Thứ Sáu, 26 tháng 9, 2025

Nền y tế Việt Nam thời bao cấp: Nhiều chuyện thời nay không hình dung nổi

 Thời bao cấp, người dân đi khám chữa bệnh hay mua thuốc rồi mang hóa đơn về cơ quan hay bệnh viện thanh toán mà không mất tiền, song điều kiện chữa trị vô cùng thiếu thốn.

Nền y tế Việt Nam thời bao cấp: Nhiều chuyện thời nay không hình dung nổi

Bệnh nhẹ như cảm cúm, ho, đau đầu…, người dân tự bỏ tiền ra mua thuốc ở bên ngoài (được gọi là các loại thuốc thông thường). Các loại thuốc tối cấp, thiết yếu thường phải có đơn bác sĩ. Hệ thống y tế gồm trạm y tế, bệnh viện tuyến huyện và phòng khám khu vực, bệnh viện tuyến tỉnh và trung ương. Trạm y tế xã chủ yếu có một y sĩ chung, một y sĩ sản nhi và một lương y; lên huyện thường là các trường hợp cấp cứu, mổ xẻ…

Ông Nguyễn Hậu (Đống Đa, Hà Nội) kể lại, nếu là cán bộ, công nhân viên đi khám bệnh chỉ cần xin giấy giới thiệu của y tế cơ quan, đến khám tại bệnh viện hoặc phòng khám nào đó, sau đó tự đi mua thuốc, đem hóa đơn về cơ quan sẽ thanh toán. Nếu là dân thường thì xin giấy giới thiệu ở xã hoặc phường rồi theo trình tự như trên. Trường hợp phải nằm viện chỉ việc ký vào một số giấy tờ để bệnh viện quyết toán với cấp trên.

“Mọi hoạt động khám chữa bệnh phải theo đúng tuyến. Ví dụ, dân không được vào Bệnh viện Việt Xô vì đó là bệnh viện chỉ dành cho cán bộ cao cấp, ngay cả trường hợp cấp cứu nên có nhiều người chết oan vì không cấp cứu kịp thời. Bộ đội, công an có bệnh viện riêng”, ông Hậu nói.

Bệnh viện thời bao cấp

Bao cấp nhưng trong bối cảnh tiền Nhà nước không nhiều, sản xuất không phát triển nên bệnh viện gặp vô vàn khó khăn. Từng làm phòng thư ký tổng hợp từ thời cố Bộ trưởng Đặng Hồi Xuân trong các năm 1982-1988, sau đó là thư ký cho cố Bộ trưởng Phạm Song trong giai đoạn 1988-1992, ông Hoàng Trọng Quang vẫn nhớ như in những khó khăn của ngành y lúc đó.

Ông kể lại khi đó, các loại thuốc men, trang thiết bị y tế… chủ yếu được viện trợ. Bộ Y tế có cả Vụ kế hoạch, Cục Vật tư làm nhiệm vụ phân chỉ tiêu cho các bệnh viện. Ví dụ Bệnh viện Bạch Mai một năm được cấp bao nhiêu cái chiếu, chăn, đường, sữa, xăng dầu, thuốc men… Các bệnh viện ngày xưa bé, chủ yếu kiểu nhà một tầng, chỗ gọi là “xịn” nhất là 3 tầng. Phòng ốc đơn giản nhưng rất ít có chuyện nằm ghép. Bác sĩ khám cũng mặc áo blouse, đeo tai nghe, máy đo huyết áp… Đèn phẫu thuật thì có đèn măng xông sáng choang, dĩ nhiên là không bằng đèn điện, cũng gây tê gây mê, sát trùng cồn, đốt, luộc; dao mổ được viện trợ cả bộ tiểu phẫu, bộ đại phẫu.

Tuy nhiên, trang thiết bị y tế thô sơ, cồng kềnh. Máy X-quang cũ rích, to đùng. Đơn giản như việc đếm hồng cầu cũng làm rất thủ công là dùng mắt thường đếm, không có máy móc. Bác sĩ điều trị cho bệnh nhân dựa trên kinh nghiệm là chính. Hồi đấy các thầy thuốc, kể cả ở Bệnh viện Việt Xô (bệnh viện chuyên chăm sóc sức khỏe cán bộ cấp cao) cũng nói đùa: “Anh hồng cầu 2,5 triệu thì cũng cấp cứu như anh 3,5 triệu”.

Việt Đức là bệnh viện đầu ngành, thế nhưng vào năm 1986 cả khoa gan mật có trăm bệnh nhân chỉ có 2 máy hút dịch là loại đạp chân. Máy hút điện thì to, hay mất điện nên cũng không dùng được nhiều. Hay như máy chụp CT scanner, chụp cộng hưởng từ MR được coi là “của hiếm” thời đó.

Ông Quang vẫn nhớ thời điểm năm 1990, ông có dịp đi cùng cố Bộ trưởng Phạm Song sang Pháp để tìm hiểu thì biết một máy CT scanner giá một triệu USD (bằng tiền xây cả 6 toà nhà 5 tầng công sở thời bấy giờ). Thấy nước họ có máy chụp MR, cố Bộ trưởng Phạm Song hỏi có thể mua đặt về Việt Nam được không thì được khuyên đừng mua vì “máy cực kỳ đắt, cả nước Pháp thời kỳ đó cũng chỉ có 6 máy”. Máy CT scanner đầu tiên nước ta có được đặt tại Bệnh viện 108, trang bị cho tuyến đầu ngành để phục vụ công tác khám chữa bệnh.

Kháng sinh Tetracyclin – thế hệ răng đen

Trang thiết bị y tế cũ, thuốc men cũng thiếu thốn. Với nhiều người Việt Nam, thời đó có lẽ không ai là không biết đến kháng sinh tetracylin, bệnh gì cũng uống nóng sốt đau… Hậu quả là có cả một thế hệ răng bị đen. Tetracyclin đã quý, các biệt dược như amoxicillin, ampicillin, penicillin hay lanhcosin (chữa lậu, giang mai) càng hiếm hơn, là những thứ rất cao cấp. Nhà nào kha khá một chút và có tý “quan hệ” mới dự trữ những được loại thuốc này. Thời đó dù đang làm ở Bộ Y tế, bản thân ông Quang cũng không dám mơ tưởng.

Tủ thuốc nhà nào được coi là “sang” thì có ít kháng sinh, thuốc đau dầu seda, cảm cúm, thuốc đau bụng; nếu không khi đau đầu, nhiều người chỉ cần nấu nồi nước xông, đau bụng có ngải cứu, sốt thì lá nhọ nồi. “Giờ nhìn lại có thể nói tetracycline là thứ thuốc vớ vẩn nhưng ngày xưa có đã là tốt lắm rồi. Kháng sinh ngày xưa đúng nghĩa của để dành, có cất giữ. Cứ có thuốc là quý, trừ loại để mốc, ẩm cứ còn nguyên vẹn thì vẫn dùng được, chứ không để ý mấy đến hạn dùng”, ông Quang nói.

Thuốc Tây ít, hiếm nên thuốc nam thời đó rất phát triển. Tại xã, cán bộ y tế trồng, sản xuất và sử dụng thuốc nam nhiều. Công nghệ sản xuất hết sức đơn giản: lấy cây thuốc hương nhu, bạc hà tán ra, vo viên thành thuốc người dân uống. Huyện cũng cũng có thể pha chế dịch truyền để truyền: nước muối, đường, nước pha thuốc tiêm…

Bác sĩ cũng nuôi lợn, bóc lạc phụ thêm cuộc sống

Cũng giống bao nhiều người dân khi đó, cán bộ trong ngành y vừa làm cho Nhà nước cũng vừa phải bươn chải lo cuộc sống riêng: nuôi lợn, nuôi gà, làm những việc lao động thêm. Học Dược ra trường ông Quang được chọn về làm việc trong Bộ. Sáng ông đến đúng giờ làm việc, trưa mở cặp lồng cơm ra hâm nóng, ăn xong nghỉ tý, chiều ghi lên bảng đi cơ sở nhưng thực chất là đi xếp hàng mua gạo, dầu, tem phiếu, đón con…

