Chủ Nhật, 25 tháng 9, 2016

Chỉ số phát triển con người & Chỉ số thất bại của quốc gia



Chỉ số phát triển con người. Ảnh: Internet
Chỉ số phát triển con người. Ảnh: Internet
Trong  quá  trình  tòan  cầu hóa và  hội  nhập  ngày  càng  sâu  rộng hiện nay nhân lực  lao động  quốc  gia trở  thành  thương  phẩm  quốc  tế. Các  quốc  gia có  xu hướng  hợp tác  và  nhất  thể  hóa  vào  các  tổ  chức  kinh  tế  chính  trị  để  tăng cường  việc  trao  đổi  thương  mại, sử  dụng  hiệu  quả  tiềm  lực  quốc  gia  và nâng  cao  vị  thế  chính trị, bảo  đảm  an  ninh  quốc  gia  của  mình.
Trong  nửa  sau  thế  kỷ  20  và  đầu  thế  kỷ  21  ngoài  Liên Hiệp Quốc  tổ  chức hợp  tác  chính  trị  toàn  cầu  lớn  nhất  chúng  ta  đã  chứng  kiến  sự  ra  đời  của hàng  loạt tổ  chức  quốc  tế  và  khu  vực  từ  những  tổ  chức  chính  trị  có tính chất  Câu  lạc  bộ  tham  vấn  toàn  cầu  như  G7  và  G20  hay  vực  như  APEC đến  các  tổ  chức  hợp tác  kinh  tế  chính  trị  từng  phần và “lỏng lẻo” như ASEAN  hay  toàn  diện  và  “chặt chẽ” như  EU.
Sắp  tớiđây   TPP (Trans-Pacific Partnership) và  TATIP (Transatlantic Trade and Investment Partnership).Toàn cầu hóa và hội nhập là xu hướng không  thể đảo ngược.
Việc  xác  định  trình  độ  phát  triển và  khả  năng  phát  triển  bền  vững  của  một  quốc  gia  là  rất  quan  trọng  để  đánh  giá  tổng  hợp “trọng  lượng  trong  thực tế  tương tác” của  một  quốc  gia  khi  tham  gia  vào  tổ  chức  quốc  tế.
Trọng  lượng  thực  tế  trong  tương  tác  của  một  quốc  gia  bao  gồm  một  chuỗi các  chỉ  số  được  thiết  lập  một  cách  khoa  học, đượ c giới  khoa  học  và  kinh tế  chính trị  trên  toàn  thế  giới  thừa  nhận  và  sử  dụng để  xây  dựng  hoặc điều  chỉnh  các  chính  sách  vĩ  mô  trong  hoạt  động  một  quốc  gia  hay  cuả các  tổ  chức  quốc  tế.
Không  phải  lúc  nào  các  chỉ  số  này cũng  được  thừa  nhận  dễ  dàng. Chẳng hạn  Chỉ  số  mức  độ  cảm  nhận  tham  nhũng (Corruption Perceptions Index – CPI) của  Tổ chức  Minh  bạch  quốc  tế  bị  khá  nhiều  quốc  gia  trong  đó  có Việt  Nam  nghi  ngờ  tính  khách  quan.
Vơí  thời  gian  uy  tín  của  Tổ  chức  Minh  bạch  quốc  tế  được  nâng  cao  và  CPI  được  thừa  nhận  rộng  rãi, được  các  nhà  chính  trị  sử  dụng  một  cách biểu  cảm  và đôi  khi  khá  tùy  tiện.
Chẳng  hạn  chúng  ta  còn  nhớ  phát  biểu  của  một  quan  chức   cao  cấp  rằng “tình  trạng  tham  nhũng  ở  Việt Nam  trong  những  năm  vừa  qua  là  ổn  định” . Ông  này khẳng  định  như  vậy  chỉ  trên  một  cơ  sở  duy  nhất: chỉ  số  CPI  và thứ  hạng  của  Việt Nam  trong  Bảng  xếp  hạng  toàn  cầu  của  Tổ  chức  Minh bạch  quốc  tế  gần như  không  thay  đổi.
Mặt  khác  việc  tìm  hiểu  các  chỉ  số  này  thực  sự  cần  thiết  vì  cho  phép  chúng  ta  biết  khá  chính  xác “Who is who ?” và  giúp  chúng  ta  nhìn  nhận khách  quan  và toàn  diện  hơn  một  sự việc.
Chẳng  hạn  các  Bảng  xếp  hạng  của  Time  Higher Education và  QS  giúp  chúng ta  hiểu  đúng  tại  sao  ở  Việt Nam hiện  có  hơn 200.000 thạc sĩ và cử nhân chưa  có  việc làm  mà  cũng  không  thể  “xuất khẩu” đi  đâu  được  như  có  người  đề  nghị.
Việc  tìm  hiểu  một  số  chỉ  số  khác  lại  có  thể  giúp  chúng  ta  hiểu  tại  sao nước  này  được  mời  mà  nước  khác  chưa  được  mời  vào  tổ  chức  quốc  tế  nào  đó. Cũng như  thái  đối  xử  của  cộng  đồng  một  tổ  chức  hợp  tác quốc tế đối  với  từng  quốc  gia  trong  quá  trình  hoạt  động  về  sau  của  tổ chức  quốc  tế  này.
Tôi  xin  phép  giới  thiệu  hai  chỉ  số  thuộc  loại  này. Hai  chỉ  số  cơ  bản  nhất xác  định  trình  độ  phát  triển  và  khả  năng  phát  triển  bền  vững   của  một  quốc  gia.
Bài  viết  này  tổng  hợp  tư  liệu từ một số nguồn. Tôi  hệ  thống  lại để chúng ta cùng  tìm  hiểu.
Thứ  nhất  là  Chỉ  số  phát  triển  con  người (Human Development Index  – HDI  là  chỉ  số  tổng  hợp  của  tuổi  thọ  trung  bìnhtỷ  lệ  biết  chữgiáo  dục, các  tiêu  chuẩn khác  như  phúc  lợi  trẻ  em  và  một  số  nhân  tố  khác  trong cuộc  sống các  quốc  gia  trên  thế  giới.
HDI  giúp  tạo  ra  một   cái  nhìn  tổng  quát  sự  phát   triển  của  một  quốc  gia. Đây  cũng  là  chỉ  số  xác  định  sự  ảnh  hưởng  của  các  chính  sách  kinh  tế  đến  chất lượng  cuộc  sống. Nghĩa  là  phản  ánh  cả  chất  lượng  cuả  sự  phát  triển.
HDI  được  đề  xuất  và  phát  triển  bắt  đầu  từ  năm 1990  bởi  nhà  kinh tế  người  Pakistan  Manbub ul Haq  và  nhà  kinh  tế  Ấn  Độ  Amartya Sen (giải  Nobel kinh  tế  năm 1998).
Theo  quan  điểm  của  các  họ c giả  này  mục  tiêu  của  việc  phát  triển  con người  là  nhằm  mở  rộng cơ  hội  lựa  chọn  cho  người  dân  và  tạ  điều  kiện  để họ  có  thể thực  hiện  sự  lựa  chọn  đó  một  cách  tự     do.
Những  lựa  chọn  quan  trọng  và  cơ  bản  nhất  là  được  sống  lâu  và  khỏe mạnh, được  học  hành  và  có  được  một  cuộc  sống  ấm  no. Từ  đó  họ  đã xác định  năm  đặc  trưng  của  quan  điểm  phát  triển  con  người  là:
  1. Con  người  là  trung  tâm  của  sự  phát  triển.
  2. Người  dân  vừa  là  phương  tiện  vừa  là  mục  tiêu  của  phát  triển.
  3. Việc  nâng  cao  vị  thế  của  người  dân (bao  hàm  cả  sự hưởng  thụ và cống  hiến).
  4. Chú  trọng  việc  tạo  lập  sự  bình  đẳng  cho  mọi  người  dân  về  mọi  mặt: tôn  giáo, dân  tộc, giới  tính, quốc  tịch…
  5. Tạo  cơ  hội  lựa  chọn  tốt  nhất  cho  người  dân  về: kinh  tế, chính  trị, xã hội, văn  hóa…
HDI  là  một  thước  đo  tổng  quát  về  phát  triển  con  người. HDI  cho  phép  đo thành  tựu  trung  bình  của  một  quốc  gia  theo  ba  tiêu  chí  sau:
  1. Sức  khỏe: Một  cuộc  sống  dài  lâu  và  khỏe  mạnh, đo  bằng  tuổi  thọ trung  bình.
  2. Tri  thức: Được  đo  bằng  tỉ  lệ  số  người   lớn  biết  chữ  và  tỉ  lệ  nhập học các  cấp  giáo  dục (tiểu  học, trung học, đại  học).
  3. Thu  nhập: Mức  sống  đo  bằng  GDP  bình  quân  đầu  người.
HDI   được  tính  theo  thang  điểm  từ  0-1.0. HDI  đã  được  các  tổ  chức  của Liên  Hiệp  Quốc  thừa  nhận  là  một  chỉ  số  tương  đối  khái  quát  để  đánh  giá mức  độ  phát triển  của  một  quốc  gia.
Hàng  năm  Chương  trình  phát  triển  Liên Hiệp Quốc (UNDP) đều  công  bố  xếp hạng  toàn  cầu  các  quốc  gia  theo  chỉ  số  HDI. Các  quốc  gia  được  xếp  hạng từ  cao xuống  thấp  theo  điểm  số.
Cách  phân  loại  quốc gia  theo  chỉ  số  HDI  được  UNDP  công  bố  vào  năm 2011  theo  chỉ  số  HDI như  sau: Điểm  trên  0.8  là  rất  cao, từ 0,7-0,8  là  cao, từ 0,52-0,7 là TB, từ  0,29-0,51 là thấp  và  dưới  0,29 là  rất  thấp.
Từ  Bảng  xếp hạng  theo   cách  này  ta  có  vài  số  liệu  để  tham  khảo  cho  các nước  châu  Á:
Quốc  gia  tốt  nhất  là  Nhật  Bản  xếp  thứ 12 (HDI  0,901 điểm); Hồng Kông 13 (HDI  0,898 điểm); Hàn Quốc – 15 (HDI  0,897 điểm);  Israel -17 (HDI  0,888 điểm); Singapore -26 (HDI  0,866 điểm);  UAE (Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất) -30 (HDI  0,846 điểm);   Qatar -37 (HDI  0,831 điểm); Malaysia -61 (HDI  0,761);  Kuwait -63 (HDI  0,76;  Trung Quốc -101 (HDI  0,687);   Thailand -103 (HDI  0,682);    Mông Cổ -110 (HDI  0,653);   Philippines -112  (HDI  0,644);   Indonesia – 124 (HDI  0,617); Việt Nam- 128 (HDI 0,593);   Ấn Độ -134 (HDI  0,547); Campuchia và Lào-138,139 (HDI  0,522); Pakistan-145 (HDI  0,504); Bangladesh-146 (HDI  0,500);Myanmar-149 (HDI  0,483).
asia-hdi-map
HDI của châu Á. Ảnh: Internet
Rõ  ràng  ngoài  các  yếu  tố  về  giáo  dục, y  tế, thu  nhập  thì  tham  nhũng  có ảnh  hưởng  trực  tiếp  đến  HDI. Dễ  dàng  nhận  thấy liên hệ  này  qua Xếp hạngmức  độ cảm nhận tham nhũng (Corruption  Perceptions  Index – CPI) của  Tổ chức  Minh  bạch  quốc  tế  năm  2011  cho  các  nước  châu  Á có HDI cao nhất :
 Singapore – 5 (CPI  92 điểm); Hồng Kông -12 (CPI  84 điểm); Nhật Bản – 13 (CPI  80 điểm); Qatar – 22 (CPI  72 điểm); UAE (Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất) – 28 (CPI  68 điểm); Israel – 36 (CPI  58 điểm); Hàn Quốc – 43 (CPI  54 điểm); Malaysia – 60 (CPI  43 điểm).
Amartya  Sen  là  người  châu  Á  đầu  tiên  nhận  giải  Nobel  kinh  tế. Có  thể  nói trong  số  tất  cả  các  nhà  kinh  tế  nổi  tiếng  thế  giới  hiện  nay  Amartya  Sen đại  diện chân  chính  nhất  của  các  nước  chậm  phát  triển  nghèo  khổ.
Amartya  Sen  cũng  là  người  đầu  tiên  phát  hiện  ra  mối  liên  hệ  giữa  nghèo đói  và  việc  thiếu  tự  do  dân  chủ. Nhiều  nước  có  thể  chế  độc  tài  trong  tình trạng nghèo  đói. Ngược  lại, phần  lớn  các  nước  dân  chủ  đều  là  những  nước giầu  có.
Amartya  Sen  sau  khi  nghiên  cứu  quan  hệ  giữa  nạn  nghèo  đói  và  mức  độ dân  chủ  đã  đưa  ra  một  lời  tuyên  bố  nổi  tiếng: “Không  bao  giờ  từng  có một  nạn  đói nào  đáng  kể  xẩy  ra  ở  một  nước  độc  lập, dân  chủ  và  có  tự do  báo  chí. Nạn  đói  chỉ  xẩy  ra  ở  những  nước  độc  tài  hay  bị  chiếm  đóng”.
Ông  là  tác  giả  của  cuốn  sách  nổi  tiếng ”Development as Freedom” (“Phát  triển  là  Tự do”). Trong  đó, Amarrtya  Sen  khẳng  định: tự  do  vừa  là  mục  tiêu tối  hậu,  vừa là  cứu  cánh  để  phát  triển  kinh  tế.
 Theo  ông, những  mục  tiêu  mà  các  nhà  kinh  tế  thường  cho  là  tối  hậu: tăng trưởng  kinh tế, tiến  bộ  công  nghệ, ngay  cả  hiện  đại  hóa, phải  được  đánh  giá bởi  mức độ  đóng  góp  của  chúng  vào  tự  do  của  con  người.
Tương  tự  như  nghèo  đói, tham  nhũng  thường  lan  rộng  ở  những  nước  thiếu tự  do  dân  chủ. Hậu quả  của  tham  nhũng  là  người  dân  không   có  được  sự chọn  lựa tốt  nhất  giá  cả  hàng  hóa  dịch  vụ  công, tư.
Tham  nhũng  làm  tăng  mọi  chi  phí  quản  lý  về  phía  công  quyền  và  trong xã hội, hạn  chế  sự  sang  tạo, và  nuôi  dưỡng  tội  phạm.
Tham  nhũng  làm  giảm  đầu  tư  trong  ngoài  nước, giảm  phát  triển. Quan trọng nhất  là  tham  nhũng  tạo  điều  kiện  cho  tư  bản  than  hữu (cronyism) phát triển. Làm tăng  chênh  lệch  giàu  nghèo  và  căng  thẳng  trong  xã  hội.
 Kết  quả  là  làm  mất  động  lực  phấn  đấu  của  thế  hệ  trẻ, của  tài  năng. Hạn chế  sự  phát  triển  của  công  dân  dẫn  đến  việc  làm  giảm  khả  năng  cạnh tranh  của quốc  gia. Tức là tiền đề cho sự thất bại của quốc gia.
Xin  phép  chuyến  sang  thảo  luận  chỉ  số  thứ  hai. Chỉ  số  thất  bại  quốc  gia. Chỉ  số  thất  bại  hay  còn  gọi  là  chỉ  số  FSI (Failed States Index)  một chỉ số quan  trọng thể  hiện  khả  năng  phát  triển  và  phát  triển  bền  vững  của  một quốc  gia.
FSI Quốc tế. Ảnh: Internet
FSI Quốc tế. Ảnh: Internet
Từ  lâu  các  nhà  triết  học  đã  cố  gắng  tìm  hiểu  nguyên  nhân  phát  triển thành  công  của  các  quốc  gia. Trong  thế  kỷ  20  các  nhà  khoa  học  xã  hội  dần  đã  đi  đến kết  luận  khá  thống  nhất  là  văn  hóa  chính  là  yếu  tố  quyết định  sự  phát  triển  của  một  quốc  gia.
Một  trong  những  triết  gia  đầu  tiên  trong  lĩnh  vực  này  Max Weber (1864-1920) người Đức. Max  Weber  coi  đạo  đức   Thiên  chúa  Tin  lành  là  nền  tảng  tinh  thần của Chủ  nghĩa  tư  bản (CNTB) châu Âu  ở  các  nước  tư  bản  đầu  tiên.
Max  Weber  cho  rằng  nền  văn  hóa  Thiên  chúa  Catholique  La Mã  là  kém thích  hợp  hơn  cho  phát  triển  CNTB  và  Thiên  chúa Orthodox (Chính thống) càng  kém  thích hợp  hơn  nữa  cho  phát  triển  tư  bản.
Riêng  đối  với  văn  hóa  Khổng Giáo, Max  Weberc  có  cái  nhìn  rất  bi  quan cho đó  là  một  nền  văn  hóa  hoàn  toàn  không  thích  hợp  để  phát  triển  CNTB.
Việc  các  quốc  gia  chịu  ảnh  hưởng  nhiều  của  Khổng Giáo  như  Nhật, Hàn Quốc , Đài Loan, Singapore  phát  triển  thành  công  cuối  thế  kỷ  20  làm  các  học   giả   phải tìm  hiểu  sâu  hơn  về  việc  thành  công  và  đặc  biệt  sự  thất  bại  của  các  quốc  gia  trong  sự  nghiệp  phát  triển.
Những  học  giả  hàng  đầu  về   lý  thuyết  thất  bại  của  các  quốc  gia  là  Jared Diamon, Daron  Acemoglu  và James  Robinson. Họ  bắt  đầu  tìm cách  lý  giải việc thất bại/thành  công  sự  phát  triển  tư  bản  của  một  quốc  gia.
Các  tác  giả  này  đã  trình  bày  quan  điểm  của  mình  trong  cuốn  sách  nổi tiếng  “Tai  sao  các  quốc  gia  thất  bại” (Why nations fail).
Tuy nhiên  việc tìm  cách định lượng khả  năng  phát triển thành  công/thất bại  của  một  quốc gia  vẫn  là  môt  câu  hỏi  bỏ ngỏ.
Câu  hỏi  này  chỉ  mới được  giải  đáp  rất  gần đây. Đã  xuất hiện môt chỉ số mới đinh  lượng  sự  thành  bại  của quốc gia.
Chỉ  số  thất  bại  hay  còn  gọi  là  chỉ  số FSI (Failed States Index) là  một  chỉ số  do  Quỹ  vì  Hòa  Bình (Fund for Peace)  một Think  tank  độc  lập  với  tạp  chí Foreign Policy  sáng  lập  ra.
Quĩ  này  đã  tổng  hợp  liên  tục  90.000  nguồn  dữ  liệu  định  lượng  khác  nhau (được  công  khai  từ  đầu  năm đến  cuối  năm) của 177 quốc  gia  trên  thế  giới, để  gộp thành  12  thang  điểm  đo  từ  mức  độ  phát  triển  kinh tế  cho  đến chỉ số  về  sự  công  bằng  trong  xã  hội. Sau  đó, tạp  chí  Foreign  Policy  công  bố Bảng  Xếp  hạng  các quốc  gia  được  khảo  sát  theo  chỉ  số  FSI  bắt  đầu  từ 2005.
Việc  Quỹ  Vì  hoà  bình  đưa  ra  khái  niệm  chỉ  số  FSI  là  cố   gắng  đầu tiên dùng  phương  pháp  định  lượng  để  nhận  dạng  các  quốc  gia  thất  bại  và hoạch  định  các chính  sách  thích hợp  với  các  quốc  gia  này.
Có  12  chỉ  tiêu (Indicator) đánh  giá, gồm  4  chỉ  tiêu  xã  hội, 2 chỉ  tiêu  kinh  tế, 6  chỉ  tiêu  chính  trị. Mỗi  chỉ  tiêu  được  đánh  giá  theo  thang  điểm 10; điểm càng  cao tức  là  càng  thất  bại, điểm  càng  thấp  thì  càng  thành  công. Cộng điểm  của  12 chỉ  tiêu  này  lại  được  tổng  số  điểm  đánh  giá  mức  độ  thất  bại, tức  FSI  của  quốc gia  đó.
 Chỉ  tiêu xã hội   gồm: (I-1) Áp  lực  gia  tăng  dân  số; (I-2) Sự  di   chuyển  lớn dân  tị  nạn  trong  nội  bộ  quốc  gia  tạo  ra  nguy  hiểm  nhân  đạo; (I-3) Viêc tồn tại  các nhóm  thù  địch  nhau  hoặc  các  nhóm  cuồng  tưởng (paranoia); (I-4) Dân  chúng  di  cư  ra  khỏi  đất  nước  vì  lý  do  kinh  tế, chính  trị.
Chỉ tiêu kinh tế gồm: (I-5) Trình  độ  phát  triển  kinh  tế  không  đồng  đều  theo các  nhóm  dân  hay  là  phân  hóa  giàu  nghèo; (I-6) Suy  thoái  kinh  tế  nặng.
Chỉ tiêu chính trị gồm: (I-7)  Mức  độ  tham  nhũng  của  chính  quyền; (I-8) Tình   trạng  suy  thoái  của  các  dịch  vụ  công; (I-9) Sự  trì  hoãn  hoặc  độc  đoán  trong  quá trình  chấp  hành  luật  pháp  và  vi  phạm  nhân  quyền  một  cách  phổ  biến; (I-10) Sự  lạm  quy ền  các  cơ  quan  an  ninh (nhà  nước  bên  trong nhà  nước); (I-11) Tình trạng  bỏ  ra  nước  ngoài  của  những  người  tài; (I-12) Sự  can  thiệp  của  các  nước  ngoài  hoặc  thế  lực  chính  trị  bên  ngoài.
Các  quốc  gia  phân làm 3  loại  tùy  theo  tổng  số  điểm  FSI:
  • loại  Báo động (Alert) có  FSI  từ  90  điểm  trở  lên, là  các  nước  thất  bại  nhất, kém  ổn  định  nhất;
  • loại Cảnh giác (Warning) có FSI  từ  60  đến  dưới  90  điểm;
  • loại Vừa phải (Moderate) – 30  đến dưới 60 điểm;
  • loại Bền vững (Sustainable) – dưới  30  điểm  là  các  nước  thành  công, ổn định nhất.
Nghĩa  là  tổng  số điểm  FSI càng  nhỏ  thì  càng  thành  công  và  ngược  lại. 60 quốc  gia  xếp  hạng  từ 1-60  có  thể  coi  là  các  quốc  gia  thất  bại.
Dư  luận  một  số  nước  châu  Phi  phản  ứng  mạnh  khi  thấy  nước  mình  bị  xếp hạng  thấp, cho  rằng  đây  chỉ  là  cách  đánh  giá  theo  quan  điểm  của  phương Tây, còn đa  số  các  nước  không  bình  luận.
Trung  Quốc  năm  2009 bị  xếp  hạng  thuộc  nhóm  quốc  gia  thất  bại  nhưng cũng  không  có  phản  ứng  gì.Vì  vậy  cách  đánh  giá  này  được  cộng  đồng quốc  tế  coi  là khá  khách   quan.
Tạp  chí  Foreign  Policy  số  tháng  7-8/2010  đã  công  bố  kết  quả  khảo  sát các quốc  gia  thất  bại  năm 2010 (Wiki) như  sau:
Somalia  3  năm  liền  đứng  đầu  bảng  xếp  hạng  quốc  gia  thất  bại  với  tổng  số  điểm  FSI  là  114,3..Tiếp  sau  là  Chad, Sudan, Zimbabwe, Cộng Hòa Congo, Afghanistan, Iraq, Cộng hòa Trung Phi, Guinea, Pakistan, Haiti, Bờ Biển Ngà (Ivory Coast), Kenya, Nigeria, Yemen, Myanmar, Ethiopia, Đông Timor, Bắc Triều Tiên, Niger  thuộc  số  20  quốc gia  thất  bại  cao  nhất, loại  Báo  động.
Hầu  hết  những  quốc  gia  này  đều  nghèo  đói, rối  loạn, chính  trị  độc  tài chuyên  chế, nhiều  người  dân  vì  khổ  cực  phải  bỏ  nước  ra  đi.
Các  quốc  gia  xếp  ở  cuối  bảng (số  thứ  tự  lớn  nhất) là  các  quốc  gia  ổn  định nhất, tốt  nhất.  Có 13  quốc  gia  thuộc  loại  Phát  triển  Bền  vững  gồm: Na Uy thứ 177 ( FSI 18,7 điểm). Sau đó là Phần Lan, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Ai-len, Đan Mạch, New Zeland, Áo, Úc, Lu-xem-bua, Hà Lan, Ca-na-đa và Irelandthứ 165 (FSI 29,8 điểm).
Ở  châu  Á, quốc  gia  tốt  nhất  là  Nhật  Bản xếp  thứ  164 (FSI  31,3 điểm); Singapore -160 (FSI 34,8 điểm); Hàn Quốc – 153 (FSI  41,3); Qatar -139 (FSI 51,8); UAE -137 (FSI 52,4); Mông Cổ -129 (FSI 60,1); Kuwait -125 (FSI 61,5)….Malaysia -111 (FSI 69,2); Việt Nam- 95 (FSI 76,6); Thailand -81 (FSI 78,8); Ấn Độ -79 (FSI 79,2); TQ -62 (FSI 83); Indonesia 61 (FSI 83,1; Israel-54 (FSI 84,6); Philippines -51 (FSI 87,1); Campuchia và Lào-40,41 (FSI 88,7); Myanmar-16 (FSI 99,4).
Xếp  hạng  của  các  nước  thành  viên  Hội  đồng  Bảo  an Liên Hợp Quốc và G7  như  sau: tốt  nhất  là  Anh – thứ 161 (FSI 41,8), Pháp – 159 (FSI 34,9), Mỹ – 158 (FSI 35,3), Nga – 80 (FSI 79), Trung Quốc – 62 (FSI 83). Nhật Bản – 164 (FSI 31,3) và Đức -157 (FSI 35,4).
Tại  sao  một  nước  có  nền  kinh  tế  tăng  trưởng  nhanh  nhất  thế  giới  như Trung  Quốc  lại  bị  xếp  vào  nhóm  quốc  gia  thất  bại? Đó  là  vì  Trung  Quốc  có  chỉ  số  FSI quá  lớn  về  các  chỉ  tiêu  sau: – sức ép dân số (chỉ số Demographic Presures  bằng  9, do  có  nhiều  ngườ i Trung Quốc  di  cư  ra  nước ngoài), – phân  hóa  giàu  nghèo  quá chênh  lệch (chỉ  số  phát  triển   không  đồng  đều  Uneven Development  bằng  9,2), – tồn  tại  vấn  đề  nhân  quyền (chỉ số  Human  Rights  bằng  8,9).
Trường  hợp Việt  Nam  các  chỉ  tiêu từ I-1 đến I-12 của  Việt Nam  có  số  điểm như  sau: 6,9; 5,2; 5,3; 5,9; 5,9; 6,6; 7,3; 6,4; 7,3; 6,0; 7,0; 6,2; Tổng  cộng  được 76,6 điểm, vẫn  thuộc  vào  loại quốc  gia  cần  được  cảnh  giác.
Có  3 chỉ  tiêu cao từ 7,0  trở  lên, đó  là  chỉ  tiêu  tham  nhũng  có  số  điểm  là 7,3; chỉ  tiêu  nhân  quyền – 7,3; chỉ  tiêu  thất  thoát  nhân  tài -7,0.
Nhìn  vào  Bảng  phong  thần  về  chỉ  số FSI. Tôi  xin  phép  lưu  ý  hai  trường hợp.
Thứ  nhất  là Trung Quốc. Việc Trung  Quốc  dù  kinh  tế  phát  triển  rất  nhanh vẫn  bị  xếp  vào  nhóm  các  quốc  gia  thất  bại  chính  là  cái  giá  phải  trả  cho việc  phát  triển “nóng” bất  chấp  sự  hủy  hại  môi  trường  tự  nhiên  và  môi trường  xã  hôi. Đó  cũng  giá  phải   trả  cho  sự  bất  tương  xứng  giữa  sức  sản xuất  và  quan  hệ  sản  xuất (thể  chế).
