Thứ Ba, 23 tháng 9, 2025

Nhà văn, nhà báo Xuân Ba với cuộc trò chuyện về Thanh Hóa, miền “địa linh nhân kiệt” và giải mã “nghịch lý xứ Thanh”

 Thực hiện: Lê Thọ Bình, Trình bày: Việt Anh    

Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, xứ Thanh không chỉ cần niềm tự hào quá khứ, mà còn cần sự khoan hòa, cầu thị, cởi mở để thu hút nhân tài, kết nối và hòa nhập cùng các vùng miền khác. Khi biết biến truyền thống kiên cường thành năng lượng sáng tạo, và thay tính hiếu thắng bằng sự nhân nhượng, chia sẻ, Thanh Hóa mới thực sự phát huy vai trò “địa linh nhân kiệt” trong thời đại mới.

Trong vài tháng trở lại đây, từ khoá về xứ Thanh trở nên “nóng hơn bao giờ hết” với người dân cả nước khi những con người, những câu chuyện diễn ra trên quê hương của Bà Triệu đều mang lại những cảm xúc đặc biệt, khó quên...

Chúng ta không thể không nhắc đến dấu ấn đậm nét từ nhân vật Tạ (do diễn viên Phương Nam thủ vai) - một nông dân Thanh Hóa cầm súng ra chiến trường - cùng với những thước phim hào hùng và bi tráng về cuộc chiến 81 ngày đêm ở thành cổ Quảng Trị trong Mưa đỏ, bộ phim lập kỷ lục về doanh thu của điện ảnh Việt.

Chưa hết, còn phải nhắc tới một người con xứ Thanh vốn được nhân dân yêu mến gọi là “vị bộ trưởng của nông dân”, được người nhà thương mến giản dị gọi là “cụ ông Lê Huy Ngọ” - nguyên Bộ trưởng Bộ NNPTNT - mới từ trần cũng đã tạo nên những cảm xúc trân trọng, nuối tiếc trong lòng nhiều người.

Nhưng có lẽ, điểm nổi bật nhất trong quãng thời gian qua, khiến cho xứ Thanh trở thành tâm điểm của bàn luận, chính là hàng loạt chiến công của lực lượng công an tỉnh này trong phòng chống, triệt phá các băng nhóm xã hội đen, giang hồ đội lốt doanh nhân để lộng hành, nhũng nhiễu dân lành. Cùng với đó, hệ quả tất yếu là hàng loạt quan chức cấp cao của tỉnh, những người đã ít nhiều dính líu vào những “phi vụ” làm ăn mờ ám, cũng đã bước đầu phải trả giá.

Những câu chuyện đó, vui có, buồn có, đồng loạt xảy ra cùng một thời điểm, cùng một địa điểm, lại là một nơi vốn được mệnh danh “địa linh nhân kiệt”, đã đặt ra nhiều suy nghĩ cho chúng ta…

Để giúp bạn đọc hiểu sâu hơn về miền đất đặc biệt ấy với những con người, dấu ấn đặc biệt, Báo điện tử Dân Việt đã có cuộc trò chuyện cùng Nhà văn, nhà báo Xuân Ba - hậu duệ của dòng họ chúa Trịnh. Từ góc nhìn vừa của người cầm bút, vừa của người mang trong mình mạch nguồn lịch sử gia tộc, ông đã chia sẻ với chúng tôi nhiều lý giải thú vị về vùng đất “kỳ lạ” này.


Người xứ Thanh vẫn hay đùa vui tự trào về quê hương mình rằng “Khu Bốn đẩy ra, Khu Ba đẩy vào”, nghe mà vừa thương vừa tự hào. Quả thực, mảnh đất này ít khi được hưởng thái bình lâu dài, mà luôn quằn quại dưới ách đô hộ phương Bắc hoặc phải đứng ở tuyến đầu chống giặc ngoại xâm.

Nhìn lại lịch sử, Thanh Hóa mang nhiều tên gọi: Thời Tần thuộc Tượng Quận, thời Triệu là quận Cửu Chân, đến thời Lương có tên Ái Châu, và từ thời Lý mới chính thức mang tên Thanh Hóa. Mỗi cái tên đều gắn với một giai đoạn sóng gió, nhưng cũng in đậm dấu ấn hào hùng của người dân nơi đây…

Núi Tùng ở xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá, nơi đặt lăng mộ Bà Triệu. Ảnh nền: Tranh Đông Hồ “Bà Triệu cưỡi voi”.

Thưa nhà văn, nhà báo Xuân Batừ góc nhìn lịch sử- văn hóa, ông có thể lý giải vì sao Thanh Hóa thường được coi là vùng “địa linh nhân kiệt”, sản sinh ra nhiều bậc anh hùng, nhân tài, thậm chí cả vua chúa?

- Như chúng ta thấy, địa thế Thanh Hóa rất đặc biệt: Nằm giữa Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, như chiếc “yết hầu” bảo vệ phía Nam đất nước. Núi non trùng điệp, sông ngòi bề thế, rừng biển bao la đã tạo thành một vùng linh địa. Người xưa tin rằng nơi đây hội tụ linh khí của sông núi. Không phải ngẫu nhiên mà Tần Thủy Hoàng từng sai quân sang phương Đông Nam để trấn áp “vượng khí thiên tử”, nhưng rốt cuộc vẫn bất lực.

