. Tôi nghĩ đó là thông điệp mà anh Hà thúc Cần và chị Nhã Ca muốn tiêu biểu lên chăng?
Còn quyết định chung của chúng ta, những người trong giai đoạn hậu chiến này có dùng cuộc chiến đó như bài học hay không, coi như là sự thử thách hay không để tìm cách xây dựng lại đất nước, xây dựng lại dân tộc với đường hướng hài hòa hơn, rút tiả tấm lòng nhân từ, nhân đạo trong phim đó mà chọn con đường khác không phải là chiến tranh, chọn con đườn xây dựng. Đó là mong ước chung của dân tộc Việt Nam hôm nay.

Minh Thùy: Cám ơn nhà thơ Lưu Nguyễn Đạt.

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/ReviewFilmDatKhoTheLandOfSorrows_MThuy-20080225.html


Thứ Ba, 27 tháng 3, 2012

Bác sĩ trẻ gốc Việt được bổ nhiệm vào Ủy ban Cố Vấn Tổng thống Mỹ

Trà Mi-VOA

Người Việt đã có tiếng nói trong chính quyền Mỹ khi Tổng thống Barack Obama mới đây vừa bổ nhiệm một bác sĩ trẻ gốc Việt vào Ủy ban Cố vấn cho Tổng thống chuyên trách về người Mỹ gốc Châu Á-Thái Bình Dương. Gương thành công của Tiến sĩ-Bác sĩ Nguyễn Thanh Tùng, giáo sư y khoa của Đại học California-San Francisco là một niềm hãnh diện cho cộng đồng người Việt và đặc biệt là cho giới trẻ Việt Nam mà Trà Mi hân hạnh được giới thiệu đến quý vị và các bạn trên Tạp chí Thanh Niên của đài VOA hôm nay.
image
Tiến sĩ-Bác sĩ Nguyễn Thanh Tùng
Bác sĩ Nguyễn Thanh Tùng cùng gia đình sang Mỹ tị nạn chính trị từ năm 1975 và hiện định cư tại San Jose, bang California. Thành tích học tập của anh đã tỏa sáng ngay từ thời trung học với tấm bằng tốt nghiệp ưu hạng và học bổng toàn phần trong thời gian học cử nhân khoa triết tại trường đại học lừng danh Havard.
Ra đại học, anh rẽ sang ngành y với ước mong phục vụ và chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng người Mỹ gốc Á. Sau khi tốt nghiệp bác sĩ từ trường đại học nổi tiếng Stanford, anh được mời về giảng dạy tại Đại học California-San Francisco từ năm 1997 tới nay, vừa dạy, vừa chăm sóc bệnh nhân, và miệt mài trong công tác nghiên cứu. Anh là Giám đốc Dự án Thăng tiến Sức khỏe cho cộng đồng người Việt tại Mỹ và đồng thời là thanh tra chính của Mạng lưới Đào tạo-Nghiên cứu-Nâng cao nhận thức về ưng thư thuộc đại học California-San Francisco, chuyên tiến hành các cuộc nghiên cứu để phòng bệnh cho người Mỹ gốc Á Châu. Các cuộc nghiên cứu của anh giúp tăng cường tầm soát ung thư vú, ung thư cổ tử cung, và ung thư trực tràng, cũng như các căn bệnh do thuốc lá gây ra cho người gốc Á tại Mỹ đã mang về cho anh Giải thưởng từ Hội Ung thư Mỹ vào năm 2002.
Nếu như những thành tích ngoại hạng về khoa bảng đã mang lại cho anh các văn bằng từ các trường đại học danh tiếng của Mỹ thì những thành tích xuất sắc trong công tác nghiên cứu y khoa và những đóng góp không ngừng nghỉ trong lĩnh vực sức khỏe cộng đồng đã khiến tên tuổi anh được giới chuyên môn chú ý và đánh giá cao và kết quả là ngày 7/10 vừa qua, anh được đích thân Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama bổ nhiệm vào Ủy ban Cố vấn cho Tổng thống chuyên trách về người Mỹ gốc Châu Á-Thái Bình Dương.
Khi được hỏi về bí quyết của những thành công đáng nể này, bác sĩ Tùng nói đó là nhờ sự phấn đấu không ngừng:
“Mình cứ cố gắng thôi chứ không có gì đặc biệt hết. Mình kiên nhẫn, cố gắng học hành,cứ cố gắng tiếp tục. Thắng cũng tiếp tục mà thua cũng tiếp tục tại vì mình đi di cư, mình còn mạng sống là đủ rồi. Cho nên, bất cứ việc gì mình cứ cố gắng làm, không mất gì cả, bởi mình đã mất hết tất cả rồi. Cứ mỗi lần tôi gặp cơ hội là tôi làm, nhiều khi được nhiều khi không, nhưng tôi không lo bị thua, và cũng may là gia đình tôi có chú ý về vấn đề giáo dục.”
Cũng như bao người Việt khác sang xứ lạ quê người để an cư lập nghiệp, trên đường tiến thân đến thành công hôm nay, bác sĩ Tùng đã nếm trải không ít khó khăn kể cả phương diện vật chất lẫn tinh thần, từ những khó khăn ban đầu về ngôn ngữ, những cảm giác trống vắng, vương vấn với một quê hương Việt Nam bỏ lại sau lưng, cho tới những vất vả trong đời sống mưu sinh hằng ngày. Vị bác sĩ trẻ giờ đây là thành viên Ban Cố vấn Tổng thống từng một thời đi phụ việc nhà để có thêm chút tiền đỡ gánh nặng cho ba mẹ.
image

Bác sĩ Tùng kể lại:
“Tôi đi làm từ hồi 15 tuổi, vừa đi học vừa đi làm suốt thời gian trung học và đại học. Tôi làm việc trong thư viện, đi bỏ sách, đi dọn dẹp nhà người ta. Tôi nghĩ muốn tiến thân thì lúc nào cũng phải có một chút lên, một chút xuống.”
Dù theo đuổi ngành y, một trong những ngành nghề đòi hỏi nhiều thời gian nhất, nhưng bác sĩ Tùng vẫn hướng tới cộng đồng. Không những chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân, anh còn mong được phục vụ cho số đông người Mỹ gốc Việt nhiều hơn nữa, và anh đã đầu tư công sức và thời gian vào rất nhiều cuộc nghiên cứu giúp cải thiện sức khỏe cho người Việt tại Mỹ.
image
Bác Sĩ Nguyễn Thanh Tùng (trái)
Bác sĩ Tùng tâm sự:
“Ra trường y khoa, quan trọng nhất đối với tôi là chú ý giúp đỡ cho cộng đồng bắt đầu bằng công việc bác sĩ để lo cho bệnh nhân. Sau đó, tôi nhận thấy làm bác sĩ không thôi chỉ có thể lo cho một số bệnh nhân, mà cộng đồng ngoài kia có rất nhiều người cần được giúp đỡ trong khi tài liệu về nghiên cứu y khoa cho cộng đồng người Việt ở Mỹ rất ít. Cho nên, tôi chú ý và bắt đầu làm nghiên cứu thêm.”
Bác sĩ Tùng cho biết anh cũng mong được tham gia vào các cuộc nghiên cứu về sức khỏe của người Việt trong nước và các chương trình y tế ở Việt Nam khi điều kiện cho phép.
Một lời khuyên dành cho các bạn trẻ đang nghe chương trình với tư cách là một gương thành công đi trước, bác sĩ Tùng nói:
“Không bao giờ nói tôi không muốn làm việc này, hay tôi không làm được việc kia, hoặc tôi không thích làm việc nọ. Cơ hội nhiều khi mở ra cho mình những cánh cửa không biết trước được. Trong đời mình cần cơ hội mà nhiều khi cơ hội tới mà mình không biết, mình đóng cửa lại. Cơ hội nhiều khi có, nhiều khi không, nhưng vấn đề quan trọng là mình cứ tiếp tục làm những việc mình muốn làm.”
Vị bác sĩ trẻ người Việt trong Ban Cố vấn cho Tổng thống Mỹ cho rằng sự thành đạt của anh hôm nay 30% nhờ vào cơ hội và 70% là do tự lực phấn đấu cùng với ý chí kiên trì vượt khó vươn lên. Thành công của anh quả là một tấm gương đáng khâm phục để giới trẻ noi theo.

Trà Mi-VOA
Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc - 1979
Xem thêm:
Anh hùng LLVTND trong chiến tranh biên giới phía Bắc
Biên giới phía Bắc 1979-1989, những hình ảnh từ phía VN
Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979 – Wikipedia tiếng Việt

(1)
Có một nhà văn Nga đã nói : " Một dân tộc có quá nhiều anh hùng là một dân tộc bất hạnh" và Việt Nam có lẽ cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong thế kỉ 20 vừa rồi, nếu không tính các cuộc khởi nghĩa vũ trang để chống lại thực dân Pháp và đế quốc Nhật thì thời gian Việt Nam nằm trong khói lửa chiến tranh để bảo vệ quyền được sống của dân tộc là ngót nghét nửa thế kỉ (1945-1990). Về nguyên nhân của cuộc chiến tranh Việt Trung 1979-1990, cao trào của chiến tranh Đông Dương lần thứ 3, xuất phát sâu xa từ nhiều phía.

