Bạn Vương Thị Thu Vân #A1GL75 tình cờ tìm thấy tập sách tài liệu lưu hành nội bộ này, tuy ố vàng nhưng vẫn còn tốt.
Hôm nay Admin edit thành dạng văn bản, xin chia sẻ cùng @mọi người.
HIỆU ĐOÀN TRƯỜNG NỮ TRUNG HỌC GIA LONG
SAIGON
Đề tài buổi nói chuyện do BAN HỌC TẬP tổ chức nhân ngày kỷ niệm LỄ HAI BÀ TRƯNG (1972-1973)
NHỮNG NÉT ĐẸP CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM QUA CA DAO
• Diễn giả: GS KHƯU HUỲNH HƯƠNG
1972-1973
Kính thưa bà Hiệu trưởng,
Kính thưa bà Giám học,
Kính thưa quí vị Giáo sư,
Các em học sinh thân mến,
Cách đây gần hai ngàn năm, giữa lúc toàn dân đang tuyệt vọng và đau khổ dưới ách thống trị của quân xâm lược Trung Hoa, thì nơi huyện Mê Linh có hai chị em bà Trưng đứng lên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa, phá tan đạo quân Đông Hán tham tàn của Thái thú Tô Định, mở đầu cho những trang sử vàng son của dân tộc Việt Nam từ năm 40.
Chiến công hiển hách của Trưng Vương đã hòa đồng cùng khí thiêng sông núi và tạo nên một truyền thống bất khuất của giống nòi.
Từ đó trở đi, nương theo ngọn cờ độc lập của hai Bà, biết bao anh hùng như Ngô Quyền, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, anh hùng áo vải Lê Lợi, Nguyễn Huệ - Quang Trung… không quản gian lao nguy hiểm, kiên nhẫn đấu tranh đánh đuổi ngoại xâm, bảo vệ quê hương và chủ quyền của quốc gia dân tộc.
Riêng về nữ giới, cũng có nhiều liệt nữ anh thư nối tiếp theo chí hướng của hai Bà, tạo nên những sự nghiệp lẫy lừng về văn cũng như về võ.
Một Triệu Trinh Nương muốn “cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi” đủ làm khiếp vía quân Đông Ngô; một Bùi Thị Xuân vẫy vùng nơi trận mạc như vào chỗ không người; và chị em cô Bắc, cô Giang đã gây nhiều khó khăn cho bọn thực dân Pháp…đã làm cho người hậu thế phải cúi đầu khâm phục.
Ngoài ra, về phương diện văn chương, một Đoàn Thị Điểm tài hoa, một bà Huyện Thanh Quan đoan trang và một Hồ Xuân Hương dí dỏm, ranh mãnh cũng đủ vun bồi cho vườn hoa văn học thêm nhiều đóa hoa đầy hương sắc.
Nhưng bên cạnh những bậc nữ lưu anh kiệt đó, còn biết bao nhiêu phụ nữ Việt Nam khác chỉ âm thầm sống bên cạnh chồng con, vui với bổn phận tề gia nội trợ.
Do đó, muốn tìm hiểu hình ảnh trung thực của người phụ nữ Việt Nam, ta nên đi sâu vào những nếp sống bình thường ấy mà từ ngàn xưa đã được người bình dân ca tụng qua tiếng hát câu hò.
Nghiên cứu kỹ những bài ca dao đó, ta có thể phát hiện ra được những vẻ đẹp về vật chất và tinh thần của người phụ nữ Việt Nam qua hai giai đoạn quan trọng trong cuộc đời người con gái:
Lúc còn là một thiếu nữ sống trong gia đình mình, và khi đã có chồng về ở với một gia đình xa lạ.
I- KHI CHƯA LẬP GIA ĐÌNH:
Khi còn con gái, người thiếu nữ Việt Nam sống bình thản êm đềm bên cha mẹ để chờ đợi ngày xuất giá vu qui.
