Thứ Ba, 31 tháng 5, 2011

Lời kêu gọi của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp trước cuộc chiến biên giới Việt-Trung 1979

Dưới đây là bài viết của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp trước cuộc tấn công của quân đội Trung Quốc trên toàn tuyến biên giới Trung-Việt bắt đầu từ ngày 17/2/1979 với ý đồ “dạy cho Việt Nam một bài học” của Đặng Tiểu Bình mà phía Trung Quốc gọi là “Chiến tranh đánh trả tự vệ trước Việt Nam” (对越自卫还击战 Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến). Cuộc chiến nầy kéo dài trong một tháng với thiệt hại nặng nề về người và tài sản cho cả hai phía và kết thúc khi Trung Quốc hoàn thành rút quân vào ngày 18 tháng 3 năm 1979, sau khi chiếm được các thị xã Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, và một số thị trấn vùng biên.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp


Trong không khí sục sôi căm thù, cả nước ra trận, Đại Tướng Võ Nguyên Giáp đã chấp bút bài kêu gọi toàn dân và toàn quân đứng lên đánh đuổi quân xâm lược phương Bắc.
Sau hơn 30 năm kể từ ngày ấy, quan hệ Việt-Trung cũng đã sang trang. Ngày nay quan hệ hai nước Việt-Trung bước vào thời kỳ mới với “16 chữ vàng” và tinh thần “4 tốt”. Mong rằng sẽ không có một cuộc tranh chấp bằng vũ lực nào tái diễn, nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trên đất liền cũng như trên biển đảo của Việt Nam sẽ được Trung Quốc tôn trọng và những gì còn khác nhau trên biển Đông sẽ được thương thảo trên tinh thần mà lãnh đạo hai nước đã xác nhận.
Vì vậy tư liệu nầy chỉ dùng để tham khảo trong việc tìm hiểu về một giai đoạn gay go nhất sau khi đất nước thống nhất. Xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn gần xa.

Hồng Lê Thọ

Tạp Chí Cộng Sản
số 3/1979

NHÂN DÂN VIỆT NAM NHẤT ĐỊNH THẮNG LỢI,
GIẶC TRUNG QUỐC XÂM LƯỢC NHẤT ĐỊNH THẤT BẠI


Đại Tướng Võ Nguyên Giáp

Cuộc kháng chiến cứu nước thần thánh chống giặc Trung Quốc xâm lược, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang diễn ra quyết liệt ở các tỉnh biên giới phía bắc của nước ta.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, bọn cầm quyền phản động Bắc Kinh đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn chống nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Từ những ngày đầu, quân và dân ta ở các tỉnh biên giới, từ Lai Châu, Hoàng Liên Sơn, đến Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh đã nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, chiến đấu cực kỳ anh dũng bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của tổ quốc, gây cho quân giặc những tổn thất nặng nề.
Hưởng ứng Lời kêu gọi của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta từ Bắc chí Nam, ức triệu người như một, nhất tề đứng lên, chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Cả nước ta đang hướng về tiền tuyến phía bắc, sôi sục căm thù, tăng cường sẵn sàng chiến đấu, ra sức lao động quên mình, quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Trung Quốc xâm lược.
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã công bố lệnh tổng động viên trong cả nước, để bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa: chủ trương quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân đang được khẩn trương thực hiện để đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của bọn bành trướng và bá quyền Trung Quốc.

I

Cuộc chiến tranh xâm lược do bọn cầm quyền phản động Trung Quốc gây ra đã ngang nhiên xâm phạm độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt-nam, chà đạp lên mọi tiêu chuẩn của luật pháp quốc tế và những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các nước độc lập có chủ quyền.
Tập đoàn phản động Băc Kinh đã phát hành một cuộc chiến tranh xâm lược không tuyên bố, mở những cuộc tiến công quy mô lớn vào các tỉnh biên giới ở phía Bắc nước ta. Trong lúc đó, chúng rêu rao là đang tiến hành cái gọi là “một cuộc phản công tự vệ”
Chúng đã tuôn ra trên chiến trường một lực lượng quân sự trên nửa triệu quân gồm nhiều quân đoàn và sư đoàn với nhiều đơn vị xe tăng, pháo binh và không quân, ồ ạt đánh sang nước ta trên toàn tuyến biên giới. Chúng đã bị tiêu diệt hàng vạn sinh lực, hàng trăm xe tăng và nhiều phương tiện chiến tranh khác; mặc dù đã bị tổn thất nặng nề, chúng vẫn hung hăng tiếp tục chiến tranh. Trong lúc đó, chúng lại rêu rao là đang tiến hành cái gọi là “những hành động quân sự có tính chất hạn chế về không gian và thời gian” với những lực lượng được gọi là bộ đội biên phòng.
Chúng đốt phá làng bản, cướp bóc của cải, giết người già, trẻ em, hãm hiếp phụ nữ, gây ra những tội ác trời không dung, đất không tha. Chúng đến đâu cũng bị đồng bào, chiến sĩ ta đánh trả mãnh liệt. Thế mà, chúng lại rêu rao về cái gọi là thái độ “hữu nghị” với nhân dân địa phương.

Tại sao bọn giặc Trung Quốc xâm lược lại phải bưng bít giấu giếm, hành động xâm lược bỉ ổi của chúng như vậy ?
Đó là về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam do chúng gây ra là một trong những cuộc chiến tranh phi nghĩa, tàn bạo nhất trong lịch sử. Cuộc chiến tranh ấy là cuộc chiến tranh bẩn thỉu và hèn hạ chống lại nhân dân một nước xã hội chủ nghĩa, một nước từ lâu đã từng là người bạn chiến đấu của nhân dân cách mạng Trung Quốc. Cuộc chiến tranh ấy đã xâm phạm độc lập và chủ quyền của một nước đã được thế giới coi là biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, một nước đã từng hy sinh tất cả vì độc lập, tự do của Tổ quốc mình, vì sự nghiệp cách mạng và hòa bình của nhân dân các dân tộc trên thế giới, trong đó có nhân dân Trung Quốc.
Đó là vì, cuộc chiến tranh xâm lược nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là biểu hiện tập trung bản chất phản bội, độc ác và nham hiểm của bọn cầm quyền phản động Trung Quốc. Cuộc chiến tranh ấy chính là sản phẩm của sự câu kết giữa tập đoàn phản bội Trung Quốc với các giới chống cộng khét tiếng ở Mỹ và các giới quân phiệt phản động ở Nhật.
Trong lịch sử phong trào cộng sản Quốc tế, cũng đã từng có bọn phản động đội lốt xã hội chủ nghĩa Mác để chống lại chủ nghĩa Mác, làm tay sai cho chủ nghĩa đế quốc để phá hoại phong trào cách mạng. Đặc điểm nổi bật của các thế lực phản bội Bắc Kinh là chúng đang lũng đoạn quyền bính trong một nước đất rộng người đông, có sẵn trong tay một tiềm lực kinh tế và quân sự đáng kể. Chúng luôn luôn nói đến chủ nghĩa Mác – Lênin để chống chủ nghĩa Mác – Lênin, đội lốt cách mạng để chống phá cách mạng. Chẳng thế mà chúng không ngới hò hét chiến tranh, tự hào là NATO của phương đông, là “người bạn nghèo” của chủ nghĩa đế quốc Mỹ và chủ nghĩa tư bản phương Tây. Chúng điên cuồng chống liên xô và các nước xã hội chủ ngĩa khác, chống phong trào giải phóng dân tộc, phá hoại hòa bình thế giới với hành động phiêu lưu quân sự xâm lược Việt Nam, chúng đã nghiễm nhiên trở thành một thứ sen đầm quốc tế mới, một tên lính xung kích của chủ nghĩa đế quốc quốc tế.
Chính vì vậy, mà bọn cầm quyền phản động Trung Quốc là bọn phản bội lớn nhất của thời đại. Chúng là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm của nhân dân ta, đồng thời là kẻ thù nguy hiểm của cả toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa, của phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình ở châu Á và trên thế giới.
Đối với nước Việt Nam ta, thì chính sách xâm lược tàn bạo của chúng chính là sự kế tục ở một thời kỳ mới của chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc đã từng ngự trị trong lịch sử lâu đời của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Chính sách ấy là sự biểu hiện tập trung của tất cả những gì là phản động nhất, độc ác và nham hiểm nhất trong quốc sách thôn tính nước ta mà bọn hoàng đế Trung Quốc đã từng theo đuổi qua mấy ngàn năm. Trước chí khí quật cường của dân tộc ta, quốc sách ấy đã bị đập nát tan tành.
Cũng cần nói rằng, chúng ta đã sớm phát hiện dã tâm của các thế lực bành trướng ngày nay, từ lúc chúng chưa có điều kiện xuất đầu lộ diện một cách trắng trợn, ngay trong những năm tháng nhân dân ta còn đang kề vai sát cánh với nhân dân cách mạng Trung Quốc, cùng nhau chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc quốc tế. Dã tâm của bọn chúng là luôn luôn tìm mọi cách làm cho nước ta suy yếu, buộc nhân dân ta phải thần phục chúng. Đi vào quỹ đạo của chúng.
Ngay lúc đế quốc Mỹ mới phát động chiến tranh phá hoại bằng không quân đánh phá miền Bắc nước ta, nhân dân Trung Quốc đang ủng hộ và giúp đỡ nhân dân ta chiến đấu, thì giới cầm quyền Trung Quốc đã từng nói cho Mỹ biết: hễ Mỹ không đụng đến Trung Quốc, Trung Quốc không đụng đến Mỹ. Nói một cách khác, Mỹ có thể yên tâm đánh phá Việt Nam.
Đến lúc nhân dân ta giành được thắng lợi vang dội, quân đội viễn chinh Mỹ đang lâm vào thế bị suy sụp thì giới cầm quyền Bắc Kinh đã vội vã đón tiếp Ních-xơn, lợi dụng thắng lợi của ta để gây dựng nên cái gọi là “kỷ nguyên mới” trong quan hệ Trung Mỹ, một điều mà họ đã từng ước mơ từ lâu.
Tiếp đó, với sự thỏa thuận ngầm của Mỹ, họ đã thừa lúc ta còn phải dồn sức vào kháng chiến, ngang nhiên đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của nước ta.
Mùa xuân năm 1975, nhân dân ta phát động cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thì trong giới cầm quyền Băc Kinh lại có những kẻ trách cứ chúng ta không làm theo lời khuyên của họ: nên để công việc thống nhất nước nhà lại cho thế hệ con cháu mai sau.
Họ đã coi thắng lợi vĩ đại của cả nhân dân ta là thất bại thảm hại của đế quốc Mỹ, đồng thời là thất bại nghiêm trọng của chính bản thân họ.
Với thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời; ước mơ lâu đời của nhân dân ta đã biến thành hiện thực. Anh em bè bạn khắp năm châu đều đón mừng sự kiện vĩ đại ấy, coi đó là biểu tượng sức mạnh vô địch của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thế nhưng, đối với bọn bành trướng Trung Quốc thì lại khác. Chúng cho rằng, một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng giàu mạnh, có đường lối cách mạng Mác – Lênin chân chính, độc lập và tự chủ là một trở ngại to lớn đối với cuồng vọng của chúng, là một nguy cơ không cho phép chúng dễ dàng bành trướng xuống các nước Đông Nam Châu Á.
Chính vì vậy, mà ngay từ những ngày đầu nhân dân ta giành được toàn thắng, các thế lực bành trướng Bắc Kinh ngày càng công khai theo đuổi một chính sách thù địch có hệ thống đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chúng không ghê tay sử dụng một bọn đồ tể man rợ là bọn Pôn Pốt – Iêng-xa-ry để tàn sát cho hết những người dân yêu nước Cam-pu-chia. Biến nước này thành nước chư hầu và căn cứ quân sự của chúng, gây ra cuộc chiến tranh biên giới ngày càng đẫm máu ở Tây nam nước ta. Trong lúc đó, chúng xúc tiến mọi mưu đồ nham hiểm, dựng nên cái gọi là “Nạn kiều” mượn cớ cắt hết viện trợ gầy ra tình hình căng thẳng ở biên giới phía bắc, chuẩn bị thế trận thôn tính nước ta từ hai hướng, buộc nước ta phải khuất phục chúng.
Nhân dân ta hết sức bình tĩnh, vững vàng, quyết không rời bỏ con đường cách mạng chân chính của mình. Tiếp tục theo sự vùng lên đấu tranh thắng lợi của nhân dân Cam-pu-chia anh em, trận đồ bát quái của chúng đã bị phá vỡ. Tập đoàn phản bội Trung Quốc bèn điên cuồng phát động chiến tranh xâm lược nước ta hòng thực hiện mưu đồ đen tối của chúng.
Cuộc xâm lược quy mô lớn vào nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã làm cho tập đoàn phản động Trung Quốc lộ rõ nguyên hình. Chúng là bọn phản bội lớn nhất của thời đại, phản cách mạng, phản chủ nghĩa Mác – Lê nin. Chúng là một “bầy quạ đội lốt công”, đã vứt bỏ cái mặt nạ giả danh cách mạng. Cuộc chiến tranh xâm lược nước ta thực chất là một bộ phận của chiến lược bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của chúng, của chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, đồng thời là một bộ phận của chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc quốc tế.
Chúng là những tên tội phạm chiến tranh độc ác hơn cả Hitler, gây ra những tội ác tày trời trên đất nước ta, coi thường xương máu của bản thân nhân dân nước chúng. Chúng đantg ra sức kế tục và hoàn thiện hơn nữa cái thứ đạo đức kinh tởm mà một nhà văn vô sản vĩ đại Trung Quốc dã từng mệnh danh là “đạo đức ăn thịt người” của các triều đại phong kiến (1). Chúng đã làm ô nhục truyền thống và thanh danh của nhân dân cách mạng Trung Quốc và của những người cộng sản Trung Quốc chân chính. Chúng muốn biến nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, thành quả cách mạng của nhân dân Trung Quốc thành dinh lũy của một tập đoàn phát xít hiếu chiến, biến quân giải phóng nhân dân Trung Quốc thành một công cụ bành trướng xâm lược.
Các thế lực phong kiến phương Bắc cũng như các nước đế quốc đã mang quân xâm lược nước ta đều đã phạm sai lầm chiến lược, do đó mặc dù hung hăng, tàn bạo đến đâu, cuối cùng đều đi đến thất bại nhục nhã.
Tập đoàn phản động Bắc Kinh hãy coi chừng. Chúng hẵn chưa lường hết những thất bại thảm hại trước mắt và cả lâu dài đang chờ đợi chúng.
Tổ quốc Việt Nam anh hùng từng là mồ chôn của tất cả mọi kẻ thù xâm lược. Bọn bành trướng ngày nay nhất định không thể nào thoát khỏi quy luật của lịch sử. Chúng sẽ cùng chung một số phận, chuốc lấy thất bại hoàn toàn.

II

Dân tộc Việt Nam là một dân tộc độc lập, có hơn bốn nghìn năm văn hiến, một quốc gia có chủ quyền từ thuở xa xưa. Với một sức sống và chiến đấu mãnh liệt, nhân dân ta đã sớm cùng nhau chung lưng đấu cật, đem hết sức lực và trí tuệ để dựng nước và giữ nước, rèn luyện nên một khí phách kiên cường, một truyền thống bất khuất chống mọi kẻ thù xâm lược.
Qua các thế hệ, chúng ta đã biết bao phen đứng lên chiến đấu và chiến thắng bọn phong kiến xâm lược phương Bắc, giữ gìn độc lập, chủ quyền của Tổ quốc. Hết diệt Tần, chống Hán, phạt Đường, lại đánh Tống, thắng Nguyên, bình Ngô, phá Thanh. Dân tộc ta có thể tự hào rằng, vào thế kỉ XIII, nước đại Việt đã đánh thắng giặc Nguyên là kẻ xâm lăng hung bạo nhất bấy giờ, không những bảo vệ được nền độc lập của mình mà còn góp phần quan trọng ngăn chận giặc Nguyên tràn xuống Đông – Nam châu Á.
Bước vào thời kì lịch sử hiện đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc chiến tranh chống ngoại xâm oanh liệt nhất trong lịch sử của dân tộc. Nhân dân ta có thể tự hào rằng, trải qua ba mươi năm chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước dân tộc ta đã lần lượt đánh đổ chủ nghĩa phát xít Nhật, dánh thắng chủ nghĩa đế quốc Pháp, đánh thắng chủ nghĩa đế quốc Mỹ là tên đế quốc đầu sỏ có tiềm lực kinh tế và quân sự hết sức to lớn.
Ngày nay, đi theo vết xe cũ của bọn phong kiến Trung Quốc và bọn đế quốc thực dân, tập đoàn phản động Bắc Kinh lại ngang nhiên phát động chiến tranh quy mô lớn nhằm thôn tính nước ta, nô dịch nhân dân ta. Chúng ta đang đứng trước một sứ mệnh lịch sử mới, một nhiệm vụ trọng đại không những có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh của dân tộc ta, mà còn có ý nghĩa thời dại sâu sắc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn dân ta cả nước một lòng đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh cứu nước nhằm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nước ta. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta còn mang tính chất một cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm đánh bại kẻ thù nguy hiểm của hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Trong cuộc đụng đầu lịch sử mới giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa văn minh với bạo tàn, giữa cách mạng với phản cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam ta nhất định thắng lợi, giặc Trung Quốc xâm lược nhất định sẽ thất bại.
Chúng ta nhất định thắng, bởi vì chúng ta chiến đấu cho hòa bình, cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chúng ta có đường lối Mác – Lê nin đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta. Chúng ta có sức mạnh của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, của nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta nhất định thắng, bởi vì chúng ta có sức mạnh tổng hợp vô địch của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc và của nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, có lực lượng vũ trang nhân dân anh hùng, có khoa học giữ nước ưu việt và nghệ thuật quân sự sáng tạo.
Chúng ta nhất định thắng, bởi vì chúng ta có sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu lực của Liên xô, của các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, của nhân dân các nước yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới, kể cả nhân dân cách mạng Trung Quốc. Chúng ta có sức mạnh to lớn của dân tộc kết hợp với sức mạnh của ba dòng thác sức mạnh của thời đại.
Không kể tập đoàn phản động Bắc Kinh gây ra chiến tranh xâm lược với quy mô nào, sử dụng lực lượng và phương tiện vũ khí như thế nào, không kể mưu mô và thủ đoạn của chúng tàn bạo và nham hiểm như thế nào, nhân dân ta quyết dứng lên giết giặc cứu nước, quyết đưa cuộc kháng chiến thần thánh chống giặc Trung Quốc xâm lược đến thắng lợi hoàn toàn, làm tròn nghĩa vụ dân tộc vẻ vang và nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình trong giai đoạn mới của cách mạng.
Phải chăng giặc Trung Quốc xâm lược cho rằng, nước chúng lớn, dân chúng đông, quân chúng nhiều thi nhân dân Việt Nam phải sợ chúng, phải khuất phục chúng ?
Tập đoàn phản động Bắc Kinh phải biết rằng: Dân tộc Việt Nam không hề biết sợ. Ngay từ thuở xa xưa, khi số dân nước ta mới trên dưới một triệu người, dân tộc ta đã từng đứng lên chiến đấu thắng lợi, lật đổ ách thống trị của bọn phong kiến phương Bắc. Với số quân ít hơn địch, chúng ta đã từng chiến thắng oanh liệt những đội quân đông hơn mình gấp nhiều lần, từ những đội quân xâm lược của các triều đại phong kiến Trung Quốc cho đến những đội quân xâm lược của các nước đế quốc.
Bọn xâm lược Trung Quốc phải biết rằng: đất nước chúng rộng, người chúng nhiều, nhưng sức chúng nào có mạnh; quân chúng đông mà lại yếu. Đó là vì sức mạnh kháng chiến của cả một dân tộc, cả nước đứng lên chiến đấu, dũng cảm và thông minh, quyết đánh và biết đánh, bao giờ cũng là một sức mạnh vô địch. Đó là vì cuộc chiến chúng gây ra là phi nghĩa, lòng dân ly tán, nội bộ lục đục, làm sao có đủ sức để cướp nước ta. Đó là vì nước Việt Nam ta có chủ; non sông Việt Nam là của người Việt Nam; bất cứ kẻ thù nào đến xâm phạm, nhất định nhân dân Việt Nam ta dánh bại.
Phải chăng tập đoàn phản động Bắc Kinh cho rằng, với đường biên giới chung dài trên một nghìn ki lô mét – một đường biên giới mà nhân dân hai nước bao giờ cũng mong muốn xây dựng thành đừơng biên giới hữu nghị – chúng có thể lợi dụng địa thế nước ta ở gần nước chúng mà mang quân ồ ạt đánh chiếm nước ta, buộc chúng ta phải khuất phục chúng chăng ?
Bọn chúng hẵn còn nhớ: 600 năm trước đây, giặc Nguyên đã từng cho rằng, nước Nam ở gần như trong lòng bàn tay, còn Gia-va thì xa hơn như ở đầu ngón tay, vì vậy cần phải xâm lược nước Nam trước để mở đường tràn xuống các nước khác sau. Và chúng đã ba lần phát động chiến tranh xâm lược nước Nam, đã ba lần bị đánh bại hoàn toàn. Xưa nay, nước ta vẫn ở gần Trung Quốc, những điều kiện địa lý ấy nào có cứu vãn được cho các đạo quân xâm lược đông đảo từ đời Tần, đời Tống, cho đến đời Nguyên, Minh, Thanh tránh khỏi số phận bị nhân dân ta đánh bại. Chúng ta càng thấy rõ, nhân tố quyết định thắng bại trong chiến tranh đâu phải là đường đất xa gần; bọn xâm lược bao giờ cũng là kẻ thù địch, xa lạ đối với nhân dân ta, đất nước ta. Vì vậy, chúng làm thế nào lường được hết sức mạnh to lớn của dân tộc ta trong thời đại mới khi vùng lên chiến đấu vì đại nghĩa. