Thứ Tư, 28 tháng 9, 2022

Bài "phải đọc" cho những người yêu Paris ! Sông Seine, nhìn từ cầu...

 

Cổ Ngư


Dưới những chiếc cầu của Paris, khi đêm buông nhanh
Không đủ tiền thuê một túp lều tranh
Đôi lứa mình cứ lén lút yêu, mê đắm, em với anh
Và mắt trong mắt, cùng dệt những giấc mơ xanh...

(Dưới những chiếc cầu của Paris - Jean Rodor & Vincent Scotto)


Trên thế giới, hình như không thành phố nào có nhiều cầu bằng Venise : ở đây, đường bộ đã hoàn toàn bị thay thế bằng đường thuỷ, với hệ thống kinh đào chằng chịt, thông thương khắp các ngõ ngách của thành phố có một không hai này. Vì thế, tại Venise, đứng ở đâu cũng thấy cầu, đi đến đâu cũng thấy cầu, không biết có du khách nào, thậm chí người dân bản địa nào, đã nhẩm đếm xem mình đã bước qua được bao nhiêu trong số 435 chiếc cầu nối 121 hòn đảo của trung tâm Venise, một thành phố với diện tích chỉ vỏn vẹn 415 cây số vuông hay không ?

Không thể sánh được về lượng so với Venise, nhưng Paris lại hãnh diện với phẩm chất của 37 chiếc cầu soi bóng dòng Seine, nối hai bờ tả, hữu ngạn cùng ba hòn đảo Cité, Saint-Louis và Cygnes giữa lòng thủ đô nước Pháp. 37 chiếc cầu này nằm trong danh sách hơn 250 chiếc cầu bắc qua sông Seine, dòng sông với chiều dài gần 800 km, chảy qua nhiều vùng ruộng đồng trù phú, nhiều khu rừng rậm hoang dã, nhiều thành phố lớn trước khi đổ ra biển ở cảng Le Havre. Nhưng, nói đến sông Seine, người ta thường chỉ nghĩ đến Paris, và đương nhiên, khi nói đến những chiếc cầu bắc qua dòng Seine, người ta thường chỉ nhớ đến những chiếc cầu của Paris mà thôi !

37 chiếc cầu của Paris, trừ Cầu Thượng Nguồn và Cầu Hạ Nguồn nằm trên Đại lộ Vành đai của thủ đô nước Pháp, đều có tên riêng, hình dáng riêng, lịch sử riêng. Trong khuôn khổ bài viết này, ba nhóm cầu với bộ mặt của 19 chiếc cầu gây chú ý nhất sẽ được lần lượt giới thiệu theo hướng chảy của dòng Seine ngang qua Paris, từ đông sang tây.


Cầu Phố Thượng


Có thể gộp các chiếc cầu nối quận 13 ở tả ngạn sông Seine với quận 12 ở hữu ngạn vào nhóm "Cầu Phố Thượng". Nhóm này gồm 7 chiếc cầu, có chiếc chỉ dành riêng cho đường métro chạy lộ thiên trên sông Seine (Viaduc d’Austerlitz), có chiếc vừa được tân trang với hệ thống tramway chạy quanh thủ đô nước Pháp (Pont National). Đáng chú ý nhất trong nhóm này là 4 chiếc cầu Simone de Beauvoir, Bercy, Charles de Gaulle và Austerlitz.

Cầu Simone de Beauvoir

Mang tên nữ triết gia, văn sĩ Pháp nổi tiếng của thế kỷ XX, người được xem là lý thuyết gia quan trọng của phong trào Nữ Quyền Luận và có các tác phẩm được đọc, nghiên cứu rộng rãi trên thế giới, cầu dành cho người đi bộ Simone de Beauvoir dài 304 m, nối thư viện Quốc gia François Mitterrand với công viên Bercy. Đây là chiếc cầu mới nhất của Paris, khánh thành vào tháng 07.2006, sau khi một phần của quận 13 ven sông Seine được cải tạo lại theo công trình quy hoạch đô thị mới, với việc xây dựng Thư viện Quốc gia Pháp gồm 4 cao ốc (mỗi cao ốc có 2 toà mở ra như một quyển sách, thẳng góc nhau, với 22 tầng, cao 80m), cùng các khu nhà ở, tiệm ăn, cửa hiệu, văn phòng làm việc… nằm dọc theo những con đường rộng rãi thẳng tăm tắp. Được kiến trúc sư người Áo Dietmar Feichtinger thiết kế theo hình ảnh hai đường cong giao nhau tại hai điểm, cầu Simone de Beauvoir kết hợp được sự uyển chuyển, mềm mại nữ tính và nét khoáng đạt, thanh thoát hiện đại, giữa hai chất liệu chính thép và gỗ. Ở bất cứ vị trí nào, bên này sông hay bên kia sông, dưới cầu hay trên cầu, người ta đều thấy được đây đó những đường cong của chân, thân hay thành cầu Simone de Beauvoir.

Cầu Bercy


Cầu Bercy (cùng với cầu Bir-Haikem ở nhóm "Cầu Phố Hạ" của Paris) là loại cầu 2 tầng, tầng thấp dành cho bộ hành cùng các loại xe có và không động cơ, tầng cao dành riêng cho đường métro số 6. Cầu nằm sát bên khu nhà đồ sộ của bộ Kinh tế-Tài chính, với hơn 200.000 mét vuông diện tích văn phòng, bãi đáp cho trực thăng trên nóc (được quay trong phim "Mission Impossible 6" với tài tử Tom Cruise) và cung Thể thao-Âm nhạc POBP (*) có sức chứa hơn 20.000 khán giả, nổi bật trên phố vì các phần tường nghiêng lợp cỏ.

Được xây dựng từ thế kỷ XIX (1861-1864) thay cho chiếc cầu treo ở cùng vị trí, cầu Bercy, với chiều dài 175m và chiều rộng 40m như hiện nay, được lên tầng năm 1905 để đường métro số 6 vượt sông Seine ở đoạn này. Cầu có các khoanh tròn phù điêu với vòng lá nguyệt quế và chữ N, biểu hiệu của tổng thống-hoàng đế Napoléon III.

(*) POPB : Palais des Omnisports de Paris Bercy

Cầu Charles de Gaulle

Như một nét kẻ trắng thẳng tắp dài 207m qua sông Seine, nối hai nhà ga quan trọng của Paris, ga Austerlitz bên tả ngạn với ga Lyon bên hữu ngạn, cầu Charles de Gaulle thuộc lớp cầu "trẻ", được hai kiến trúc sư Louis Arretche và Roman Karasinsky hoàn tất sau ba năm xây dựng (1993-1996).

Du khách đến thăm nước Pháp, có người "hoang mang" khi thấy đâu đâu, từ làng nhỏ đến phố lớn, đều có một con đường hay một công trình kiến trúc mang tên Charles de Gaulle. Riêng Paris, đã có quảng trường Charles de Gaulle- Étoile với Khải Hoàn Môn, phi trường quốc tế Charles de Gaulle-Roissy, bến sông Charles de Gaulle (dọc sông Seine, nơi điện Louvre) và chiếc cầu Charles de Gaulle này. Đủ để thấy sự bày tỏ lòng tri ân của người dân đối với vị tướng (sau này trở thành tổng thống) đã góp công giải phóng nước Pháp khỏi ách phát-xít Đức trong Đệ Nhị Thế chiến.

Riêng người Việt, khi đứng trên cầu Charles de Gaulle nhìn về ngọn tháp cao 67m với bốn mặt đồng hồ khổng lồ của ga Lyon, không ít người đã ngâm nga mấy câu thơ được phổ biến rộng rãi qua ca khúc "Tiễn em" của Phạm Duy :

Ga Lyon đèn vàng
Tuyết rơi buồn mênh mang
Cầm tay em muốn khóc
Nói chi cũng muộn màng…

(Chưa bao giờ buồn thế - Cung Trầm Tưởng)

Khách nhàn du dạo dọc bờ sông Seine, khi đi dưới bụng cầu Charles de Gaulle ghép bằng những tấm thép trắng dài, sẽ có cảm tưởng như đang luồn dưới cánh một chiếc phi cơ khổng lồ.

Cầu Austerlitz

Có đến hai chiếc cầu mang tên Austerlitz cùng song song bắc qua sông Seine ở đoạn này : cầu sắt (Viaduc d’Austerlitz) dành riêng cho đường métro số 5 ra vào ga Austerlitz và cầu Austerlitz bằng đá dài 174m, hướng vào đại lộ Bệnh viện (Boulevard de l’Hôpital) bên tả ngạn. Được xây dựng vào giữa thế kỷ XIX, cầu có nhiều phù điêu hình đầu sư tử, cờ và các loại vũ khí tượng trưng cho nền Cộng Hoà, nhưng lại mang tên vùng đất thuộc Tiệp, nơi ghi dấu chiến công hiển hách của hoàng đế Napoléon Đệ Nhất, đại thắng liên quân Áo-Nga vào năm 1805.

Từ cầu Austerlitz, nếu đổ dọc theo đại lộ Bệnh viện, phía trái, người đi bộ sẽ thấy một phần của ga Austerlitz, bên phải là vườn Bách thảo với cả chục ngàn loại cây cỏ khắp thế giới mọc trong-ngoài các nhà kính, cùng nhiều bảo tàng chứa xương khủng long, cá voi, chim dodo và các loài thú đã tuyệt chủng..., các loại đá quý, các bộ sưu tầm côn trùng, bên cạnh chim chóc, voi, hươu cao cổ, tê giác... nhồi (khoảng 67 triệu tiêu bản) được sắp xếp sống động với hệ thống đèn rọi tân tiến.

