Cuộc đời của thiền sư Thích Nhất Hạnh
“Tôi đi tu chỉ vì tôi muốn dành trọn thì giờ của mình để giúp những người khác.”
Thích Nhất Hạnh
Tên khai sinh: Nguyễn Xuân Bảo.
Năm 1926: Sinh tại làng Thành Trung, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Năm 1942: Xuất gia tại chùa Từ Hiếu, tỉnh Thừa Thiên - Huế, đây cũng là nơi ông sống những năm cuối đời.
Năm 1967: Được đề cử giải Nobel Hòa bình.
Năm 1982: Thành lập Làng Mai tại miền Nam nước Pháp.
Năm 2018: Trở về an dưỡng tại tổ đình Từ Hiếu cho đến lúc qua đời vào ngày 22/01/2022.
Lời tòa soạn: Khi bắt đầu viết về thiền sư Thích Nhất Hạnh, chúng tôi phát hiện ra nhiều ghi chép, phỏng vấn của ông về các giai đoạn cuộc đời và quan điểm của mình. Ở một chừng mực nào đó, chúng tôi nghĩ rằng có thể tạo một bài viết mà chính ông là người kể chuyện về cuộc đời của mình. Do đó, trong bài viết này, chúng tôi sắp xếp các đoạn được trích từ nhiều nguồn khác nhau (phỏng vấn, sách, thư, v.v.) ở những thời điểm khác nhau về cùng một giai đoạn hoạt động nhất định. Các đoạn có dấu ngoặc kép trong bài là nguyên văn (hoặc được dịch từ tiếng Anh) của ông. Các đoạn in nghiêng là chú thích của người viết về bối cảnh ở từng thời kỳ. Độc giả có thể xem chi tiết hơn về các đoạn trích dẫn trong phần chú thích.
Xuất gia tại chùa Từ Hiếu (1926 - 1949)
Thích Nhất Hạnh sinh năm 1926 trong một gia đình có bố làm quan trong triều đình Huế.
“Tôi đi học tiểu học ở ngôi trường có chương trình song ngữ tiếng Việt và tiếng Pháp. Chúng tôi cũng có một vài giờ học tiếng Trung ở trường. Chúng tôi học tiếng Pháp. Tôi phải học lịch sử, địa lý bằng tiếng Pháp. Và tôi cũng phải học lịch sử và địa lý Việt Nam bằng tiếng Việt nữa.
Chúng tôi biết về sự tồn tại của phong trào phản kháng bí mật, chống lại người Pháp và chế độ thuộc địa. Tôi đã chứng kiến những thanh niên, trai cũng như gái, bị bắt chỉ vì họ là thành viên của lực lượng kháng chiến. Khi tôi lớn lên, tôi cũng chứng kiến những người đói ăn. Có một khoảng thời gian mà mỗi buổi sáng thức dậy, tôi thấy rất nhiều xác chết trên đường phố bởi vì người ta không có gì để ăn. Học sinh phải đi xin gạo. Và vào buổi trưa, chúng tôi đến từng nhà xin từng bát cơm. Chúng tôi chia cơm thành từng bát nhỏ hơn cho những người đang chết đói…” [1]
“Vào năm bảy hay tám tuổi, tôi được chiêm ngưỡng hình vẽ Bụt trong một tập san về Phật giáo, người ngồi an nhiên trên cỏ, mỉm cười và bình an hơn bất cứ ai xung quanh tôi lúc bấy giờ. Hình ảnh đó đã cuốn hút tâm trí tôi ngay lập tức. Vì vậy mà tôi khao khát trở thành một nhà sư như Bụt.
Ban đầu, gia đình chưa sẵn sàng với ý định xuất gia của tôi vì bố mẹ tôi nghĩ rằng cuộc đời tu hành rất vất vả. Tôi vẫn nuôi dưỡng mong ước đó, và đến năm tôi 16 tuổi, gia đình đã cho phép tôi xuất gia [tại chùa Từ Hiếu].
Tôi luôn cảm thấy mình sẽ không hạnh phúc nếu không trở thành một thầy tu. Chúng tôi gọi cảm giác đó là tâm trí của người mới bắt đầu (beginner’s mind) – một ý định sâu kín, một mong muốn sâu sắc nhất mà một người có thể có. Và có thể nói rằng kể từ đó đến nay, tâm trí của người mới bắt đầu ấy vẫn sống trong tôi.” [2]
“Khi còn là một chú tiểu mới mười sáu tuổi, thầy tôi đã dạy tôi cách đóng cửa với sự chú tâm một trăm phần trăm. Một hôm thầy sai tôi đi làm một việc. Tôi hăng hái, hấp tấp, đi nhanh ra và khép cửa vội vàng.
Thầy kêu tôi lại: ‘Này con, con lại đây’.
Tôi trở lại, đứng vòng tay chờ.
Thầy tôi nói: ‘Con đi ra lại và khép cửa cho đàng hoàng coi’.
Đó là bài học đầu tiên của tôi về thực tập chánh niệm. Khi đó tôi đi ra trong chánh niệm, ý thức từng bước đi, nắm lấy cánh cửa trong chánh niệm, và mở cửa trong chánh niệm. Kể từ đó thầy không còn phải dạy tôi cách đóng cửa lần thứ hai.” [3]
“Tôi sống trong một ngôi chùa có không khí khá giống như một gia đình. Sư phụ giống như một người cha và các thầy giống như những người anh em lớn nhỏ của mình. Nó như một gia đình. Tôi không có ham muốn tạo dựng gia đình, vì rõ ràng là tôi đã có thời gian hạnh phúc của một chú tiểu. Tôi hay nói với các nhà sư và đệ tử trẻ của mình rằng nếu con thấy hạnh phúc trong hai năm đầu đời đi tu thì thầy nghĩ rằng con sẽ còn hạnh phúc khi trở thành một nhà sư.” [4]
“Ngày xuất gia và được thọ giới sa di, tôi được trao pháp danh là Trừng Quang, pháp tự là Phùng Xuân. Phùng Xuân nghĩa là gặp mùa xuân.” [5]
“Chúng tôi là sự nối tiếp của Bụt và chư tổ sư, trong đó có Trúc Lâm đại sĩ, thiền sư Lâm Tế, thiền sư Liễu Quán và thiền sư Nhất Định.” [6]
Rời Huế vào Sài Gòn (1949 - 1955)
Sau ba năm thọ giới, Thích Nhất Hạnh được gửi vào Phật Học Viện Báo Quốc. Chỉ một thời gian sau, ông cùng bạn đồng môn vào Sài Gòn để tìm hiểu về triết học, văn học, ngoại ngữ, những thứ chưa được giảng dạy ở trường Báo Quốc. [7]
Năm 25 tuổi (1951), Thích Nhất Hạnh thọ Tỳ-kheo trở thành một tu sĩ Phật giáo. Tiếp đến, ông dạy thiền học và giảng dạy về đạo Phật tại Phật Học Viện Ấn Quang ở Sài Gòn trong những năm 1950. Cũng từ đây, ông bắt đầu công cuộc làm mới đạo Phật bằng các nghiên cứu, giảng dạy và viết sách trước tình trạng đàn áp tôn giáo của chính quyền và sự suy thoái của Phật giáo. [8]
“Chúng tôi đã đau khổ vì tình trạng chính trị của đất nước. Chúng tôi lại càng đau khổ vì tình trạng của đạo Phật. Hồi ấy chúng tôi đã nói tới vấn đề hiện đại hóa đạo Phật. Hồi ấy chúng tôi đã cố gắng mọi cách gây ý thức về một nền Phật giáo dân tộc để phục hồi sinh lực dân tộc trong ước vọng xây dựng xứ sở. Tôi đã làm báo, đã viết sách. Nào báo Hướng Thiện, nào báo Liên Hoa, nào báo Sen Hái Đầu Mùa.”