Nguyên nhân khách quan nằm ở sự đổ vỡ của quan hệ Liên Xô - Trung Quốc, vốn là 2 đồng minh Cộng Sản thân cận của Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và chiến tranh chống MỸ 1946-1975.
Năm 1953, lãnh tụ Liên Xô Stalin qua đời, Mao Trạch Đông là người lão làng nhất trong thế giới Cộng Sản nên muốn tranh giành ảnh hưởng vị trí Anh cả Đỏ với Liên Xô. Mao cũng là người tiên phong chống lại phe "Chủ nghĩa xét lại" đứng đầu là Bí thư thứ nhất Nikita Khrubshev của Đảng Cộng Sản Liên Xô.Căng thẳng dần dần lên cao dẫn tới việc đến đầu những năm 1960, Liên Xô đã rút hết hoàn toàn các chuyên gia của họ từ Trung Quốc về nước và chấm dứt trợ giúp mọi mặt cho Trung Quốc. Hai bên cũng đồng thời đồn trú quân suốt dọc tuyến biên giới dọc từ East Turkestan đến Vladivostok với số lượng đến hàng chục sư đoàn mỗi bên trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu.
Mặc dù vẫn viện trợ đều đặn cho Việt Nam suốt giai đoạn chống Mỹ nhưng đồng thời với việc nhóm lãnh đạo có khuynh hướng thân Nga trong Đảng Cộng Sản Việt Nam giai đoạn những năm 60-70 ngày càng lớn mạnh và củng cố quyền lực thì viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam cũng ngày một lớn dần so với viện trợ từ phía Trung Quốc. Đồng thời với tình đồng chí gọi là "môi hở răng lạnh" Việt-Trung cũng ngày càng nhạt dần, nhất là sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời tháng 9 năm 1969.
Căng thẳng Xô-Trung lên cao đến đỉnh điểm khi đầu tháng 3 năm 1969, Trung Quốc bất ngờ tấn công hòng chiếm đảo Damanski ( Trân Bảo) thuộc vùng Amour viễn Đông của Nga, làm khoảng 80 lính biên phòng của Liên Xô thiệt mạng.Cuộc đánh chiếm thất bại và Trung Quốc tổn thất khoảng 600 trăm lính chết và bị thương.
Tuy được sự giúp đỡ rất lớn của Trung Quốc trong chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam, các rạn nứt trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Trung Quốc đã bắt đầu thể hiện từ năm 1968. Hà Nội nhất định cùng lúc giữ mối quan hệ nồng ấm với cả Moskva lẫn Bắc Kinh trong khi mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc đã lên cao. Bất đồng quan điểm giữa Hà Nội và Bắc Kinh về cách tiến hành cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam trở nên rõ rệt. Bắc Kinh muốn Hà Nội chỉ tiếp tục chiến tranh du kích có giới hạn chống Hoa Kỳ, trong khi Hà Nội muốn tiến hành chiến tranh quy mô để thống nhất Tổ quốc của họ. Và hơn thế nữa, họ muốn trực tiếp đàm phán với Hoa Kỳ, không cần thông qua một nước nào làm trung gian. Sau sự kiện Tết Mậu Thân, Hà Nội bắt đầu đàm phán với Hoa Kỳ, trong khi đó Bắc Kinh phản đối.
Năm 1972, chuyến thăm của tổng thống Mỹ Nixon tới Bắc Kinh và thỏa thuận giữa Mỹ và Trung Quốc được Việt Nam Dân chủ Cộng hoà xem là một sự phản bội. Năm 1975, trong chuyến thăm Bắc Kinh, Lê Duẩn thẳng thừng từ chối đưa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào liên minh chống Liên Xô của Trung Quốc, phủ nhận quan niệm của Trung Quốc rằng chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô là mối đe dọa đối với các nước cộng sản châu Á. Ông rời Trung Quốc mà không tổ chức tiệc đáp lễ theo truyền thống, cũng không ký thỏa thuận chung. Cũng trong chuyến thăm này, Trung Quốc thông báo rằng sẽ không giữ mức viện trợ như đã hứa năm 1973. Bắc Kinh bắt đầu nói về một Việt Nam "hắc tâm", "vô ơn", "ngạo ngược". Viện trợ của Trung Quốc sau đó giảm mạnh và đến năm 1978 thì cắt toàn bộ. Điều kiện đầu tiên Trung Quốc đặt ra cho Việt Nam để nối lại viện trợ là phải từ chối tất cả các khoản viện trợ của Liên Xô.
Khi Việt Nam ngày càng có quan hệ chặt chẽ hơn với Liên Xô, Trung Quốc thấy mình bị đe dọa từ hai phía. Đồng thời, Việt Nam cũng đang cố gắng xây dựng mối quan hệ đặc biệt chặt chẽ giữa 3 nước Đông Dương trong đó Việt Nam giữ vị thế đứng đầu. Cùng với thực tế rằng nước Việt Nam thống nhất đã trở thành một sức mạnh quan trọng trong vùng, làm giảm ảnh hưởng của Trung Quốc. Những điều này làm cho Trung Quốc lo ngại về một "tiểu bá quyền" Việt Nam và việc bị Liên Xô bao vây từ phía Bắc. Một nước Campuchia chống Việt Nam đã trở thành một đồng minh quan trọng đối với Trung Quốc.
Quan hệ Việt Nam - Campuchia ngày càng đi xuống, thể hiện ngay từ tháng 5 năm 1975 khi Khmer Đỏ cho quân đánh chiếm các đảo Phú Quốc và Thổ Chu và bắt đi hàng trăm dân thường, lên cao trào vào những năm 1977-1978 khi Khmer Đỏ nhiều lần đánh sâu vào lãnh thổ Việt Nam tàn sát hàng chục nghìn dân thường. Trong suốt thời gian đó và cả về sau, Trung Quốc luôn là nước viện trợ đắc lực cho Khmer Đỏ về vũ khí khí tài cũng như cố vấn quân sự. Bên cạnh các nỗ lực ngoại giao không thành nhằm xoa dịu căng thẳng với Trung Quốc và Campuchia, Việt Nam tin rằng Trung Quốc đang sử dụng Campuchia để tấn công Việt Nam.
Từ năm 1973, Liên Hiệp Quốc bắt đầu thảo luận về vấn đề chủ quyền của các quốc gia đối với vùng đặc quyền kinh tế trên biển. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định tuyên bố chủ quyền với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dựa theo hiệp ước Pháp-Thanh kí kết năm 1887. Về phía Trung Quốc, với cuộc khủng hoảng dầu lửa những năm 1970 nước này đã tìm kiếm các nguồn khai thác dầu mỏ trên biển Đông sát với Việt Nam, một hành động mà theo Việt Nam là chiến lược bao vây đất nước họ. Tranh chấp giữa hai nước về hai quần đảo này đã bắt đầu ngay từ năm 1975 sau khi Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo này.
Một lý do nữa khiến căng thẳng Việt Nam - Trung Quốc leo thang đó là vấn đề Hoa kiều tại Việt Nam. Trước năm 1975, có khoảng 1,5 triệu người gốc Hoa sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, 15% sống ở phía Bắc vĩ tuyến 17 và 85% còn lại sinh sống ở miền Nam Việt Nam. Người Hoa đặc biệt có ảnh hưởng ở miền Nam Việt Nam, nơi họ hoạt động mạnh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm đưa ra chính sách buộc người Hoa phải nhập quốc tịch Việt Nam hoặc họ sẽ bị trục xuất khỏi lãnh thổ, ngược lại, Hà Nội và Bắc Kinh đồng ý trên nguyên tắc về việc cho phép Hoa kiều tự chọn lựa quốc tịch của mình. Chính sách của Việt Nam từ năm 1976 đã bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi nhanh chóng của mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, với nỗi e ngại rằng Trung Quốc có thể sử dụng Hoa kiều để ép Việt Nam theo các chính sách của mình. Vấn đề Hoa kiều được chính phủ Việt Nam xem là một thử thách đối với chủ quyền quốc gia hơn là một vấn đề nội bộ đơn thuần.Chính sách một quốc tịch bắt đầu, Hoa kiều nếu không nhập quốc tịch Việt Nam sẽ bị cho thôi việc, các báo và cơ sở giáo dục tiếng Hoa cũng bị đóng cửa. Từ năm 1977 đã có 70.000 Hoa kiều từ Việt Nam quay về Trung Quốc. Cho đến thời điểm xảy ra cuộc chiến đã có chừng 160.000 Hoa kiều hồi hương từ Việt Nam bằng đường biển hoặc đường bộ qua Cửa khẩu Hữu Nghị.
Tuyên bố chủ quyền của nước Việt Nam thống nhất năm 1975 đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; cách ứng xử của Việt Nam đối với người Việt gốc Hoa; và cố gắng của Việt Nam trong việc xây dựng quan hệ chặt chẽ giữa ba nước Đông Dương được Bắc Kinh xem là nỗ lực nhằm thống trị Đông Dương và là ví dụ về sự hỗn xược của Việt Nam. Từ tháng 8 năm 1975, Trung Quốc bắt đầu giảm mạnh viện trợ kinh tế cho Việt Nam, cắt hoàn toàn vào tháng 6 năm 1978. Cũng năm 1975, Trung Quốc cho Campuchia vay không lấy lãi 1 tỷ USD và kí kết một hiệp ước quân sự bí mật với chính quyền Khmer Đỏ vào tháng 2 năm 1976. Chính sách ngoại giao của Trung Quốc với khu vực Đông Nam Á cũng được thay đổi theo hướng tăng cường quan hệ với khối ASEAN vốn ở thế đối đầu với các chính quyền cộng sản Đông Dương đồng thời cắt bỏ viện trợ của nước này đối với các đảng cộng sản ở Đông Nam Á.
Cuối năm 1978, căng thẳng giữa Việt Nam với cả Campuchia cũng như Trung Quốc đều lên một đỉnh mới.
Ngày 23 tháng 12 năm 1978, Quân đội Việt Nam tổng phản công trên biên giới Tây Nam, đánh sang Campuchia lật đổ chính quyền Khmer Đỏ. Trung Quốc có được lý do để tuyên bố về cuộc chiến chống Việt Nam sắp tiến hành. Việc Trung Quốc lựa chọn thời điểm tấn công Việt Nam cũng hết sức thuận lợi cho Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình vừa kết thúc chuyến công du sang Mỹ, cùng với việc ông ta lớn tiếng đe dọa "dạy cho Việt Nam một bài học", Trung Quốc tỏ ra họ có được hậu thuẫn từ Hoa Kỳ, hoặc ít nhất là Mỹ cũng im lặng tán thành. Ngoài ra việc Trung Quốc cắt nguồn viện trợ dầu cho Việt Nam vào cuối năm 1978, vốn chiếm tới hơn một nửa tiêu thụ dầu của Việt Nam, trong khi Liên Xô chưa kịp viện trợ bổ sung, cũng khiến dự trữ dầu chiến lược của Việt Nam bị thiếu hụt trong thời điểm quyết định khi quân Trung Quốc tấn công.
Thêm vào đó, việc Trưởng Ngân khố Mỹ Blumenthal của chính quyền Carter viếng thăm Trung Quốc vào 24 tháng 2 cũng có tác dụng như một lời khuyến khích ngầm Trung Quốc, và có tác dụng phụ đảm bảo với Trung Quốc tình hình tại vùng duyên hải Phúc Kiến đối diện với Đài Loan sẽ yên tĩnh trong thời gian đầu năm 1979, khiến Trung Quốc có thể yên tâm tái bố trí các lực lượng tại Phúc Kiến về hướng biên giới phía nam với Việt Nam.
Với lý do cần kinh phí để hỗ trợ Hoa kiều hồi hương, tháng 5 năm 1978, lần đầu tiên Trung Quốc tuyên bố cắt một phần viện trợ không hoàn lại đã ký cho Việt Nam và rút bớt chuyên gia về nước. Tháng 7, Trung Quốc tuyên bố cắt hết viện trợ và rút hết chuyên gia đang làm việc tại Việt Nam về nước. Tháng 11 năm 1978 Việt Nam ký "hiệp ước hữu nghị và hợp tác" với Liên Xô. Ngày 22 tháng 12 năm 1978, Trung Quốc ngừng tuyến xe lửa liên vận tới Việt Nam. Đầu tháng 1 năm 1979, đường bay Bắc Kinh - Hà Nội cũng bị cắt.
Trong khi đó, Đặng Tiểu Bình nổi lên trở thành người lãnh đạo quyền lực nhất Trung Quốc. Đặng nhìn thấy cả rắc rối lẫn cơ hội trong mối quan hệ khó khăn với Việt Nam và cho rằng cách tốt nhất để nắm lấy những cơ hội này là một hành động quân sự. Trong chuyến thăm Đông Nam Á tháng 12 năm 1978, tại một cuộc trả lời phỏng vấn được Trung Quốc truyền hình trực tiếp, Đặng Tiểu Bình tuyên bố: "Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học" mà ngày hôm sau báo chí chính thức của Trung Quốc cắt ngắn thành "phải dạy cho Việt Nam bài học" Viện cớ điều khoản trong Hiệp định tương trợ Việt-Xô 1978 có ghi "một trong hai bên sẽ sử dụng các biện pháp có thể để trợ giúp nước kia trong trường hợp một trong hai nước bị tấn công", Đặng lu loa Việt Nam âm mưu tiểu bá Đông Dương, cấu kết với Liên Xô hình thành thế bao vây Trung Quốc.
Ngoài ra, theo một số nhà nghiên cứu quân sự Tây phương, về mặt chiến lược, Trung Quốc thử nghiệm một cuộc chiến tranh biên giới có giới hạn để thăm dò khả năng tương trợ của Liên Xô, sau khi Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế (SEV), và ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô (1978), trong đó có điều khoản về tương trợ quân sự. Nếu thỏa ước này được tuân thủ nghiêm ngặt, theo nhận định của Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, nó sẽ là hiểm họa quốc phòng lớn vì đặt Trung Quốc vào tình thế lưỡng đầu thọ địch khi xảy ra chiến tranh với Việt Nam hoặc Liên Xô.
Về phía Liên Xô, nguy cơ bị cô lập về ngoại giao sau khi quan hệ Trung Quốc - Hoa Kỳ trở nên nồng ấm khiến Moskva buộc phải tìm cách tăng cường quan hệ đối với Việt Nam. Viện trợ kinh tế của Liên Xô cho Việt Nam tăng đều từ năm 1975 đến 1979 từ 450 triệu USD lên 1,1 tỷ USD, viện trợ quân sự cũng tăng mạnh do sự kiện xung đột Việt Nam Campuchia (từ 125 triệu USD năm 1977 lên 600 triệu năm 1978 và 890 triệu năm 1979).
Lấy cớ là "phản công tự vệ", Đặng huy động hai Đại quân khu Quảng Tây và Đại quân khu Côn Minh với quân số tổng cộng lên đến 600.000 người lúc đó trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu.Mục đích là để trực tiếp buộc quân chính quy của Việt Nam đang đóng tại Campuchia phải rút về phòng thủ tuyến biên giới phía bắc để cứu nguy cho chính quyền diệt chủng Polpot, đồng thời trong khả năng có thể sẽ tiến chiếm Hà Nội để dựng lên một chính quyền thân Trung Quốc do tên phản động Hoàng Văn Hoan lúc này đang tị nạn ở Trung Quốc đứng đầu, thay cho chính quyền của TBT Lê Duẩn.Đặng huênh hoang tuyên bố trên truyền thông trước khi mở màn chiến dịch : " Trung Quốc sẽ ăn sáng tại Hà Nội, ăn trưa tại Huế và ăn tối tại Sài Gòn