Để xứng với cái tên đại lộ Bệnh viện, khi tiếp tục dạo bước, du khách sẽ thấy bệnh viện Pitié-Salpêtrière, lớn nhất nước Pháp, bao gồm 90 toà nhà và vườn cây trên một diện tích 33 mẫu, được vua "Mặt Trời" Louis XIV cho xây dựng từ giữa thế kỷ XVII, đã gợi hứng cho nhiều quyển tiểu thuyết ra đời và là hậu cảnh của nhiều bộ phim Pháp. Đây cũng là nơi các sinh viên khoa Y của trường đại học Sorbonne học hỏi, nghiên cứu và thực tập. Điểm đến của đại lộ Bệnh viện chính là quảng trường Italie (Place d’Italie), nơi bắt đầu xuất hiện nhiều tiệm ăn Việt, Thái, Hoa, Nhật, Hàn... hướng vào Chinatown của Paris.


Cầu Phố Trung


Tập trung 23 chiếc cầu ngắn nhất, xưa nhất, tình nhất, thơ mộng nhất, oai hùng nhất, huyền hoặc nhất… của Paris, phần lớn nối đôi bờ tả-hữu ngạn với hai hòn đảo Cité và Saint-Louis.


Cầu Tournelle

Với chiều dài 120m, chiếc cầu bằng bê-tông cốt sắt này nối tả ngạn với đảo Saint-Louis, hoàn tất sau 4 năm xây dựng (1924-1928). Ở đầu cầu phía tả ngạn, có một tháp trắng cao vút, trên đặt tượng nữ thánh Geneviève, tay chạm vào vai một bé gái. Bà là nữ thánh bảo hộ của Paris, tương truyền đã đốc thúc dân chúng chuẩn bị chống công thành, đồng thời dùng lời cầu nguyện ngăn không cho quân Hung Nô của Thiền Vu tấn công thành phố Lutèce (tên cũ của Paris) vào năm 451.

Ngày cắt băng khánh thành cầu Tournelle, điêu khắc gia Paul Landowski, người tạc tượng thánh Geneviève, vắng mặt : ông không hài lòng vì đề nghị để tượng nữ thánh hướng về nhà thờ Đức Bà Paris bị từ chối ; hội đồng thành phố đã quyết định để tượng quay lưng lại Notre Dame de Paris và mặt hướng về phía đông, nơi năm xưa, vó ngựa đoàn quân thiện chiến của Attila đã dừng lại và đổi hướng, sau khi dẫm nát ruộng vườn, thành quách của đế chế La Mã khắp Âu châu, khiến cỏ không mọc nổi dưới bước viễn chinh như lời truyền tụng.

Cầu Marie

Được mệnh danh là "Cầu Tình Nhân", cầu Marie dài 92m, nối đảo Saint-Louis và hữu ngạn sông Seine, được vua Louis XIII đặt viên đá đầu tiên năm 1614, khởi công cho cuộc xây dựng dài hơi hơn 20 năm. Khi ngắm Paris bằng đường thuỷ trên các con tàu của hãng Bateau-Mouche, khách du lịch sẽ được báo trước khi tàu chui vào vòm cầu : "Quý vị hãy ước một điều và hôn nhau để điều ước đó trở thành hiện thực". Từ bao năm nay, tóc ngắn, tóc dài, tóc demi-garçon (*), tóc vàng sợi nhỏ (**) hay tóc màu củi chưa đun (***), tóc nào đã cuốn lấy tóc nào lùa vào nhau nhóm lửa (***) trong bóng tối của vòm cầu Marie ?

(*) thơ Nguyễn Tất Nhiên
(**) thơ Cung Trầm Tưởng
(***) thơ Nguyên Sa

Cầu Saint-Louis

Là chiếc cầu chỉ có một nhịp dài 67m, dành riêng cho người đi bộ và xe không động cơ, cũng là chiếc cầu duy nhất nối liền hai hòn đảo Cité và Saint-Louis của Paris. Cầu được xây năm 1970, đúng tại vị trí của ba chiếc cầu đã lần lượt bắc qua sông Seine những năm 1627, 1709, 1861 và sau đó bị phá huỷ. Đứng từ đây, bộ hành nhìn thấy được một phần nhà thờ Đức Bà và toà Thị chính Paris. Sát bên cầu, nằm phía dưới một công viên nhỏ ở chóp đảo Cité, du khách cũng có thể viếng thăm khu Tưởng niệm các nạn nhân Do Thái bị bức hại trong Thế chiến II. Mùa hè, xin đừng quên ghé mắt nhìn lớp lớp thanh niên, thiếu nữ thảnh thơi nằm phơi nắng dọc các bờ kè và nếm vị ngọt đặc biệt của tiệm kem Berthillon nổi tiếng trên đảo Saint-Louis.

Cầu Nhỏ / Hồng y Lustiger

Đúng với cái tên, cầu Nhỏ chỉ dài 31m, được xem là chiếc cầu ngắn nhất Paris bắc qua sông Seine. Chiếc cầu hiện nay, bằng xi-măng và đá cối (pierre meulière) được hai kỹ sư Michal và Darcel xây trong hai năm 1852-1853, thay chỗ cho những chiếc cầu gỗ hoặc đá trước đó, đã được dựng lên từ thế kỷ XVI, nhưng lần lượt bị thiêu huỷ hoặc bị nước lũ làm hư hại. Theo lời kể lại, một người mẹ có con trai bị chết chìm mất xác, đã theo tín ngưỡng thời bấy giờ, cắm ngọn nến trên mẩu bánh mì được ban phép thánh, đặt lên một cái chén rồi thả xuống sông. Khi chén đột nhiên dừng lại giữa dòng nước, tìm quanh đó, sẽ thấy xác người chết trôi. Rủi thay, cái chén có thắp nến tấp vào một con tàu chở rơm. Lửa bén, mọi người hò nhau cắt dây neo tàu. Nhưng thay vì chìm, con tàu tiếp tục bị dòng nước cuốn đi và va vào cầu Nhỏ, thiêu rụi chiếc cầu bằng gỗ với nhiều nhà cửa phía trên vào một đêm cuối tháng tư 1718.

Cầu Nhỏ nối tả ngạn với sân trước của nhà thờ Đức Bà Paris, ngôi thánh đường đã được gần 860 năm (1163-2022), nổi tiếng khắp thế giới với truyện dài lịch sử mang cùng tên của nhà văn Victor Hugo. Cùng với cầu Nhỏ (Petit Pont), còn có cầu Đôi (Pont au Double) và cầu Toà Tổng giám mục (Pont de l’Archevêché) nối tả ngạn sông Seine với đảo Cité, ở trước, giữa và phía sau nhà thờ Đức Bà, nơi đang được trùng tu sau trận hoả hoạn vào tháng 04.2019 (lại một tháng tư !) và dự định sẽ mở rộng cửa đón tín hữu vào năm 2024. Từ Cầu Nhỏ, nếu cứ vui chân thẳng tiến về phía tả ngạn, khách bộ hành sẽ bước trên đường Saint-Jacques, một trong những con đường xưa và dài nhất Paris, có từ thời La Mã, khi thủ đô nước Pháp còn mang tên Lutèce.

Cầu Saint Michel

Chiếc cầu bằng đá trắng, được xây năm 1857, nổi bật với các phù điêu chữ N có vòng nguyệt quế bao quanh, biểu tượng của Napoléon Đệ Tam dọc theo thân cầu, dài 62m, nối tả ngạn với đảo Cité. Phía đảo Cité, đầu cầu chạm vào khu toà án rộng lớn, nhưng ở giữa lại vươn cao tháp Thánh giá của giáo đường Sainte-Chapelle với những khung kính muôn màu, là nơi lưu giữ nhiều thánh tích quý giá, trong đó có mão gai và một mẩu gỗ thập tự của chúa Giê-su. Phía tả ngạn, cầu đổ vào đại lộ Saint-Michel, với tượng đài vị Tổng lãnh thiên thần đang chém quỷ Satan bên phải và khu La-tinh phía trái. Đại lộ Saint-Michel, với cái tên gọi thân mật « Boul’Mich’ », là nơi gặp gỡ và nảy sinh không biết bao nhiêu mối tình của nhiều thế hệ học sinh, sinh viên parisien. Các « Người em xóm Học » (*) từ Sorbonne và hai trường trung học danh tiếng Henri IV, Louis le Grand đổ về đại lộ này, cùng mua sách, uống cà phê, bát phố, ngắm điện Chư Thần (le Panthéon) hay đắm đuối trao nhau những nụ french kiss dưới vòm lá vườn Luxembourg. Vì thế, Nguyên Sa, trong bài thơ "Paris", đã viết :

Dù đêm nay tôi vẫn làm thơ
Dặn những người con gái nhỏ đi về
Trên hè phố Saint Michel
Gò má đỏ phồng bánh gaufre
Để những hạt đường rơi trên má
Lau vội làm gì cho có duyên…

(*) truyện ngắn Kiệt Tấn


Cầu Mới (Pont Neuf)

Tương tự cầu Sully nối tả ngạn với đảo Saint-Louis rồi lại nối đảo này với hữu ngạn, cầu Mới gồm 2 phần, với 7 nhịp nối tả ngạn vào đầu veo đảo Cité cùng 5 nhịp nối đảo Cité vào bên hữu ngạn. Cùng với cầu Marie và cầu Hoàng gia (Pont Royal), cầu Mới thuộc vào nhóm cầu của thế kỷ XVII còn sót lại cho đến ngày nay.

Trái ngược với cái tên, cầu Mới lại là chiếc cầu xưa nhất của Paris. Dài 140m, xây dựng ròng rã trong vòng gần 30 năm, cầu được vua Henri IV khánh thành năm 1604, với nhiều cái "mới" của thời đó : là chiếc cầu đá đầu tiên của Paris không có nhà ở và có lề dành riêng cho người đi bộ. Trước đó, cầu Paris đều bằng gỗ, lại chịu sức nặng của nhà cửa, hàng quán phía trên (tượng tự như chiếc cầu nổi tiếng Vecchio của Florence/Firenze ở Ý hiện nay) nên, nếu thoát được khỏi tay bà Hoả, rồi cũng sụp đổ sau những lần nước lũ đổ về.