Làm báo (1955 - 1959)
“Năm 1955, tôi được Tổng hội Phật giáo Việt Nam giao cho chủ bút tờ Phật giáo Việt Nam. Lúc đó, tôi đã có dịp gây ý thức về một nền Phật giáo nhân bản và dân tộc. Tôi cũng đã thấy rõ tính cách rời rạc phân tán của tổ chức đạo Phật, nên đã cố gắng viết tất cả những gì tôi nghĩ về một nền Phật giáo thống nhất toàn vẹn.
Hơn hai năm sau, tờ báo bị đình bản. Lý do là hết tiền. Nhưng kỳ thực, đó là vì các nhà lãnh đạo Phật giáo miền Trung và miền Nam không chịu đựng được những loạt bài nói về vấn đề thống nhất thực sự. Trong một buổi họp, họ đã lấy cớ hết tiền để kết liễu sinh mệnh của tờ báo. Họ có nói: ‘Ai lại tờ báo của Tổng hội mà đi dạy Tổng hội về vấn đề thống nhất bao giờ’.” [9]
“Thế là chúng tôi mất khí giới cuối cùng. Chính trị thì khôn ngoan, tìm đủ mọi cách cho tiềm lực dân tộc không có cơ hội phát hiện. Tổ chức Phật giáo thì thủ cựu, chia rẽ. Chúng tôi, những người trẻ tuổi, không có tiền bạc. Không có uy thế, không có một ‘miếng đất để cắm dùi’, làm sao thực hiện được ước mộng? Sau một thời gian ốm đau tưởng chết, tôi rút về nằm ở ngôi chùa nhỏ bé và an tĩnh ở Blao [Đà Lạt].” [10]
Đến Hoa Kỳ (1961 - 1963)
Không lâu sau đó, ông cùng những người bạn thành lập Phương Bối, một chỗ tu tập và sống cuộc đời đạm bạc cách Sài Gòn hơn 180 cây số. Nơi này chỉ tồn tại được một thời gian thì lại bị chính quyền đàn áp do nghi ngờ dính líu đến các hoạt động chống chính quyền. Trước tình hình đó, Thích Nhất Hạnh phải trốn về Sài Gòn để lánh nạn. Năm 1961, vì thời cuộc bức bối, ông sang Hoa Kỳ nghiên cứu về Phật giáo ở Đại học Princeton rồi giảng dạy tại Đại học Columbia.
Mâu thuẫn giữa Phật giáo và chính quyền Ngô Đình Diệm lên đến đỉnh điểm vào năm 1963. Phật giáo phản kháng bằng nhiều cuộc biểu tình, tự thiêu trên đường phố nhằm gây chú ý trước tình trạng đàn áp tôn giáo.
Thích Nhất Hạnh lúc này ở Mỹ cũng bắt đầu bận rộn với việc vận động cho quyền tự do tôn giáo và chống chiến tranh ở quê nhà. Ông xuất hiện trên truyền hình, gặp ký giả, dịch các tài liệu về vi phạm nhân quyền ở Việt Nam, vận động các tổ chức quốc tế và Liên Hiệp Quốc can thiệp vào tình hình bi đát ở nước nhà.
Dấn thân với các hoạt động xã hội (1963 - 1966)
Sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm bị ám sát, Thích Nhất Hạnh trở về Sài Gòn vào tháng 12/1963 theo lời mời của Tổng hội Phật Giáo Việt Nam.
“Dọc theo con đường dài từ phi trường Tân Sơn Nhất về nhà, tôi chứng kiến lại một cách hiện thực tình trạng chậm tiến của xứ sở này. Những dãy nhà còn lụp xụp ngổn ngang, đầy nhóc những người, những bác xa phu cong lưng đạp xích lô, mồ hôi nhễ nhại.
Dân nông thôn đã đổ xô lên Sài Gòn quá nhiều. Chắc chắn là vùng quê ít chỗ có được an ninh. Những hình ảnh đó khiến tôi nao nao. Việt Nam đang ở trong một giai đoạn lịch sử quyết liệt. Không biết chúng tôi có thể làm được cái gì để đóng góp vào trong cái hướng đi mới của một dân tộc vừa thoát khỏi một chế độ độc tài hay không.” [11]
“Xã hội chúng tôi đã bị phân hóa quá, bởi vì chiến tranh [...]. Ngày nay quần chúng nghi ngờ mọi thiện chí, mọi hứa hẹn. Chúng tôi nhận thấy ngoài chất liệu tôn giáo, không còn có chất liệu nào có thể tạo dựng được đoàn kết tính và xã hội tính.” [12]
“[...] trong hàng chục năm qua, người dân đã nghe quá nhiều những hứa hẹn cải tiến xã hội nhưng nếp sống cơ cực vẫn hoàn cơ cực. Thêm vào đó, chiến tranh làm cho ruộng vườn hư nát, làm cho cơ nghiệp sụp đổ, làm cho an ninh bị đe dọa.
Người dân quê đã bị đánh lừa nhiều lần khiến họ không còn tin tưởng ở một lời hứa hẹn đường mật nào nữa. Họ đã bị lợi dụng. Và họ đã sợ hãi phần đông những người cán bộ mà họ tiếp nhận từ trung ương. Họ [những cán bộ] chẳng làm được việc gì đáng kể. Họ chỉ tuyên truyền qua loa chính quyền, và được đào tạo cấp bách, non nớt, không hiểu được tâm lý quần chúng, không có tâm niệm phụng sự, họ nói và làm những điều phật ý nông dân.” [13]
“Người Mỹ đã tin tưởng quá ở mãnh lực đồng tiền và chính phủ của ông Diệm, đã tin tưởng quá ở sức mạnh bạo lực.
Ấp chiến lược [...] nhắm tới một mục tiêu quân sự và chính trị chứ không nhắm tới mục tiêu xã hội. Chính vì thế mà những tuyên truyền về cách mạng xã hội đều không được ai nghe theo. Chúng tôi thấy rõ điều đó và đã quyết định với nhau rằng một phong trào dựng lại xứ sở cần được đặt trên một căn bản hoàn toàn khác biệt. Chúng tôi muốn mở một mặt trận chống lại nghèo đói, ngu dốt, bịnh tật và vô tổ chức.” [14]
“Tương lai đất nước chúng tôi tùy thuộc vào rất nhiều ở những nỗ lực hiện tại để cải tiến xã hội nông thôn. Chủ quyền độc lập của xứ sở chúng tôi [...] chỉ có thể đảm bảo khi nào chúng tôi có thể đứng vững trên hai chân của chúng tôi.” [15]
“Chúng tôi đã làm xong một dự án về một tổ chức đào tạo, những ‘làng tự nguyện’. Những người này [những thanh niên] sẽ được huấn luyện kỹ lưỡng, có đủ kiến thức về xã hội về tôn giáo và nhất là về phương pháp thực hiện các dự án chống nghèo đói, bệnh tật, ngu dốt và vô tổ chức.
Họ sẽ hành động không vì lương bổng, quyền hành mà vì tình thương, ý thức và trách nhiệm và ý thức tự nguyện. Chỉ với chất liệu tâm lý do chí nguyện đó, họ mới có thể thành công. Mà những người trai trẻ như thế [...] không hiếm ở đất nước này đâu. Tôi dám chắc [...] là có hàng vạn hay hàng chục vạn. Tôi đã gần gũi họ trong những ngày gần đây, và đã thấy trong mắt họ sáng lên trong niềm tin mới. Chỉ trong mấy tháng nữa chúng tôi khai giảng trường Thanh niên Phụng sự Xã hội, và ngôi trường này sẽ là một trường chuyên nghiệp thông thuộc một viện đại học trẻ trung vừa mới thành lập. Ban giảng huấn của trường gồm toàn những người trẻ tuổi, tất cả đều nao nức về công việc sắp thực hiện.” [16]
“Chúng tôi hiện có hai làng thí điểm tại miền Nam, hai làng tại miền Trung – một tại Khánh Hòa, một tại Thừa Thiên.“ [17]
“Ba tiếng ‘làng tự nguyện’ gợi cho chúng ta hình ảnh một khu làng mà trong đó dân chúng tự tổ chức lại nếp sống kinh tế, giáo dục và y tế của họ theo những tiêu chuẩn phát triển cộng đồng.
Họ chấm dứt thái độ tiêu cực và trông chờ, phải có những người bạn có óc tổ chức, có kiến thức căn bản về sinh hoạt xã hội nông thôn sống ngay trong xóm làng, làm chất men cho tinh thần tự nguyện phát khởi. Ở khu làng thí nghiệm này, chúng tôi đã được dân làng chấp nhận [sau một khoảng thời gian thí nghiệm] như là anh em bà con của họ, cái nhà mà tôi đang ở đây là một cái nhà bốn gian, ba gian là trường học, một gian là trạm y tế. Tất cả đều do các nông dân trong làng tạo dựng, với sự có mặt của chúng tôi.” [18]
“Ban đầu thì phải nghiên cứu về tình trạng chung của làng về các mặt y tế, giáo dục, kinh tế, xã hội. Rồi tùy theo tình trạng mà bắt đầu công cuộc cải tiến. Phải đánh thức ước muốn của dân làng dậy bằng những công tác trình diễn chứng minh. Và tự nhiên dân làng hưởng ứng. Tuy vậy cũng công tác đầu phải làm ở nhiều làng vốn không phải là những công tác y tế và giáo dục.
[Về giáo dục], ban đầu, một công tác viên về làng, và làm quen với vài em bé trong lúc chơi đùa, câu cá, hát hò. Rồi anh công tác viên đó hỏi thăm về sự học hành của các em, và rốt cuộc là các em bằng lòng để cho anh dạy cho mà học thay vì đi chơi rong suốt ngày. Họ ngồi dưới gốc cây, kê một tấm gỗ để viết chữ. Thế rồi chỉ một tuần sau, số học trò tăng lên mười mấy em.
Khi học trò đông quá mà chỗ học thiếu thốn, các phụ huynh họp lại để giải quyết vấn đề trường ốc. [...] Một buổi họp như thế cố nhiên đưa đến kết quả là sự quyết định dựng một ngôi trường cho làng. Và người thì cho tre, người thì cho gỗ, người thì cho gạch, người thì cho công. Vật liệu không hiếm. Ban đầu chỉ cần là trường bằng tre, tranh và đất thôi. Khi mà dân làng ý thức được sự cần thiết, thì tự nhiên khả năng của thôn quê để tự cải tiến trở nên lớn lao. [...] Họ không cầu xin của Chính phủ hay của viện trợ một xu nào.” [19]
Năm 1965, cuộc chiến ở miền Nam ngày càng leo thang.
“Tháng Sáu năm 1965, tôi đã viết một lá thư cho mục sư Martin Luther King để giải thích vì sao các nhà sư Việt Nam lại tự thiêu. Tôi nói rằng đó không phải là một vụ tự sát. Để tiếng nói được lắng nghe trong tình trạng đất nước lúc đó là rất khó khăn. Đôi khi chúng tôi phải tự thiêu mình để tiếng nói được lắng nghe. Đó là sự từ bi. Đó là hành động của tình yêu thương và không tuyệt vọng.” [20]
Sự thành công của “làng tự nguyện” đã gây được ấn tượng với Tổng hội Phật giáo. Tháng 9/1965, tổng hội cho phép thành lập trường như một phân viện của Viện Đại học Vạn Hạnh. Tuy nhiên, sau lời kêu gọi hòa bình của Thích Nhất Hạnh vào năm 1966 thì trường bị loại khỏi viện đại học này vì ông bị cho là thân cộng sản. Mặc dù vậy, trường vẫn tiếp tục phát triển.
“Chúng tôi đã lập được trường Thanh niên Phụng sự Xã hội đào tạo trên 600 tác viên và hàng ngàn trợ tác viên và cảm tình viên (làm việc công quả mà không nhận phụ phí), thành lập các làng hoa tiêu và làng tự nguyện để nâng cao phẩm chất của sự sống ở nông thôn về cả bốn mặt giáo dục, y tế, kinh tế và tổ chức.
Chúng tôi đã có những công tác tại các xóm nghèo Mã Lạng Quốc Thanh, Cầu Bông Bàn Cờ, và các lớp trung học miễn phí đêm (bắt đầu từ năm 1961, của Đoàn Sinh viên Phật tử Sài Gòn). Chúng tôi bắt đầu lập làng Tình Thương [...] với hơn 100 sinh viên Phật tử. Chúng tôi đã tổ chức những đoàn sinh viên đi lạc quyên để cứu lụt và cứu đói [vào năm 1964] dọc theo hai bờ sông Thu Bồn lên đến Thượng Nguồn.”
Đến năm 1966, Thích Nhất Hạnh trở thành một trong những nhân vật lãnh đạo phong trào Phật giáo trong nước. Ông còn là một trong những người sáng lập ra Viện Cao đẳng Phật học tại chùa Pháp Hội (sau chuyển thành Viện Đại học Vạn Hạnh vào năm 1966), [21] nhà xuất bản Lá Bối và Dòng tu Tiếp Hiện (một dòng tu thể hiện sự dấn thân của Phật giáo vào đời sống).
Vận động cho hòa bình (1966 - 1975)
Ngày 12/5/1966, Thích Nhất Hạnh khi ấy 40 tuổi rời Việt Nam để vận động cho hòa bình tại quê nhà.
“Chiều mai tôi phải đi rồi.” [22]
“Đêm nay, trời sáng tỏ một cách kỳ lạ. Tôi chưa đi mà đã nhớ nhà rồi. Tôi đi rồi tôi lại về thì có sao đâu. Lòng tôi hơi xao xuyến một chút, nhưng mà vẫn yên tĩnh. [23]
Tôi tới Hoa Kỳ để kêu gọi chấm dứt thả bom. Thời điểm đó, nửa triệu quân lính Hoa Kỳ đã có mặt tại Việt Nam, trong số đó có trên năm mười ngàn quân nhân đã bị giết hay mất tích trong chiến tranh. Đất đai, rừng núi, sông ngòi bị tàn phá và ô nhiễm vì các chất độc hóa học.
Khi ấy tôi đã là một giáo thọ và nhà văn được biết tiếng trong nước. Tôi có ý định ở lại Hoa Kỳ trong ba tháng để kêu gọi chấm dứt chiến tranh. Nhưng sau ba tháng, tôi được biết là chính quyền Việt nam không cho phép tôi trở về nước vì tôi đã cả gan lên tiếng kêu gọi hòa bình.” [24]
“Chúng tôi bị kẹt giữa hai bên lâm chiến và chúng tôi buộc phải lên tiếng. Nhưng đa số chúng tôi không có đài phát thanh, không có đài truyền hình, không có báo chí để nói lên thực trạng. Những ai dám kêu gọi chống chiến tranh đều bị bắt. Cho nên có những người đã tự thiêu để thu hút công luận, để công luận không còn thờ ơ trước nỗi đau của đa số dân chúng không muốn chiến tranh.” [25]
“Chỉ khi đó báo chí mới thấy rằng đa số người dân Việt Nam không chấp nhận chiến tranh. Đó là lý do vì sao tôi quyết định đi sang các nước Tây phương để nói cho thế giới biết những đau khổ của đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam.” [26]
“Trong năm đầu tiên, tôi đã nằm mơ về đến nhà gần như mỗi đêm. Tôi đã thấy mình leo lên một ngọn đồi xinh đẹp, rất xanh, rất hạnh phúc, và đột nhiên tôi thức dậy và thấy mình sống lưu vong. [...] Một năm sau đó thì giấc mơ như thế dừng lại.” [27]
“Đúng một năm sau khi tôi viết thư cho mục sư King thì tôi gặp ông ấy ở Chicago. Chúng đã có một cuộc thảo luận về hòa bình, tự do và cộng đồng. Và chúng tôi đồng ý rằng nếu không có cộng đồng chúng tôi không thể tiến xa trong cuộc vận động của mình.” [28]
Năm 1967, Martin Luther King đã đề cử Thích Nhất Hạnh cho Giải Nobel Hòa bình.
“Tôi nhớ lần cuối cùng tôi gặp mục sư King tại Thụy Sĩ, trong một hội nghị do Hội đồng Thế giới các Giáo hội (World Council Churches) tổ chức, lấy tên là Pacem in Terris (Hòa bình trên Trái đất). [...] Đó là năm 1968. Mục sư đã mời tôi lên ăn sáng để đàm đạo: vì bận họp báo nên tôi lên trễ nửa giờ. Ông vẫn cố giữ thức ăn sáng cho nóng. Trong buổi gặp gỡ này, tôi đã có dịp nói với ông là: các bạn ở Việt Nam rất yểm trợ ông và xem ông như một vị Bồ Tát sống, ông rất hoan hỷ khi nghe như thế và sau này mỗi khi nghĩ tới buổi họp mặt ấy, tôi lại thấy hài lòng vì đã nói được với ông câu ấy, bởi vì chỉ mấy tháng sau ông bị ám sát.” [29]
“Khi tôi nghe về vụ ám sát mục sư King, tôi không thể tin được. Tôi nghĩ: ‘Người Mỹ đã tạo ra King nhưng không có khả năng bảo vệ ông ấy’.” [30]
Thành lập tăng đoàn ở hải ngoại (những năm 1980 - 2018)
“Sau khi được biết chính phủ Việt Nam Cộng hòa không muốn tôi trở về Việt Nam, tôi vẫn tiếp tục kêu gọi chấm dứt chiến tranh Việt Nam tại Hoa Kỳ. Sau đó, tôi đi sang châu Âu, châu Á và châu Úc. Cuối cùng tôi dừng lại ở Paris và thiết lập một trung tâm tu học để tiếp tục công tác kêu gọi hòa bình.” [31]
Trong khi lưu vong, Thích Nhất Hạnh vẫn liên lạc và sắp xếp những hoạt động nhân đạo tại Việt Nam và ở các nước khác.
“Chúng tôi đã lập trường Thanh niên Phụng sự Xã hội (từ 1965 đến 1975), Ủy ban Tái thiết và Phát triển Việt Nam (từ 1971 đến 1975 dưới sự lãnh đạo của hòa thượng Thiện Hòa).
Trong chương trình Máu Chảy Ruột Mềm trên biển Nam Hải, [chúng tôi] đã điều động vớt được 600 thuyền nhân trên biển (1976). Tiếp đó là chương trình thầm lặng cứu người bằng ghe đánh cá trên vịnh Thái Lan [...] (1976 – 1978). Chúng tôi đã thành lập Chương trình Cứu trợ xã hội Hiểu và Thương và hoạt động âm thầm từ năm 1975 tới 2009.” [32]
Và nhiều chương trình nhân đạo khác. Tuy nhiên, ông không lên tiếng trực tiếp và mạnh mẽ khi chính quyền đàn áp tàn nhẫn đồng môn của mình ở quê nhà sau năm 1975.
“Trong gần 30 năm hành đạo tại Tây phương, tôi đã truyền Năm Giới cho hàng trăm ngàn người Âu, Mỹ, Nga, Úc, Trung Hoa, Nhật Bản... Người nào cũng pháp danh bắt đầu bằng chữ Tâm, thế hệ thứ 43 của phái Lâm Tế và cũng là thế hệ thứ chín của dòng Liễu Quán.”
Trở về Việt Nam sau 40 năm ở hải ngoại (2005)
Từ thập niên 1990, chính quyền Việt Nam mở cửa với thế giới. Những thuyền nhân, những người đã ra đi sau năm 1975 được kêu gọi quay về quê hương đóng góp cho kinh tế. Những nhân vật nổi tiếng được chính quyền mời về nước để thu hút những người Việt đã bỏ xứ ra đi.
“Suốt thời gian bốn mươi năm, chúng tôi đã cố gắng dàn xếp để trở về Việt Nam. Cuối cùng, tháng Giêng 2005, tôi được phép trở về quê hương.
Phái đoàn cùng về Việt Nam với tôi gồm hai trăm người. Tôi muốn trở về Việt Nam như một tăng thân, một tăng thân đích thực chứ không phải như một tế bào (bị rách ra khỏi cơ thể như lúc ra đi), để trình bày pháp môn thực tập hiểu biết và thương yêu, bởi vì chúng tôi biết rằng nếu chúng tôi thực tập vững vàng, tinh tấn và chân thực thì chúng tôi có thể chuyển hóa sự nghi ngại của chính quyền.” [33]
Các hoạt động tu tập của ông trong lần đầu trở về nước đã gây được ấn tượng với chính quyền nhưng vẫn luôn bị công an Việt Nam giám sát vô cùng chặt chẽ. Thích Nhất Hạnh cùng môn đồ được phép tổ chức nhiều buổi nói chuyện công khai với công chúng, bao gồm các đảng viên ở thành phố Hồ Chí Minh, Thừa Thiên - Huế và Hà Nội.
Nói về chính trị (2007)
“Trưa ngày 9/10/2007, tạp chí Time có đến vấn tôi về những biến cố ở Miến Điện và về vấn đề hâm nóng Trái Đất. [...] Tôi có nói các vị xuất gia bên ấy đã can đảm đứng dậy đưa đường chỉ lối cho toàn dân về vấn đề nhân quyền và dân chủ. Các vị đã tỏ ra xứng đáng là những người lãnh đạo tâm linh của đất nước.
Tuy đang bị đàn áp, tù đày hoặc giết chóc, nhưng tâm của họ rất an, vì họ đã làm được việc họ phải làm: Cung cấp cho đất nước và dân tộc họ vai trò lãnh đạo tâm linh. [...] Các tầng lớp dân chúng trong nước mỗi khi nghĩ đến các vị ấy là thấy lòng mình xúc động. Chính năng lượng của tình thương và của niềm tin ấy sẽ là động lực nuôi dưỡng hành động của họ để mang lại nhân quyền và dân chủ cho đất nước họ. Thế giới đang yểm trợ Miến Điện, như thế giới đã từng yểm trợ cuộc tranh đấu của Phật tử và đồng bào Việt Nam trong những năm sáu mươi [...] Không phải chỉ một Phật tử đứng lên mà toàn thể các Phật tử cùng đứng lên một lượt. Bây giờ Miến Điện cũng thế. Không phải chỉ một thầy đứng lên mà tất cả các thầy đều đứng lên. Đây mới thật sự là lãnh đạo tâm linh.” [34]
“Đất nước và dân tộc không thể không có một chiều hướng tâm linh. Đời người cũng không thể thiếu vắng một chiều hướng tâm linh. Thiếu một con đường tâm linh, ta sẽ không có khả năng đối diện với khổ đau, chuyển hóa khổ đau và hiến tặng được gì cho cuộc đời. Người không có đường đi là người đi trong bóng tối. Có đường đi rồi, ta sẽ không còn lo sợ.
Tăng thân của tôi và tôi đã thực tập quán chiếu khổ đau không những cho phe cộng sản hay phe chống cộng mà của cả những người lính Hoa Kỳ, vì họ đã bị đưa tới một đất nước xa lạ để giết người và bị giết. Tôi không hận thù bởi vì tôi có hiểu biết về thương yêu. Rất nhiều người trong chúng tôi đã sống sót được nhờ thực tập hiểu biết và thương yêu đó.
Kinh nghiệm của tôi từ những cuộc chiến tại Việt Nam đã khiến cho tôi tin tưởng vững chắc rằng bạo lực không thể loại trừ được khủng bố. Và lắng nghe sâu có sức mạnh hơn bom đạn. Khủng bố sinh ra do tri giác sai lầm. Quân khủng bố có tri giác sai lầm về họ và về chúng ta. Vì thế nên họ muốn tiêu diệt chúng ta, trừng phạt chúng ta.
Nếu hiểu được cách tư duy, cũng như cách nhận thức của họ thì chúng ta có thể giúp họ loại bỏ tri giác sai lầm. Loại trừ tri giác sai lầm là nền tảng của công cuộc chuyển hóa bạo động, khủng bố và xây dựng hòa bình.” [35]
Nói về môi trường và kinh doanh (2007)
“[Về hiểm họa trái đất bị hâm nóng], sẽ có nhiều những người trong chúng ta chết vì tâm bệnh (vì lo sợ, tuyệt vọng mà sinh bệnh ngày càng nhiều), trước khi hiểm họa kia đi tới.
Trong buổi giảng [vào tháng 10/2007 tại trường Đại học San Diego], tôi đã đưa ra phương pháp thực tập mà Đức Thế Tôn chỉ dạy: Nhìn nhận và chấp nhận sự thật mà đừng trốn tránh nó [...]: Tôi thế nào cũng phải già, phải chết, phải bệnh. [...] Tôi không mang theo được gì hết ngoài thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp của tôi. Đó là gia tài duy nhất mà tôi có thể mang theo. Thực tập chấp nhận được như thế, mình sẽ có bình an, mình sẽ có khả năng sống lành mạnh và từ bi, không còn gây đau khổ cho mình và cho người khác.” [36]
“Mẹ ta, Trái Đất, Hành tinh xanh, đã từng bị khốn khổ nhiều lần, đã từng khổ đau vì thầy đàn con dại dột. Chúng ta tàn phá Đất mẹ như một loài vi trùng tàn phá một cơ thể con người, vì Đất mẹ cũng là một cơ thể. Nhưng có những loài vi khuẩn rất thân hữu và có ích cho cơ thể con người. Hàng tỉ con như thế đang có mặt trong ta, nhất là trong hệ thống tiêu hóa, chúng giúp bảo vệ cơ thể và chế tác những sinh tố mà ta cần đến. Loài người có thể là những sinh vật có khả năng bảo vệ cơ thể Đất mẹ như thế, nếu loài người tỉnh thức, biết sống có trách nhiệm và từ bi. Đạo Phật ra đời là để ta học sống có trách nhiệm và từ bi. Ta phải thấy được tính cách tương tức, đồng sinh cộng tử giữa ta với Đất mẹ.” [37]
“Đối với vấn đề bảo vệ môi trường cũng thế. Kinh doanh với tâm từ bi, với ý thức trách nhiệm là điều có thể làm được. Kinh doanh với tâm từ bi không làm suy yếu khả năng cạnh tranh mà trái lại có thể gia tăng lợi tức. Ngoài ra ta có thể thêm bạn và hạnh phúc hơn. [...] Còn chỉ lo thu lợi mà làm ảnh hưởng tới môi trường tức là ta không còn từ bi và sẽ gây tàn hại sinh vật. Nếu biết rằng ta đang tàn hại sinh vật thì lương tâm ta bất an và sinh ra nội kết. Mặc dầu làm ra nhiều tiền, nhưng lương tâm ngày càng bất an thì một ngày nào đó ta sẽ không còn hạnh phúc được nữa.” [38]
Tổ chức các “trai đàn chẩn tế” tại Việt Nam (2007)
Năm 2007, Thích Nhất Hạnh cùng môn đồ được trở về nước lần thứ hai. Trong chuyến đi này, ông đã tổ chức các buổi cúng cầu siêu quy mô lớn ở nhiều nơi.