(2)
Nhiều nhà sử học phương Tây cho rằng cuộc chiến có những mục đích không rõ ràng, trong đó dễ thấy nhất là mục đích trừng phạt Việt Nam vì đã lật đổ chế độ Khmer Đỏ tại Campuchia - một đồng minh của Trung Quốc và là một trong những chế độ tàn bạo nhất của thế kỉ 20. Về sau, một số nhà sử học suy đoán rằng cuộc chiến có vẻ là một phần trong kế hoạch hiện đại hóa quân đội của Đặng Tiểu Bình khi nó thể hiện rõ các khiếm khuyết của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Những người khác cho rằng Đặng Tiểu Bình gây ra chiến tranh để giữ cho quân đội bận rộn trong khi ông củng cố quyền lực và loại bỏ các đối thủ cánh tả từ thời Mao Trạch Đông.

Lực lượng quân đội Trung Quốc
Lực lượng chính trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam tháng 2 năm 1979 là 9 quân đoàn chủ lực và các đơn vị binh chủng. Cụ thể :
- Quân đoàn 11 gồm 3 sư đoàn bộ binh (31, 32, 33) và trung đoàn pháo binh, phòng không.
- Quân đoàn 13 gồm 3 sư đoàn bộ binh (37, 38, 39) và trung đoàn pháo binh, phòng không.
- Quân đoàn 14 gồm 3 sư đoàn bộ binh (40, 41, 42) và trung đoàn pháo binh, phòng không.
- Quân đoàn 41 gồm 3 sư đoàn bộ binh (121, 122, 123) và trung đoàn pháo binh, phòng không, xe tăng.
- Quân đoàn 42 gồm 3 sư đoàn bộ binh (124, 125, 126) và trung đoàn pháo binh, phòng không, xe tăng.
- Quân đoàn 43 gồm 3 sư đoàn bộ binh (127, 128, 129) và trung đoàn pháo binh, phòng không, xe tăng.
- Quân đoàn 50 gồm 3 sư đoàn bộ binh (148, 149, 150) và trung đoàn pháo binh, phòng không, xe tăng.
- Quân đoàn 54 gồm 3 sư đoàn bộ binh (160, 161, 162) và trung đoàn pháo binh, phòng không, xe tăng.
- Quân đoàn 55 gồm 3 sư đoàn bộ binh (163, 164, 165) và trung đoàn pháo binh, phòng không, xe tăng.
- Sư đoàn bộ binh 58 (quân đoàn 20).
- Sư đoàn bộ binh địa phương của tỉnh Quảng Tây.
- Sư đoàn pháo binh số 1.
- Sư đoàn pháo binh số 7.
- Sư đoàn phòng không 65.
- Sư đoàn phòng không 70.
- Trung đoàn xe tăng độc lập của quân khu Côn Minh.
Tổng cộng lực lượng được huy động cho chiến dịch là 28 sư đoàn bộ binh, 2 sư đoàn và 39 trung đoàn pháo binh, 7 trung đoàn và 1 tiểu đoàn xe tăng, 2 sư đoàn phòng không, ngoài ra còn có nhiều trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh địa phương, biên phòng, các đơn vị binh chủng (công binh, thông tin, vận tải…), lực lượng dân binh tham gia trực tiếp chiến đấu và hỗ trợ chiến đấu. Một số sư đoàn không quân và hải quân của hạm đội Nam Hải cũng được lệnh sẵn sàng phía sau.
Các lực lượng trên chủ yếu được lấy từ 2 quân khu Quảng Châu và Côn Minh, nhưng cũng có các đơn vị của các quân khu khác như Thành Đô, Thẩm Dương… tham gia tăng cường.
Lực lượng trên hướng Quảng Tây do tướng Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou) - tư lệnh quân khu Quảng Châu chỉ huy có 18 sư đoàn bộ binh, 6 trung đoàn xe tăng và các đơn vị binh chủng khác, đảm nhiệm tiến công các tỉnh biên giới Đông Bắc của Việt Nam. Cụ thể :
- Hướng Lạng Sơn có 7 sư đoàn bộ binh : 127, 128, 148, 161, 163, 164, 165.
- Hướng Cao Bằng có 10 sư đoàn bộ binh : 58, 121, 122, 123, 124, 125, 126, 129, 150, 160, 162.
- Hướng Quảng Ninh có 1 sư đoàn bộ binh địa phương của tỉnh Quảng Tây.
Lực lượng trên hướng Vân Nam do tướng Dương Đắc Chí (Yang Dezhi) - tư lệnh quân khu Côn Minh chỉ huy có 10 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng và các đơn vị binh chủng khác, đảm nhiệm tiến công các tỉnh biên giới Tây Bắc của Việt Nam. Cụ thể :
- Hướng Hoàng Liên Sơn (Lào Cai) có 8 sư đoàn bộ binh : 32, 37, 38, 39, 40, 41, 42, 149.
- Hướng Lai Châu có 2 sư đoàn bộ binh : 31, 33.
- Hướng Hà Tuyên (Hà Giang) có trung đoàn biên phòng 12 cùng lực lượng dân binh.
Về biên chế, mỗi quân đoàn TQ có quân số lý thuyết khoảng 50.000 người, gồm 3 sư đoàn bộ binh (mỗi sư đoàn có quân số lý thuyết khoảng 13.000 người, gồm 3 trung đoàn bộ binh và 1 trung đoàn pháo binh), 1 trung đoàn pháo binh, 1 trung đoàn cao xạ và 1 trung đoàn xe tăng. Riêng trong chiến dịch 1979 thì các quân đoàn 11, 13, 14 không có trung đoàn xe tăng. Trong quá trình chiến đấu một số đơn vị được tăng cường, ví dụ như quân đoàn 13, quân đoàn 55 được tăng cường thêm tới 5 trung đoàn pháo binh, nâng tổng số lên 9 trung đoàn pháo binh cho mỗi quân đoàn (so với 4 trong biên chế chuẩn).
Các tài liệu VN ước tính lực lượng được phía TQ huy động là 600.000 người, 550 xe tăng, 1.700-2.500 khẩu pháo.