Thứ  bậc  của  Trung  Quốc  trong  Bảng  xếp  hạng  theo  FSI  giúp  chúng   ta hiểu  tại  sao  các  bài  viết  cảnh  báo  về  khả  năng  sụp  đổ, “hạ  cánh  cứng” của  kinh  tế Trung  Quốc  xuất  hiện  thường  xuyên.
Điều  này  cũng  giúp  chúng  ta  hiểu  tại  sao  các  tổ  chức  kinh  tế  thế  giới không  “mặn mời” Trung  Quốc  tham  gia  và ông  Obama  nhất  định  không  chấp nhận “trật  tự kinh  tế  quốc  tế theo  kiểu  Trung Quốc”.
Thứ  hai  là  trường  hợp  Ethiopia. Ethiopia  được  coi  là  một  trong  những  cái nôi  của   loài  người. Ethiopia  cũng  là  quê  hương  của  Nữ  hoàng  Saba, người tình  của Hoàng  đế  Solomon huyền  thoại  trong  Kinh  Thánh.
Сuố i thế  kỷ 1 TCN, trên  bờ  Hồng Hải  châu  Phi  xuất  hiện  vương  quốc  Aksum của  dân  tộc Sabae (tiếng Do Thái cổ là Sheba). Quốc  gia  do  dòng  họ  Solomon cai  quản, họ  gọi  mình  là  dòng  dõi  trực  tiếp  của  Thánh  đế  Solomon  và hoàng  hậu  Saba (Sheba).
 Kitô  giáo  trở  thành  quố c giáo  của  vương  quốc  Aksum  vào  thế  kỷ  thứ  4 dưới  thời  vua  Ezana  khiến  Ethopia  là  nơi  thứ  3  trên  thế  giới  công  nhận Kitô giáo  là quốc  giáo. Chỉ  sau  Armenia  và  Gruzia.
 Bên  cạnh  La  Mã, Trung  Quốc  và  Ba  Tư, Đế  quốc  Aksum  của  Ethiopia  được xem  là  một  trong  4  cường  quốc  lớn  nhất  thế  giới  vào  thế  kỷ  thứ  3.
 Trong  suốt  thời  kỳ Tranh  giành  thuộc  địa  ở  châu Phi, Ethiopia  là  quốc  gia châu  Phi  duy  nhất  bên  cạnh  Liberia  giữ  vững  được   chủ  quyền  là  một  quốc  gia  độc lập. Đồng  thời  là một  trong  4  thành  viên  châu  Phi  thuộc  Hội Quốc  Liên (1936). Sau  một  giai  đoạn  ngắn  bị  người  Ý  chiếm  đóng, Ethiopia tự  giải  phóng (có Anh giúp) và  trở  thành  thành  viên  sáng  lập  của  Liên hiệp quốc.
Tóm  lại  Ethiopia  là  một  dân  tộc  kiêu  hãnh  có  một  quá  khứ  huy  hoàng và từng  là  niềm   tự  hào  của  châu  Phi.
Người  Ethiopia  đã  thất  bại  vì “ngủ quên” trên  vinh  quang  của  quá  khứ. Có thể  kể  thêm  trường  hợp  Hy Lạp.
Xu  hướng  toàn  cầu  hoá  và  hội  nhập  là  không  thể  đảo  ngược. Mỗi  quốc  gia trong  ván  cờ  toàn  cầu  hóa  cần  thường  xuyên  theo  dõi, cần  biết  rõ  một cách  định lượng “trọng  lượng  thực  tế  trong  tương  tác” – chỉ  số  sức  khỏe  của  mình  so  sánh  với  các  quốc  gia  khác  để  tìm  cách  khắc  phục  điều chỉnh.
Chỉ  có  ứng  xử  như  vậy  quốc  gia  mới  mong  được  mời  tham  dự  vào  cuộc thi  đấu  toàn  cầu  không  có  giải  lao  và  điểm  dừng.
Chỉ  có  như  vậy  mới  tránh  được  nguy  cơ  bị  đẩy  ra  chầu  rìa  hay  xuống  sân sau  trong  tiến  trình 

Там Чан Конг – TamHmong