“Những oan ức và khổ đau của hàng triệu người Việt trong và sau thời gian chiến tranh đã dồn chứa lại, và năng lượng tiêu cực ấy đã đè nặng lên đời sống của dân tộc trong bao nhiêu thập niên.
Tại các trai đàn chẩn tế, chúng ta đã hết lòng chế tác năng lượng từ bi, của tha thứ, của bình an để mong chuyển hóa được thứ năng lượng tiêu cực kia. Ta đã mời những người đã chết, đi bằng hai chân của chúng ta. Ta đã mời các vị ấy nhìn bằng hai mắt của chúng ta để thấy rằng non sông cẩm tú vẫn còn đó, và chúng ta nguyện nỗ lực giữ gìn để đừng đánh mất non sông ấy.” [39]
Vụ việc Bát Nhã (2005 - 2009)
Không lâu sau chuyến về Việt Nam lần thứ ba vào năm 2008, xung đột lớn xảy ra giữa những môn sinh tu tập theo pháp môn Làng Mai và các môn đồ của chùa Bát Nhã cùng tu tập tại ngôi chùa này ở Bảo Lộc, Lâm Đồng. Chính quyền Việt Nam bị cáo buộc có nhúng tay vào vụ việc.
Sau khi chùa Bát Nhã được mở rộng làm nơi tu tập cho môn sinh theo pháp môn Làng Mai từ năm 2005 thì đến giữa năm 2008, trụ trì chùa Bát Nhã không chấp nhận những môn sinh Làng Mai nữa (trước đó trụ trì đã xin hiến chùa cho thiền sư Thích Nhất Hạnh để truyền dạy pháp môn Làng Mai tại Việt Nam). [40] Sau khi trụ trì chùa Bát Nhã từ chối các môn sinh Làng Mai, chính quyền ra quyết định trục xuất 379 tu sinh ra khỏi chùa sau hàng loạt các vụ bạo động ở đây do đám đông được cho là “người dân" gây ra.
Đến tháng 9/2009, tu viện Bát Nhã bị một nhóm người đến đập phá. Các môn sinh Làng Mai tin là những người này có sự ủng hộ của công an. Toàn bộ tăng ni theo pháp môn Làng Mai bị đuổi hết ra khỏi chùa sau nhiều tháng bị cắt điện và nước. Họ đến tạm lánh ở chùa Phước Huệ được một thời gian, nhưng sau đó cũng phải rời khỏi ngôi chùa này. [41]
Vụ việc này bắt đầu không bao lâu sau Lá thư Làng Mai số 31, đăng vào tháng 2/2008. [42] Báo Công an Nhân dân cũng sử dụng bức thư này để phỉ báng Làng Mai và Thích Nhất Hạnh vì cho rằng ông muốn can thiệp quá sâu vào quản lý tôn giáo và chính trị khi nêu nhiều quan điểm liên quan đến đảng, “công an tôn giáo” và Ban Tôn giáo Chính phủ. [43]
Trong bức thư gửi tu sinh trong nước vào tháng 12/2009, Thích Nhất Hạnh đã viết: [44]
“Muốn có dân chủ và nhân quyền người dân phải biết tranh đấu, và cuộc tranh đấu có thể phải kéo dài trong nhiều thập niên. Chúng ta là những người tu, chúng ta không có mặt trong những phong trào tranh đấu chính trị mà chỉ tranh đấu trong phạm vi văn hóa và đạo đức.
Có rất nhiều vị tôn túc trong giáo hội rất muốn che chở cho các con Bát Nhã của Thầy. Các vị ấy đã cố gắng lên tiếng nhiều lần, thậm chí đã đưa ra đề nghị bảo lãnh để cho các con có pháp lý tu học, nhưng vì giáo hội không có giáo quyền thật sự cho nên những đề nghị ấy đã bị Công an và Ban Tôn Giáo Nhà nước bác bỏ. Đất nước chúng ta chưa thực sự có tự do tôn giáo, và nhà nước đang quản lý chặt chẽ guồng máy giáo hội, và giáo hội bất lực không che chở được ngay chính con em của mình.
Xã hội hiện giờ đầy dẫy tệ nạn: tham nhũng, lạm quyền, ma túy, bạo động, đĩ điếm, gia đình đổ vỡ, tự tử, thác loạn. Chúng ta tu tập và tổ chức cho người khác tu tập để đối phó, ngăn ngừa và gột sạch những tệ nạn ấy, và đó là cách thức yêu nước yêu dân của chúng ta. Chúng ta là công dân của một nước độc lập, có hiến pháp, có luật pháp, chúng ta phải có quyền làm việc ấy. Không ai có thể tước đoạt quyền công dân ấy của chúng ta.”
Đầu năm 2010, trong một bài viết, Thích Nhất Hạnh đã gọi vụ việc ở chùa Bát Nhã là một “công án thiền”. Những nhận định của ông trong bài viết này cũng phản ánh về quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam: [45]
“Tại sao mình chỉ muốn tu thôi mà người ta không cho mình tu? Tại sao các bậc tôn túc muốn che chở bảo lãnh cho mình tu mà nhà nước lại không cho bảo lãnh? Mình có biết chính trị là cái gì đâu và chẳng tha thiết gì tới chuyện chính trị, tại sao người ta cứ nói là mình làm chính trị và tại sao cứ nói Bát Nhã là một mối đe dọa cho an ninh quốc gia? Tại sao phải giải tán cho được Bát Nhã dù phải áp dụng những biện pháp như thuê côn đồ, vu khống, lừa gạt, đánh đập, đe dọa? Tại sao họ là những người đáng bậc cha chú mình mà họ nỡ làm như thế đối với mình? Nếu nhà nước không cho mình tu chung như một Tăng thân nữa mà bắt mình phải mỗi người đi một ngả thì làm sao trong tương lai mình có thể có lại một Tăng thân? Tại sao ở các nước khác người ta có tự do để thực tập pháp môn, còn ở đây thì không? Những câu hỏi như thế dồn dập đi tới.”