Lực lượng Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
Về phía Việt Nam, do phần lớn các quân đoàn chính quy (3 trong số 4 quân đoàn) đang chiến đấu ở Campuchia nên phòng thủ ở biên giới với Trung Quốc chỉ có một số sư đoàn chủ lực quân khu (chủ yếu là tân binh) của Quân khu I và II cùng các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện, công an vũ trang (biên phòng) và dân quân tự vệ. Lực lượng tinh nhuệ nhất của phía Việt Nam đóng ở biên giới Việt-Trung là Sư đoàn 3 (đóng tại Lạng Sơn) và sư đoàn 316A (đóng tại Sa Pa),
Lực lượng tham chiến của Việt Nam là các đơn vị thuộc Quân khu 1 (tư lệnh thiếu tướng Đàm Quang Trung) và Quân khu 2 (tư lệnh thiếu tướng Vũ Lập), gồm các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, công an vũ trang (bộ đội biên phòng), dân quân tự vệ và nhân dân 6 tỉnh biên giới Lai Châu, Hoàng Liên Sơn (Lào Cai), Hà Tuyên (Hà Giang), Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh. Cụ thể :

Trên mặt trận biên giới Đông Bắc – Quân khu 1 :
- Lạng Sơn :
Bộ đội chủ lực có sư đoàn bộ binh 3 (eBB2, eBB12, eBB141, ePB68) trên hướng Đồng Đăng và sư đoàn bộ binh 338 (eBB460, eBB461, eBB462, ePB208) trên hướng Đình Lập.
Lực lượng vũ trang địa phương có trung đoàn bộ binh 123 trên hướng Lộc Bình và trung đoàn bộ binh 199 trên hướng Thất Khê, tiểu đoàn pháo binh tỉnh, cùng một số tiểu đoàn, đại đội địa phương huyện và lực lượng dân quân tự vệ.
Lực lượng công an vũ trang có trung đoàn công an vũ trang cơ động 12, đại đội cơ động tỉnh và các đồn công an biên phòng dọc biên giới.
Trên hướng Lạng Sơn còn có các đơn vị binh chủng khác như tiểu đoàn 3 pháo M46 130mm (lữ đoàn pháo binh 675, BTL Pháo binh), trung đoàn pháo binh 166 (Quân khu 1), trung đoàn phòng không 272 (Quân khu 1), một bộ phận của trung đoàn xe tăng 407 (Quân khu 1) và các đơn vị công binh, thông tin, vận tải…
Trong chiến đấu, Lạng Sơn được tăng cường các lực lượng từ tuyến sau như : sư đoàn bộ binh 327 (eBB42, eBB54, eBB75, ePB120) phòng thủ ở Lộc Bình, sư đoàn bộ binh 337 (eBB4, eBB52, eBB92, ePB108) ở thị xã Lạng Sơn; trung đoàn bộ binh 196 ở Đình Lập cùng một số tiểu đoàn bộ binh; trung đoàn pháo binh 204 (pháo phản lực BM-21) và tiểu đoàn 2 pháo D74 122mm (lữ đoàn pháo binh 675, BTL Pháo binh) chi viện cho hướng thị xã Lạng Sơn và tiểu đoàn 10 pháo M30 122mm (ePB54/fBB320B/QĐ1) chi viện hướng Đình Lập; một bộ phận của tiểu đoàn phun lửa 902 (trung đoàn phòng hoá 86, BTL Hoá học), cùng một số đơn vị binh chủng khác.
- Cao Bằng :
Bộ đội chủ lực có sư đoàn bộ binh 346 (eBB246, eBB677, eBB851, ePB188) phòng thủ ở Trà Lĩnh, Hà Quảng, Hoà An. Ngoài ra có tiểu đoàn đặc công 45 (BTL Đặc công) tham gia phòng ngự và cơ động tập kích địch.
Lực lượng vũ trang địa phương có trung đoàn bộ binh 567 ở Quảng Hoà và trung đoàn bộ binh 852 ở khu vực Tài Hồ Xìn, tiểu đoàn pháo binh tỉnh, cùng các tiểu đoàn, đại đội địa phương huyện và lực lượng dân quân tự vệ.
Lực lượng công an vũ trang có đại đội cơ động tỉnh và các đồn công an biên phòng dọc biên giới.
Trong chiến đấu Cao Bằng được tăng cường trung đoàn bộ binh 529 (fBB311), trung đoàn bộ binh 183, tiểu đoàn 1 pháo D74 122mm (lữ đoàn pháo binh 675), tiểu đoàn đặc công 20, một số tiểu đoàn bộ binh - trong đó có 1 tiểu đoàn thuộc trung đoàn bộ binh 111 (fBB325/QĐ2) vừa từ chiến trường CPC trở về, và các đơn vị binh chủng.
- Quảng Ninh :
Bảo vệ Quảng Ninh có sư đoàn bộ binh 325B (eBB8, eBB41, eBB288, ePB189) ở Bình Liêu, trung đoàn bộ binh 43, các đơn vị công an vũ trang biên phòng, các tiểu đoàn, đại đội bộ đội địa phương tỉnh, huyện và lực lượng dân quân tự vệ.

Trên mặt trận biên giới Tây Bắc – Quân khu 2 :
- Hoàng Liên Sơn :
Bộ đội chủ lực có sư đoàn bộ binh 345 (eBB118, eBB121, eBB124, ePB190) trên hướng Lào Cai, khi xảy ra chiến đấu có sư đoàn bộ binh 316 thiếu (eBB148, eBB174, ePB187) cơ động về phòng thủ ở Sa Pa.
Lực lượng vũ trang địa phương có 2 trung đoàn bộ binh 192 và 254, tiểu đoàn pháo binh tỉnh, các tiểu đoàn, đại đội địa phương huyện và lực lượng dân quân tự vệ.
Lực lượng công an vũ trang có trung đoàn công an vũ trang cơ động 16 ở Mường Khương, đại đội cơ động tỉnh và các đồn công an biên phòng dọc biên giới.
Các đơn vị binh chủng có bộ phận của lữ đoàn pháo binh 368 (BTL Pháo binh), trung đoàn pháo binh 168 (Quân khu 2), trung đoàn phòng không 256 (Quân khu 2), các đơn vị công binh, thông tin, vận tải….
Trong chiến đấu Hoàng Liên Sơn được tăng cường lữ đoàn pháo binh 368 (BTL Pháo binh) và một số đơn vị bộ binh, binh chủng.
- Lai Châu :
Hướng chiến đấu chủ yếu là Phong Thổ có một bộ phận của sư đoàn bộ binh 326 (eBB19, eBB46, eBB541, ePB200) và trung đoàn bộ binh 98 (fBB316), một bộ phận trung đoàn pháo binh 187 (fBB316), 2 trung đoàn bộ binh 193 và 741, tiểu đoàn pháo binh tỉnh, các đơn vị công an vũ trang, các tiểu đoàn, đại đội bộ đội địa phương huyện và lực lượng dân quân tự vệ. Trong chiến đấu cũng được tăng cường thêm một số đơn vị bộ binh, binh chủng.
- Hà Tuyên :
Trên hướng này chỉ diễn ra các trận tập kích nhỏ của địch (chủ yếu vào các đồn biên phòng), các đơn vị đã tham gia đánh trả là bộ phận thuộc trung đoàn bộ binh 122 cùng các tiểu đoàn, đại đội bộ đội địa phương, các đơn vị công an vũ trang và lực lượng dân quân tự vệ.
Trong toàn bộ cuộc chiến, đã có 2 sư đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn pháo binh nòng dài, 2 tiểu đoàn đặc công và 25 tiểu đoàn dự nhiệm do các tỉnh tổ chức được đưa lên mặt trận làm nhiệm vụ chiến đấu hoặc sẵn sàng chiến đấu.
Ở phía sau, lực lượng của Quân đoàn 1 và Quân đoàn 2 (vừa từ chiến trường CPC về) đã được triển khai. Các đơn vị không quân cũng đã sẵn sàng nhưng về cơ bản các đơn vị này đều chưa tham chiến.