Ông cũng phải nhận thêm việc bóc lạc, dán giấy kẹo, dán bao dầu con hổ, cao sao vàng… Thỉnh thoảng ngày thứ bảy vẫn phải đi làm nhưng ông xin phép nghỉ đi phơi, rửa, lọc dược liệu kiếm thêm tý tiền; còn phép thì xin nghỉ hoặc trốn việc đi làm thêm.

“Nói chung cuộc sống thời đó rất đơn giản. Cán bộ ngày xưa rất tốt. Có thể thời điểm đó ai cũng khó khăn, cũng nghèo như nhau; hơn nhau có khi chỉ là cái đài, xe máy không thì xe đạp, không có gì hơn. Cuộc sống giờ thì khác, giàu nghèo chênh nhau một trời một vực” ông Quang cho biết.

Cùng với sự chuyển mình chung của cả nước, ngành y tế từ sau năm 1986 cũng có những sự thay đổi đột phá. Tại một hội nghị y tế ở TP HCM vào tháng 11/1988, cố Bộ trưởng Phạm Song đưa ra 2 chủ trương lớn: cho khám chữa bệnh tư và cho mở cửa hàng dược tư. Điều này đã tháo gỡ cho người dân rất nhiều, mở ra cho ngành y tế một lối thoát.

Đến ngày 21/6/1989, cố Bộ trưởng tự viết bài về bảo hiểm y tế: thu một phần viện phí để tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân. Nó thực sự tạo nên chuyển đổi quan trọng mặc dù gây xáo động trong xã hội thời đó. Hải Phòng là địa phương xung phong thí điểm đầu tiên. Nhờ đó các bệnh viện dần có kinh phí. Đến nay, bảo hiểm y tế vẫn được coi là “xương sống” của hệ thống y tế với mục tiêu là phải phổ cập được bảo hiểm y tế toàn dân. Đến nay nó là nguồn lực chủ yếu để phục vụ công tác khám chữa bệnh ngày càng ổn định và phát triển.

Theo VNEXPRESS 


Bên trong lò phản ứng hạt nhân duy nhất ở Việt Nam

 

Tồn tại hơn 50 năm, lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt trực thuộc Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt là nơi duy nhất ở nước ta nghiên cứu và tạo ra các sản phẩm từ phóng xạ.

Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt (Lâm Đồng) có hình vòng tròn khép kín, chính thức hoạt động ngày 3/3/1963 với công suất 250kW theo công nghệ của Mỹ, đến năm 1968 thì ngưng. Ngày 20/3/1984 lò hoạt động trở lại với công suất gấp đôi.

Lò được đầu tư nhiều máy móc hiện đại để phục vụ nghiên cứu, đo mức độ phóng xạ trong từng khu vực ở lò phản ứng rồi chuyển về hệ thống kiểm soát một cách nghiêm ngặt, quy trình chặt chẽ.

Lò phản ứng hạt nhân có 2 tầng với lối lên bậc thang. Tầng cao nhất là miệng chính của lò, tầng còn lại đặt các dụng cụ liên quan đến hoạt động của lò.

Tầng 1 của lò phản ứng gồm nơi chứa các nhiên liệu đã bị cháy, hệ thống đo mức phóng xạ cùng các hệ thống hỗ trợ lò hoạt động.

Bình trao đổi nhiệt trong quá trình lò hoạt động. Theo PGS TS Nguyễn Nhị Điền - Viện trưởng nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt - mỗi tháng lò phản ứng hạt nhân hoạt động 130 giờ liên tục để sản xuất một số đồng vị phóng xạ phục vụ cho ngành y tế, công nghiệp. Ngoài ra, thỉnh thoảng lò cũng hoạt động thời gian ngắn phục vụ thí nghiệm, nghiên cứu.