Vùng đất Ngàn Nưa quê tôi cũng chính là nơi bùng nổ cuộc khởi nghĩa Bà Triệu năm 248, khiến quân Ngô khiếp sợ phải thốt lên: “Hoành qua đương hổ dị, đối diện Bà Vương nan” (Múa giáo đánh hổ dễ, đối diện Bà Vương khó). Đó là minh chứng hùng hồn rằng xứ Thanh đã sớm sản sinh những bậc anh hùng, khí phách lẫm liệt, làm rung động cả kẻ thù.

Cũng vì thế mà nhiều thế lực phong kiến, cả ngoại bang lẫn nội triều, từng tìm cách “trấn yểm” linh khí nơi này. Sử sách còn ghi, Cao Biền, viên đô hộ nhà Đường nổi tiếng tinh thông phong thủy, đã loay hoay với đủ phép trấn để diệt mạch thịnh vượng của xứ Thanh. Thậm chí ngay cả triều Trần, trong cuốn “Việt sử địa dư” còn chép việc vua Trần Thái Tông (năm 1248) sai thợ phong thủy đi phá long mạch Thanh Hóa: Đào núi, lấp sông, mở đường chặn dòng, hòng cắt đứt mạch phát vương. Nhưng “người tính không bằng trời tính”, chỉ ít lâu sau, đất Thanh Hóa lại sinh ra Hồ Quý Ly, dựng nên cơ nghiệp nhà Hồ ở Tây Đô.

Từ Bà Triệu, Dương Đình Nghệ, Lê Hoàn, Lê Lợi cho đến Hồ Quý Ly, rồi các chúa Trịnh, Nguyễn Hoàng… lịch sử đã chứng minh Thanh Hóa quả là vùng “địa linh nhân kiệt”. Một phần do địa thế hiểm yếu buộc con người phải rèn luyện ý chí, một phần bởi truyền thống văn hóa, tinh thần quật cường được hun đúc qua nhiều thế hệ. Chính sự gian khó, khắc nghiệt ấy lại trở thành cái nôi sản sinh nhiều nhân tài, nhiều bậc khai quốc công thần và cả những triều đại trong lịch sử dân tộc.

Nói tóm lại, Thanh Hóa được coi là “địa linh nhân kiệt” không chỉ bởi huyền thoại phong thủy hay niềm tin tâm linh, mà trước hết bởi chính những dấu ấn rất thật trong lịch sử: Một vùng đất gian lao nhưng giàu chí khí, nơi mỗi biến động của non sông đều để lại những người con kiệt xuất gánh vác trọng trách.

Nhà báo Lê Thọ Bình và nhà văn, nhà báo Xuân Ba.

“Trấn yểm” có thể chỉ là một giai thoại do người xứ Thanh nghĩ ra để tự trấn an và cũng để ngầm nhắn nhủ thiên hạ rằng “quê choa” nếu đã không bị “ghen ăn tức ở” thì hẳn còn nhiều điều khác thường. Nhưng quả thật, Thanh Hóa là vùng đất sản sinh nhiều vua chúa. Ông có thể nói rõ hơn về điều này?

Hình thế xứ Thanh vốn đắc địa, tựa như một vương quốc riêng, nơi “địa linh tất sinh nhân kiệt”. Lịch sử cho thấy từ khi nước ta hình thành Nhà nước đầu tiên cho đến khi chấm dứt triều đại phong kiến cuối cùng - nhà Nguyễn, hầu hết các dòng họ vua chúa đều ít nhiều có gốc gác từ vùng đất này. Sơ bộ thống kê cho thấy có tới 48/97 vị vua, từ thời Trưng Vương cho đến vua Bảo Đại, cùng toàn bộ 20 đời chúa đều phát tích từ Thanh Hóa.

Thanh Hóa còn là quê hương của nhiều anh hùng mở nước. Thời Bắc thuộc, đất này có Bà Triệu, người con gái vùng núi Quan Yên dũng cảm đứng lên chống Ngô. Đến thế kỷ X, Dương Đình Nghệ ở làng Giàng (Thiệu Hóa) đánh đuổi quân Nam Hán, chiếm thành Đại La, tự xưng Tiết độ sứ, một “vị vua không ngai”. Sau đó, Thái hậu Dương Vân Nga đã khoác áo hoàng bào cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, người làng Xuân Lập (Thọ Xuân), đưa ông lên ngôi mở ra triều Tiền Lê (980–1009).

Năm 1400, Hồ Quý Ly lập nhà Hồ, dựng kinh đô Tây Đô ngay trên đất Thanh.

Thế kỷ XV, từ núi rừng Lam Sơn, anh hùng Lê Lợi khởi nghĩa thành công, sáng lập triều Hậu Lê. Dưới thời Lê sơ, đất nước bước vào thời kỳ thịnh trị, còn thời Lê Trung Hưng thì nổi bật với chế độ “Lưỡng đầu chế” vua Lê- chúa Trịnh, kéo dài suốt 249 năm.

Tại Gia Miêu Ngoại trang (Hà Trung), dòng họ Nguyễn phát tích với Đoan Quận công Nguyễn Hoàng. Từ nền tảng ông gây dựng, nhà Nguyễn ra đời, truyền 13 đời vua, từ Gia Long (1802- 1820) đến Bảo Đại (1926- 1945).

Điều thú vị là chỉ cách làng Gia Miêu hơn mười cây số, ở Sóc Sơn (nay thuộc Vĩnh Lộc), là quê hương chúa Trịnh Kiểm, người mở đầu cho 12 đời chúa Trịnh nắm thực quyền trong giai đoạn Lê Trung Hưng.

Có thể nói, hiếm có vùng đất nào hội tụ dày đặc các nhân vật lịch sử như Thanh Hóa: từ những nữ anh hùng dân tộc, các vị vua khai sáng triều đại, cho đến những chúa Trịnh, chúa Nguyễn đã định hình vận mệnh đất nước suốt nhiều thế kỷ. Điều này lý giải vì sao người xứ Thanh luôn tự hào về quê hương “địa linh nhân kiệt” của mình.

Di tích Lam Kinh. Ảnh: Hoàng Đông

Thưa ông, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, chính điều kiện địa chính trị, địa văn hóa của Thanh Hóa (giáp đồng bằng, miền núi, lại hướng biển) đã ảnh hưởng sâu sắc đến tính cách và lối ứng xử của người dân nơi đây? Quan điểm của ông thế nào về điều này?

Về ý này, tôi nhớ lại một câu nói quen thuộc của các cụ xứ Thanh: Tất cả là do “nác” (nước), tức phong thổ, đất, nước, khí hậu. Người xưa tin rằng phong thổ quyết định tính cách và tập quán. Thực ra, nhiều nghiên cứu hiện đại cũng chứng minh mối liên hệ chặt chẽ ấy.

Thanh Hóa nằm ở vị trí giao thoa đặc biệt: Phía Bắc giáp đồng bằng Bắc Bộ, phía Nam tiếp cận dải đất miền Trung, phía Tây dựa núi rừng Trường Sơn, còn phía Đông mở ra biển cả. Điều kiện này buộc con người nơi đây từ lâu đã phải thích ứng với nhiều môi trường khác nhau: Làm nông trên đồng bằng, chăn nuôi và khai thác lâm sản trên miền núi, đánh bắt và giao thương bằng đường biển. Chính sự đa dạng đó hun đúc nên một tính cách phong phú: vừa cần cù chịu khó, vừa kiên cường dẻo dai, lại có phần cởi mở, phóng khoáng.

Sử cũ còn ghi nhận khá rõ nét. Lê Tắc, vị quan kiêm văn sĩ lưu vong cuối Trần, trong những ngày xa quê từng viết: “Người sinh ra ở Giao Châu và Ái Châu thì rộng rãi, có mưu trí”. Đến “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn cũng nhận xét: “Sĩ tử thích văn học, giữ khí tiết; nông dân chăm cày cấy; ít người buôn bán. Mỗi năm vào tuần tiết, họ vui mừng, thăm viếng, tế thần cầu phúc… đều rất trọng lễ nghĩa”.

Những lời chép ấy cho thấy tính cách người Thanh Hóa vừa giàu nghị lực, ham học, trọng đạo lý, vừa gắn bó bền chặt với quê hương, cộng đồng. Có lẽ cũng chính nhờ thế mà suốt chiều dài lịch sử, vùng đất này liên tục sản sinh nhiều nhân tài kiệt xuất, để lại dấu ấn trong tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Nhiều nhà nghiên cứu khi nhắc đến Thanh Hóa thường đồng thuận rằng đây là vùng đất sản sinh ra nhiều “vua chúa” và hào kiệt. Tuy nhiên, dường như cũng có một thứ khái niệm mà nhiều người gọi vui là “nghịch lý xứ Thanh” - cùng tồn tại song hành: Đó là chuyện “mất đoàn kết, chia rẽ nội bộ” lặp đi lặp lại trong lịch sử. Đỉnh điểm là chuyện “Trịnh – Nguyễn phân tranh” – câu chuyện của hai người Thanh Hóa chia đôi đất nước, gây cảnh chiến tranh triền miên, khiến dân chúng phải chịu lầm than từ đầu thế kỷ 17 tới gần cuối thế kỷ 18. Vì sao lại có nghịch lý ấy?

- Tôi thực sự hứng thú với câu hỏi mang tính khái quát, đứng cao hơn sự kiện này. Nếu nhìn từ góc độ các công trình nghiên cứu, nhiều ý kiến thường quy kết nguyên nhân vào sự tranh giành quyền bính, lãnh thổ giữa Chúa Trịnh (dưới danh nghĩa vua Lê) và Chúa Nguyễn, cộng thêm tính cách tham quyền cố vị của những bạo chúa, hôn quân. Nhưng có lẽ chưa đủ.

ADVERTISEMENT
VN Content 2

Cái nhìn sâu hơn cho thấy, dường như số phận Đại Việt đã vô thức, hay hữu ý, đặt vào tay “hai ông Thanh Hóa” những sứ mệnh vượt ra ngoài toan tính cá nhân. Một bên là duy trì và thay thế các triều đại đã hết vai trò lịch sử, như khi nhà Mạc lên thay Lê - Trịnh, rồi sau nữa là Tây Sơn và triều Nguyễn. Một bên lại gánh vác thiên chức mở cõi về phương Nam, mà khởi đầu là Nguyễn Hoàng, vị Chúa Tiên, Đoan quận công.

Tôi vẫn giữ sự hoài nghi trước câu chuyện quen thuộc “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, lời được cho là của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khuyên Nguyễn Hoàng vào Nam lập nghiệp. Bởi chính sử chưa hề ghi chép một cách xác thực. Nhiều khả năng đây là sản phẩm của hậu thế, một cách “bình” mang tính minh triết dân gian nhằm tôn vinh công lao mở mang bờ cõi của Chúa Tiên.

Huyền thoại ấy sống mãi vì nó phản ánh hợp lý một tình thế lịch sử: Triều chính rối ren ở Bắc Hà khiến những người có chí phải tìm hướng đi mới, và sự lựa chọn tiến về phương Nam chính là bước ngoặt làm thay đổi vận mệnh dân tộc.

Như vậy, khái niệm “nghịch lý xứ Thanh”, nơi vừa sinh ra nhiều anh hùng kiệt xuất, vừa gắn với những cuộc phân tranh khốc liệt, có thể được lý giải không chỉ bởi lòng tham và sự kình địch của cá nhân, mà còn là hệ quả tất yếu của những “sứ mệnh lịch sử” mà vùng đất này, cùng những con người mang trong mình tính cách đặc biệt, đã phải gánh vác. Chính sự giằng co ấy, trong đau thương, cũng góp phần kiến tạo nên diện mạo Việt Nam ngày nay.

So với các vùng đất khác như Nghệ Tĩnh, Thăng Long/Hà Nội hay Nam Bộ, người Thanh có những khác biệt khá rõ trong văn hóa và tính cách. Ảnh trên: Hoàng Đông


Ở một khía cạnh khác, Nguyễn Ánh, vốn cũng có gốc gác từ xứ Thanh, lại là người đặt dấu chấm hết cho thời kỳ phân tranh, thống nhất giang sơn về một mối. Câu hỏi đặt ra là vì sao cùng một vùng đất lại có thể sản sinh ra những nhân vật lịch sử vừa là nhân tố gây chia rẽ, nhưng cũng chính là nhân tố tạo nên thống nhất?

- Cơ chế lịch sử - văn hóa ở đây, theo nhiều học giả, nằm ở tính biện chứng nội tại của một vùng đất đặc biệt. Trong lòng Thanh Hóa, những dòng họ lớn, những thế lực quân sự - chính trị liên tục nảy sinh, tạo nên sự phân nhánh, chia rẽ. Nhưng chính những phân nhánh đó lại tạo động lực cho lịch sử vận động, mở đường cho sự hợp nhất ở tầm vóc cao hơn. Tư duy phương Đông có câu “cùng tắc biến, biến tắc thông”, khi mâu thuẫn đẩy đến cực điểm, nó buộc phải chuyển hóa để tìm ra lối đi mới.

Thực tế lịch sử Đại Việt chứng minh, nếu không có những mâu thuẫn quyết liệt của thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, có lẽ đất nước khó đạt tới sự chuyển mình mạnh mẽ về sau. Chính những đối nghịch ấy vừa là thử thách, vừa là phép thử, buộc xã hội phải tìm đến một giải pháp căn bản: Thống nhất quốc gia. Ở đó, Nguyễn Ánh trở thành nhân vật được lịch sử “chọn” để hiện thực hóa khát vọng của dân tộc.

Qua một số tài liệu nghiên cứu, người xứ Thanh thường được miêu tả là khảng khái, cứng cỏi, tự tin, song cũng không ít người bị “phê” là hiếu thắng, khó hòa hợp. Vậy, đâu là mặt mạnh và đâu là hạn chế trong cốt cách ấy?

- Câu hỏi này của anh làm tôi nhớ tới sự kiện hằng năm, Thanh Hóa tổ chức lễ kỷ niệm chuyến thăm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào tháng Giêng năm 1946, khi Người căn dặn Thanh Hóa phải trở thành “tỉnh kiểu mẫu”. Hơn nửa thế kỷ đã qua, khát vọng ấy vẫn chưa thật sự thành hiện thực. Đó dường như cũng là một nỗi buồn!

Một số nghiên cứu gần đây hé mở rằng chuyến vào Thanh đầu năm 1947 của Bác không chỉ là một chuyến thăm “thanh nhàn”, mà còn là một khảo sát chiến lược: Liệu có nên đưa Thủ đô kháng chiến về đây thay vì Việt Bắc? Có lẽ, trong những ngày gian nan ấy, Người vẫn vương vấn câu truyền tụng “Thanh thế, Nghệ thần” – Thanh Hóa là vùng địa linh có thế mạnh, còn Nghệ An nổi tiếng nhiều trung thần – cùng lời thơ Trần Nhân Tông: “Hoan Diễn do tồn thập vạn binh”, khẳng định sức người, sức quân hùng hậu của vùng đất này.

Tuy nhiên, sau cuộc khảo sát, Bác Hồ đã quyết định chọn Việt Bắc, phần vì nhiều điều kiện địa thế chưa thật thuận lợi. Câu chuyện dân gian về việc Người “chê” tính cách người Thanh có phần cực đoan e rằng chỉ là suy diễn. Ông Trần Đăng Ninh, một cộng sự thân cận, còn kể lại chi tiết Bác dừng chân tại đình Gia Miêu, nơi phát tích nhà Nguyễn, để thắp hương tưởng niệm. Lời khấn nguyện khi ấy, dẫu không ai biết, chắc hẳn vẫn hướng đến quốc thái dân an và sự trường tồn của chính thể non trẻ.

Bàn về tính cách người Thanh, ta nhớ đến những câu thơ của Huy Trụ: “Sống đất này dám chấp nhận cùng nhau/ Một câu nói nửa rừng nửa biển”. Cái chất “ăn sóng nói gió, ngang thẳng mà tỉnh táo, cảnh giác” của người Thanh được tôi luyện qua bao thế hệ vật lộn với thiên tai, địch họa.