Đặt mình thuộc hàng giáo phẩm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ông lên tiếng:
“Nhưng tại sao mình [những giáo phẩm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam] bất lực không che chở được cho họ? Tại sao mình phải sống và hành xử như một nhân viên của chính quyền? Tách rời chính trị khỏi tôn giáo, giấc mơ này đến bao giờ mới thực hiện được? Trong thời Thực dân, trong thời ông Diệm và ông Thiệu, tuy hành đạo có khó khăn thật đấy, nhưng người tu cũng không bị kiểm soát gắt gao quá đáng như trong hiện tại. Người ta chỉ muốn có một đạo Phật của tín mộ, của thờ cúng, người ta không muốn có một đạo Phật có khả năng lãnh đạo tinh thần và văn hóa đạo đức cho quốc dân. Một đạo Phật thật sự có uy quyền lãnh đạo tinh thần, người ta rất sợ. Người ta chỉ chấp nhận được một tổ chức Giáo Hội mà người ta có thể kiểm soát được, sai xử được.”
Di nguyện về tang lễ (2012)
Năm 2012, trong buổi tụ họp nhân ngày sinh của mình tại Làng Mai, Thích Nhất Hạnh nói với môn đồ về việc chôn cất ông sau khi qua đời:
“Thầy không muốn sau này quý vị xây cho Thầy một ngôi tháp ở Tổ Đình. Xây tháp như thế sẽ không có ý nghĩa gì nếu ngày hôm nay quý vị không nối tiếp được những gì Thầy đang trao truyền.
Thầy rất không thích chuyện lấy một mớ tro từ hình hài của Thầy rồi bỏ vào trong một cái hũ, rồi đặt vào trong tháp. Thầy không phải là cái nắm tro đó. Không có lý Thầy chỉ là cái nắm tro ấy hay sao? Thầy nhiều hơn cái nắm tro đó. Thầy là một thực tại linh động, đang sống, đang có mặt khắp nơi. Trong các sư chú và các sư cô đều có Thầy, trong các vị cư sĩ quen biết đều có Thầy.
Ở chỗ nào mà có thiền hành, thiền tọa, có pháp đàm, có ăn cơm yên lặng, có Sám Pháp Địa Xúc là có Thầy. Không được nhốt Thầy, bỏ Thầy vào trong một cái hũ nhỏ rồi đặt Thầy vào trong một cái tháp. Thầy không muốn Thầy có một cái tháp. Tốn đất chùa vô ích.” [46]
Nói về chia rẽ Hàn Quốc - Triều Tiên (2014)
Năm 2013, Thích Nhất Hạnh đến Hàn Quốc. Tại đây, ông đã chia sẻ suy nghĩ của mình về xung đột ở hai miền đất nước này. [47]
“Vũ khí hạt nhân cản trở mối quan hệ tốt đẹp giữa miền Nam và miền Bắc. Nó cho thấy sự sợ hãi, giận dữ và nghi ngờ trong chúng ta. Chúng ta sẽ không chế ra vũ khí hạt nhân nếu chúng ta không sợ hãi và giận dữ.
Để giữ hòa bình, điều đơn giản không phải là gỡ bỏ vũ khí hạt nhân mà là loại bỏ sự sợ hãi, giận dữ và nghi ngờ trong chúng ta. Nếu chúng ta có thể giảm chúng đi thì hòa hợp là một điều dễ dàng.”
Theo ông, chìa khóa cho sự hòa giải thù hận là lắng nghe với tâm từ bi.
“Lắng nghe với tâm từ bi làm cho các bên đau khổ ít đi. Nếu chúng ta nhận ra rằng họ cũng như mình thì chúng ta không còn giận nữa.
Nếu bạn là chính trị gia, bạn có thể sẽ muốn học cách thương lượng trong Phật giáo. Đạo Phật có những chỉ dẫn rất rõ ràng và cụ thể về truyền thông phục hồi và việc mang sự hòa giải trở lại.”
Sức khỏe suy yếu (2014 - 2018)
Tháng 11/2014, sức khỏe của ông đã suy yếu. Ông trải qua một cơn xuất huyết não nặng, phải điều trị tại bệnh viện ở Pháp trong nhiều tháng. Đến tháng 4/2015, ông trở lại Làng Mai và sức khỏe hồi phục khá tốt.
Năm 2015, ông gửi thư đến Liên Hiệp Quốc chia sẻ về vấn đề biến đổi khí hậu. [48]
“Chúng ta phải tiêu thụ như thế nào để nuôi dưỡng lòng từ bi trong ta. Hiện nay nhiều người trong chúng ta đang tiêu thụ một cách rất bạo động. Những khu rừng đang bị tàn phá để làm đồng cỏ nuôi gia súc lấy thịt hay để trồng ngũ cốc làm rượu, trong khi hàng triệu người trên thế giới đang chết đói. Nếu ta giảm ăn thịt và uống rượu xuống 50% thì đó là một hành động thương yêu, thương yêu chính mình, thương yêu Trái Đất và những loài khác.
Những thế kỷ của chủ nghĩa cá nhân và cạnh tranh đã gây ra sự tàn phá và chia cách rất lớn. Chúng ta cần tái lập sự truyền thông thật sự với chính mình, với đất Mẹ và với những chủng loại khác trên hành tinh này với tư cách là những đứa con cùng chung một mẹ. Chúng ta cần phát minh ra nhiều kỹ thuật tân tiến hơn để bảo vệ hành tinh này. Chúng ta cần những cộng đồng thật sự và cần sự hợp tác với nhau.”
Trở về tổ đình Từ Hiếu và qua đời (2018 - 2022)
Ngày 29/8/2017, Thích Nhất Hạnh trở về Việt Nam kể từ lần thăm gần nhất năm 2008. Lúc này, ông đã 91 tuổi và sức khỏe đã suy yếu rất nhiều.
Trong lần trở về vào năm 2018, ông đã xin ở lại chùa Từ Hiếu, ngôi chùa mà ông đã xuất gia vào năm 16 tuổi, cho đến lúc qua đời.
“Tôi đã quyết định trở về Việt Nam để được sống nơi đất Tổ, có mặt cùng chư huynh đệ và con cháu của Tổ đình cho đến ngày tôi chuyển bỏ hóa thân này.” [49]
Giữa tháng 9/2020, sức khỏe của thiền sư Nhất Hạnh suy yếu nặng. Trong bối cảnh hạn chế nhập cảnh do dịch bệnh COVID-19, chính quyền Việt Nam đã ưu tiên cho các đại đệ tử của ông được nhập cảnh vào Việt Nam để chuẩn bị hậu sự cho ông. [50]
Cho đến nay, Thích Nhất Hạnh đã viết hơn 100 cuốn sách, truyền pháp môn Làng Mai ra khắp thế giới. Ông là một trong số ít người Việt Nam có ảnh hưởng đối với quốc tế. Khi nói đến Phật giáo trên thế giới, danh tiếng và tầm hưởng của Thích Nhất Hạnh chỉ đứng sau Dalai Lama. Nhưng đến nay, chính quyền Việt Nam vẫn chưa cho phép pháp môn Làng Mai của ông được truyền dạy ở trong nước.
Vào lúc 0 giờ, ngày 22/01/2022, thiền sư Thích Nhất Hạnh qua đời tại tổ đình Từ Hiếu, tỉnh Thừa Thiên - Huế, khép lại cuộc đời đầy sống động khi mùa xuân đang đến rất gần, như pháp tự mà ông được đặt: “Phùng Xuân”.
Chú thích
1. San Francisco Chronicle. (1997, October 12). Stop Running, Start Being. https://www.newspapers.com/image/462657065/?terms=Thich%20Nhat%20Hanh&match=1
2. OPRAH. (2010, March). Oprah Talks to Thich Nhat Hanh. OPRAH. https://www.oprah.com/spirit/oprah-talks-to-thich-nhat-hanh/2
3. Thích Nhất Hạnh. (n.d.). Quyền lực đích thực, trang 35. Thư Viện Hoa Sen. https://thuvienhoasen.org/images/file/ltSSv51G0QgQALcT/quyen-luc-dich-thuc.pdf
4. Xem [1]
5. Trích Pháp thoại của Thích Nhất Hạnh, ngày 3/3/1996 tại thiền đường Nến Hồng, (Luật Khoa thay từ “Thầy” trong nguyên văn thành “tôi” để phù hợp với bài viết).
6. Thích Nhất Hạnh. (2016). Tay thầy trong tay con, trang 95. NXB Lao động, (Luật Khoa thay từ “chúng ta” trong nguyên văn thành “chúng tôi” để phù hợp với bài viết).
7. Philip Taylor. (2007). Modernity and Re-enchantment Religion in Post-revolutionary Vietnam, trang 299. ISEAS.
8. Plum Village. (n.d.). The Life Story of Thich Nhat Hanh. https://plumvillage.org/about/thich-nhat-hanh/biography/
9. Thích Nhất Hạnh. Nẻo về của ý, trang 6. Thư Viện Hoa Sen. https://thuvienhoasen.org/images/file/zO41v51G0QgQAIxA/neo-ve-cua-y.pdf, (Luật Khoa thay thế từ “chúng ta” trong nguyên văn thành “chúng tôi” để phù hợp với bài viết).
10. Xem [6]
11. Xem [9], trang 115.
12. Xem [9], trang 123.
13. Xem [9], trang 121.
14. Xem [9], trang 122 và 123.
15. Xem [9], trang 119.
16. Xem [9], trang 124.
17. Xem [9], trang 123
18. Xem [9], trang 113.
19. Xem [9], trang 123.
20. Xem [2], trang 4.
21. Cư sĩ Cao Hữu Đính (1917 - 1991), https://vnbet.vn/chu-ton-thien-duc-cu-si-huu-cong-phat-giao-thuan-hoa-tap-2/cu-si-cao-huu-dinh-1917-–-1991-phap-danh--tam-nguyen-3876.html
22. Xem [6], trang 171.
23. Xem [6], trang 165.
24. Xem [3], trang 108.
25. Xem [3], trang 209.
26. Xem [3], trang 109.
27. Xem [2], trang 4
28. Xem [2], trang 4.
29. Xem [6], trang 22, (Luật Khoa đã thay đổi từ “thầy” thành “tôi” để phù hợp với nội dung của bài viết).
30. Xem [2], trang 5.
31. Xem [3], trang 210.
32. Xem [6], trang 44 và 45.
33. Xem [3], trang 210.
34. Xem [6], trang 50 và 51.
35. Xem [3], trang 102.
36. Xem [6], trang 57.
37. Xem [6], trang 59.
38. Xem [3], trang 176.
39. Xem [6], trang 166.
40. BBC News Tiếng Việt. (2009, July 4). Căng thẳng tại Tu viện Bát Nhã. https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2009/07/090704_batnha_tension
41. Sài Gòn Giải Phóng. (2010, January 12). Bát Nhã bình yên. https://www.sggp.org.vn/bat-nha-binh-yen-185953.html
42. Làng Mai. (2008). Lá thư Làng Mai số 31. Làng Mai. http://langmai.org/wp-content/uploads/2017/09/LaThuLangMai31-2008.pdf
43. Báo Công an Nhân dân. (2009, October 19). Sự thật về Tu viện Bát Nhã (Bảo Lộc). https://web.archive.org/web/20220122034304/https://cand.com.vn/Su-kien-Binh-luan-thoi-su/Su-that-ve-Tu-vien-Bat-Nha-%28Bao-Loc%29-i152099/
44. RFA. (2009, December 30). Thư Thiền sư Thích Nhất Hạnh gửi tu sinh Bát Nhã. https://www.rfa.org/vietnamese/news/comment/ReadersOpinions/Nhat-hanh-letter-to-prajna-monks-12302009120955.html
45. Làng Mai. (2010). Bát Nhã là một công án thiền. https://langmai.org/tang-kinh-cac/bai-viet/thay-nhat-hanh-len-tieng-bat-nha-la-mot-cong-an-thien/
46. Làng Mai. (2012). Thông Bạch Ngày Tiếp Nối 2012. https://langmai.org/cong-tam-quan/thong-bach/thong-bach-ngay-tiep-noi-11-10-2012/
47. The Korean Times. (2013, May 14). Nhat Hanh shares secrets to peaceful mind. http://www.koreatimes.co.kr/www/news/culture/2013/05/293_135674.html
48. Làng Mai. (2015). Thông điệp của Thiền sư Thích Nhất Hạnh gửi đến Liên Hiệp Quốc. https://langmai.org/cong-tam-quan/thong-bach/thong-diep-cua-thien-su-thich-nhat-hanh-goi-den-lien-hiep-quoc-ve-van-de-bien-doi-khi-hau/
49. Tuổi Trẻ. (2018, October 30). Thiền sư Thích Nhất Hạnh: “Về nước để được sống nơi đất Tổ.” https://tuoitre.vn/thien-su-thich-nhat-hanh-ve-nuoc-de-duoc-song-noi-dat-to-2018103018402829.htm
50. VOA. (2020, September 17). Thiền sư Thích Nhất Hạnh suy yếu, đại đệ tử được phép về thăm. https://www.voatiengviet.com/a/thi%E1%BB%81n-s%C6%B0-th%C3%ADch-nh%E1%BA%A5t-h%E1%BA%A1nh-suy-y%E1%BA%BFu-%C4%91%E1%BA%A1i-%C4%91%E1%BB%87-t%E1%BB%AD-%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c-ph%C3%A9p-v%E1%BB%81-th%C4%83m/5586334.html