***
Từ tháng 10 năm 1978 cho đến 15 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc thực hiện hàng loạt các vụ tấn công thăm dò vào các vị trí phòng thủ của Việt Nam tại biên giới, với mục đích thu thập thông tin tình báo, đe dọa quân Việt Nam, và đánh lạc hướng khỏi mục tiêu chính của chiến dịch sắp tới. Các cuộc tấn công nhỏ này tăng dần về quy mô và tần số khi lực lượng Trung Quốc tập trung tại biên giới ngày càng đông. Không có tài liệu gì về các cuộc tấn công thăm dò của quân Việt Nam. Dấu hiệu đầu tiên của chiến tranh là việc Trung Quốc cắt đứt tuyến đường sắt Hữu Nghị nối liền hai nước vào ngày 22 tháng 12 năm 1978. Đến cuối tháng 1 năm 1979, khoảng 17 sư đoàn chính quy Trung Quốc (khoảng 225.000 quân), đã tập trung gần biên giới với Việt Nam. Hơn 700 máy bay chiến đấu và máy bay ném bom - 1/5 lực lượng không quân Trung Quốc - đã được đưa đến các sân bay gần biên giới. Các động thái leo thang này của Trung Quốc đã được phía Việt Nam đề cập tại cuộc họp của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc ngày 11 tháng 2 năm 1979.
Ngày 7 tháng 2, Bắc Kinh báo trước về một chiến dịch tấn công Việt Nam với thông cáo chính thức của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phản đối việc quân đội Việt Nam tiến vào lãnh thổ Campuchia và đề nghị tất cả các quốc gia yêu hòa bình "dùng mọi biện pháp có thể để chấm dứt cuộc xâm lược dã man này". Về mặt ngoại giao, sau khi bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ từ tháng 12 năm 1978, trong chuyến thăm Washington từ 28 đến 30 tháng 1, Đặng Tiểu Bình nhận được sự ủng hộ cần thiết của đồng minh mới Hoa Kỳ trong kế hoạch tấn công Việt Nam, tuy nhiên tổng thống Jimmy Carter cũng cảnh báo Đặng rằng vụ tấn công của Trung Quốc, nếu xảy ra, sẽ không thể nhận được sự ủng hộ về mặt ngoại giao hoặc quân sự quốc tế.
Ngày 15 tháng 2 năm 1979, nhân dịp 29 năm hiệp ước Trung-Xô về vấn đề Mông Cổ và thời điểm kết thúc chính thức Hiệp ước hợp tác Trung-Xô, Đặng Tiểu Bình tuyên bố Trung Quốc chuẩn bị tấn công giới hạn Việt Nam. Để cảnh báo Liên Xô và cũng nhằm ngăn chặn bị tấn công từ hai mặt, Trung Quốc đặt toàn bộ quân đội đóng dọc biên giới Trung-Xô vào tình trạng báo động đồng thời thiết lập một sở chỉ huy quân đội mới ở Tân Cương và di tản 300.000 dân khỏi vùng biên giới với Liên Xô.
Để đối phó lại việc Trung Quốc tập trung bộ binh và vũ khí hạng nặng tại biên giới, cũng như việc các cuộc đột kích vũ trang ngày càng gia tăng, Việt Nam tiến hành chuẩn bị các vị trí phòng ngự, chuẩn bị tinh thần dân chúng sẵn sàng một khi chiến tranh xảy ra. Tuy nhiên Việt Nam tại thời điểm đó vẫn tin rằng Trung Quốc sẽ không tấn công, vì Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa anh em. Thêm nữa, Việt Nam tin rằng đa phần nhân dân Trung Quốc không ủng hộ chiến tranh và sẽ phản đối chiến tranh nổ ra. Ngoài ra, tuyên bố của Đặng Tiểu Bình chỉ một tuần trước khi chiến tranh nổ ra, rằng chiến dịch quân sự của PLA (Quân đội giải phóng nhân dân: People liberation army) sẽ không dài hơn cuộc chiến 1962 với Ấn Độ, cộng với các tuyên bố của Đặng trước đó rằng chiến dịch quân sự này "giới hạn về không gian và thời gian", khiến Hà Nội tin tưởng họ có khả năng cầm chân quân Trung Quốc tại các tỉnh biên giới.
Lực lượng Việt Nam đương đầu với cuộc tấn công của Trung Quốc chủ yếu là dân quân và bộ đội địa phương. Từ vài tháng trước khi chiến tranh nổ ra, Hà Nội đã tiến hành huấn luyện và trang bị vũ khí hạng nhẹ cho dân quân tại các tỉnh biên giới. Chỉ có một số đơn vị quân chính qui tham gia chiến trận, nhất là các đơn vị phòng thủ Lạng Sơn, nhưng ngay cả tại đây, lực lượng chủ yếu vẫn là dân quân và quân địa phương. Hà Nội giữ lại 5 sư đoàn chủ lực ở tuyến sau đề phòng Trung Quốc tiến sâu về đồng bằng, và đồng thời cũng để giới hạn việc cuộc chiến leo thang

(3)
5 giờ sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, lực lượng Trung Quốc khoảng 120.000 quân bắt đầu tiến vào Việt Nam trên toàn tuyến biên giới, mở đầu là pháo, tiếp theo là xe tăng và bộ binh. Cánh phía Đông có sở chỉ huy tiền phương đặt tại Nam Ninh và mục tiêu chính là Lạng Sơn. Có hai hướng tiến song song, hướng thứ nhất do quân đoàn 42A dẫn đầu từ Long Châu đánh vào Đồng Đăng nhằm làm bàn đạp đánh Lạng Sơn, hướng thứ hai do quân đoàn 41A dẫn đầu từ Tĩnh Tây và Long Châu tiến vào Cao Bằng và Đông Khê. Ngoài ra còn có quân đoàn 55A tiến từ Phòng Thành vào Móng Cái. Cánh phía Tây có sở chỉ huy tiền phương đặt tại Mông Tự, có 3 hướng tiến công chính.