Song, cùng với sự khảng khái ấy cũng tồn tại nét kiêu binh, từng được “Hoàng Lê nhất thống chí” miêu tả qua biến cố lính Thanh giết Quận Huy. Có lẽ, phần “gene kiêu binh” ấy vẫn còn di chứng đâu đó trong tâm thức, tạo nên cá tính mạnh mẽ nhưng cũng dễ va chạm của hậu duệ hôm nay.

Biển Sầm Sơn, Thanh Hoá. Ảnh: Hoàng Đông

So với các vùng đất khác như Nghệ Tĩnh, Thăng Long/Hà Nội hay Nam Bộ, người Thanh có những khác biệt khá rõ trong văn hóa và tính cách.

Năm 2016, tại tọa đàm “Xây dựng phương pháp nghiên cứu tính cách vùng miền: Trường hợp tính cách người Thanh Hóa” do Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (ĐHQG TP.HCM) tổ chức, GS Trần Ngọc Thêm từng “hệ thống hóa” bảy “tật bệnh” mà người xứ Thanh mắc phải, trong đó có thể kể tới những tật bệnh như: Ích kỷ, hiếu thắng, hay gây gổ, cực đoan, ngông nghênh…

Khi đó, nhận định này trong nghiên cứu của GS Trần Ngọc Thêm đã gây ra “cơn địa chấn” với người xứ Thanh, hẳn ông còn nhớ?

- Vâng, tôi nhớ rất rõ câu chuyện này. Nó cũng làm tôi chợt nhớ câu phương ngôn “Đánh nhau chia gạo, chào nhau ăn cơm”. Ẩn sau đó là cả một vòng luẩn quẩn của đời sống: Trong mưu sinh vất vả, sự khôn khéo đôi khi biến thành mưu mô nửa vời, bộc lộ sự thô bạo, ích kỷ, hiếu thắng.

Nhưng khi có điều kiện ngồi lại, chia sẻ thành quả, mâu thuẫn lại được hòa giải, tình làng nghĩa xóm lại gắn kết. Cái chất bạo liệt, mạnh mẽ ấy dường như vừa là gánh nặng, vừa là điểm nhấn trong căn tính người xứ Thanh.

Có thể nói, thế đất và lịch sử đã hun đúc nên một khí chất vừa khảng khái, cứng cỏi, vừa dễ cực đoan, nặng tính đối kháng. Tính cách ấy, qua bao biến thiên, vẫn tồn tại như một “di sản” bền bỉ từ buổi hồng hoang, in dấu trong từng giai đoạn lịch sử và dai dẳng đến hôm nay.

Tuy nhiên, cần công bằng mà nhìn nhận, những “tật xấu” mà GS Thêm liệt kê, nếu soi chiếu kỹ, không chỉ xứ Thanh mới có. Ở bất kỳ địa phương, tổ chức, cộng đồng nào trên đất nước này, người ta đều có thể bắt gặp bóng dáng của sự ích kỷ, hám lợi, hay hiếu thắng, cực đoan…

Vấn đề chỉ là biểu hiện khác nhau, mức độ khác nhau. Vì vậy, khi bàn về tính cách vùng miền, người nghiên cứu không nên dừng lại ở phán xét cảm tính. Cần có dữ liệu khoa học và phương pháp luận xã hội học nghiêm cẩn để phân tích đa chiều, đâu là bản sắc, đâu là di tồn lịch sử, đâu là hạn chế cần khắc phục.

Chỉ khi ấy, việc nghiên cứu mới góp phần giúp cộng đồng soi chiếu lại mình, nhận ra mặt mạnh, mặt yếu, để cùng hướng tới sự phát triển hài hòa và tiến bộ.

Người xứ Thanh còn có một nét đặc biệt là thường đem chính những “cái xấu” của mình ra để giễu cợt. Tôi từng nghe ông Lê Văn Tu, khi còn là Bí thư Tỉnh ủy, kể câu chuyện: Một lần vua đi thị sát nhà tù dành cho phạm nhân đặc biệt nguy hiểm. Mọi buồng giam đều khóa chặt, riêng có một phòng mở toang. Vua ngạc nhiên hỏi, cai ngục thưa: “Tâu bệ hạ, đây là phòng giam tù nhân xứ Thanh. Do vậy không cần khóa, vì hễ có đứa nào muốn ra ngoài thì chính những đứa trong buồng lại kéo trở vào”. Ông có thể lý giải về tính cách tự trào này của người Thanh Hóa?

- Tính tự trào của người Thanh Hóa quả thật là một nét thú vị, thậm chí độc đáo so với nhiều vùng miền khác. Người Thanh có thể nghiêm khắc, quyết liệt trong công việc, nhưng lại không ngại đem chính những thói quen, khuyết điểm hay định kiến xã hội về mình ra làm trò cười. Đó không chỉ là cách “giảm áp lực” trong đời sống, mà còn là một hình thức ứng xử văn hóa, vừa tự vệ, vừa tự giải tỏa.

Câu chuyện về “phòng giam không cần khóa” có thể là một giai thoại hư cấu, nhưng nó phản ánh tâm thế: Người Thanh Hóa hiểu rõ những lời đàm tiếu về tính cách “ăn thua, kéo bè”, thậm chí có lúc ích kỷ hay tranh chấp.

Thay vì phản ứng gay gắt, họ lại chọn cách kể lại bằng giọng tiếu lâm, như một lời thừa nhận nửa thật nửa đùa. Đó là biểu hiện của sự tự ý thức rất cao, họ biết thiên hạ nghĩ gì, và chấp nhận đưa điều đó ra ánh sáng theo cách nhẹ nhõm nhất.