Được trang trí ven thành cầu bằng hàng trăm đầu nhân dương (satyre) bằng đá, mỗi đầu một vẻ, cầu Mới còn có tượng đồng vua Henri IV ngồi trên ngựa đặt ở bệ cao sừng sững giữa cầu. Đây là phiên bản của bức tượng đã bị phá huỷ thời Cách mạng Pháp. Theo lời đồn, Mesnel, người chạm trổ cho phiên bản này, vốn theo tư tưởng của Napoléon Bonaparte, đã dấu nhiều tài liệu chống đối hoàng gia trong ruột tượng. Mãi đến năm 2004, để làm sáng tỏ sự việc, pho tượng này đã được "mổ bụng" : người ta tìm thấy bên trong 7 hộp tài liệu với huy chương cùng các thông tin về việc khánh thành tượng, về vua Henri Đệ Tứ, Voltaire… Điều đáng nói là có 3 cuộn giấy đầy chữ mang triện của Mesnel cũng được tìm thấy, nhưng không ai hiểu nổi ý nghĩa của những dòng chữ này. Bí mật vẫn chưa được bật mí !

Chưa hết chuyện về cầu Mới : năm 1974, người ta tìm thấy một con cá sấu sông Nil (Ai Cập) dài 75 cm tá túc dưới cầu. Được mời vào sở thú, ngày nay, cô nàng mang tên Éléanore đã dài 3m, nặng đến 300kg. Chỉ một năm sau ngày tìm thấy Éléanore, với 40.000 mét vuông vải, nghệ sĩ người Mỹ Christo đã tạo "sự kiện" bằng cách bọc kín chiếc cầu này, gây tiếng vang trên khắp thế giới.

Cầu Mới còn được du khách ghé thăm Paris nhắc nhở nhiều vì là một trong những điểm khởi hành của các chuyến tàu du lịch lênh đênh một tiếng đồng hồ trên sông Seine. Trong "Ngày sanh của rắn", nhà thơ Phạm Công Thiện có vài dòng dành riêng cho cầu Mới :

Đứng ngang cầu Pont-Neuf
Nhìn sông Seine tôi thấy Cửu Long
Paris đuổi mất mây mộng hoang đường
Đập vỡ cơn điên trên triền đá sương…

Cầu Nghệ thuật (Pont des Arts)

Gồm 7 nhịp, mỗi nhịp dài 22m, chiếc cầu thanh mảnh với sự kết hợp giữa đá, thép và gỗ này nối liền bảo tàng viện Louvre bên tả ngạn và Học viện Pháp quốc với 5 viện Hàn lâm bên hữu ngạn. Được kiến trúc sư Louis Arretche xây dựng lại trong 2 năm 1982-1984, cầu Nghệ thuật dành riêng cho người đi bộ và xe không động cơ, với nhiều băng ghế đặt giữa cầu để bộ hành nghỉ chân và… hôn nhau ! Từ 2008, người ta bắt đầu thấy những "ổ khoá tình yêu" gắn vào các lưới thép bảo vệ thành cầu. Qua nhiều năm, cả trăm ngàn ổ khoá bằng kim loại gắn chi chít vào đây, cuối cùng đã trở thành mối hoạ lớn cho cầu Nghệ thuật : trọng lượng "quá tải" khoảng 54 tấn không được tính trước này có thể làm cầu gãy, sập như chơi ! Năm 2015, tất cả hệ thống lưới thép và ổ khoá này bị dỡ bỏ, thay bằng lớp kính trong và dày bọc lấy thành cầu, nhưng không ngăn được các cặp tình nhân, từ khắp thế giới đổ về thăm Paris, sẽ tìm một nơi nào đó dọc sông Seine, móc khoá tình vào và thề thốt trọn đời chung thuỷ bên nhau.

Trong nhóm "Cầu Phố Trung", nếu tính theo dòng chảy của sông Seine từ đông sang tây, cầu Nghệ thuật là chiếc cầu đầu tiên nối liền tả ngạn với hữu ngạn, nơi sông Seine mở ra khá rộng, nên đứng ở đây, sẽ cảm nhận được rõ nét sự mênh mang của dòng sông và vẻ nên thơ của Paris :

Rồi trăm năm sau nữa
Bước chân ai qua chốn này
Dòng sông Seine lờ lững
Tóc xanh mây chiều vẫn bay

(Sông Seine chiều gió xoá – Hoàng Quốc Bảo)


Cầu Léopold Sédar Senghor / Solferino


Lại thêm một chiếc cầu bằng thép và gỗ dành riêng cho người đi bộ, nối vườn "thượng uyển" Tuileries phía tả ngạn với viện bảo tàng Orsay phía hữu ngạn, nơi lưu trữ nhiều bức tranh nổi tiếng của các hoạ sĩ thuộc phái Ấn tượng : Monet, Manet, Renoir, Cézanne, Degas… cùng tranh, tượng của Van Gogh, Gauguin, Toulouse-Lautrec, Rodin… Thuộc thế hệ cầu của thế kỷ XX, với một nhịp duy nhất dài 106m, gồm 2 tầng là 2 đường cong giao nhau ở điểm giữa mỗi đường, cầu vinh danh nhà thơ-tổng thống Léopold Sédar Senghor (1906-2001) người Sénégal, từng là bộ trưởng Pháp và giữ ghế số 16 trong viện Hàn lâm Pháp suốt 18 năm cho đến ngày qua đời (1983-2001). Ở cùng vị trí, chiếc cầu cũ Solferino bằng gang được tổng thống-hoàng đế Napoléon Đệ Tam khánh thành năm 1861, mang tên một chiến công hiển hách của ông, thắng quân Áo. Cầu này được thay bằng một chiếc cầu thép năm 1961 và cuối cùng là chiếc cầu hiện nay, do kiến trúc sư Marc Mimram thiết kế và xây dựng từ 1997 đến 1999.

Gần chân cầu phía hữu ngạn, có bức tượng của Thomas Jefferson (1743-1826), từng là đại sứ tại Paris trước khi được bầu chọn làm tổng thống thứ 3 của Hoa Kỳ.

Cầu Hoà hợp (Pont de la Concorde)

Kiến trúc sư Jean-Rodolphe Perronet đã dùng những viên đá của ngục Bastille để xây chiếc cầu dài 153m này, với thâm ý để dân chúng thủ đô có thể thoải mái giẫm bước lên một trong những biểu tượng của nền quân chủ đã bị phá huỷ trong Cách mạng Pháp 1789.

Phía tả ngạn, cầu Hoà hợp nhìn vào toà nhà Quốc hội (Hạ viện) Pháp (toà Thượng viện toạ lạc trong một góc vườn Luxembourg). Phía hữu ngạn, cầu hướng thẳng vào quảng trường Concorde, nơi hơn 1000 người đã bị xử trảm chỉ trong vòng 2 năm 1792-1974 : vua Louis XVI, hoàng hậu Marie-Antoinette, các nhà cách mạng Robespierre, Danton, khoa học gia Lavoisier… Quảng trường đẫm máu này hiện nay là quảng trường lớn nhất Paris, chính giữa đặt cột đá obélisque cao 23m đầy chữ tượng hình, quà tặng của phó vương Ai Cập năm 1831, hai bên có hai đài phun nước "Các vùng biển" và "Các dòng sông" (Fontaines des Mers et des Fleuves). Đây cũng chính là nơi dựng lễ đài để tổng thống Pháp và quan khách duyệt binh vào dịp quốc khánh 14.07 hàng năm.

Cầu Alexandre Đệ Tam

Được tôn vinh là chiếc cầu thơ mộng nhất Paris, với 32 cột đèn đồng lung linh mỗi khi đêm về, chạm trổ đầy hoa văn từ chân đến bóng, cùng nhiều phù điêu, tượng đồng đen, tượng đá trắng, tượng mạ vàng ở hai đầu và dọc theo thân cầu. Cầu Alexandre Đệ Tam được tổng thống Pháp Emile Loubet cắt băng khánh thành đúng vào dịp có cuộc Triển lãm Hoàn vũ năm 1900 tại Paris. Trước đó 4 năm, chính sa hoàng Nicolas Đệ Nhị đã đặt viên đá đầu tiên để xây dựng chiếc cầu này, tượng trưng cho mối giao hảo của hai nước Nga-Pháp. Sau Cách mạng tháng Mười, vị vua này cùng toàn gia đình đã bị những người cộng sản bolchevik sát hại năm 1918.

Cầu Alexandre III gồm 3 phần : một nhịp bằng thép đúc dài 107,5m bắc qua sông Seine, nối với hai đầu cầu bằng đá trụ trên bến sông, mỗi đầu cầu dài 22,5m. Hai bên thành cầu có tượng các nàng tiên thiên nhiên (nymphe) của sông Seine và sông Neva với nụ cười và thân thể khêu gợi chào đón khách vãng lai. Vì vẻ tráng lệ của cây cầu này, hơn 20 bộ phim màn ảnh lớn (kể cả bộ phim hoạt hoạ Anastasia của Don Bluth) và vô số phim quảng cáo của các hãng nước hoa, mỹ phẩm, xe hơi danh tiếng đã có cảnh quay ở đây.

Phía tả ngạn, cầu Alexandre III hướng thẳng vào điện Phế binh (Les Invalides), hiện là viện bảo tàng Quân đội, có ngôi mộ Napoléon Đệ Nhất và nhiều tướng lĩnh của quân đội Pháp. Phía hữu ngạn, trục nhìn của cầu thẳng góc với đại lộ Champs-Élysées, với hai bên trái, phải là hai viện bảo tàng nổi tiếng Grand Palais và Petit Palais.