Đây là thời kỳ thơ mộng nhất: nàng được cha mẹ nâng niu chiều chuộng, dạy bảo khuyên răn và cũng được nhiều chàng thanh niên để ý săn đón vì sắc đẹp của nàng:
“Một thương tóc bỏ đuôi gà,
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.
Ba thương má núm đồng tiền,
Bốn thương răng lánh hạt huyền kém thua”.
Theo bản tính tự nhiên, nàng đã biết tìm cách làm tăng thêm vẻ đẹp sẵn có của mình, muốn suối tóc thêm phần duyên dáng, nàng hái hoa cài lên đầu:
“Tóc em dài, em cài hoa lý,
Miệng em cười, có ý anh thương”.
Hoặc dùng chiếc nón quai thao để che giấu vẻ ngượng ngùng, khiến người nhìn phải phát sinh niềm lưu luyến:
“Ai làm cái nón quai thao,
Để cho anh thấy cô nào cũng xinh”.
Mỗi người con gái đều có một sự hấp dẫn riêng để làm say đắm lòng người khác phái và gây sự chú ý của tha nhân: có người đẹp nhờ mái tóc mây bềnh bồng và đôi chân mày cong vút như mảnh trăng treo:
“Chân mày vòng nguyệt có duyên,
Tóc mây gợn sóng, đẹp duyên tơ hồng.”
Cũng có người đẹp nhờ đôi mắt long lanh sắc sảo và làn da trắng trẻo mịn màng:
“Cổ tay em trắng như ngà,
Con mắt em liếc như là dao cau.”
Nàng là con gái trời cho đẹp! Đôi gò má hồng và cặp môi son đỏ đã khiến nhiều chàng trai mơ ước vẩn vơ:
“Ai xui má đỏ hồng hồng,
Để anh nhác thấy đem lòng thương yêu”.
hoặc:
“Cô kia má đỏ môi son,
Nắng dầu mưa dãi; càng giòn, càng ưa.”
Nàng tiêu biểu cho một hình ảnh tràn đầy sinh lực như nhánh lúa đòng đòng vươn mình trong ánh nắng đẹp ban mai:
“Thân em như chẽn lúa đòng đòng,
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.”
Ngoài sắc đẹp tự nhiên, y trang cũng giúp nàng thêm phần lộng lẫy:
“Hỡi cô yếm thắm lòa lòa,
Yếm nhiễu, yếm vóc hay là trúc bâu?
Hay là lụa bạch bên Tàu?
Người cắt cũng khéo, người khâu cũng tài”
Tuy nhiên, cái vẻ đẹp quyến rũ nhất của người thiếu nữ có lẽ là nụ cười: một nụ cười tươi tắn gây nên nỗi nhớ, niềm thương:
“Mình về, mình nhớ ta chăng,
Ta về, ta nhớ hàm răng mình cười.”
Nói chung, người thiếu nữ trong lứa tuổi hoa niên, càng nhìn càng phát hiện ra một vẻ đẹp hấp dẫn tuy lạnh lùng:
“Trúc xinh, trúc mọc bờ ao,
Em xinh, em đứng chỗ nào cũng xinh.
Trúc xinh, trúc mọc đầu đình,
Em xinh, em đứng một mình cũng xinh.”
Ngoài vẻ đẹp vật chất trời cho, người thiếu nữ còn đẹp trong ngôn ngữ và cử chỉ. Với giọng nói thanh tao, với lời lẽ dịu dàng, nàng dễ gây cảm tình cùng người đối thoại:
“Điều đậu vườn thi, thổ lụy vườn trâm,
Thương em tiếng nói trăm năm cũng còn.”
Trong bất cứ trường hợp nào, nàng luôn tỏ ra lễ độ ôn hòa. Nàng từ chối lời mời trầu tha thiết của một chàng trai hào hoa bằng một lý lẽ rõ ràng và cương quyết:
“- Miếng trầu của đáng là bao,
Chẳng ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng!
- Thưa rằng: Bác mẹ tôi răn,
Làm thân con gái chẳng ăn trầu người.”
Đôi khi gặp những chàng kém lịch sự trêu ghẹo, cợt đùa, chớt nhả, nàng vẫn bình tĩnh dùng lời nhẹ nhàng gỡ rối:
“Cậu Cả buông áo em ra,
Để em đi chợ, kẻo mà chợ trưa,
Chợ trưa, rau đã héo đi,
Lấy gì nuôi mẹ? lấy gì nuôi em?”
Và trong những lúc cần phải đối đáp, ngôn từ của nàng cũng không kém phần ranh mãnh, gây khó khăn cho người đối diện:
“Tiếng anh ăn học làu thông,
Lại đây em hỏi khăn lông mấy đường?”
Chẳng những là một thiếu nữ nết na thùy mị khi tiếp xúc với mọi người chung quanh, mà đối với gia đình nàng còn là một người con hiếu thảo. Lúc nào nàng cũng cố gắng giữ trọn đạo làm con, luôn luôn phục tòng, kính yêu và vâng lời cha mẹ:
“Mẹ cha là biển, là trời,
Nói sao hay vậy, đâu dám cãi lời mẹ cha!”
Nàng ghi khắc lời giáo huấn của song thân vào tâm não, rèn luyện đầy đủ những đức tính và chăm lo trau dồi việc nữ công để trở thành một thiếu nữ hoàn toàn:
“Phận gái tứ đức vẹn toàn,
Công, Dung, Ngôn, Hạnh giữ gìn chớ sai!”
Nàng luôn luôn nghĩ đến công đức sinh thành và mong được đền bù trong muôn một:
“Mẹ cha trượng quá ngọc vàng,
Đền bồi sao xiết muôn vàn công ơn.”
Mỗi đêm, nàng thắp hương khấn nguyện cho cha mẹ được sống mãi với mình:
“Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.”
Và liên tưởng đến một ngày mai phải bỏ cha, bỏ mẹ theo chồng, nàng cảm thấy xót xa:
“Mẹ mong gả thiếp về vườn,
Thiếp lo một nỗi đường trường xa xôi”
Và điều lo lắng nhất của nàng là khi cha mẹ đã già yếu bệnh hoạn, lấy ai thay nàng chăm lo săn sóc?
“Chim đa đa đậu nhánh đa đa,
Chồng gần không lấy, mà lấy chồng xa.
Mai sau cha yếu, mẹ già,
Bát cơm ai đỡ? Bộ kỷ trà ai dâng?”
Cho nên bây giờ còn gần gũi cha mẹ, nàng hết lòng phụng dưỡng:
“Mẹ già ở tấm lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.”
Nàng lo lắng từng miếng ăn, thức uống:
“Tôm càng lột vỏ, để đuôi,
Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già.”
Cả những công việc nhỏ nhặt, nàng cũng cố gắng làm vui lòng cha mẹ:
“Cau non khéo bửa cũng dầy,
Trầu têm cánh phượng để thầy ăn đêm”
Ngoài ra đối với đàn em thơ, nàng còn là một người chị hiền hòa dễ mến. Nàng thay cha mẹ trong việc săn sóc các em.
Nàng ru em ngủ khi em còn thơ dại:
“Em tôi khát sữa bú tay,
Ai cho bú thép ngày rày mang ơn.”
Và dỗ dành khi em đã đôi chút lớn khôn:
“Em ơi, đừng khóc, chị yêu,
Nín đi chị kể chuyện Kiều em nghe.”
Bước sang địa hạt tình cảm, ta thấy tâm tình người thiếu nữ cũng có những nét đáng yêu. Bản tính của phụ nữ là giàu tình cảm, trong những ngày hoa mộng, nàng xây đắp nhiều ước mơ tươi đẹp. Nàng tưởng tượng ra một cảnh gia đình đầm ấm và hạnh phúc, trong đó chồng đọc sách ngâm thơ, vợ quay tơ dệt cửi:
“Sáng trăng, trải chiếu hai hàng,
Bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ.”
Đôi khi chợt thức giấc giữa canh khuya, nghe tiếng vạc kêu sương trong đêm tịch mịch, nàng cảm thấy xúc động bâng khuâng:
“Đêm nằm nghe vạc cầm canh,
Nghe oanh học nói, nghe anh dỗ nàng.”
Rồi nằm thao thức, nàng lo nghĩ đến tương lai:
“Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ, biết vào tay ai?”
Tuy nhiên tình cảm của nàng không sôi nổi bồng bột, mà lúc nào cũng cân nhắc đắn đo. Nàng nhớ lời cha mẹ dặn dò khuyên nhủ về việc chọn bạn trăm năm:
“Dặn con, con có nghe cho?
Chọn người quân tử, đói no cũng đành.”
Nhưng người quân tử mà nàng mơ ước vẫn như “cánh hồng bay bổng” biết đâu mà tìm:
“Ngọc còn ẩn bóng cây tùng.
Thuyền quyên còn đợi anh hùng sánh vai.”
Thế rồi tình duyên cũng đến, người trong mộng đã làm cho nàng nhiều nhớ, nhiều thương:
“Chiều chiều lại nhớ chiều chiều,
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai.”
Lúc chưa chọn được người yêu thì băn khoăn lo lắng, nhưng chọn được rồi thì chung thủy hy sinh, nhất là khi chàng cần đi xa lập nghiệp:
“Dầu xa, dầu cách mấy năm,
Nhưng em cũng phải chi tâm đợi chàng!”
Cho dù chính lòng nàng không ngăn được nỗi buồn vì phải xa cách người thương:
“Anh đi đường ấy xa xa,
Để em ôm bóng trăng tà năm canh.”
“Nước non một gánh chung tình,
Nhớ ai, ai có nhớ mình hay không?”
Nàng thường nhìn về hướng chàng đi, để mong tìm lại hình dáng cũ, nhưng chỉ thấy núi cao ngăn cách mà thôi:
“Núi cao chi lắm núi ơi,
Che cả mặt trời, che cả người thương.”
Nhưng tâm sự riêng này nàng không thể bày tỏ cùng ai được:
“Anh buồn có chốn thở than,
Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya.”
Có những đêm buồn, nàng trằn trọc suốt năm canh, một mình đối bóng trước ngọn đèn khuya:
“Đêm đêm khêu ngọn đèn loan,
Nhớ người quân tử, thở than mấy lời.
Mong chàng, chẳng thấy chàng ơi!
Thiếp tôi trằn trọc, vội dời chân ra.
Nhác trông lên trăng đã xế tà,
Đêm hôm khuya khoắt, con gà đã gáy sang canh.
Mong anh mà chẳng thấy anh,
Thiếp tôi buồn bã khêu quanh ngọn đèn.”
Hoặc nàng ra sau nhà để trông ngóng, để nhớ thương:
“Đêm qua ra đứng bờ ao, Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ.
Buồn trông con nhện giăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao Mai,
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?
Đêm đêm tưởng giải Ngân hà,
Mối sầu tinh đẩu đã ba năm tròn.
Đá mòn, nhưng dạ chẳng mòn,
Tào khê nước chảy hãy còn trơ trơ”
Nhưng dù đá có mòn và lòng người phương xa có thay đen đổi trắng, nàng vẫn một lòng chờ đợi:
“Thuyền ơi, có nhớ bến chăng,
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”
Trên đây chúng tôi vừa trình bày những vẻ đẹp của người phụ nữ khi chưa lập gia đình.
Những vẻ đẹp đó thể hiện bằng sự duyên dáng của hình dung, sự trong sạch và chung thủy của tâm hồn và lòng hiếu thảo đối với cha mẹ. Đã đành trong phận sự làm con, người phụ nữ đã có những nét dáng yêu, nhưng vẻ đẹp cao quí nhất và hoàn toàn nhất, chỉ có thể tìm thấy trong thiên chức làm vợ, làm mẹ, nghĩa là khi người con gái đã có chồng.