Tự trào cũng cho thấy sức mạnh nội tâm. Khi có thể cười vào điểm yếu của mình, con người sẽ không còn bị tổn thương bởi lời mỉa mai của kẻ khác. Đây chính là “lá chắn mềm” giúp người Thanh Hóa tồn tại và vượt lên trong môi trường khắc nghiệt, từ thiên nhiên đến xã hội. Có lẽ nhờ vậy, họ giữ được sự rắn rỏi nhưng không quá nặng nề, quyết liệt nhưng vẫn biết đùa cợt.

Bây giờ chúng ta nói về một người con của Thanh Hoá mà cả nước vừa tiễn đưa về cõi vĩnh hằng với rất nhiều cảm xúc và thương nhớ. Đó là ông Lê Huy Ngọ – một nhân vật thể hiện rõ nét cái cốt cách đẹp của người xứ Thanh: Chịu khó, quật cường, hết lòng vì công việc và vô cùng khiêm nhường. Ông vốn thân thiết với ông Lê Huy Ngọ, ông có thể chia sẻ thêm gì về người con xứ Thanh này?

- Trong cáo phó, gia đình ông chỉ ghi vỏn vẹn dòng chữ: Cụ ông Lê Huy Ngọ. Không chức tước, không danh vị. Điều đầu tiên tôi muốn nói ở đây là cái sự khiêm nhường của ông Ngọ đã ngấm sâu vào vợ con ông ấy.

Ông ấy hai lần làm Bí thư tỉnh uỷ, rồi Phó ban Thường trực Ban Tổ chức TƯ, Bộ trưởng Bộ NNPTNT mà con cái cũng chỉ là những cân bộ công chức bình thường. Ông là vậy, sống giản dị, ra đi thanh thản. Chính chi tiết tưởng như nhỏ ấy lại phản chiếu trọn vẹn nhân cách một con người: Khiêm nhường, không màng danh vọng, luôn trở về với gốc rễ.

Cả đời từng giữ nhiều chức vụ quan trọng, nhưng ông chưa bao giờ kể công hay nói nhiều về bản thân. Ông chỉ hào hứng khi nhắc đến ruộng đồng, con đập, dòng lũ, hay một chuyến đi đêm vào vùng tâm bão để động viên bà con. Với ông, danh vị không quý bằng sự an lòng của dân quê.

Không ít lần, hình ảnh Bộ trưởng Lê Huy Ngọ hiện lên giữa dòng nước xiết, quần xắn cao, lội bùn, vai vác từng bao gạo, tay trao tấm áo ấm cho dân. Có khi ông ngồi trên chiếc thuyền nan chòng chành giữa sóng gió, để rồi chỉ cười khi bị lo cho sự an nguy: “Nếu lãnh đạo sợ chết thì ai dám vào vùng lũ cùng dân?”. Hình ảnh ấy đã trở thành biểu tượng: Một nhà lãnh đạo dấn thân, đi đầu trong gian khó.

Ngay cả khi NXB làm sách về mình, ông cũng từ chối để chức danh "nguyên Bộ trưởng" này kia. Ông bảo “Một con người tầm cỡ như cụ Kiệt còn chỉ để tên cuốn sách viết về mình rất đơn giản "Đồng chí Võ Văn Kiệt". Mình không nên để nguyên Bộ trưởng làm gì”. Và thế là cuốn  về ông cũng chỉ với tiêu đề "Người đi trong bão lũ". Giản dị, nhưng đủ để gói trọn cả một đời người.

Trong cơ chế vốn có nhiều người tìm cách giữ ghế, ông lại chọn cách ngược lại: chủ động xin từ nhiệm để giữ sự trong sạch. Với ông, quyền lực có thể buông bỏ, nhưng nhân cách thì phải giữ trọn.

Sinh ra từ một cán bộ canh nông, ông thấu hiểu nỗi nhọc nhằn của người làm ruộng. Ông nói chuyện với nông dân bằng thứ ngôn ngữ đời thường: chuyện gieo mạ, chuyện đắp đập, chuyện thóc gạo. Người dân không thấy ở ông một “quan chức cấp cao”, mà thấy một người cùng hội, cùng thuyền, thương dân thật lòng.

Ngày ông trở về mảnh đất Phú Thọ, nơi ông trưởng thành từ một cán bộ khuyến nông lên đến Bí thư Tỉnh ủy, trên bia mộ chỉ còn khắc vỏn vẹn mấy chữ: Ông Lê Huy Ngọ. Nhưng trong lòng dân, cái tên ấy sáng mãi – một con người khiêm nhường, cần cù, vượt khó, hết lòng vì nông nghiệp, nông thôn, nông dân.

Diễn viên Phương Nam trong vai Tạ (phim Mưa Đỏ). Ảnh: Tân Phạm

Thưa nhà văn, nhà báo Xuân Ba, một câu chuyện nữa về người con xứ Thanh mà tôi thấy cần phải bàn luận thêm cùng ông. Cả tháng qua, "Mưa đỏ" - bộ phim chiến tranh của đạo diễn Đặng Thái Huyền, nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt từ khán giả và trở thành kỷ lục phòng vé của điện ảnh nước nhà. Trong phim, nhân vật tiểu đội trưởng Tạ - do diễn viên trẻ Phương Nam thủ vai - gây nhiều chú ý với vóc dáng thô kệch, gương mặt khắc khổ, mái đầu lởm chởm và đặc biệt là giọng Thanh Hóa đậm đặc. Nhiều ý kiến cho rằng nhân vật Tạ đã khái quát được những phẩm chất đặc trưng của người xứ Thanh hôm nay. Còn ông, ông có thấy dáng dấp mình trong nhân vật ấy?

- Tôi thực sự ấn tượng với nhân vật tiểu đội trưởng Tạ. Ở anh ta có cái chất bộc trực, thẳng thắn đến gai góc, đôi lúc khiến người khác e ngại. Nhưng càng theo dõi, ta càng thấy đằng sau dáng vẻ thô kệch, giọng nói cứng rắn ấy là một tấm lòng hào sảng, nghĩa tình, hết lòng vì đồng đội. Đó cũng chính là cốt cách rất riêng của người Thanh Hóa: Có thể ban đầu khó gần, nhưng khi sống, làm việc, chiến đấu cùng nhau mới thấy hết sự chân thành và tử tế.

Anh nói tôi mới nhận ra, đúng là xem Tạ, tôi lại thấy thấp thoáng bóng dáng của mình và của bao người xứ Thanh khác: Cũng kiên cường, quyết liệt, không lùi bước trước gian khổ. Câu khẩu hiệu “K3 Tam Sơn còn, Thành cổ còn” mà Tạ hô vang không chỉ là khẩu hiệu trong phim, mà còn là tinh thần quật cường, sẵn sàng xả thân vì quê hương, đất nước, vốn đã in đậm trong truyền thống của mảnh đất Thanh Hóa.

Chi tiết tạo hình nhân vật với mái tóc rụng, thân hình lam lũ, gương mặt xạm đen giữa bom đạn càng làm khán giả xúc động. Bởi chính trong sự khắc nghiệt ấy, phẩm chất người lính xứ Thanh càng tỏa sáng: Bền bỉ, hết lòng vì đồng đội và lý tưởng.

Với tôi, nhân vật Tạ không chỉ là một vai diễn thành công, mà còn là biểu tượng nghệ thuật của người Thanh Hóa – chân chất, kiêu hãnh, giàu tình thương và quật cường. Chắc chắn khi xem Tạ, lớp người lính trận mạc xứ Thanh như thấy lại đồng đội năm xưa, và thấy lại một phần quê hương Thanh Hóa trong chính mình.

Giờ xin chuyển sang một câu chuyện đang rất thời sự khác ở xứ Thanh bây giờ. Chỉ trong thời gian ngắn vừa qua, lực lượng công an tỉnh đã triệt phá thành công hàng loạt băng nhóm tội phạm có tổ chức, giang hồ, xã hội đen ở đây. Cũng đồng thời, hàng loạt quan chức cấp tỉnh, sở đã vướng vòng lao lý. Câu hỏi đặt ra là: Đây có phải sự tiếp nối của một “nghịch lý lịch sử” vốn ám ảnh vùng đất này, hay chỉ đơn thuần là một sự ngẫu nhiên?

- Ngẫm lại một nhiệm kỳ gần đây ở xứ Thanh, nhìn vào danh sách nhân sự chủ chốt, ai nấy đều thấy trẻ trung, tưởng chừng đó là tín hiệu đáng mừng. Nhưng rồi chuyện buồn xảy ra liên tiếp như vừa qua...

Những chuyện này làm tôi nhớ tới “trường Hậu bổ” ngày xưa, nơi từng sát hạch kỹ lưỡng các quan lại trước khi họ nhận chức tri phủ, tri huyện, tổng đốc. Nay thì chúng ta có quy trình khác: Sau vài lời hoa mỹ, những bó hoa chúc mừng, một bản tin vài phút trên truyền hình, các quan chức ung dung an vị trên ghế trọng, từ đó bước vào một thế giới khác, nơi bổng lộc, quyền lực và lợi ích luôn lởn vởn và cám dỗ người ta bất cứ lúc nào…

Còn về chuyện hàng loạt cán bộ xứ Thanh “ngã ngựa” vừa rồi, tôi nghĩ người dân không nên quá mặc cảm hay tự ti. Quan tham ở xứ Thanh thì cũng giống quan tham ở bất kỳ địa phương nào khác, cùng một căn bệnh, cùng một quỹ đạo. Nếu có điều gì để xấu hổ hay tự hào thì đó là trách nhiệm mỗi cá nhân: Đã sống xứng đáng với tư cách một công dân, một lương dân chưa. Chứ tôi nghĩ không phải chỉ vì vài kẻ tha hóa, không chiến thắng nổi cám dỗ mà cả cộng đồng phải gánh tiếng.

Vùng đất linh thiêng Ngàn Nưa, nơi bao đời tôn kính, họ định “cắm” vào đó một bức tượng khổng lồ. Các nhà khoa học cũng lên tiếng, nhưng rồi tất cả bị bỏ ngoài tai. Để rồi “họa nhỡn tiền” xảy ra, đúng như lời Nguyễn Trãi từng cảnh báo: “Họa phúc hữu môi phi nhất nhật”.

Tôi từng có dịp nhắc nhở một vài người rằng chớ học cái thói của mấy “đại gia” hợm hĩnh, coi trời bằng vung, tàn phá thiên nhiên và lịch sử. Cái rặng núi đá vôi có Động Kim Sơn, nơi in dấu tiền án của nhà Trịnh, lẽ ra phải giữ, nhưng có người lại đòi phá.