Cầu Alma


"Nước lên tới đâu trên người ổng rồi ?", dân parisien lo lắng hỏi nhau như vậy mỗi khi nước lũ sông Seine tràn về thủ đô nước Pháp. "Ổng" chính là pho tượng đá của người lính Algérie đặt dưới chân cầu Alma, chỗ nối hai nhịp không đều nhau. Tượng đặt trên bệ đá, cao khoảng 9 m so với mực nước sông, vậy mà trong trận lũ năm 1910, nước đã ngập đến ngang ngực pho tượng này : năm đó, dân của nửa thành phố Paris phải dùng thuyền để di chuyển !

Ở vị trí của chiếc cầu cũ xây vào giữa thế kỷ XIX, chiếc cầu bằng thép dài 142m này được hoàn thành sau 5 năm xây dựng (1969-1973), có hàng cột đèn cao, mỗi đèn 4 bóng vàng thuôn, như những con mắt trần gian (*) đổ xuôi ánh sáng soi xuống lòng sông đen thẫm.

Đầu cầu, phía hữu ngạn, có đặt tượng mạ vàng mô phỏng ngọn lửa của nữ thần Tự do, là món quà của báo International Herald Tribune tặng Paris. Sau tai nạn xe hơi thảm khốc của công nương Diana trong đường hầm gần đó, đây trở thành nơi đặt hoa tưởng niệm của những người mến mộ bà.

(*) nhạc Trịnh Công Sơn

Cầu Iéna


Được kỹ sư Lamandé xây sau chiến thắng Iéna của hoàng đế Napoléon Đệ Nhất (1806), kết hợp đá và gạch, cầu gồm 5 nhịp đều đặn, dài 140m, hai bên thân cầu được đắp nổi nhiều hình chim ó hoàng gia cổ choàng vòng nguyệt quế. Ở hai đầu cầu, đặt trên 4 cột cao, là nhóm tượng người-ngựa : chiến binh gaulois, Hy Lạp, La Mã và Ả Rập cùng chiến mã.

Phía tả ngạn, hướng nhìn của cầu Iéna xuyên qua chân tháp Eiffel ngất ngưởng cao 330 m, băng ngang Champs de Mars cỏ hoa tươi mướt, xưa kia là bãi tập ngựa của học viên kỵ binh, rồi ngừng nơi trường Quân sự (École Militaire) do vua Louis XV xây dựng từ giữa thế kỷ XVIII. Phía hữu ngạn, cầu Iéna nhìn thẳng vào cung Chaillot với viện bảo tàng Con Người, bãi cỏ, vòi phun nước và vườn cây cùng quảng trường Trocadéro. Tại đây, có khoảng rộng Nhân quyền (Parvis des droits de l’homme) là nơi nhiều sắc dân, trong đó có cộng đồng người Việt, thường tụ họp, biểu tình đòi hỏi sự tự do, bình đẳng, hoà bình, độc lập, thống nhất… thể hiện những ước ao, mong mỏi chính đáng nhất của con người. Chếch về phía trái, trong nghĩa trang Passy, có ngôi mộ khiêm tốn của cựu hoàng Bảo Đại, vị vua cuối cùng triều Nguyễn.


Cầu Phố Hạ


Trong nhóm cầu nối quận 15 với quận 16 Paris chỉ có 5 chiếc này (với Garigliano, cầu cao nhất Paris), đã có 3 chiếc gồm 2 phần, nối tả ngạn với hữu ngạn ngang qua đảo Thiên Nga. Đây là một hòn đảo nhân tạo, như một chữ I dài ngoằng, phủ đầy cây xanh, nên không được nhắc nhở đến nhiều như hai hòn đảo Cité và Saint-Louis nằm ngay trung tâm thành phố.

Cầu Bir-Hakeim


Chiếc cầu có cái tên "không tây một chút nào" này, dài đến 247m, là chiếc cầu có hai tầng, tầng cao dành cho đường métro số 6 và tầng thấp dành cho xe cộ, khách bộ hành và… cô dâu chú rể. Vì sao thế ? Với hàng cột kim loại cao lêu đêu trấn giữa cầu, nâng đỡ cho đường métro chạy lộ thiên trên cao qua sông Seine ở đoạn này, cầu tạo một cảm giác siêu thực, nên nhiều bộ phim nổi tiếng đã có cảnh quay ở đây, như "Bản tango cuối cùng ở Paris" (với Marlon Brando), "Gã chuyên nghiệp" (với Jean-Paul Belmondo), "Benjamin Gates và quyển sách kỳ bí" (với Nicolas Cage), "Inception / Sự khởi đầu" (với Leonardo DiCaprio), bộ phim truyền hình Mỹ "Dexter"… Điều này đã thu hút sự chú ý của các đôi uyên ương, nên mỗi lần đi qua đây, lại thấy họ diện quần áo ngày cưới để chụp hình, quay phim ngoại cảnh. Hơn nữa, chỉ cần rời hàng cột xám, bước sang bên kia đường xe chạy, giai nhân tài tử sẽ lại tha hồ nhập vai trên một bao lơn rộng nhìn ra sông Seine và tháp Eiffel, đặt ở mũi bắc đảo Thiên Nga. Cùng với quảng trường Trocadéro, bãi Champs de Mars, đây là nơi nhìn thấy tháp Eiffel đủ và đẹp nhất : mỗi năm, dân parisien đổ về cầu đông nghìn nghịt để xem đốt pháo bông đêm "cát-toóc duy-ê" 14.07.

Bir-Hakeim mang tên một địa danh ở Bắc Phi, thuộc Libye, nơi lực lượng "quân đội Pháp tự do" đã chiến thắng binh đoàn xe mô-tô liên quân Đức-Ý của tướng Rommel năm 1942. Để vinh danh một trong những chiến thắng mở đường cho sự phản công của quân đội Đồng minh trong Thế chiến II này, năm 1949, chiếc cầu xây từ đầu thế kỷ XX, với tên gọi cũ Passy đã được đổi sang tên gọi hiện nay.  

Cầu Grenelle

Với chiều dài 890m, hòn đảo nhân tạo Île aux Cygnes có đến 3 chiếc cầu bắc ngang qua : Bir-Hakeim ở đầu mũi bắc, Rouelle chỉ dành cho hệ thống đường sắt (RER C) ở giữa đảo và Grenelle ở đầu mũi nam. Có 3 kỹ sư cùng 3 kiến trúc sư đã tham gia xây dựng chiếc cầu này trong vòng 3 năm, từ 1966 đến 1968. Cầu gồm 3 phần : hai phần nối đảo Thiên Nga với hai bên tả-hữu ngạn dài 85m mỗi bên và phần băng ngang đảo dài 20m. Phía hữu ngạn, gần cầu, có đài Truyền thanh, trụ sở của Radio France.

Cạnh cầu Grenelle, ở chóp mũi nam đảo Thiên Nga, có đặt pho tượng đồng "Tự do soi sáng thế giới" cao 9 m của điêu khắc gia Auguste Bartholdi. Đây là mẫu thu nhỏ một phần tư của pho tượng nổi tiếng ở New York, quà tặng của Paris dành cho Hợp chúng quốc Hoa Kỳ năm 1885. Nguyên bản, chỉ cao 2,9 m, sau 100 năm phơi mình cùng nắng mưa trong vườn Luxembourg, đã được đưa về viện bảo tàng Orsay. Một phiên bản của bức tượng này cũng đã từng sừng sững đứng trên đỉnh tháp Rùa, sau đó được đưa về vườn hoa Cửa Nam Hà Nội trước khi bị giật sập và nấu chảy để đúc thành tượng Phật A-di-đà.

Cầu Mirabeau

Chiếc cầu màu xanh bằng thép này được xây dựng vào cuối thế kỷ XIX. Hai bên tay vịn thành cầu, nổi lên 4 tháp vuông cùng huy hiệu "thuyền vượt sóng" của thành phố Paris. Trụ trên các chân cầu cắm xuống dòng Seine, có tượng các nàng thiếu nữ khoả thân "Phồn vinh", "Thương mại", "Hàng hải". Chỉ riêng nàng "Paris" là có trang phục oai vệ chỉnh tề thôi !

Chiếc cầu rất đẹp này nằm ở một góc khuất của Paris, nên có vẻ như đang bị bỏ quên. Chân cầu trên bến dùng làm nơi chứa vật liệu của các công trường xây dựng. Sơn chống rỉ trên các pho tượng và thành cầu bị tróc lở nhiều. Tuy vậy, cầu Mirabeau lại chính là biểu tượng của sự lãng mạn : ở đầu cầu phía hữu ngạn, có gắn tấm bảng đồng với vài câu thơ của Guillaume Apollinaire về chiếc cầu này. Nhà thơ Apollinaire được người Việt biết đến nhiều qua ca khúc phóng tác "Mùa thu chết" của nhạc sĩ Phạm Duy, chuyển dịch từ bài thơ 5 câu "Adieu / Vĩnh biệt" của ông. Bài thơ "Cầu Mirabeau" nổi tiếng thế giới được ông viết năm 1912 đã có nhiều bản dịch sang tiếng Việt của Xuân Diệu, Tế Hanh, Phạm Công Thiện, Hoàng Hưng, Phan Cẩm Thịnh, Hàn Thuỷ…

Dưới cầu Mirabeau sông Seine trôi
Tình đôi ta
Nổi chìm sao bỗng nhớ
Nỗi buồn đi qua lại có niềm vui
Giờ mỗi điểm và đêm mỗi rơi
Ngày tiếp ngày đi ta còn đây
Tay nắm tay đôi ta đứng nhìn nhau
Tay bắc cầu
Sóng nước trôi hờ hững
Có gì đâu vẫn ánh mắt thiên thâu
Giờ cứ điểm và đêm cứ rơi
Ngày tiếp ngày đi ta còn đây


Tình đã rời xa như nước trôi mau
Tình đã rời
Bước đời sao quá chậm$
Và Hy vọng bùng lên mãnh liệt sao

Giờ hãy điểm và đêm hãy rơi
Ngày tiếp ngày đi ta còn đây

Ngày tháng dần qua sau những tháng ngày
Thời gian cũ
Và tình không trở lại
Dưới cầu Mirabeau sông Seine trôi

Giờ vẫn điểm và đêm vẫn rơi
Ngày tiếp ngày đi ta còn đây

(Guillaume Apollinaire - bản dịch của Hàn Thuỷ)


Những chiếc cầu của Paris, chỗ bao lứa đôi từng móc các "ổ khoá tình yêu" vào và thề thốt suốt đời bên nhau với bao nụ hôn đắm đuối, cũng chính là nơi họ soi bóng cùng nhau lần cuối trước khi nói lời chia tay. Hạnh phúc và chia lìa. Hợp đó rồi sẽ tan. Chỉ có dòng Seine, từ bao thế kỷ nay, vẫn cứ mải miết mải miết nước chảy qua cầu

Cổ Ngư

(bài và ảnh)
Thiais 09.2022


Liên kết để nghe nhạc :

Sông Seine chiều gió xoá – Hoàng Quốc Bảo
https://www.youtube.com/watch?v=NFPsPIZ4UMk 

Paris và em – Tùng Giang
https://www.youtube.com/watch?v=ayOxd5CCRMA

Mùa Thu Không Trở Lại - Phạm Trọng Cầu
https://www.youtube.com/watch?v=RVJwqEZfwBg

Nắng Paris, nắng Sài Gòn – Ngô Thuỵ Miên
https://www.youtube.com/watch?v=ecy8nUn-YZM

Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2022

Chuyện siêu công trình trên đại sa mạc Trung Đông

 Sự trỗi dậy của các tiểu quốc và quốc gia vùng Trung Đông trong lĩnh vực xây dựng phát triển các công trình ở quy mô vượt ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Câu chuyện về những “siêu công trình” với chiều cao siêu cao, diện tích siêu lớn giữa sa mạc mênh mông gây nên sự tò mò, hấp dẫn đối với đại chúng thế giới.

    Từ chỗ không thể định hình nổi vị trí của các tiểu quốc như Dubai, Abu Dhabi giữa sa mạc rộng lớn, chỉ biết đại khái ở vùng Trung Đông nhiều dầu mỏ, thì ngày nay những tòa nhà cao chọc trời, những cảnh quan đặc sắc, những công trình văn hóa độc đáo đã trở thành biểu tượng nhận diện không thể nhầm lẫn cho những điểm đến hấp dẫn của thế giới ở vùng Trung Đông.

    Hình ảnh thu hút của điểm đến hôm nay đều có những câu chuyện kiến trúc đằng sau nó. Và đó là… 

    Kiến trúc cao nhất thế giới Burj Khalifa 

    Với chiều cao 828 mét trên nền sa mạc Dubai, tháp Burj Khalifa là công trình cao nhất thế giới, được thiết kế bởi văn phòng kiến trúc danh tiếng SOM, Mỹ. Mặt bằng hình ngôi sao ba cánh vừa là thế chân vạc cho chiều cao siêu tưởng, vừa tối ưu hóa tầm nhìn toàn cảnh của vịnh Ả Rập. Thiết kế kiến trúc này cũng lấy cảm hứng từ một loại hoa sa mạc cũng như hệ thống hoa văn của kiến trúc Hồi giáo. 

    Ở giai đoạn cao điểm của dự án này, SOM từng phải duy trì 100 người làm việc chỉ riêng cho dự án này, chưa kể đội ngũ trực tiếp tại Dubai. Công nhân làm việc tại công trường là 12.000 người, đã dành tổng cộng 22 triệu giờ làm việc để hoàn thành công trình.

    Lượng bê tông đổ vào để xây dựng tòa nhà có thể tích là 330.000m3, tương đương trọng lượng của 100.000 con voi. Đỉnh của tòa nhà này có thể được nhìn thấy từ khoảng cách 95km. Để lưu thông trong tòa nhà này cần đến 57 thang máy tốc độ 10m/s tải trọng đến 5,5 tấn và 8 thang cuốn. Tổng lộ trình di chuyển thang máy lên sàn vọng cảnh của tòa nhà đến cuối năm 2014 tương đương với 8 lần đi vòng quanh thế giới.

    Có thể nói, Burj Khalifa là một đỉnh cao thành tựu thể hiện tầm nhìn của Dubai nhằm tạo ra điều tưởng như là không thể và ghi dấu ấn mãi mãi trong lòng thế giới. Bằng công trình này, Dubai đã khẳng định khả năng của Tiểu vương quốc này với toàn thế giới. Burj Khalifa như ngọn hải đăng biểu tượng cho sự giàu có của thành phố và là biểu tượng cho Trung Đông sôi động, năng động và thịnh vượng.  

    Khung cửa sổ Dubai (Dubai Frame)

    Cao 150 mét và rộng 95 mét trên nền công viên Zabeel của Dubai, “Khung ảnh lớn nhất thế giới” đã chính thức mở cửa từ năm 2018. Được biết đến với cái tên Dubai Frame, công trình kiến trúc này là một trong những siêu dự án bắt mắt của thành phố, mang đến tầm nhìn toàn cảnh đường chân trời trong một khung hình với các tòa nhà mang tính biểu tượng như Burj Khalifa. 

    Thiết kế của cấu trúc Dubai Frame cao 150 mét không phải là không có tranh cãi: ý tưởng ban đầu xuất hiện với tư cách là thiết kế đoạt giải trong cuộc thi ThyssenKrupp năm 2008-2009 của KTS Fernando Donis, người sau đó đã đệ đơn kiện thành phố Dubai vì ăn cắp bản quyền đối với thiết kế của mình.

    Trong một cuộc phỏng vấn năm 2015, Donis nói với Archinect: “Cuối cùng, họ đã lấy nó, xây dựng nó và sẽ thu lợi nhuận từ nó, mà không liên quan đến chúng tôi cũng như trả tiền cho chúng tôi”.

    Theo Fernado Donis, ý tưởng ban đầu khi tham gia cuộc thi thiết kế, ông đã coi Dubai như một thành phố đầy những biểu tượng và thay vì thêm một biểu tượng khác, ông đã đề xuất đóng khung tranh tất cả những biểu tượng này bằng công trình của mình. Thay vì xây dựng một công trình kiến trúc đồ sộ, ý tưởng thiết kế là xây dựng khoảng trống 150x105 mét để liên tục định hình sự phát triển của Dubai trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

    Thực chất thì cấu trúc dạng khung cửa này cũng đã từng có ở công trình “tân khải hoàn môn” của Paris - La Grande Arche de la Defense từ năm 1982. Thậm chí La Grande Arche này còn là một cấu trúc mang nhiều công năng hơn, cả từ không gian văn phòng làm việc bên trong đến tuyến metro bên dưới. Dù vậy, Dubai Frame cũng là một trong những điểm đến phản ánh tính hào nhoáng, bóng bẩy, thu hút du khách đến thành phố trung chuyển này của thế giới. 

    Bảo tàng Louvre Abu Dhabi 

    Kiến trúc sư Jean Nouvel đã tuyên ngôn về công trình bảo tàng Louvre ở Abu Dhabi của mình như sau: “Tất cả các vùng khí hậu đều thích những trường hợp ngoại lệ. Ấm hơn khi trời lạnh. Mát hơn ở vùng nhiệt đới. Con người không chống sốc nhiệt tốt. Các tác phẩm nghệ thuật cũng vậy. Những quan sát cơ bản như vậy đã ảnh hưởng đến Louvre Abu Dhabi. Nó mong muốn tạo ra một thế giới chào đón một cách thanh thản, kết hợp giữa ánh sáng và bóng tối, sự phản chiếu và bình tĩnh.

    Nó muốn thuộc về một quốc gia, về lịch sử của nó, về địa lý của nó mà không trở thành một bản dịch phẳng, một chủ nghĩa tổng hợp dẫn đến sự nhàm chán và quy ước. Nó cũng nhằm mục đích nhấn mạnh sự mê hoặc được tạo ra bởi những cuộc gặp gỡ hiếm hoi”.

     

    Khái niệm mà Jean Nouvel muốn chuyển tải là một cơn mưa ánh sáng (rain of light), tạo cho người tham quan cảm giác giống như đang ở trong sự dễ chịu dưới tán cọ dầu giữa sa mạc. Ý tưởng đơn giản chỉ là một vòm mái úp trên tổ hợp phòng trưng bày phân tán như một dãy phố cổ Trung Đông. Dây chuyền bảo tàng dựa trên nền mặt bằng không gian như đô thị này cho một trải nghiệm khám phá thư giãn, đắm mình trong bầu không khí nghệ thuật đậm đặc của sa mạc mênh mông. 

    Khả năng tiếp cận bảo tàng bằng thuyền hoặc tìm một chiếc phao để đến bảo tàng bằng cách đi bộ từ bờ cũng phi thường không kém, trước khi được chào đón như một du khách được chờ đợi sẵn sàng xem các bộ sưu tập độc đáo, nán lại các hiệu sách hấp dẫn hoặc thưởng thức các loại trà, cà phê địa phương và món ngon.

    Với diện tích 24.000m2 tổng cộng, trong đó có 8.000m2 phòng trưng bày nghệ thuật, khẳng định vị thế bảo tàng nghệ thuật lớn nhất ở bán đảo Ả Rập. Chính quyền Abu Dhabi đã phải trả cho nước Pháp khoản tiền 525 triệu đô la Mỹ để gắn với tên của Louvre và 747 triệu đô la Mỹ sẽ được thanh toán để đổi lấy việc mượn các tác phẩm nghệ thuật, trưng bày triển lãm và tư vấn quản lý.

    Với sự thành công và thu hút của nó, dường như đây là một khoản đầu tư có hiệu quả của người Abu Dhabi cho kiến trúc và nghệ thuật. 