Hướng thứ nhất do các quân đoàn 13A và 11A dẫn đầu đánh từ vào thị xã Lào Cai. Hướng thứ hai từ Văn Sơn đánh vào Hà Giang. Hướng thứ 3 do sư đoàn 42D của quân đoàn 14A dẫn đầu đánh từ Kim Bình vào Lai Châu. Tổng cộng quân Trung Quốc xâm nhập Việt Nam trên 26 điểm, các khu vực dân cư Việt Nam chịu thiệt hại nặng nhất từ đợt tấn công đầu tiên này là Lào Cai, Mường Khương, Cao Bằng, Lạng Sơn và Móng Cái.
Không quân và hải quân không được sử dụng trong toàn bộ cuộc chiến. Tất cả các hướng tấn công đều có xe tăng, pháo binh hỗ trợ. Quân Trung Quốc vừa chiếm ưu thế về lực lượng, vừa chủ động về thời gian tiến công, lại còn có "lực lượng thứ năm" gồm những người Việt gốc Hoa cài cắm từ lâu trên đất Việt Nam. Từ đêm 16 tháng 2, các tổ thám báo Trung Quốc đã mang theo bộc phá luồn sâu vào nội địa Việt Nam móc nối với "lực lượng thứ năm" này lập thành các toán vũ trang phục sẵn các ngã ba đường, bờ suối, các cây cầu để ngăn chặn quân tiếp viện của Việt Nam từ phía sau lên. Trước giờ nổ súng, các lực lượng này cũng bí mật cắt các đường dây điện thoại để cô lập chỉ huy sư đoàn với các chốt, trận địa pháo.
Tiến nhanh lúc khởi đầu, nhưng quân Trung Quốc nhanh chóng phải giảm tốc độ do gặp nhiều trở ngại về địa hình và hệ thống hậu cần lạc hậu phải dùng lừa, ngựa và người thồ hàng.[46] Hệ thống phòng thủ của Việt Nam dọc theo biên giới rất mạnh, với các hầm hào hang động tại các điểm cao dọc biên giới do lực lượng quân sự có trang bị và huấn luyện tốt trấn giữ. Kết quả là Trung Quốc phải chịu thương vong lớn. Trong ngày đầu của cuộc chiến, chiến thuật dùng biển lửa và biển người của Trung Quốc đã có kết quả tốt, họ tiến được vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam hơn 10 dặm và chiếm được một số thị trấn. Chiến sự ác liệt nhất diễn ra tại các vùng Bát Xát, Mường Khương ở Tây Bắc và Đồng Đăng, cửa khẩu Hữu Nghị, Thông Nông ở Đông Bắc. Quân Trung Quốc cũng đã vượt sông Hồng và đánh mạnh về phía Lào Cai.
Trong hai ngày 18 và 19 tháng 2, chiến sự lan rộng hơn. Việt Nam kháng cự rất mạnh và với tinh thần chiến đấu cao. Quân Trung Quốc hầu như không thể sử dụng lực lượng ở mức sư đoàn mà phải dùng đội hình nhỏ và thay đổi chiến thuật. Họ tiến chậm chạp, giành giật từng đường hầm, từng điểm cao, và cuối cùng cũng chiếm được Mường Khương, Trùng Khánh, và Đồng Đăng. Tại Móng Cái, hai bên giành giật dai dẳng. Cả hai bên đều phải chịu thương vong cao, có ít nhất 4.000 lính Trung Quốc chết trong hai ngày đầu này. Sau hai ngày chiến tranh, quân Trung Quốc đã chiếm được 11 làng mạc và thị trấn, đồng thời bao vây Đồng Đăng, thị trấn có vị trí then chốt trên đường biên giới Trung-Việt.
Trận chiến tại Đồng Đăng bắt đầu ngay từ ngày 17 và là trận ác liệt nhất. Đây là trận địa phòng thủ của Trung đoàn 12 Tây Sơn, Sư đoàn 3 Sao Vàng, Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tấn công vào Đồng Đăng là 2 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng, và chi viện của 6 trung đoàn pháo binh Trung Quốc. Cụm điểm tựa Thâm Mô, Pháo Đài, 339 tạo thế chân kiềng bảo vệ phía Tây Nam thị xã Đồng Đăng, do lực lượng của 2 tiểu đoàn 4, 6, Trung đoàn 12 trấn giữ, bị Trung Quốc bao vây và tấn công dồn dập ngay từ đầu với lực lượng cấp sư đoàn. Lực lượng phòng thủ không được chi viện nhưng đã chiến đấu đến những người cuối cùng, trụ được cho đến ngày 22. Ngày cuối cùng tại Pháo Đài, nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, không gọi được đối phương đầu hàng, quân Trung Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn đạn hóa chất độc vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng cả thương binh cũng như dân quanh vùng đến đây lánh nạn.
Ngày 19 tháng 2, Đặng Tiểu Bình trong cuộc gặp với giới ngoại giao Argentina tuyên bố đây là cuộc chiến tranh hạn chế và Trung Quốc sẽ rút quân ngay sau khi đạt được mục tiêu giới hạn, Cùng ngày, nhóm cố vấn quân sự cao cấp của Liên Xô tới Hà Nội để gặp các tướng lĩnh chỉ huy của Việt Nam. Moskva yêu cầu Trung Quốc rút quân. Liên Xô cũng viện trợ gấp vũ khí cho Việt Nam qua cảng Hải Phòng, đồng thời dùng máy bay vận tải chuyển một số sư đoàn chủ lực của Việt Nam từ Campuchia về.
Đến 21 tháng 2, Trung Quốc tăng cường thêm 2 sư đoàn và tiếp tục tấn công mạnh hơn nữa. Ngày 22, các thị xã Lào Cai và Cao Bằng bị chiếm. Quân Trung Quốc chiếm thêm một số vùng tại Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, và Quảng Ninh. Chiến sự lan rộng tới các khu đô thị ven biển ở Móng Cái. Về phía Việt Nam, cùng lúc với việc triển khai phòng ngự quyết liệt, khoảng từ 3 đến 5 sư đoàn (gồm 30.000 quân) cũng được giữ lại để thành lập một tuyến phòng ngự cánh cung từ Yên Bái tới Quảng Yên với nhiệm vụ bảo vệ Hà Nội và Hải Phòng.
Ngày 23 tháng 2, Đặng Tiểu Bình nhắc lại tuyên bố về "cuộc chiến tranh hạn chế" và nói sẽ rút quân trong vòng 10 ngày hoặc hơn. Đây được xem là thông điệp nhằm ngăn Liên Xô can thiệp quân sự, đáp lại kêu gọi rút quân của Mỹ, xoa dịu các nước đang lo ngại về một cuộc chiến lớn hơn, và gây khó hiểu cho Việt Nam. Trong khi đó, một tuần dương hạm Sverdlov và một khu trục hạm Krivak của Liên Xô đã rời cảng từ ngày 21 tiến về phía vùng biển Việt Nam. Liên Xô cũng đã bắt đầu dùng máy bay giúp Việt Nam chở quân và vũ khí ra Bắc. Hai chuyến bay đặc biệt của Liên Xô và Bulgaria chở vũ khí khí tài bay tới Hà Nội. Một phái đoàn quân sự của Liên Xô cùng từ Moskva bay tới Hà Nội.
Ngày 25 tháng 2, tại Mai Sao, Quân đoàn 14 thuộc Quân khu 1, Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng Bộ chỉ huy thống nhất Lạng Sơn được thành lập, lực lượng bao gồm các sư đoàn 3, 327, 338, 337 (đang từ quân khu 4 ra) và sau này có thêm sư đoàn 347 cùng các đơn vị trực thuộc khác.
Trong giai đoạn đầu đến ngày 28 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, và một số thị trấn. Các cơ sở vật chất, kinh tế ở những nơi này bị phá hủy triệt để. Tuy nhiên, do vấp phải sự phòng ngự có hiệu quả của Việt Nam cũng như có chiến thuật lạc hậu so với phía Việt Nam nên quân Trung Quốc tiến rất chậm và bị thiệt hại nặng. Quân Việt Nam còn phản kích đánh cả vào hai thị trấn biên giới Ninh Minh (Quảng Tây) và Malipo (Vân Nam) của Trung Quốc, nhưng chỉ có ý nghĩa quấy rối.
Giai đoạn 2 bắt đầu từ ngày 27 tháng 2. Chiến sự tập trung tại Lạng Sơn tuy giao tranh tại Lào Cai, Cao Bằng, và Móng Cái vẫn tiếp diễn. Trận đánh chiếm thị xã Lạng Sơn bắt đầu lúc 6 giờ sáng cùng ngày. Trung Quốc điều tới đây thêm 2 sư đoàn từ Đồng Đăng và Lộc Bình (phía Đông Nam Lạng Sơn), tiếp tục đưa thêm quân mới từ Trung Quốc thâm nhập Việt Nam để tăng viện. Tại Lạng Sơn, các Sư đoàn 3, 337, của Việt Nam đã tổ chức phòng thủ chu đáo và phản ứng mãnh liệt trước các đợt tấn công lớn của quân Trung Quốc. Từ ngày 2 tháng 3, Sư đoàn 337 trụ tại khu vực cầu Khánh Khê. Sư đoàn 3 chống trả 3 sư đoàn bộ binh 160, 161, 129, cùng nhiều tăng, pháo, tiến công trên một chiều dài 20 km từ xã Hồng Phong huyện Văn Lãng đến xã Cao Lâu huyện Cao Lộc. Suốt ngày 27, ở hướng Cao Lộc, sư đoàn 129 Trung Quốc không phá nổi trận địa phòng thủ của trung đoàn 141; ở hướng đường 1B, sư đoàn 161 bị trung đoàn 12 ghìm chân; ở hướng đường 1A, trung đoàn 2 vừa chặn đánh sư đoàn 160 từ phía Bắc vừa chống lại cánh quân vu hồi của sư đoàn 161 từ hướng Tây Bắc thọc sang. Nhưng 14 giờ ngày hôm đó, 1 tiểu đoàn Trung Quốc bí mật luồn qua phía sau bất ngờ đánh chiếm điểm cao 800, nơi đặt đài quan sát pháo binh của sư đoàn 3 Sao Vàng. Mất điểm cao 800, thế trận phòng ngự của Việt Nam ở phía tây đường 1A từ Cốc Chủ đến điểm cao 417 bị chọc thủng. Chiếm được điểm cao 800 và Tam Lung, nhưng trong suốt các ngày từ 28 tháng 2 đến 2 tháng 3, quân Trung Quốc vẫn không vượt qua được đoạn đường 4 km để vào thị xã Lạng Sơn, tuy đã dùng cho hướng tiến công này gần 5 sư đoàn bộ binh. Sau nhiều trận đánh đẫm máu giành giật các điểm cao quanh Lạng Sơn, mà có trận quân phòng thủ Việt Nam đánh đến viên đạn cuối cùng, quân Trung Quốc bắt đầu bao vây thị xã Lạng Sơn ngày 2 tháng 3 sử dụng thêm sư đoàn 162 dự bị chiến dịch của quân đoàn 54 và dùng 6 sư đoàn tấn công đồng loạt trên nhiều hướng. Chiều ngày 4, một cánh quân Trung Quốc đã vượt sông Kỳ Cùng, chiếm điểm cao 340 và vào tới thị xã Lạng Sơn, một cánh quân khác của sư đoàn 128 Trung Quốc cũng chiếm sân bay Mai Pha, điểm cao 391 ở phía tây nam thị xã.
Đến đây, phía Việt Nam đã điều các sư đoàn chủ lực có xe tăng, pháo binh, không quân hỗ trợ áp sát mặt trận, chuẩn bị phản công giải phóng các khu vực bị chiếm đóng. Quân đoàn 14 với các sư đoàn 337, 327, 338 hầu như còn nguyên vẹn đang bố trí quân quanh thị xã Lạng Sơn. Quân đoàn 2, chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam, đã tập kết sau lưng Quân đoàn 14

(4)
Với lợi thế quen thuộc địa hình và kinh nghiệm trong chiến tranh chống Mỹ cùng tinh thần chiến đấu dũng cảm đã thành truyền thống, các lực lượng địa phương quân và du kích Việt Nam đã gây cho phía Trung Quốc những tổn thất rất lớn khiến chúng không tràn xuống được vùng đồng bằng Bắc Bộ, trừ hướng Lạng Sơn. Với những tổn thất to lớn do quân số trang bị kém, ít kinh nghiệm chiến đấu, phương án tác chiến đạt hiệu quả thấp trong địa hình đồi núi, cộng với sức ép từ biên giới Xô-Trung và từ cộng đồng quốc tế, ngày 5-3 , Trung Quốc buộc phải tuyên bố rút quân.Các đơn vị quân chính quy của Việt Nam được tiếp vận từ Campuchia lên hoàn toàn chưa kịp tham chiến. Ngày 5 tháng 3 năm 1979, Bắc Kinh tuyên bố đã "hoàn thành mục tiêu chiến tranh", "chiến thắng" và bắt đầu rút quân. Cũng ngày 5 tháng 3 năm 1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên toàn quốc. Ngày 7 tháng 3, Việt Nam tuyên bố rằng để thể hiện "thiện chí hòa bình", Việt Nam sẽ cho phép Trung Quốc rút quân.

