Chủ Nhật, 20 tháng 7, 2025

“TÔI ĐI NHẬN NHIỆM SỞ” LÊ THỊ HỒNG MẬN, Cựu giáo sư Gia Long

 

Cô Lê Thị Hồng Mận, giáo sư môn Việt văn của trường Gia Long. Cô sinh năm 1934 tại Thừa Thiên - Huế.
Tốt nghiệp ĐHSP Huế và ĐHVK SG.
Chất giọng Huế khiến giờ giảng văn của cô thêm lôi cuốn.
Cô đã xuất bản tập thơ Sợi nhớ sợi thương vào năm 2014 mênh mang nỗi nhớ về miền cố đô, với bút danh Như Uyên.
ĐC: số 575/11/18 Cách mạng tháng 8 P15 Q10.
ĐT: 0918 074 140
Hôm nay Group GIA LONG Về đây bên nhau xin mời cả nhà đọc thêm bài viết của cô về ngày đầu tiên đến với Trường Gia Long nhé!
“TÔI ĐI NHẬN NHIỆM SỞ”
LÊ THỊ HỒNG MẬN
Cựu giáo sư Gia Long
Đã 40 năm, kể từ ngày tôi tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Huế rồi theo chồng vào Nam lập nghiệp.
Bốn mươi năm!
Gần nửa thế kỷ!
Một quãng thời gian khá dài so với bước đi của lịch sử, huống gì với một đời người!
Đặc biệt từ sau ngày Giải phóng, cuộc sống mới còn khó khăn, bao nỗi lo âu chồng chất khiến tôi hằng ngày phải đối mặt với cơm áo – gạo – tiền. Thế nhưng mỗi lần hồi tưởng lại cuộc đời dạy học, tôi không thể nào quên được ngày trọng đại nhất của đời tôi, đó là ngày tôi đến nhận nhiệm sở ở Trường Nữ Trung Học Gia Long – một ngôi trường nữ lớn nhất miền Nam lúc bấy giờ.
Ngôi trường sừng sững, uy nghi, chiếm cả một vùng rộng lớn, nằm ở trung tâm thành phố đã không khiến cho tôi – một sinh viên mới ra trường phải ao ước, khát khao được đặt chân vào... Mà trái lại, tôi lại e ngại, và có cảm giác chùn bước mỗi khi nghĩ đến...
Thật sự là tôi sợ – cái sợ của con chim non vừa thoát khỏi vòng tay ôm ấp của người mẹ để lần đầu chập chững bay vào khoảng trời bao la cao rộng đầy thách thức.
Bởi thế, trong đơn xin nhận nhiệm sở, tôi không dám để tên trường Gia Long lên hàng ưu tiên một, mà đã chọn trường Võ Trường Toản, Trưng Vương rồi mới đến Gia Long.
Dù thế, khi tôi đến diện kiến xin về công tác ở trường Võ Trường Toản thì cụ Đinh Công Nguyên – vị Hiệu trưởng hiền lành, đáng kính đã ôn tồn, nhỏ nhẹ khuyên tôi nên xin về trường Trưng Vương, vì theo cụ, “trường Võ Trường Toản toàn là nam sinh, nghịch như quỷ” (nguyên văn lời cụ), mà tôi thì còn trẻ quá, mới ra trường, lại là người Huế chắc tụi nó phá chịu không nổi.
Tôi đứng yên, lặng nghe những lời khuyên chân thật, chí tình của cụ mà lòng buồn rười rượi. Tôi thầm nghĩ cái giọng Huế trọ trẹ, nặng nề khó nghe của mình chắc sẽ cản trở mình không ít trong nghề dạy học đây - nhất là vào năm 1960, người Huế vào miền Nam lập nghiệp hãy còn rất ít.
Thế rồi tôi lại quay qua xin vào trường Trưng Vương. Ở đây lại không có nhu cầu. Cuối cùng tôi phải tìm về Trường Nữ Trung Học Gia Long.