    Bảo tàng Tương lai 

    Với chiều cao 78 mét, Bảo tàng Tương lai (MOTF) nằm cách xa đường chân trời nổi tiếng của Dubai, nơi có những tòa nhà chọc trời như Burj Khalifa cao nhất thế giới. Tuy nhiên, với hình dạng táo bạo và mặt tiền nổi bật được tạo bởi hơn 14.000 mét thư pháp Ả Rập, nó chắc chắn thành công trong việc trở thành biểu tượng mới nhất của đô thị.

    Với tổng diện tích xây dựng hơn 30.000m2, MOTF có không gian triển lãm về các hệ tư tưởng và sản phẩm sáng tạo, cũng như không gian nhà hát, phòng thí nghiệm và trung tâm nghiên cứu.

    Tượng trưng cho di sản Ả Rập và sự tiến bộ trong tương lai, MOTF bao gồm ba phần chính: ngọn đồi xanh, tòa nhà và khoảng không. Ngọn đồi xanh đại diện cho cội nguồn trái đất, giúp nâng cao bảo tàng một cách kín đáo phía trên tuyến tàu điện ngầm liền kề và tạo ra một công viên trên cao.

    Tương tự như vậy, cấu trúc hình xuyến tượng trưng cho khả năng đổi mới của nhân loại và đẩy lùi các giới hạn của kỹ thuật và xây dựng hiện đại. Mặt khác, khoảng trống hình elip là một biểu hiện của “điều chưa biết” nhằm tìm cách truyền cảm hứng cho những người sáng tạo ngày nay đối mặt với tương lai bất thành văn của nhân loại.

    Để giải quyết cho khâu triển khai đầy phức tạp của ý tưởng có vẻ siêu thực này, dự án đã áp dụng nhiều sáng tạo liên quan đến công nghệ và vật liệu xây dựng. Ví dụ như việc phát triển các công cụ thiết kế tham số với các thuật toán tăng trưởng “để tối ưu hóa hiệu quả kỹ thuật số cho sơ đồ cấu trúc chính, mặt tiền và các cấu phần mặt dựng kính”. 

    Các quy trình công nghệ cao, như phần mềm hàng không và cánh tay robot tự động, đặc biệt cần thiết để ghép các tấm thư pháp phủ bên ngoài lại với nhau. Phần mềm mô hình 3D đã được sử dụng để đặt chữ thư pháp lên bề mặt của tòa nhà và đảm bảo rằng 1.000 nút đường chéo bằng thép được tránh ở giữa các cửa sổ. Để đặt chính xác các tấm vào cấu trúc khi triển khai, đồng thời đảm bảo chúng không bị biến dạng, công trình đã áp dụng hệ thống định vị laser nhiều lớp, cách này cũng để định vị chính xác đường chéo thép.

    Bảo tàng của Tương lai MOETF là một công trình điểm nhấn với kiến trúc và kỹ thuật có cách tiếp cận đột phá về ý nghĩa của một bảo tàng. Một trong nhưng điểm cốt lõi làm nên thành công của nó là sự hợp tác đa lĩnh vực và việc sử dụng sáng tạo các công nghệ mới nhất; từ robot đến thiết kế tham số, từ CNC đến phần mềm hàng không. Thúc đẩy các giới hạn của sự đổi mới, cột mốc mang tính biểu tượng mở đường hướng tới một tương lai đầy hứa hẹn, một nơi mà công nghệ tham gia vào môi trường xây dựng có lợi cho sự sáng tạo, hạnh phúc và bền vững.

    Bài: Kiến Vũ - Ảnh: Tư liệu

    Nhà văn Nguyên Ngọc: Về trí thức

     Bản chất của người trí thức là luôn đặt lại vấn đề, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có sẵn, đã ổn định, đã được coi là xong xuôi, ngay cả trong chính anh ta.

    Chắc chắn nhiều vị sẽ phát biểu về nhiều khía cạnh khác nhau của vấn đề rộng lớn này. Tôi chỉ xin chọn nói về một số khía cạnh sau đây, theo tôi là quan trọng. Và xin nói với tinh thần thẳng thắn như đã được kêu gọi.

    A - Định nghĩa trí thức

    1. Định nghĩa thế nào là trí thức là rất quan trọng, bởi từ đó mới có thể đặt đúng vấn đề vai trò của trí thức trong xã hội, cách ứng xử đúng đắn với trí thức, phát huy vai trò của trí thức...

    Trí thức đương nhiên là người làm việc bằng trí óc. Nhưng không phải mọi người lao động trí óc đều là trí thức. Tôi tán thành anh Cao Huy Thuần khi anh nhắc lại định nghĩa sau đây của J.P. Sartre. Sartre gọi một người nghiên cứu trên hạt nhân để cho nổ ra trái bom nguyên tử càng lúc càng tinh vi là nhà bác học. Cũng nhà bác học đó, khi ý thức được cái khí giới giết người ghê gớm ông nắm trong tay, đứng lên hô hào chống bom nguyên tử, người đó ông gọi là người trí thức.

    Như vậy một người được xác định là trí thức không phải căn cứ trên lượng kiến thức anh ta có, mà trên thái độ và hành vi xã hội của anh ta. Trí thức là người có trách nhiệm xã hội cao, dấn thân mạnh mẽ cho lý tưởng xã hội mà anh ta coi là đúng đắn, cao quý. Ở phương Đông ngày xưa người ta gọi người trí thức là "kẻ sĩ". Kẻ sĩ là người dấn thân vì lợi ích của toàn thiên hạ, sẵn sàng chiến đấu và hy sinh vì đại nghĩa của toàn thiên hạ. Trí thức như vậy là một phẩm cách đặc biệt, là một "chất" chứ không phải một "lượng". Một người có bằng cấp rất cao, một người có kỹ thuật rất tinh vi có thể là một nhà chuyên môn giỏi, một kỹ thuật viên cao cấp, nhưng chưa hẳn là một người trí thức.

    Nhà văn Nguyên Ngọc. Ảnh: Nguyễn Á

    Cần phân biệt việc đào tạo một đội ngũ chuyên môn cao với việc xây dựng một lực lượng trí thức cần thiết cho đất nước. Chẳng hạn kế hoạch đào tạo hai vạn tiến sĩ của Bộ Giáo dục và Đào tạo không đồng nhất với việc tạo ra hai vạn trí thức. Có thể có hai vạn tiến sĩ mà vẫn không có trí thức.

    Tôi không nói việc đào tạo bao nhiêu tiến sĩ đó là không quan trọng, nhưng đó là việc khác. Cứ coi như ta đã đào tạo được hai vạn tiến sĩ rồi, thì để cho hai vạn tiến sĩ đó trở thành hai vạn trí thức lại phải làm một việc khác, có thể còn khó khăn hơn rất nhiều, đó là làm cho họ có tư cách, phẩm tính trí thức. Việc ấy đòi hỏi những yêu cầu khác, mà tôi sẽ xin cố gắng nói sau đây.

    Tôi nghĩ hội nghị trung ương lần này nên bàn vấn đề xây dựng lực lượng trí thức đúng nghĩa của nó, tạo cho xã hội ta thật sự có một lực lượng có phẩm cách trí thức cao, đó là một việc đang bức xúc, chứ không phải chỉ có việc đào tạo một lực lượng có chuyên môn cao mà không có phẩm cách trí thức.

    2. Vì sao một xã hội lành mạnh cần có những người trí thức?

    Do từ định nghĩa trên kia, người trí thức thường là người vượt ra khỏi lĩnh vực chuyên môn của mình, lo "bao đồng" những việc chừng như không dính dáng gì đến chuyên môn của mình. Sartre gọi như vậy là "s'occupe de ce qui ne le regarde pas", lo những việc chẳng ăn nhằm gì tới mình. Việc không phải của mình mà anh ta lại coi là việc của mình, thậm chí chằm chằm tham gia, ráo riết can thiệp vào đó, cãi vã, tranh luận, chiến đấu có khi đến mất mình vì nó...

    Anh Cao Huy Thuần gọi đó là "xớ rớ", người trí thức xớ rớ, can dự vào việc của xã hội, của chính phủ, của nhà cầm quyền, "quấy rầy", không để cho người ta yên. Việc không phải của anh mà anh lại tha thiết coi là của anh, chính cái sự coi đó khiến anh trở thành người trí thức (chứ không phải là nhà chuyên môn đơn thuần).

    Xã hội cần những người xớ rớ như vậy, người cầm quyền luôn cần có những người như vậy quanh mình, không để cho mình yên, không để cho mình được yên trí, bởi vì đã yên trí thì tất là bắt đầu trì trệ, thậm chí sa sút, biến chất.

    Tự do là điều kiện sống còn của trí thức. Không có tự do tư tưởng thật sự, cụ thể, thiết thực thì không có trí thức. Xin nói rõ là họ cần tự do tư tưởng rộng rãi nhất, tuyệt đối, không có bất cứ rào cản, cấm kỵ nào. Họ phải có được quyền suy nghĩ đến cùng, trên mọi vấn đề, lật lại mọi vấn đề, không bị bất cứ sự cản trở nào.

    Nguyên Ngọc

    3. Bản chất của người trí thức là luôn đặt lại vấn đề, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có sẵn, đã ổn định, đã được coi là xong xuôi, ngay cả trong chính anh ta. Như Marx nói: người trí thức "phê bình không nhân nhượng về những gì đang hiện hữu, không nhân nhượng với nghĩa rằng họ không thụt lùi dù trước kết luận của chính mình hoặc trước xung đột với chính quyền, bất cứ chính quyền nào".

    Người trí thức như vậy là người luôn phê bình, trước hết là phê bình những kết luận tưởng đã xong của chính mình, không chịu dừng lại trong những kết luận ấy, không chịu coi đó đã là chân lý bất khả xâm phạm; rồi từ đó đối với xã hội cũng vậy, anh ta không bao giờ chịu dừng lại trước những điều đã được coi là chân lý "vĩnh cửu".

    Một xã hội muốn tiến lên thì phải thường xuyên tự nhìn lại mình, tự ý thức lại về chính mình. Trí thức là sự tự ý thức lại thường trực của xã hội. Tự ý thức lại, tự phê bình lại thường trực, không ngừng. Phê bình như vậy, trí thức góp phần giúp xã hội không dừng lại trên bất cứ một trật tự được coi là bất biến nào, giúp xã hội luôn tiến tới một trật tự tốt hơn, nhân đạo hơn, hợp lý hơn. Người trí thức do vậy mà trở thành lương tâm của xã hội, phát ngôn nhân của những lực lượng tiến bộ trong xã hội ở bất cứ giai đoạn nào của lịch sử.

    Trí thức là những người tự đặt mình ra khỏi thẩm quyền của mình. Thẩm quyền của họ chỉ là cái chuyên môn mà họ có. Khi vượt ra khỏi cái chuyên môn chật hẹp đó, bức xúc can thiệp, phê bình trật tự xã hội thì họ trở thành trí thức.

    Tại sao họ làm vậy? Tại vì, Sartre trả lời, "trí thức là người ý thức được sự xung đột xảy ra trong lòng họ và trong lòng xã hội giữa việc đi tìm sự thật qua thực tiễn hành động và hệ ý thức đang đô hộ. Ý thức được điều đó tức là khám phá ra những mâu thuẫn căn bản của xã hội, nghĩa là những xung đột giai cấp và, ngay trong lòng giai cấp thống trị, một xung đột hữu cơ giữa sự thật mà giai cấp đó nhân danh để thống trị và những huyền thoại, giá trị, tập tục mà nó bám giữ và truyền nhiễm vào những giai cấp khác để thống trị"...

    Giai cấp thống trị nào cũng cần tạo ra những "huyền thoại" và áp đặt vào xã hội để thống trị. Người trí thức là người ý thức được những huyền thoại đó, mâu thuẫn, xung đột giữa chúng và thực tiễn xã hội, quyết phá giải những huyền thoại đó, để cho xã hội tiến lên.

    Nhận thức này rất quan trọng: phải phân biệt việc đất nước cần có một đội ngũ chuyên môn giỏi (cũng là hết sức cần thiết và cấp bách) với việc xã hội cần có một lực lượng trí thức làm "chức năng" luôn tự hỏi lại về chính những giá trị đang được coi là chính thống của xã hội, luôn cật vấn về những gì đang có, luôn đặt lại vấn đề về các chuẩn mực đã được khẳng định.

    Có người đã nói theo một cách chơi chữ: trí thức giữ cho xã hội luôn "thức" chứ không ngủ. Đảng cần những người trí thức là vì như vậy, chứ không phải chỉ cần những nhà chuyên môn giỏi bảo gì nghe nấy, như những cái máy tinh xảo mà vô cảm. Nói cách khác Đảng và Nhà nước cần có những người trí thức chân chính để luôn bị quấy rầy, luôn có người quấy rầy mình hằng ngày, trong mọi việc, không bao giờ để cho mình yên mà tự thỏa mãn và dừng lại, khô cằn.

    Do vậy, thường xảy ra tình trạng người cầm quyền khó ưa được trí thức. Biết quý người luôn quấy rầy mình, luôn buộc mình không bao giờ được kiêu căng thỏa mãn, là phẩm chất của người cầm quyền giỏi. Tôi nghĩ nếu lần này Đảng đặt vấn đề bàn về trí thức thì chính là đặt vấn đề bàn về việc xây dựng lực lượng luôn quấy rầy mình đó, xây dựng cho họ cái phẩm chất dám và biết quấy rầy ấy, mạnh mẽ trao cho họ cái quyền đó, để cho xã hội và dân tộc tiến lên. Bởi Đảng không có quyền lợi riêng của mình, Đảng không có quyền lợi nào khác ngoài sự tiến lên không ngừng của xã hội, của đất nước.

    Bàn về vấn đề trí thức cũng là bàn về khả năng của Đảng, của người cầm quyền chấp nhận được sự quấy rầy thường trực của tiếng nói phản biện thường trực ấy. Nâng cao năng lực của Đảng, của người cầm quyền chịu đựng sự quấy rầy phản biện ấy, vì quyền lợi của đất nước.

    Tập sách của Nguyên Ngọc vừa ra mắt bạn đọc, phát hành bởi Nhã Nam và NXB Phụ nữ Việt Nam, tháng 6.2022. Ảnh: Lam Điền


    B - Nhận dạng trí thức Việt Nam

    1. Đặc điểm quan trọng nhất của trí thức Việt Nam là rất yêu nước. Cách mạng tháng Tám 1945, rồi suốt chiến tranh cứu nước, tuyệt đại đa số trí thức Việt Nam đều đi với cách mạng và kháng chiến, cống hiến hết mình cho dân tộc. Trong khi chẳng hạn ở Nga, sau Cách mạng tháng Mười 1917, tuyệt đại đa số trí thức lớn nhất đều bỏ ra nước ngoài, không đi với cách mạng.

    Đó là vì cách mạng Nga đậm tính giai cấp, trong khi cách mạng ta chủ yếu là vì vận mệnh của dân tộc, trí thức Việt Nam là trí thức của một dân tộc bị sa vào ách nô lệ phải đứng lên tự giải phóng cho mình. Đây là chỗ mạnh, đồng thời cũng tiềm tàng chỗ yếu của trí thức ở ta: họ thiết tha yêu nước, nhưng đồng thời cũng là trí thức nhỏ bé của một đất nước hàng trăm năm không có độc lập, được thực dân đào tạo chủ yếu nhằm phục vụ bộ máy thống trị của chúng. Những người ưu tú nhất trong số đó đã vượt lên, tận dụng ngay được bản chất ưu việt của nền văn hóa Pháp dầu nó được thực dân truyền bá với những mục đích khác, tự làm giàu cho mình và cho đất nước...

    Theo một cách nào đó thậm chí có thể nói chính nền văn hóa Pháp với những tư tưởng chói lọi của nó đã từng góp phần tạo nên cả một thế hệ những nhà cách mạng hiện đại Việt Nam. Trí thức Nga thì khác, phần lớn họ không đi với cách mạng, nhưng mặt khác họ là trí thức lớn của một quốc gia độc lập lâu đời, có phẩm tính trí thức lớn. Yêu nước nhưng nhỏ bé, tư cách trí thức không cao là đặc điểm cố hữu của trí thức ta.

    2. Sau cách mạng, nhất là từ sau 1950 (giải phóng biên giới, ảnh hưởng tư tưởng Mao tràn vào...), trí thức lại liên tục bị vùi dập, làm nhục, qua chỉnh huấn, cải cách ruộng đất, đấu tranh chống Nhân văn Giai phẩm, và nhiều cuộc đấu tranh khác, liên tục... Tư cách trí thức thuộc địa vốn đã nhỏ bé lại ngày càng bị làm cho nhỏ bé đi. Mỗi lần người trí thức muốn tự khôi phục lại vai trò, tư thế của mình, thì đều bị vùi dập thêm. Mặc dầu vậy, nhiều người trí thức đã vì lợi ích của dân tộc mà tự mình vượt lên, cống hiến hết mình cho sự nghiệp chung, nhiều người thật sự đã có đóng góp lớn, và đã làm vinh quang cho đất nước.

    Theo dõi cuộc đời và sự nghiệp của nhiều trí thức lớn ở ta suốt nhiều chục năm qua đều có thể thấy tình trạng đó: họ đều đã dũng cảm vượt qua những lần bị vùi dập bất công, vì lợi ích cao nhất của dân tộc mà quên mình đi, lao động dũng cảm và cống hiến. Cứ nhìn lại một số người tiêu biểu thì có thể thấy rõ: Trần Đại Nghĩa, Lê Văn Thiêm, Tạ Quang Bửu, Hoàng Tụy... Theo tôi, những đóng góp đó chưa được đánh giá đúng.

    Nhận thức này rất quan trọng: phải phân biệt việc đất nước cần có một đội ngũ chuyên môn giỏi (cũng là hết sức cần thiết và cấp bách) với việc xã hội cần có một lực lượng trí thức làm "chức năng" luôn tự hỏi lại về chính những giá trị đang được coi là chính thống của xã hội, luôn cật vấn về những gì đang có, luôn đặt lại vấn đề về các chuẩn mực đã được khẳng định.

    Nguyên Ngọc

    Một ví dụ rất gần đây: năm vừa qua giáo sư Hoàng Tụy tròn 80 tuổi, thế giới toán học coi là một dịp quan trọng để vinh danh và bày tỏ sự kính trọng, biết ơn công lao sáng tạo của ông đối với toán học thế giới. Một hội nghị quốc tế về toán học đã được tổ chức ở Pháp, có mặt những nhà toán học lớn trên thế giới, tôn vinh ông. Trong khi đó cho đến nay Đảng và Nhà nước ta không hề có một lời đối với ông vào dịp này. Thật là một lỗi nặng của chúng ta... Còn có thể kể nhiều ví dụ như thế nữa.

    Trong khi đó, cũng chính do cách nghĩ không đúng về vai trò của trí thức, tiếng nói phản biện xã hội vốn là thiên chức của trí thức, đối xử không đúng đối với những trí thức chân chính, định kiến nặng nề đối với những trí thức thẳng thắn và cương nghị, có tinh thần trách nhiệm cao với mọi vấn đề của xã hội, mặt khác, tất yếu, lại rất dễ tạo ra một loại trí thức dỏm, chuyên tâng bốc, nịnh hót những người cầm quyền, bao vây quanh họ những thông tin giả, gây rất nhiều tác hại. Loại đó hiện nay rất nhiều, làm ô nhiễm môi trường trí thức ở ta. Và rất nhiều khi lại được lãnh đạo ủng hộ, vì họ luôn nói dễ nghe, hóng gió mà nói theo.