Đồng minh Liên Xô cũng có những hành động hết sức kịp thời : Hạm đội Thái Bình Dương lập tức phong toả bảo vệ toàn bờ biển Việt Nam, 40 sư đoàn Hồng quân Liên Xô áp sát biên giới Xô-Trung, các máy bay vận tải A-26 bay liên tục từ Nam ra Bắc để chuyển các sư đoàn thuộc quân khu 3 và 4 đang chiến đấu tại Campuchia ra Hà Nội để tiến chiếm các mục tiêu đang trong tay Trung Quốc.Lệnh tổng động viên được ban bố, khắp Hà Nội các hào chiến đấu, hầm chống bom được đào nhanh chóng. Phòng tuyến sông Cầu chốt chặn thị xã Bắc Giang được gấp rút xây cất bởi Quân Đoàn 1, chờ đợi tặng cho bọn xâm lược Trung Quốc những quả đấm thép nếu chúng dám tràn xuống đồng bằng để đánh chiếm Hà Nội.
Mặc dù Trung Quốc tuyên bố rút quân, chiến sự vẫn tiếp diễn ở một số nơi. Dân thường Việt Nam vẫn tiếp tục bị giết, chẳng hạn như vụ thảm sát ngày 9 tháng 3 tại thôn Đổng Chúc, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, khi quân Trung Quốc đã dùng búa và dao giết 43 người, gồm 21 phụ nữ và 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai, rồi ném xác xuống giếng hoặc chặt ra nhiều khúc rồi vứt hai bên bờ suối. Trong thời gian chuẩn bị rút quân, Trung Quốc còn phá hủy một cách có hệ thống toàn bộ các công trình xây dựng, từ nhà dân hay cột điện, tại các thị xã thị trấn Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn,...
Sư đoàn 337 của Việt Nam, lên tham chiến từ ngày 2 tháng 3 tại khu vực cầu Khánh Khê ở Lạng Sơn để chi viện cho các đơn vị đang chặn đánh quân Trung Quốc. Sư đoàn này đến nơi quá muộn để thay đổi cục diện trận đánh tại Lạng Sơn, nhưng đã cùng sư đoàn 338 tổ chức phản kích đánh vào quân Trung Quốc rút lui qua ngả Chi Mã.
Ngày 18 tháng 3 năm 1979, Trung Quốc hoàn tất việc rút quân khỏi Việt Nam.
Ngay khi cuộc chiến nổ ra, Hoa Kỳ tuyên bố giữ vị trí trung lập và kêu gọi "sự rút quân lập tức của Việt Nam khỏi Campuchia và Trung Quốc khỏi Việt Nam", nói rằng "việc Trung Quốc xâm lược Việt Nam là sự tiếp nối của việc Việt Nam xâm lược Campuchia". Nhưng theo đánh giá của Nayan Chanda, Hoa Kỳ đã là quốc gia phương Tây duy nhất gần như ủng hộ cuộc xâm lược Việt Nam của Trung Quốc; trái với lời lên án việc Việt Nam tiến đánh Khmer Đỏ là "một mối đe dọa cho hòa bình và ổn định trong khu vực", tuyên bố của Mỹ về cuộc tấn công của Trung Quốc có hàm ý bào chữa rằng "việc Trung Quốc thâm nhập biên giới Việt Nam là kết quả của việc Việt Nam xâm lược Campuchia". Ngoài Hoa Kỳ thì đa số các quốc gia phương Tây phản đối mạnh mẽ hành động quân sự của phía Trung Quốc, sự cô lập này đã ảnh hưởng khá lớn tới chính sách ngoại giao bước đầu mở cửa của Bắc Kinh khi đó.
Ngày 18 tháng 2, Liên Xô viện dẫn hiệp định ký với Việt Nam, thúc giục Trung Quốc "ngừng trước khi quá muộn" và đòi Trung Quốc rút quân lập tức và toàn bộ. Trong thời gian xảy ra cuộc chiến, Liên Xô đã lên án cuộc tấn công của Trung Quốc là "hành động man rợ bất chấp đạo lý của kẻ cướp", đòi Trung Quốc lập tức chấm dứt "cuộc chiến tranh xâm lược", và cảnh báo Trung Quốc về lòng trung thành của Liên Xô đối với hiệp ước quân sự Xô-Việt. Ngoài ra, Liên Xô không có hành động can thiệp quân sự mà chỉ hỗ trợ vận chuyển bằng hàng không và triển khai hải quân ngoài bờ biển Việt Nam nhằm tránh đổ vỡ quan hệ vốn đã căng thẳng với Trung Quốc. Liên Xô cũng cảnh báo Trung Quốc về việc đặt các lực lượng vũ trang Xô Viết ở Siberi vào tình trạng báo động đồng thời cung cấp cho Việt Nam các thông tin quân sự thu được từ vệ tinh do thám. Bản thân chính quyền Hà Nội, vốn giữ chiến thuật phòng thủ trong cuộc chiến, cũng từ chối sự tham gia của các phi công Liên Xô vào các trận đánh. Do không tham gia về quân sự, ngày 10 tháng 3, Liên Xô hứa sẽ tăng viện trợ quân sự cho Việt Nam.
Đêm hôm Trung Quốc tuyên bố rút quân, Cuba cảnh báo Trung Quốc là nước này sẽ hỗ trợ Việt Nam, kể cả việc đưa quân đến nếu cần. Sau khi biết tin Trung Quốc rút quân, nhật báo Pravda của Liên Xô cũng đưa ra bình luận rằng "Liên Xô hiểu được dã tâm của Bắc Kinh vì vậy đã không đáp lại những khiêu khích quân sự của Trung Quốc với mục đích duy nhất là làm leo thang căng thẳng giữa Liên Xô và Hoa Kỳ".
Tại Liên Hợp Quốc, tranh cãi kịch liệt xảy ra xung quanh vấn đề an ninh ở Đông Nam Á. Hai sự kiện Việt Nam đánh vào Campuchia lật đổ chế độ Khmer Đỏ và Trung Quốc đánh vào Việt Nam cùng được đưa ra bàn luận. Hội đồng Bảo An bị chia rẽ sâu sắc sau các cuộc họp vào các ngày cuối tháng 2. Các nước ASEAN muốn tất cả các lực lượng quân sự nước ngoài rút quân về nước. Mỹ ủng hộ lập trường này. Liên Xô tuyên bố không ủng hộ bất cứ nghị quyết nào không lên án Trung Quốc và đòi Trung Quốc rút quân. Ngày 23 tháng 2, Liên Xô cùng Tiệp Khắc đưa dự thảo nghị quyết trong đó lên án Trung Quốc xâm lược, đòi Trung Quốc rút quân và bồi thường chiến tranh cho Việt Nam, và kêu gọi cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc. Còn Trung Quốc thì chỉ trích Liên Xô "khuyến khích Việt Nam tấn công Trung Quốc và xâm lược Campuchia". Ngày 24 tháng 2, Trung Quốc đưa dự thảo nghị quyết đòi Việt Nam "lập tức rút quân hoàn toàn khỏi Campuchia". Cuối cùng, Liên Hợp Quốc không đi đến được một nghị quyết nào.

Kết quả cuộc chiến
Tuy Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chiến thắng trong cuộc chiến nhưng cả hai bên đều phải chịu thiệt hại nặng nề về người và của. Cuộc chiến để lại đặc biệt nhiều tác hại lớn cho phía Việt Nam. Ngoài các thương vong về con người, tổn thất cụ thể về cơ sở vật chất hạ tầng ở 6 tỉnh biên giới bị phá hủy do trận chiến, Việt Nam còn phải gánh chịu nhiều khó khăn, thiệt hại do thái độ và chính sách thù địch, vây hãm mà Trung Quốc và đồng minh của Trung Quốc gây ra trên các mặt trận quân sự, kinh tế, ngoại giao,...

Thương vong và thiệt hại
Theo tướng Ngũ Tu Quyền (伍修权), phó tổng tư lệnh Quân giải phóng Trung Quốc, số quân Việt Nam bị chết và bị thương là 50.000, trong khi con số tương ứng của Trung Quốc là 20.000. Theo nhà sử học Gilles Férier thì có khoảng 25.000 lính Trung Quốc thiệt mạng và gần 500 xe bọc thép hoặc pháo bị phá hủy, con số này phía Việt Nam cũng là gần tương tự nhưng thấp hơn một chút. Russell D. Howard cho rằng quân Trung Quốc thương vong 60.000 người, trong đó số chết là 26.000, một số nguồn khác cũng đồng ý với con số thương vong ít nhất khoảng 50.000 của phía Trung Quốc. Nguồn của King Chen nói rằng riêng tại các bệnh viện lớn ở Quảng Tây đã có ít nhất 30.000 thương binh Trung Quốc. Tháng 4 năm 1979, Tạp chí Quân đội Nhân dân của Việt Nam ước lượng tổng thương vong của quân Trung Quốc là 62.500 người. Phía Việt Nam có hàng nghìn dân thường chết và bị thương, theo tạp chí Time thì có khoảng dưới 10.000 lính Việt Nam thiệt mạng (con số này phía Trung Quốc là trên 20.000). Phía Trung Quốc bắt được khoảng 1.600 tù binh trong tổng số hơn 50 ngàn quân Việt Nam tham chiến tại mặt trận Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn.
Theo tuyên bố của Việt Nam, kết quả chiến đấu của họ như sau:
Mặt trận Lạng Sơn: diệt 19.000 lính TQ, phá hủy 76 xe tăng, thiết giáp và 52 xe quân sự, 95 khẩu pháo-cối và giàn phóng hoả tiễn, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 4 tiểu đoàn (có hơi khác biệt so với kí sự Sư đoàn Sao Vàng).
Mặt trận Cao Bằng: diệt 18.000 lính TQ, phá hủy 134 xe tăng, thiết giáp và 23 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 7 tiểu đoàn.
Mặt trận Hoàng Liên Sơn (Lào Cai): diệt 11.500 lính TQ, phá hủy 66 xe tăng, thiết giáp và 189 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn.
Mặt trận Quảng Ninh, Lai Châu và Hà Tuyên: diệt 14.000 lính TQ, phá hủy 4 xe tăng, thiết giáp, 6 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn.
Cuộc chiến cũng đã gây ra những thiệt hại nặng nề về kinh tế cho Việt Nam: các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy diệt hoàn toàn, 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41 nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80.000 ha hoa màu bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp. Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống. Để nhận được tăng cường viện trợ từ phía Liên Xô, từ 27 tháng 3 năm 1979, Việt Nam quyết định cho tàu quân sự Liên Xô đóng ở cảng Cam Ranh. Về phía Bắc Kinh, cuộc chiến ngắn ngày đã tiêu tốn của nước này khoảng 1,3 tỷ USD và làm ảnh hưởng lớn tới quá trình cải tổ kinh tế.
Về lâu dài, nó mở đầu cho hơn 10 năm căng thẳng trong quan hệ và xung đột vũ trang dọc biên giới giữa hai quốc gia, buộc Việt Nam phải thường xuyên duy trì một lực lượng quân sự khổng lồ dọc biên giới, gây hậu quả xấu đến nền kinh tế. Sinh hoạt và sản xuất của người dân vùng biên giới bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ngoài ra, nhiều cột mốc biên giới cũng bị quân Trung Quốc phá hủy, gây khó khăn cho việc hoạch định biên giới sau này.