II- KHI ĐÃ LẬP GIA ĐÌNH:
Sau thời kỳ thơ mộng thảnh thơi, người thiếu nữ lìa bỏ mẹ cha để xuất giá vu qui. Dù vui duyên mới, nhưng khi bước chân theo
chồng, nàng không khỏi ngậm ngùi nhớ thương
cha mẹ:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.”
Nhưng biết làm sao khi nàng hiểu rằng bổn phận người con gái là phải theo chồng:
“Có chồng thì phải thương chồng,
Chồng đi hang rắn hang rồng cũng theo.
Có chồng thì phải theo chồng.
Đói no cũng chịu, mặn nồng cũng cam.”
“Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng”, từ đây nàng sống cuộc đời mới với nhiều bổn phận ràng buộc: làm dâu, làm vợ và làm mẹ.
Trước hết nàng phải làm tròn bổn phận của một nàng dâu, thay chồng phụng dưỡng cha mẹ:
“Mẹ già là mẹ già anh,
Em vô bảo dưỡng cơm canh cho thường”.
Nàng hy sinh tất cả cho cha mẹ chồng, để được tiếng dâu ngoan:
“Đói lòng ăn hạt chà là,
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng”.
Ngoài ra, nàng còn phải giữ gìn lời ăn tiếng nói với mọi người chung quanh:
“Làm dâu khổ lắm ai ơi,
Vui chẳng dám cười, buồn chẳng dám than.”
Nhưng điều khó khăn nhất là phải lo tròn bổn phận làm dâu, là lúc nàng thực hành những điều cha mẹ dạy bảo ngày xưa:
“Gái thì giữ việc trong nhà.
Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa.”
Suốt ngày, nàng luôn luôn bận rộn từ việc nầy đến việc khác, không kịp nghỉ tay. Nàng giúp đỡ chồng trong việc đồng áng, hoặc đem cơm ra ruộng cho chồng:
“Trời mưa cho lúa chín vàng,
Cho anh đi gặt cho nàng đem cơm.
Đem thì bát sứ, mâm son, Chớ đem mâm gỗ, anh hờn không ăn.”
Hoặc đỡ tay cùng chồng cấy lúa:
“Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.”
Và những ngày mùa là những ngày vất vả nhất, nàng làm việc không hở tay, mong có đủ tiền để giúp chồng đóng sưu, đóng thuế:
“Nong thóc đầy, em xay, em giã,
Trấu ủ phân, cám bã nuôi heo.
Sang năm lúa tốt, tiền nhiều,
Em đem đóng thuế, đóng sưu cho chồng.”
Rồi những khi có phiên chợ, nàng phải lo lắng gánh gồng ra đi từ sáng sớm để kịp mùa sắp, bán buôn:
“Anh về hái đậu, chảy cà,
Để em đi chợ, kẻo mà lỡ phiên.
Chợ lỡ phiên tốn công, thiệt của,
Miệng tiếng người, cười rõ sao nên!”
Ngoài ra nàng còn phải tần tảo hái dâu nuôi tằm để ươm tơ dệt lụa:
“Trời mưa lác đác ruộng dâu,
Cái nón đội đầu, cái thúng cắp tay.
Bước chân xuống hái dâu này,
Nuôi tằm cho lớn, mong ngày ươm tơ.”
Tuy ban ngày đã bận rộn nhiều, ban đêm nàng cũng chẳng được nghỉ ngơi. Nàng còn phải dọn dẹp nhà cửa, dệt cửi quay tơ:
“Canh một dọn cửa, dọn nhà,
Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm.”
Đôi khi, chồng nàng là một thư sinh yếu đuối, nàng phải vất vả hơn trong việc nuôi chồng ăn học:
“Em thời canh cửi trong nhà.
Nuôi anh ăn học đúng khoa bảng vàng.
Trước là vinh hiển tông đường,
Bõ công đèn sách lưu phương với đời.”
Nếu chồng phải đi trọ học phương xa, nàng cố gắng thường xuyên đến thăm nom săn sóc:
“Đôi bên bác mẹ cùng già,
Lấy anh hay chữ để mà cậy trông
Mùa hè cho chí mùa đông,
Mùa nào thức ấy cho chồng ra đi.
Hết gạo, thiếp lại gánh đi,
Hỏi thăm chàng học ở thì nơi nao.
Hỏi thăm đến ngõ thì vào,
Tay đặt gánh xuống, miệng chào: Thưa anh!”
Lối thoát duy nhất của kẻ sĩ ngày xưa là thi đỗ làm quan, cho nên mỗi lần đưa chồng đi thì là mỗi lần nàng tin tưởng và hy vọng:
“Ai ơi đợi tôi đi cùng,
Tôi còn sắm sửa cho chồng đi thi.
Chồng tôi quyết đỗ khoa này,
Chữ tốt như rắn, văn hay như rồng.
Bõ khi xắn váy quai cồng,
Cơm niêu, cơm lọ cho chồng đi thi.”
Nàng chịu đựng tất cả bao nhiêu lầm than cơ cực, cố gắng chu toàn bổn phận, từ việc đồng áng nặng nhọc đến việc tần tảo bán buôn lo sinh kế cho gia đình, chỉ vì nàng muốn được lòng chồng:
“Vì chồng nên phải gắng công,
Nào ai dạ sắt, xương đồng chi đây!”
Ngoài việc giúp đỡ chồng về phương diện vật chất, nàng còn khuyên lơn an ủi chồng về phương diện tinh thần. Bằng lời nhỏ nhẹ, nàng ôn tồn nhắc nhở chồng chăm lo công việc:
“Mặt trời tang tảng rạng đông,
Chàng ơi trở dậy ra đồng kẻo trưa.
Phận hèn nào quản gió mưa,
Cày sâu, bừa kỹ, được mùa có phen!”
Nếu chồng nàng là một thư sinh, nàng nhắc chồng lo học tập chuyên cần đề mai sau đỗ đạt thành danh:
“Triều đình có chuộng thi thư,
Khuyên anh đèn sách sớm trưa học hành.
May nhờ phận có công danh,
Mà anh phú quý, ấy mình vẻ vang.”
Nàng còn khuyên chồng lánh xa những thói hư tật xấu, khuyến khích chồng cố gắng tạo nên sự nghiệp làm tròn hai chữ hiếu trung:
“Khuyên anh đừng trai gái loang toàng,
Khuyên đừng chè rượu, nữa mang tiếng cười.
Cũng đừng cờ bạc đua chơi,
Sao cho sự nghiệp ra người trượng phu.
Làm sao nên tiếng danh nho,
Thần trung, tử hiếu để cho khen cùng.”
Đi lính muôn đời vẫn là một công việc vất vả và cực khổ, huống chi ngày xưa còn có lệ trấn thủ lưu đồn. Những hình ảnh “chém tre, đoản gỗ trên ngàn” hoặc “ngày thì canh điểm, tối dồn việc quan” đã làm chùn bước nhiều chàng trai trẻ. Nàng khuyên chồng làm tròn bổn phận đối với quốc gia bằng lời hứa hẹn nàng sẽ thay chồng chu toàn bổn phận đối với gia đình:
“Anh ơi! phải lính thì đi,
Cửa nhà đơn chiếc đã thì có em”
Nàng ao ước được thay chồng để chịu đựng những điều khổ cực:
“Lính vua, lính chúa, lính làng,
Nhà vua bắt lính cho chàng phải ra
Giá vua bắt lính đàn bà,
Để em đi đỡ anh vài ba năm.”
Nàng bực tức cho sự yếu đuối của mình khiến nàng không thể thay chồng tòng quân nhập ngũ:
“Phải chi em vác nổi súng đồng,
Để em đi lính cho chồng đôi năm.”
Nhưng vẻ đẹp cao quí nhất của người phụ nữ Việt Nam là tính chiều chồng, tận tụy hy sinh và chung thủy với chồng.
Là một người vợ hiền yêu chồng hết mực, nàng chăm sóc lo lắng, chiều chuộng từ những thói quen nhỏ nhặt:
“Đốt than nướng cá cho vàng,
Đem tiền mua rượu cho chồng uống chơi.