    Tôi nghĩ nếu quả thật lần này Đảng muốn thật sự bàn về vấn đề trí thức, xây dựng lực lượng trí thức xứng đáng với dân tộc, cho nhiệm vụ phát triển mới của đất nước, thì không thể không nghiêm khắc tự kiểm điểm lại về những khuyết điểm không nhỏ ấy, đã có hệ quả triệt tiêu vai trò có thể to lớn của một lực lượng trí thức dân tộc đã tự phấn đấu rất kiên cường để là những trí thức không hề tầm thường.

    Quả thật, cho đến nay trong trí thức, còn có nhiều điều chưa được giải tỏa. Lòng tin của họ đối với lãnh đạo chưa cao. Đã đến lúc cần dũng cảm sòng phẳng trở lại một lần cho xong đối với một số vụ vùi dập trí thức từng xảy ra từ nhiều chục năm nay, nghiêm túc nhận khuyết điểm, nghiêm túc rút kinh nghiệm, để cho thanh thản với quá khứ và tránh mọi sai lầm lặp lại về sau.

    Những người trí thức chân chính chỉ cần một thái độ thật sự chân thành như vậy của lãnh đạo, để có lòng tin vững chắc mà nhẹ nhàng, hết lòng cống hiến vì sự nghiệp lớn.

    Một số trí thức Việt Nam tiêu biểu (từ trái): Trần Đại Nghĩa, Lê Văn Thiêm, Tạ Quang Bửu, Hoàng Tụy... Ảnh: TL


    C - Để phát huy tốt vai trò của trí thức

    Tôi nghĩ trước hết nên tránh cách nghĩ trí thức đòi hỏi sự đãi ngộ. Đối với người trí thức chân chính, nhấn mạnh đến đãi ngộ thậm chí đôi khi có thể là một sự xúc phạm đến họ.

    Để xây dựng và phát huy lực lượng trí thức, theo tôi cần:

    1. Trước hết nhận thức đúng về vai trò và chức năng của trí thức trong xã hội. Có thể nói một cách nôm na như thế này: trí thức sinh ra là để nói ngược. Chấp nhận tiếng nói ngược, ít nhất là bình đẳng với nó, tôn trọng nó, để tự ý thức rõ hơn về mình, công việc của mình, là bản lĩnh cần thiết của người lãnh đạo.

    Trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập rộng lớn ngày nay, tiếng nói ngược như vậy càng quan trọng, bởi trong chiến tranh dù rất ác liệt nhưng về tư tưởng thì là theo chiều thuận, nó phù hợp sâu xa với tình thần dân tộc và lòng yêu nước vốn là sức mạnh lâu đời của người Việt. Xây dựng xã hội mới khó hơn nhiều, vì có rất nhiều điều không phải đã có sẵn trong bản chất hay truyền thống của con người Việt, phải phá vỡ rất nhiều quan niệm cũ, xây dựng những quan niệm mới, thật sự là một cuộc cách mạng có thể còn sâu sắc hơn bao giờ hết. Chính lúc này cần phát huy vai trò của trí thức, cần có một lực lượng trí thức có tính độc lập cao, để từ đó có nhiều suy nghĩ mới, táo bạo, mở đường, sáng tạo.

    2. Yêu cầu cao nhất của người trí thức chân chính là được làm việc, được cống hiến, cống hiến tất cả tài năng, trí lực của mình cho đất nước, cho xã hội. Đãi ngộ họ đúng đắn là cần thiết, nhưng đãi ngộ rất nhiều mà không tạo điều kiện tốt nhất, rộng rãi nhất cho họ làm việc, thì đối với họ sẽ chẳng có nghĩa gì cả. Người trí thức chân chính thậm chí thường coi thường hình thức, ghét sự đãi bôi, khinh rẻ quyền lợi vật chất. Họ không cần những lời chào đón, đề cao hình thức, mà cần những điều kiện thiết thực để có thể làm việc, cống hiến nhiều nhất, hiệu quả nhất. Phải nói rằng chúng ta đang làm rất không tốt điều này.

    Xin nêu một ví dụ: ngay một nhà bác học tầm cỡ thế giới như Pierre Darriulat, hết sức yêu Việt Nam, tự nguyện đến ở và làm việc tại Việt Nam, nguyện hết lòng làm việc cho Việt Nam như một chiến sĩ tình nguyện không công, mà cho đến nay một số ít điều kiện làm việc tối thiểu cũng không được những người có trách nhiệm tạo cho ông. Những ý kiến tâm huyết và hết sức sâu sắc, thiết thực của ông về nhiều lĩnh vực quan trọng cũng bị những người và tổ chức có trách nhiệm bỏ ngoài tai. Qua một việc cụ thể này chúng ta đang làm cho nhiều trí thức người Việt trong nước và ngoài nước nản lòng.

    3. Bên cạnh những điều kiện về vật chất thật ra là rất ít ỏi người trí thức cần có, thì điều quan trọng, cơ bản, thiết yếu nhất đối với họ là tự do, tự do tư tưởng. Tự do là điều kiện sống còn của trí thức. Không có tự do tư tưởng thật sự, cụ thể, thiết thực thì không có trí thức. Xin nói rõ là họ cần tự do tư tưởng rộng rãi nhất, tuyệt đối, không có bất cứ rào cản, cấm kỵ nào. Họ phải có được quyền suy nghĩ đến cùng, trên mọi vấn đề, lật lại mọi vấn đề, không bị bất cứ sự cản trở nào.

    Cần thật sự trao cho người trí thức quyền tự do tư tưởng cao nhất. Phải nói thật rằng chúng ta đang làm không tốt điều này. Tôi thấy chúng ta đang có tâm lý nặng nề sợ trao nhiều quyền tự do tư tưởng cho trí thức, viện những cớ rất giả tạo, vớ vẩn như kiểu "thù trong giặc ngoài" để hạn chế tự do. Tôi cũng thật sự không hiểu được tại sao một số người được bố trí vào một số cương vị nào đó thì bỗng nhiên tự thấy mình có quyền cho ai được tự do, ai không đủ trình độ để được tự do, quyền cho người ta được tự do đến đâu thì vừa, lúc nào thì được..v.v.

    Vừa qua và hiện nay đang có một số việc làm vụng về, thiển cận, vô ích, và gây bất bình, mất lòng tin trong trí thức, làm cho tình hình nặng nề một cách không cần thiết, chẳng hạn như cách xử lý đối với tập thơ Trần Dần vừa rồi, hoặc theo chỗ tôi được biết những ý đồ tìm cách giải tán viện IDS, nơi đang có những tiếng nói phản biện của nhiều trí thức có trình độ, giàu tâm huyết, nghiêm túc... Nếu chúng ta cứ tiếp tục những việc làm kiểu đó thì mọi lời kêu gọi đóng góp trí tuệ, tài năng của trí thức cho sự nghiệp chung sẽ mất đi rất nhiều tác dụng, thậm chí vô nghĩa.

    Đối với trí thức, không được dùng quyền lực. Những người trí thức chân chính không sợ quyền lực, thậm chí khinh rẻ quyền lực. Cùng lắm là họ sẽ đối phó lại bằng im lặng. Và chúng ta sẽ chẳng được gì cả, sẽ là mất mát rất lớn.

    Chính vì vậy, nói xây dựng lực lượng trí thức thì trước hết lại là xây dựng thái độ đúng đắn của Đảng, của lãnh đạo đối với trí thức. Tôi xin nói: có được thái độ đó thì sẽ có trí thức, bằng không thì sẽ không bao giờ có, hoặc sẽ chỉ có trí thức dỏm, chỉ càng hại Đảng, hại cho sự nghiệp chung.

    4. Để đào tạo một lực lượng trí thức lớn và mạnh, cần thiết cho sự phát triển lâu dài của đất nước thì một trong những điều kiện quan trọng nhất là phải có một nền đại học thật sự ra đại học, điều chúng ta hiện nay hầu như hoàn toàn không có. Cách đây mấy mươi năm, song song với vụ Nhân văn Giai phẩm, chúng ta đã phá tan mất một nền đại học rất đàng hoàng, với những trí thức lớn như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đình Hượu..v.v., và từ đó đại học của ta, như nhiều người nói, chỉ còn là một kiểu phổ thông cấp 4.

    Điều kiện cốt lõi của đại học là độc lập tư duy. Nhiệm vụ cơ bản của đại học là tạo nên những con người có dũng khí, tư cách và khả năng tư duy độc lập; có như vậy nó mới chuẩn bị được cho đất nước một lực lượng trí thức mạnh, dồi dào. Và muốn có một nền đại học như vậy, thì trước sau cũng phải thẳng thắn giải quyết vấn đề tự trị đại học.

    Tôi đề nghị cần đặt ra vấn đề ấy, có kế hoạch thực hiện từng bước, để đi đến có được một nền đại học đàng hoàng, cho công cuộc hiện đại hóa của đất nước. Dự định đến năm nào đó ta sẽ có được đại học vào top này top nọ của thế giới sẽ hoàn toàn là ảo tưởng nếu ta cứ một mực duy trì một kiểu đại học chẳng khác gì phổ thông như hiện nay. Có thể có một số đại học không thua kém ai, thậm chí trong một thời gian không dài, nếu ta dám thật sự làm đại học tự trị. Trước sau chúng ta cũng phải nhất thiết tiến đến đó, cần bắt đầu những bước đi đầu tiên từ bây giờ.

    Đấy là một trong những điều kiện thiết yếu để xây dựng lực lượng trí thức xứng đáng cho đất nước, dân tộc, đáp ứng yêu cầu của phát triển.

    Nguyên Ngọc

    _______________

    (*) Bài viết này là phát biểu của nhà văn Nguyên Ngọc trong Hội nghị chuẩn bị Nghị quyết về trí thức do Ban Bí thư Trung ương Đảng triệu tập, năm 2008. Người Đô Thị trích đăng từ tập sách Dọc đườngphát hành bởi Nhã Nam và NXB Phụ nữ Việt Nam tháng 6.2022.