Đánh giá
Cả Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chiến thắng.
Phía Trung Quốc: Đặng Tiểu Bình khẳng định mặc dù có nhiều thất bại về quân sự nhưng Trung Quốc "đã đạt được chiến thắng về chính trị và chiến thắng chung cuộc". Ông còn khẳng định quân Trung Quốc "đã có thể tiến thẳng tới Hà Nội nếu muốn". Quan điểm ít phổ biến hơn là của Trần Vân (Phó Thủ tướng, một trong 5 nhân vật quan trọng nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai và Chu Đức) rằng việc chiếm được Hà Nội không phục vụ được mục đích gì, cuộc chiến sẽ có chi phí nặng nề quá sức chịu đựng nếu kéo dài thêm 6 tháng nữa, và vì lý do tài chính không nên lặp lại một cuộc chiến không phân thắng bại như vậy.
Theo đánh giá của tác giả King C. Chen, quân Trung Quốc có lẽ đã đạt được 50-55% các mục tiêu có giới hạn của mình. Bên cạnh thành công trong việc bám theo được khá sát các kế hoạch tiến quân và rút quân, quân Trung Quốc đã không đạt được kết quả như các mục tiêu đã công bố: họ đã không tiêu diệt được sư đoàn nào của Việt Nam; không chấm dứt được xung đột có vũ trang tại vùng biên giới; không buộc được Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, không gây được ảnh hưởng lên chính phủ Việt Nam trong vấn đề Hoa kiều. Điểm yếu của quân Trung Quốc là vũ khí và phương tiện lạc hậu. Ngoài ra, họ đánh giá thấp sức mạnh quân sự của Việt Nam. Sự thiếu kinh nghiệm chiến đấu và tinh thần kém cũng nằm trong các điểm yếu của quân Trung Quốc.
Về quân sự, tác giả Edward C. O'Dowd đánh giá rằng quân Trung Quốc đã thể hiện trình độ chiến đấu kém trong cuộc chiến. Tại Lạng Sơn, 2 quân đoàn Trung Quốc đã bị một trung đoàn Việt Nam cầm chân trong 1 tuần, một quân đoàn khác cần 10 ngày để lấy Lào Cai và Cam Đường - hai đô thị cách biên giới không đến 15 km. Trung Quốc chiếm Cao Bằng vất vả đến mức cần ít nhất 2 quân đoàn để tiếp tục tấn công một thị xã mà Trung Quốc tuyên bố đã chiếm được. Tại Quảng Ninh, một trung đội Việt Nam đã cầm chân 5 tiếng đồng hồ một trung đoàn Trung Quốc đang trên đường chiếm núi Cao Ba Lanh giáp biên giới, gây thương vong cho 360 trong quân số 2800 của trung đoàn này. Những tổn thất nhân mạng như vậy lặp lại trên toàn mặt trận và đem lại ít hiệu quả. Quân Trung Quốc đã không sử dụng được số quân đông một cách hiệu quả bằng các chiến thuật thích hợp và do đó không thể đạt được tốc độ hành binh như mong muốn của chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" (速战速决 tốc chiến tốc quyết). Đây là hậu quả của sự lạc hậu về chiến thuật tác chiến của quân đội Trung Quốc vốn gần như không được cải thiện kể từ sau chiến thuật biển người ở chiến tranh Triều Tiên những năm 1950. Thất bại về mặt chiến thuật đã buộc Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa quân đội nước này.
Trên phương diện quan hệ quốc tế, cuộc chiến Việt-Trung cho thấy rằng Trung Quốc, với sự ủng hộ từ phía Hoa Kỳ, sẵn sàng can thiệp quân sự vào Việt Nam - một quốc gia cộng sản từng là đồng minh trong nhiều năm, kết quả chiến tranh cũng cho thấy Việt Nam đủ sức chống lại sự can thiệp quân sự đó mà không phải điều động quân chủ lực từ biên giới Tây Nam và miền Nam Việt Nam. Những sự kiện từ cuộc chiến cho thấy mối quan hệ ngoại giao phức tạp Liên Xô - Trung Quốc - Việt Nam với kết quả là Trung Quốc không thể tung toàn bộ lực lượng vào cuộc chiến nhằm "dạy cho Việt Nam một bài học" vì chịu sức ép từ phía Liên Xô, đồng thời Liên Xô cũng không sẵn sàng tung quân đội vào tham chiến bảo vệ đồng minh mà chỉ tập trung viện trợ kinh tế, quân sự. Điều này đã khiến cho rất nhiều người Việt Nam sau đó nghi ngờ về đồng minh Liên Xô cũng như đối với Liên Xô thật sự là một sự thất bại về uy tín. Kết quả cuộc chiến cũng cho thấy Trung Quốc bất lực trong việc hỗ trợ đồng minh Khmer Đỏ trong cuộc chiến với Việt Nam và thất bại trong việc điều chỉnh quan hệ ngoại giao để tăng cường ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á.
Nhiều quan điểm khác cho rằng Trung Quốc đã thất bại về quân sự nhưng lại đạt được một số thành công về chiến lược, trong đó có việc chứng tỏ cho các nước Đông Nam Á rằng họ sẵn sàng dùng vũ lực nếu vị thế và uy lực của mình bị thách thức.

Hậu chiến
Khi quân Trung Quốc rút khỏi Việt Nam tháng 3 năm 1979, Trung Quốc tuyên bố họ không tham vọng dù "chỉ một tấc đất lãnh thổ Việt Nam". Trên thực tế, quân Trung Quốc chiếm đóng khoảng 60km2 lãnh thổ có tranh chấp mà Việt Nam kiểm soát trước khi chiến sự nổ ra. Tại một số nơi như khu vực quanh Hữu Nghị Quan gần Lạng Sơn, quân Trung Quốc chiếm đóng các lãnh thổ không có giá trị quân sự nhưng có giá trị biểu tượng quan trọng. Tại các nơi khác, quân Trung Quốc chiếm giữ các vị trí chiến lược quân sự làm bàn đạp để từ đó có thể tiến đánh Việt Nam.
Việc Trung Quốc chiếm đóng các lãnh thổ biên giới làm cho Việt Nam căm giận, và giữa hai phía nổ ra một loạt trận giao tranh nhằm giành quyền kiểm soát các khu vực đó. Xung đột biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn tiếp diễn cho đến năm 1988, lên cao vào các năm 1984-1985. Trong tháng 5-6 năm 1981, quân Trung Quốc mở cuộc tấn công vào đồi 400 (mà Trung Quốc gọi là Pháp Tạp Sơn - 法卡山) ở huyện Cao Lộc, Lạng Sơn, xa hơn về phía tây, quân Trung Quốc cũng vượt biên giới đánh vào các vị trí quanh đồi 1688 ở tỉnh Hà Tuyên. Giao tranh diễn ra hết sức đẫm máu với hàng trăm người thuộc cả hai bên thiệt mạng. Tới năm 1984, quân Trung Quốc lại dùng nhiều tiểu đoàn mở các đợt tấn công lớn vào Lạng Sơn. Đặc biệt tại Hà Tuyên, trong tháng 4-tháng 7 năm 1984, quân Trung Quốc đánh vào dải đồi thuộc huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn. Quân Trung Quốc chiếm một số ngọn đồi thuộc dải đồi này, giao tranh kéo dài dằng dai, nhưng không có nơi nào quân Trung Quốc tiến sâu được hơn vào lãnh thổ Việt Nam quá 5km, dù quân đông hơn nhiều.
Cuộc chiến năm 1979 cho Trung Quốc thấy sự lạc hậu của vũ khí cũng như chiến thuật mà quân đội nước này sử dụng, do đó, sau cuộc chiến là bắt đầu của một cuộc cải cách và hiện đại hóa mạnh đối với Quân giải phóng Trung Quốc, ngày nay công cuộc hiện đại hóa này vẫn tiếp tục. Ảnh hưởng trực tiếp có thể thấy là ngân sách dành cho quốc phòng của Trung Quốc tăng từ 15% năm 1978 lên 18% năm 1979.
Quan hệ xấu với Trung Quốc đã làm Việt Nam đã phải trả một cái giá rất đắt. Việc Trung Quốc duy trì áp lực quân sự tại vùng biên giới trong suốt mười năm sau đó buộc Việt Nam cũng phải duy trì lực lượng phòng thủ lớn ở biên giới và miền Bắc. Cùng với việc bị sa lầy với chiến sự dai dẳng ở Campuchia mà Trung Quốc muốn kéo dài, Việt Nam bị cô lập trong mười năm đó trên trường quốc tế. Nền kinh tế yếu kém và bị Mỹ cấm vận phải căng ra duy trì một lực lượng quân đội lớn, và phải phụ thuộc vào sự giúp đỡ của Liên Xô. Sau năm 1979, tình hình kinh tế miền Bắc Việt Nam tệ hại đi rất nhiều so với thời kỳ trước đó. Trong khi đó, Trung Quốc phát triển mạnh từ năm 1978 do công cuộc cải tổ kinh tế của Đặng Tiểu Bình. 7 năm sau chiến tranh biên giới, Việt Nam mới bắt đầu thời kì Đổi Mới, khi đó đã chậm hơn Trung Quốc 8 năm.
Sau khi Liên Xô tan rã và Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, đến năm 1992 quan hệ giữa hai nước mới được bình thường hóa chính thức.
Từ khi quan hệ ngoại giao giữa hai nước được cải thiện, cuộc chiến hầu như không còn được nhắc đến trong các phương tiện truyền thông đại chúng, không được nói đến trong sách giáo khoa lịch sử ở Trung Quốc và một cách hạn chế tại SGK của Việt Nam. Tại Trung Quốc, các phương tiện truyền thông gần như lãng quên nó, các tuyển tập bài hát không còn in các ca khúc nói về cuộc chiến, sách nghiên cứu viết về cuộc chiến bị từ chối xuất bản, đa số cựu chiến binh từng tham gia cuộc chiến không muốn nhắc đến nó. Ở Việt Nam, một số ca khúc có nội dung về cuộc chiến, ví dụ "Chiến đấu vì độc lập tự do" của Phạm Tuyên, không còn được lưu hành trên các phương tiện truyền thông chính thống, đó là theo một thỏa thuận giữa Việt Nam và Trung Quốc nhằm bình thường hóa hoàn toàn quan hệ giữa hai nước. Chính phủ Việt Nam để ý chặt chẽ các nội dung báo chí liên quan đến quan hệ Việt - Trung, và báo chí hầu như không nhắc đến cuộc chiến. Theo giải thích của ông Dương Danh Dy, cựu Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh, thì Việt Nam "không nói lại chuyện cũ là vì nghĩa lớn, chứ không phải vì chúng ta không có lý, không phải vì người Việt Nam sợ hãi hay chóng quên". Khi được hỏi về cuộc chiến từ 30 năm trước, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói rằng từ nhiều năm trước lãnh đạo hai nước đã "thỏa thuận gác lại quá khứ và mở ra tương lai".

Người đăng: ĐTN
Nguồn tin: Wikipedia và các nguồn khác