Phòng khi có khách đến chơi,
Cơm ăn, rượu uống cho vui lòng chồng.”
Đến cả việc to tát như chịu hy sinh hạnh phúc của riêng mình để cho chồng đẹp dạ:
“Chồng giận, thì vợ làm lành,
Miệng cười hớn hở, hỏi anh giận gì?
Thưa anh, anh giận em chi?
Muốn lấy vợ bé, em thì lấy cho.”
Và khi chồng sinh thói trăng hoa, nàng chỉ biết hết lời năn nỉ:
“Chàng ơi, phụ thiếp làm chi,
Thiếp như cơm nguội, phòng khi đói lòng.”
Hoặc thở than cho thân phận:
“Gió đưa bụi chuối sau hè, Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơ.
Con thơ tay ẵm, tay bồng,
Tay dắt mẹ chồng, đầu đội rổ mây.”
Nhiều khi số phận gian nan, gặp phải người chồng bỏ phế gia đình, vùi đầu vào những sòng “tổ tôm, sóc đĩa”, nàng chỉ biết cố gắng chịu đựng để giữ gìn danh giá cho chồng:
“Nói đây có chị em nhà,
Còn năm ba thúng thóc với một vài cân bông.
Em bán đi để trả nợ cho chồng,
Còn ăn, hết nhịn, cho hả lòng chồng con.”
Gặp phải người chồng vũ phu trong cơn nóng giận, nàng cũng chỉ biết nhỏ nhẹ van xin:
“Dang tay đánh thiếp sao đành,
Tấm rách ai vá? tấm lành ai may?”
Nhưng dù chồng là người tốt hay xấu, nàng vẫn giữ trọn một niềm chung thủy:
“Không chồng đi dọc, về ngang,
Có chồng cứ thẳng một đàng mà đi.”
Nàng luôn luôn an phận thủ thường, bằng lòng với hoàn cảnh hiện tại của mình:
“Chồng ta áo rách ta thương,
Chồng người áo gấm xông hương mặc người.”
Và nếu có khi nào gặp những chàng trai đã từng gắm ghé nàng ngày trước, nàng cũng cương quyết giữ tròn bổn phận của mình. Không giống như người Tiết phụ của Trương Tịch đời Đường trả ngọc cho một chàng trai xa lạ với đôi hàng nước mắt tiếc rẻ: “Hoàn quân minh châu, song lệ thùy", mà nàng chỉ thản nhiên dùng hoàn cảnh hiện tại của mình để trả lời sự trách móc của người xưa:
“Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em đã có chồng, anh tiếc lắm thay.
Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh không hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu, biết đâu mà gỡ?
Chim vào lồng, biết thuở nào ra?”
Ngoài bổn phận đối với chồng, nàng còn một bổn phận là nuôi dạy con thơ.
Lúc con còn bé, nàng phải thức khuya dậy sớm săn sóc cho con, từ manh quần tấm áo, từ miếng ăn giấc ngủ:
“Gió mùa Thu mẹ ru con ngủ,
Năm canh chầy thức đủ năm canh.”
Có khi gia đình bẩn chật, túng thiếu, muốn đủ tiền để nuôi con, nàng không quản ngại những nỗi gian nan vất vả, đôi khi nguy hiềm. Và trong bất cứ trường hợp nào, nàng cũng muốn nêu gương trong sạch cho con:
“Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi, ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng,
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục, đau lòng cò con.”
Với bao nhiêu ngày âu lo, bao nhiều đêm thao thức để săn sóc con thơ, công trình của người mẹ nuôi con thật là to tát:
“Chim trời ai dễ đếm lông,
Nuôi con ai dễ kể công tháng ngày.”
Rồi với thời gian con càng ngày càng lớn, bổn phận của người mẹ càng thêm khó khăn hơn nữa:
“Miệng ru, mắt nhỏ hai hàng,
Nuôi con càng lớn, mẹ càng thêm lo.”