Rồi thế mới sinh ra chuyện quan chức bị “đại gia lưu manh” (thực ra là dân giang hồ, xã hội đen núp bóng – PV) khống chế bằng cách… ghi âm, chụp hình.

Thực ra, chưa biết chừng, nếu các cơ quan bảo vệ pháp luật làm mạnh tay hơn nữa thì “ngày hội nhập kho” không chỉ xảy ra ở riêng xứ Thanh, mà sẽ còn diễn ra ở nhiều tỉnh thành khác nữa. Thực tế đã chứng minh từ những câu chuyện của Phúc Sơn, AIC, Việt Á, Vạn Thịnh Phát…, hàng loạt quan chức ở các bộ ngành, rồi ở cả tỉnh thành cũng “rơi rụng” hàng loạt đấy thôi.

Và chỉ tới khi đó, nhân dân và doanh nhân cả nước mới thật sự thở phào khi có được một môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng và minh bạch.

Cũng xin mượn một câu của Nam Cao để gửi gắm nỗi niềm của mình: “Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ đáng thương, không bao giờ ta thương…”.

Với tư cách một người con xứ Thanh, tôi chỉ mong người đời hiểu và công bằng hơn, thay vì vội vàng quy chụp hay mặc cảm.

Nghị quyết 58 xác định rõ mục tiêu: Đến năm 2045, Thanh Hóa trở thành tỉnh giàu đẹp, văn minh và hiện đại; tỉnh phát triển toàn diện và kiểu mẫu của cả nước. Ảnh: Hoàng Đông

Nếu phải chia sẻ những điều mà ông đã chiêm nghiệm, đúc kết được từ những câu chuyện trong quá khứ và cả hiện tại của đất và người xứ Thanh, ông sẽ chia sẻ điều gì, thưa nhà văn, nhà báo Xuân Ba?

Lịch sử và văn hóa Thanh Hóa đã để lại nhiều giá trị đặc sắc, vừa là niềm tự hào, vừa là tấm gương soi chiếu cho hiện tại. Điểm mạnh lớn nhất của con người xứ Thanh chính là truyền thống kiên cường, bất khuất, giàu tinh thần trách nhiệm đối với đất nước.

Từ khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi, khởi nguồn cho một triều đại rực rỡ, cho đến những đóng góp to lớn trong hai cuộc kháng chiến hiện đại, người Thanh Hóa nhiều lần chứng tỏ bản lĩnh “địa linh nhân kiệt”: dám gánh vác việc lớn, dám hi sinh vì nghĩa chung. Tinh thần ấy, nếu được chuyển hóa trong thời bình, sẽ trở thành động lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới và phát triển.

Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm ấy cũng tồn tại những hạn chế mang tính lịch sử- xã hội. Người Thanh Hóa thường được nhận xét là khảng khái, quyết liệt, song đôi khi dễ rơi vào hiếu thắng, bảo thủ, khó dung hòa. Truyền thống mạnh mẽ, khi đặt sai chỗ, có thể biến thành sự cứng nhắc, thiếu linh hoạt.

Tình cảm gắn bó cộng đồng, vốn là nét đẹp, đôi khi lại trở thành tâm lý “cục bộ địa phương”, gây chia rẽ và làm chậm bước phát triển chung. Những điểm yếu này, nếu không nhận diện thẳng thắn và điều chỉnh, sẽ kìm hãm chính những tiềm năng vốn có của vùng đất giàu truyền thống.

Bài học rút ra hôm nay là Thanh Hóa cần vừa khai thác những điểm mạnh, khát vọng vươn lên, ý chí vượt khó, tinh thần đoàn kết, vừa dũng cảm nhìn vào những hạn chế để thay đổi.

Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, xứ Thanh không chỉ cần niềm tự hào quá khứ, mà còn cần sự khoan hòa, cầu thị, cởi mở để thu hút nhân tài, kết nối và hòa nhập cùng các vùng miền khác. Khi biết biến truyền thống kiên cường thành năng lượng sáng tạo, và thay tính hiếu thắng bằng sự nhân nhượng, chia sẻ, Thanh Hóa mới thực sự phát huy vai trò “địa linh nhân kiệt” trong thời đại mới.

Xin kết lại bằng câu chuyện của một người con xứ Thanh được cả nước mến mộ -  cụ ông Lê Huy Ngọ. Khi còn làm Bí thư Tỉnh ủy, cụ đã ra một vế đối đầy trăn trở: “Rừng cũng nhiều, biển cũng nhiều, người cũng nhiều, làm sớm chiều mà dân vẫn đói”.

Và rồi, Giáo sư sử học Hà Văn Tấn đã đáp lại bằng một vế đối thẳng thắn nhưng cũng mang đầy tính đúc kết rằng: “Nghĩ cho khá, hiểu cho khá, làm cho khá, dẹp đấu đá Thanh Hóa sẽ giàu”.

Vâng, chiêm nghiệm lớn nhất cho Thanh Hóa hôm nay có lẽ gói gọn trong mấy chữ: “Dẹp đấu đá, Thanh Hóa sẽ giàu!”

- Xin trân trọng cảm ơn ông đã dành cho Dân Việt một cuộc trò chuyện thẳng thắn và thú vị.

Hạ tầng đô thị ở Thanh Hóa trong những năm gần đây được đầu tư, xây dựng tạo diện mạo, không gian sống hiện đại cho người dân. Ảnh trên (Hoàng Đông): Cao tốc Bắc - Nam, đoạn Quốc lộ 45 - Nghi Sơn.