Miệng lò được đóng kín với hệ thống bảo vệ chắn chắc. Đây là vị trí cao nhất của lò phản ứng. 

Để đảm bảo tính an toàn, đảm bảo an ninh phóng xạ hạt nhân, nhân viên phải liên tục đo mức độ phóng xạ trong từng khu vực. 

Hệ thống đo phóng xạ tự động, khi vượt mức cho phép chuông sẽ reo báo động.

Các ống thông hơi (thông gió) để đưa không khí từ ngoài vào trong. Còn từ trong ra ngoài phải qua hệ thống xử lý phóng xạ một cách nghiêm ngặt.

Những dụng cụ bên trong lò được cảnh báo nhằm tránh gây nguy hiểm.

Cơ cấu của lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt hiện nay.

Các ứng dụng của lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt. Ông Dương Văn Đông, thuộc Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, cho biết, các chất phóng xạ được điều chế bằng cách chiếu xạ kích hoạt hạt nhân các đồng vị bền bằng eutron trên lò phản ứng hạt nhân, tiếp đến là công nghệ xử lý hoá phóng xạ để thu được sản phẩm cuối cùng bảo đảm chất lượng cho sử dụng thực tiễn. 

Người chỉ huy làm sống lại lò phản ứng hạt nhân 'vỏ Mỹ ruột Nga'

 

Từ lò hạt nhân do Mỹ xây dựng rồi bỏ lại năm 1975, GS.TS Phạm Duy Hiển cùng đồng nghiệp thành công tái khởi động Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt bằng lõi công nghệ Liên Xô.

Gần 40 năm trước, GS.TS Phạm Duy Hiển (88 tuổi), nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, được cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp giao trọng trách chủ trì công trình khôi phục Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, với sự giúp đỡ của Liên Xô. Đây là lò hạt nhân do Mỹ xây dựng và vận hành từ năm 1961. Tháng 3/1975, trước khi Đà Lạt giải phóng, người Mỹ đã rút hết các thanh nhiên liệu - "trái tim" của lò phản ứng - đưa về nước, khiến lò không thể hoạt động.

Từ một công trình bỏ không, GS Hiển cùng đội ngũ cán bộ, chuyên gia Liên Xô đã khôi phục lò, đưa vào vận hành thành công, nâng công suất từ 250 lên 500 kW - đặt nền móng cho sự phát triển của khoa học hạt nhân Việt Nam.

GS.TS Phạm Duy Hiển, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, chia sẻ với VnExpress về quá trình khôi phục lò. Ảnh: Phùng Tiên

"Lò Mỹ, ruột Nga"

- Ngay sau thống nhất đất nước, Việt Nam đã chủ trương khôi phục Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt. Nhiệm vụ này được bắt đầu thế nào, thưa ông?

- Tháng 10/1975, tôi được cơ quan cử vào Đà Lạt tìm hiểu, xem xét hiện trạng lò phản ứng hạt nhân do Mỹ xây dựng. Lúc đó, tôi đang là Trưởng phòng Nghiên cứu hạt nhân - Viện Vật lý, Viện Khoa học Việt Nam (nay là Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam), từng bảo vệ luận án tiến sĩ về hạt nhân tại Đại học Lomonosov.

Từ Hà Nội, tôi bay bằng máy bay quân sự vào TP HCM, sau đó được xe quân đội hộ tống lên Đà Lạt. Khi đó, tổ chức phản động Fulro vẫn quấy nhiễu ở Tây Nguyên, nên có các chiến sĩ mang súng theo bảo vệ. Lò đang được giao cho một đơn vị quân đội quản lý. Sau mấy ngày dành thời gian quan sát, nghiên cứu, tôi trở ra Hà Nội và nộp lên một bản báo cáo về hiện trạng, cũng như đề xuất việc khôi phục lò. Cuối năm 1975, Liên Xô cũng đồng ý hỗ trợ Việt Nam khôi phục Lò phản ứng Đà Lạt.

Trọng trách chủ trì công trình này chính thức được giao cho tôi trong một buổi gặp mặt tại nhà Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tháng 4/1976, dù tôi không phải là Đảng viên. Khi đó, ông đang kiêm nhiệm chức danh Bộ trưởng Quốc phòng và Phó thủ tướng, phụ trách khoa học kỹ thuật.

Trong buổi họp có mặt nhiều lãnh đạo, tướng tá khác, Đại tướng trực tiếp nhắc đến tôi: "Việc quan trọng và cấp bách nhất hiện nay là khôi phục lò phản ứng Đà Lạt. Anh Tứ (GS Nguyễn Đình Tứ, Viện trưởng đầu tiên của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam) bận việc Bộ Đại học ở Hà Nội, nên tôi và các anh trong Chính phủ đề nghị anh Hiển phải lo việc này là chính".

Nhận nhiệm vụ, trong lòng tự thấy đó là một trách nhiệm nặng nề, và cũng đầy mới mẻ, thử thách.

Ngày 26/4/1976, Chính phủ ra quyết định thành lập Viện Nghiên cứu hạt nhân (Đà Lạt), trực thuộc Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ).

Nhân lực về hạt nhân thời điểm đó ở Việt Nam không khó. Ngay dưới quyền tôi lúc đó cũng có một đội ngũ chuyên gia đầu ngành về hạt nhân gồm 10 tiến sĩ được đào tạo ở các nước như Pháp, Liên Xô. Chúng ta còn mời một số nhân viên cũ từng làm việc ở lò trước đây cùng tham gia.

Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt (Lâm Đồng) vận hành lần đầu năm 1963, có hình vòng tròn khép kín, do KTS Ngô Viết Thụ thiết kế. Ảnh: Hoàng Trường

Lần đầu tiên nhìn thấy lò nằm chơ vơ trên một quả đồi giữa Đà Lạt, tôi rất ấn tượng với vẻ đẹp của nó. So với các lò ở nhiều nước tôi từng đến, lò Đà Lạt tương đối nhỏ, nhưng kiến trúc hình tròn độc đáo, chưa nơi nào có, do KTS Ngô Viết Thụ thiết kế.

Ngoại trừ phần lõi đã được Mỹ rút đi, cấu trúc lò gần như vẫn giữ nguyên. Tuy mất nhiên liệu, lúc này độ phóng xạ dưới đáy lò vẫn khá cao, do đó thùng lò vẫn chứa nước tinh khiết để cản xạ và giữ cho vật liệu dưới đáy không bị ăn mòn.

Đồ đạc bên trong nhà lò được lưu trữ chỉn chu, các báo cáo, hồ sơ về quá trình xây dựng công trình trước đây đều được cất giữ cẩn thận trong tủ, trở thành nguồn tài liệu hữu ích cho chúng tôi.

GS Phạm Duy Hiển (trái) thảo luận với Trưởng đoàn Chuyên gia Liên Xô về kế hoạch triển khai công trình. Ảnh: Viện Nghiên cứu hạt nhân

- Lò do Mỹ thiết kế, nhưng lại được khôi phục với sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô. Làm thế nào để giải quyết sự khác biệt công nghệ giữa hai nước?

- Đây là lần đầu tiên trên thế giới có loại lò lai ghép "vỏ Mỹ - ruột Nga". Công nghệ lò phản ứng giữa hai nước rất khác nhau, từ nguyên lý hoạt động đến bản chất vật lý của nhiên liệu - trái tim của lò phản ứng.

Lò do Mỹ xây dựng có cấu trúc đồng nhất, nhiên liệu urani được trộn đều với chất làm chậm neutron tạo nên tinh thể U-ZrH, nhờ đó có tính an toàn nội tại cao. Trong khi đó, Liên Xô áp dụng cấu trúc dị nhất, chất làm chậm neutron nằm xen kẽ giữa các lớp nhiên liệu, tính an toàn nội tại thấp hơn, nhưng dễ dàng đưa công suất lên cao. Vì thế, Liên Xô phải trang bị các hệ thống kỹ thuật phụ trợ khác, phức tạp hơn để bảo đảm an toàn.

Cuối cùng, chúng tôi thống nhất lò mới có công suất 500 kW - gấp đôi giai đoạn Mỹ vận hành (250 kW).

- Quá trình khởi động lò có diễn ra đúng như kế hoạch ban đầu?

- Giai đoạn khôi phục lò diễn ra từ năm 1981 tới 1984, trước đó là thời gian khảo sát. Các chuyên gia Liên Xô kỳ vọng sẽ khởi động vật lý trước ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng 10, tức 7/11/1983. Tuy nhiên, trước khi nạp nhiên liệu vào lò mới, tôi từ Hà Nội bay vào khi Đà Lạt vừa trải qua trận bão. Cây cối, cột điện đổ rạp, công việc trên lò đang ngổn ngang, nước dưới đáy lò rất bẩn.

Tôi quyết định dừng ít ngày để dọn sạch lò, các chuyên gia Liên Xô không hài lòng, nhưng vẫn chấp nhận. Sau khi dọn sạch, chúng tôi nạp nhiên liệu để khởi động vật lý, đưa lò lên trạng thái tới hạn, tức có phản ứng dây chuyền, nhưng công suất chỉ bằng không.

Hoàn tất quá trình khởi động vật lý, đoàn Liên Xô đi nghỉ dưỡng Nha Trang, dự kiến khi trở về sẽ khởi động năng lượng, nâng công suất lò lên 500 kW. Dù vậy, tôi vẫn e ngại chuyện nước lò bẩn nên trước khi khởi động năng lượng, tôi yêu cầu tháo một thanh nhiên liệu lên xem. Thật bất ngờ, nó xám xịt thay vì có màu sáng loáng như ban đầu.

Cán bộ Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt và các chuyên gia Liên Xô trong phòng điều khiển chuẩn bị cho quá trình khởi động lò. Ảnh: Viện Nghiên cứu hạt nhân

Kế hoạch nâng công suất phải lùi lại, Trưởng đoàn chuyên gia của Liên Xô phải mang thanh nhiên liệu bị xám và chai nước lò về Moskva khảo sát. Tôi cũng bay ra Hà Nội để tham vấn các chuyên gia khác. Các thành viên còn lại trong đoàn Liên Xô dự kiến khi nâng công suất thành công sẽ về nước ăn Tết dương lịch, nhưng vì chuyện rắc rối đó nên chấp nhận ở lại Đà Lạt.

Lò chỉ chính thức khởi động năng lượng vào tháng 3/1984 khi phía Liên Xô trả lời việc thanh nhiên liệu bị xám không gây ảnh hưởng tới hoạt động của lò. Đây là lần đầu họ gặp phải hiện tượng này nên cũng chưa đưa ra nguyên nhân cụ thể. Còn chúng tôi phán đoán có thể bắt nguồn từ hiện tượng điện hóa do trong lò chứa cả kim loại cũ từ lò trước và kim loại mới.

Việc khánh thành lò chậm tiến độ ba tháng để giải quyết việc này, nhưng bảo đảm an toàn khi vận hành.

Nỗi lo Chernobyl ở Việt Nam

- Là một trong những công trình trọng điểm của Việt Nam thời kỳ đó, quá trình khôi phục Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt nhận được sự quan tâm ra sao của các lãnh đạo?

- Nhờ sự quan tâm đặc biệt của các lãnh đạo cấp cao, chúng tôi nhận được rất nhiều sự hỗ trợ trong quá trình làm việc.

Giai đoạn đầu là thời gian khảo sát làm báo cáo, từ đó có cơ sở trao đổi với chuyên gia Liên Xô để họ lên phương án tính toán, thiết kế. Tôi nhớ những năm 1976-1980, đời sống rất khó khăn, mọi người phải đong gạo bằng tem phiếu. Anh em từ ngoài Bắc đi vào Đà Lạt khảo sát phải ăn thêm bo bo thay gạo.

Tôi "đành liều"đến gặp trực tiếp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, xin chỉ thị để Lâm Đồng cấp gạo cho đoàn. Đại tướng cười hóm hỉnh bảo: "Sao người ta lại nói thương chồng nấu cháo bobo". Nói vậy, nhưng ông liền ký giấy cấp gạo đưa tôi đem về Sở lương thực tỉnh Lâm Đồng.

Đại tướng rất sâu sát tới đời sống anh em, nhiều lần lên thăm, có lần khi lò đã đi vào vận hành, ông yêu cầu tôi dẫn đến nhà ăn. Lúc đó buổi tối, anh em ăn xong đã ra ngoài hết, chỉ còn một cô nhân viên trong Ban quản lý công trình. Nhìn đĩa cơm với ít rau và lèo tèo mấy miếng thịt cá, ông nói: "Ăn thế này lấy đâu sức mà làm lò".

Hay như Thủ tướng Phạm Văn Đồng, sau chuyến thăm Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, đã yêu cầu Phan Rang cung cấp cá tươi hàng tuần cho anh em.

Chúng tôi cũng nhận được nhiều sự ưu ái đặc biệt như hưởng chế độ nghỉ làm việc hai ngày cuối tuần, tăng phụ cấp phóng xạ, được cung cấp sữa hàng tuần từ nông trại ở Lâm Đồng. Cho nên, thời đó mới có câu đùa "ở Đà Lạt không ai giàu bằng các bạn Viện hạt nhân".

Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm Viện Nghiên cứu hạt nhân, tháng 3/1984. Ảnh: Viện Nghiên cứu hạt nhân

- Hoạt động nghiên cứu, sản xuất của Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt đã mang lại những kết quả gì cho Việt Nam khi đó?

- Ngoài việc điều chế dược phẩm phóng xạ cung cấp cho các bệnh viện, chúng tôi còn phát triển công nghệ chiếu xạ, ứng dụng vào nhiều mặt của đời sống như khử trùng dụng cụ y tế bằng nhựa, lưu hóa latex thành cao su bằng chiếu xạ tia gamma.

Một nghiên cứu khác tạo được tiếng vang lớn là sử dụng chất phóng xạ đánh dấu vận chuyển sa bồi lấp luồng lạch cảng Hải Phòng. Khi đó, tuyến đường thủy tàu bè ra vào cửa Nam Triệu, cảng Hải Phòng luôn bị bồi lấp, phải dùng tàu nạo vét thường xuyên, tốn kém. Nhiều giải pháp đã được đưa ra nhưng chưa đạt hiệu quả. Chúng tôi đề xuất dùng phương pháp phóng xạ đánh dấu để theo dõi vận chuyển bùn cát.

Để làm điều đó, nhóm nghiên cứu đã ra cảng Hải Phòng lấy bùn đáy đem về phân tích, chế tạo ra một loại cát nhân tạo bằng scandium có thành phần cấp hạt giống như cát tự nhiên ở Hải Phòng. Cát này sau đó được cho vào lò phản ứng để kích hoạt thành đồng vị phóng xạ.

Chúng tôi mang ra cảng Hải Phòng, bơm cát phóng xạ xuống đáy luồng lạch, rồi dùng một chiếc tàu có gắn thiết bị định vị để xác định phương hướng, tốc độ di chuyển của cát. Nhờ đó, nhóm nghiên cứu biết được quy luật vận chuyển sa bồi theo thời gian, vẽ lại bản đồ chúng di chuyển.

Sau này, các chuyên gia Nhật Bản cũng đã sử dụng kết quả nghiên cứu đó để giúp thiết kế luồng lạch mới cho cảng Hải Phòng.

- Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt vận hành hai năm thì xảy ra thảm họa điện hạt nhân Chernobyl (năm 1986). Sự kiện này tác động như thế nào tới các hoạt động, nghiên cứu của lò sau đó?

- Sau thảm họa điện hạt nhân Chernobyl, không khí hoang mang, lo lắng bao trùm. Ngay cả khi thực hiện dự án đánh dấu vận chuyển sa bồi lấp luồng lạch bằng phóng xạ ở cảng Hải Phòng, ban đầu lãnh đạo thành phố cũng không đồng ý cho chúng tôi thả phóng xạ xuống biển, vì lo "hậu quả chẳng khác nào Chernobyl". Mãi 10 ngày sau, họ mới đồng ý cấp phép.

Thùng lò cũ và một số cấu kiện ở đáy lò vốn bị ăn mòn tại nhiều chỗ, để lại những vết nâu sẫm có thể thấy được qua lớp nước lò cao hơn 6 mét. Kể cả khi lò vận hành an toàn, tôi vẫn luôn muốn tận dụng mọi cơ hội để tìm hiểu xem tình trạng ăn mòn đáy lò có tiếp tục phát triển.

Năm 1987, một nhóm chuyên gia nước ngoài sang Đà Lạt theo dự án hợp tác kỹ thuật do Cơ quan Năng lượng Nguyên tử quốc tế tài trợ. Họ thấy vết ăn mòn đáy lò, và kết luận lò Đà Lạt sẽ bị thủng sau hai năm nữa, tức trước năm 1990, và ngỏ ý muốn quay trở lại Đà Lạt để nghiên cứu.

Tôi không đồng ý. Họ liền gửi một bản báo cáo nói lò Đà Lạt sẽ bị thủng hai năm nữa lên Cơ quan Năng lượng Nguyên tử quốc tế (IAEA).

Phái bộ Việt Nam ở đây có được thông tin, báo cáo về nước. Trong bối cảnh hậu Chernobyl, các lãnh đạo rất lo lắng. Tôi phải bay ra Hà Nội tường trình trước các chuyên viên Hội đồng Bộ trưởng và chứng minh lò vẫn hoạt động bình thường.

Thực tế các vết ăn mòn đã có từ trước và tôi đã nhận thấy từ khi khảo sát khôi phục lò năm 1976. Từ đó tới khi nhóm chuyên gia nước ngoài đưa ra cảnh báo là đã hơn 10 năm, nhưng các vết ăn mòn không hề mở rộng. Tôi cũng nghiên cứu, đọc nhiều sách về ăn mòn, đồng thời kết nối, làm việc với các chuyên gia về điện hóa trong nước để biết chắc tình trạng ăn mòn không ảnh hưởng tới hoạt động vận hành an toàn của lò.

Tuy nhiên, những tranh cãi, bàn tán xung quanh khiến tôi thấy mệt mỏi.

Tối hôm đó tôi được gọi đến gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp trước khi bay vào Đà Lạt. Tôi bày tỏ ý định xin nghỉ, ông bỗng nghiêm mặt:

- Có nghĩa là anh đầu hàng?

- Dạ vâng ạ!

- Anh có biết theo luật nhà binh, đầu hàng được khép vào tội gì không? Tội phản quốc nhé. Nhẹ nhất là phải vào tù!

Tôi đành im lặng, ra về.

Thực tế cho thấy, từ đó tới nay đã hơn 30 năm, lò vẫn vận hành tốt và an toàn. Trong chuyến thăm Viện năm 1991, Tổng Giám đốc Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế Hans Blix lúc đó đánh giá: "Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt là nơi đã sử dụng các Dự án hợp tác kỹ thuật của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế hiệu quả nhất thế giới".

Tôi tiếp tục công việc tới cuối năm 1991, rồi xin nghỉ và được Cơ quan Năng lượng Nguyên tử quốc tế mời làm Chuyên viên trưởng cho dự án hợp tác châu Á - Thái Bình Dương, giao lại trọng trách vận hành lò cho thế hệ sau.

Mây Trinh