Vì nàng biết ngoài sự chăm sóc thương yêu, bây giờ nàng còn có trách nhiệm giáo dục trẻ thơ.
Đối với con gái, nàng dặn dò kỹ lưỡng về những bổn phận trong việc tề gia nội trợ sau nầy:
“Con ơi, mẹ bảo đây này,
Học buôn, học bán cho tày người ta.
Con đừng học thói chua ngoa,
Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười.
Dù no, dù đói cho tươi,
Khoan ăn, bớt ngủ, liệu bề lo toan.”
Còn đối với con trai, nàng khuyên lơn an ủi và khuyến khích nên chăm chỉ học hành để sớm tạo thành sự nghiệp:
“Con ơi, con học cho cần,
Bút nghiên cha sắm, áo quần mẹ may.
Con ơi, con học cho hay,
Có công mài sắt, có ngày nên kim.”
Tóm lại, trong bổn phận làm mẹ, nàng gánh chịu biết bao nhiêu điều khổ cực với niềm mong ước con mình sẽ được nên người:
“Mẹ nuôi con bấy lâu rồi,
Nuôi con cho đến thành người mới nghe.”
Kính thưa quí vị,
Các em học sinh thân mến,
Chúng tôi vừa trình bày cùng quí vị và các em một vài nét đẹp tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam. Những vẻ đẹp này tuy có nhiều hình thái khác nhau, nhưng tựu trung chỉ gồm vào các đức tính trong sạch, chung thủy, và suốt đời tận tụy hy sinh.
Với những bổn phận làm con, làm dâu, làm vợ và làm mẹ, người phụ nữ Việt Nam bao giờ cũng quên mình, luôn nghĩ đến người, chịu đựng nhiều nỗi đắng cay để những người thân yêu được hạnh phúc. Vì thế chúng ta không ngạc nhiên khi thấy bà Tú Xương không ngại gian lao:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng”
hoặc tán đồng lòng chung thủy của bà Phan Thị Thuấn (1766–1786) là một trong những nữ nhân tiêu biểu cho tinh thần “trung trinh tiết liệt” của phụ nữ Việt Nam thời phong kiến, tuẫn tiết theo chồng là Tướng quân Ngô Hạo, trong hành động “thung dung tựu nghĩa”.
Giờ đây xã hội Việt Nam đã có nhiều thay đổi, làn sóng văn minh vật chất và sự bành trướng của cá nhân chủ nghĩa đã tiêu hủy nhiều giá trị tinh thần. Và trong một xã hội đã thay chiều đổi hướng như hiện tại, liệu những nét đẹp khả ái của người phụ nữ Việt Nam có mãi mãi tồn tại hay không?
Đành rằng trước sự suy tàn của đạo Nho, một vài quan niệm về phụ nữ có thay đổi, nhưng chúng tôi thiết nghĩ rằng những đức tính nhẫn nại, chung thủy, hy sinh đã ảnh hưởng một cách sâu xa vào tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam, đã tạo thành một truyền thống tốt đẹp của giống nòi.
Từ cuối thế kỷ 19 đến nay, những đức tính cao quí ấy đã có nhiều dịp được thử thách. Trừ một thiểu số thiếu căn bản giáo dục có thể bị chi phối và bị quyến rũ bởi ngoại cảnh, còn đại đa số phụ nữ Việt Nam dù sống trong hoàn cảnh khó khăn nào, cũng cố gắng làm tròn thiên chức của mình. Và nếu việc xảy ra trong quá khứ có thể bảo đảm cho tương lai, thì chúng ta tin tưởng rằng: những vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam sẽ luôn luôn tồn tại và vẫn sáng rực rỡ đến muôn đời.
Kính chào quí vị
Thân ái chào các em
KHƯU HUỲNH HƯƠNG
GS môn Việt văn
Trường Nữ Trung Học Gia Long
Nguồn: FB Thuvan Vuong #A1GL75— đang
cảm thấy hoài niệm cùng với Thuvan Vuong tại Trường Nữ Trung Học Gia Long.