Hiệu trưởng lúc bấy giờ là bà Huỳnh Hữu Hội – nổi tiếng là khó tính. Tuy tôi chưa được hân hạnh diện kiến bà Hiệu trưởng lần nào, nhưng nghe qua uy danh của bà cũng đã thấy rợn người, nhất là vì tôi còn trẻ, mới tốt nghiệp, lại chân ướt chân ráo ở Huế vào; chưa quen phong tục, tập quán, giọng nói người miền Nam xa lạ này...
Tôi còn nhớ bấy giờ trước cửa văn phòng của bà có một chiếc bàn nhỏ và có một nữ nhân viên túc trực ở đó – chị Trần Thị Phụng. Không biết chị được phân công giữ nhiệm vụ này từ bao giờ, nhưng tôi nghe chị ngồi đây đã lâu. Tôi nghĩ bụng, bà Hiệu trưởng là người khó tính thế kia mà chị ngồi được ở đây lâu hẳn là được bà tin yêu lắm, và chắc chị cũng can đảm “đầy mình” và tận tụy hết mực.
Ngày vào trình sự vụ lệnh nhận nhiệm sở, chúng tôi gồm 4 người: anh Nguyễn Kim Linh, anh Trương Văn Minh, chị Hoàng Ngọc Thanh Dung và tôi. Chúng tôi tụ họp trước phòng Hiệu trưởng. Ai cũng lo âu, hồi hộp, rụt rè, lo sợ, không biết số phận mình sẽ được định đoạt ra sao. Cho đến khi tiếng chuông trong phòng của bà reo lên một hồi dài thì chị Phụng ra hiệu cho chúng tôi vào. Cả bốn chúng tôi đứng im lặng, nín thở chờ đơi. Anh Linh tốt nghiệp khoa Sinh Vật nên được bà nhận ngay. Đến lượt anh Minh tốt nghiệp khoa Toán cũng chả gặp khó khăn nào. Chị Thanh Dung dạy môn Công Dân cũng được thu nhận. Còn tôi... Bà đưa mắt nhìn tôi như nhìn người...ngoài hành tinh. Ôi, mắt bà sắc như dao, dù ẩn sau làn kính trắng, tôi vẫn thấy vô cùng sắc sảo và...lạnh lùng, còi phán một câu xanh rờn: “Trường không có nhu cầu, tôi không xin bà về đây! Vậy khi bà về đây, bà cố gắng làm tròn nhiệm vụ (nguyên văn lời bà – 40 năm tôi vẫn còn nhớ như mới hôm qua!).
Tôi sợ quá, nản quá, chỉ “Dạ” một tiếng nhỏ trong cổ họng (chắc bà chỉ thấy môi tôi mấp máy) rồi từ từ, lẳng lặng theo các đồng nghiệp ra khỏi phòng.
Tôi bỗng nghĩ đến cái chuông đồng nho nhỏ, xinh xinh đặt trên bàn giấy của bà Hiệu trưởng như một công cụ, hình ảnh, biểu tượng của thời phong kiến mà bà là bậc mẫu nghi thiên hạ và mỗi lời bà phán ra là mọi người phải răm rắp tuân theo...
Nhưng tôi cũng nghĩ dù sao mình cũng đã thoát nợ. Rồi tôi lại buồn khi nghĩ mới vào đời lại gặp phải rắc rối, khó khăn. Thế rồi... Thế rồi hai hôm sau, tôi nhận được một cái thời khóa biểu thật “dễ thương” từ bàn tay chuyên nghiệp của thầy Sáu Nguyễn Văn Long: 18 tiết Công dân cho 18 lớp đệ Ngũ buổi chiều. Nhìn thời khóa biểu, tôi rùng mình: 18 tiết cho 18 lớp – con số đáng sợ! Mà môn học Công dân thì mỗi lớp chỉ có một giờ mỗi tuần mà tháng nào cũng phải có ít nhất một điểm kiểm tra giấy cho cả lớp, ngoài điểm kiểm tra lên trả bài. Như thế là tôi phải chấm bài cả tháng và ngày nào cũng phải chấm một lớp.
Tôi lẩm nhẩm: "Một tháng có 30 ngày, trừ đi 4 ngày chủ nhật và 4 ngày họp hội đồng, còn lại 22 ngày chia đều cho 18 lớp. Sao mà nặng nề, khiếp đảm quá! Nhưng lời bà Hiệu trưởng văng vẳng bên tai! Dù bà nói ít – bà rất tiết kiệm lời nói, nhưng tôi lại như nghe rất nhiều, rất rõ và nhớ rất kỹ những lời bà căn dặn.
Thế là tôi phải nỗ lực tối đa: sáng chấm bài, chiều đến lớp, tối chấm bài cho kịp có điểm tất cả học sinh của 18 lớp vào mỗi cuối tháng.
Và cũng từ đó, tôi không bao giờ dám đi ngang qua văn phòng bà Hiệu trưởng; mà vừa thấy bóng bà thấp thoáng từ xa, tôi tìm cách... lảng đi chỗ khác. Lý do đơn giản là tôi sợ cái uy của bà, mặc dù bà đẹp – một vẻ đẹp phong kiến, oai phong, rực rỡ, sắc sảo mà lạnh lùng của người đàn bà quá thông minh, dễ gây ấn tượng mạnh, khiến bất cứ ai mới lẫn đầu diện kiến cũng không thể nào quên.
Bẵng đi một thời gian dài...
Cho đến mùa tựu trường sau, bà lại cho gọi tôi vào phòng làm việc.
Tôi nghĩ chắc có chuyện gì không may xảy ra cho mình nữa đây. Nhưng lệnh là lệnh, tôi chỉ là kẻ thừa hành, đâu dám khước từ.
Hồi chuông ghê rợn lại vang lên!
Tôi khép nép đẩy cửa nhẹ nhàng bước vào. Bà vẫn ngồi đó, thản nhiên, lạnh lùng, chẳng khác nào là biểu tượng của uy quyền, sức mạnh của chế độ phong kiến. Bà ngước mắt chẩm chậm nhìn tôi rồi lạnh lùng phán: "Năm nay tôi nhờ bà phụ trách giùm môn Việt văn của mấy lớp đệ Lục buổi chiều. Trường mình đang thiếu giáo sư Việt văn, mà tôi thấy mấy giáo sư người Huế lại đọc chính tả đúng...".
Tôi lại "Dạ" một tiếng nhỏ ở trong cổ họng, lòng mừng thầm mình đã thoát nợ, lại được dạy môn mình yêu thích. Nhưng tôi lại nghĩ, may bà bảo tôi dạy Việt văn chứ bảo tôi dạy Toán, e rằng tôi cũng phải chấp hành, dù việc đó có phản sư phạm và trái chuyên môn đi chăng nữa! Lý do đơn giản là vì tôi sợ hãi, cái sợ cố hữu!
Nhưng có một điều là bà không hề biết là cả năm qua tôi đã gặp khó khăn như thế nào trong khi đứng lớp: cứ đọc “dân biểu” thì các em viết ra “dân biệu”, đình công” thì viết ra “đinh công”, “gia đình” thì viết ra “gia đinh”... Cứ dấu huyền thì thành không dấu; dấu hỏi thì thành ra dấu nặng...bởi cái giọng Huế nặng nề, trọ trẹ, rất khó nghe kia!
Đôi khi cái giọng nói của tôi còn làm cho các em học sinh trố mắt ngạc nhiên, lắm lúc cười ồ và la ồn lên như cái chợ...
(Trích trong tập san ÁO TÍM - GIA LONG - MINH KHAI nhân Kỷ niệm Ngày Nhà giáo VN 20/11/2000)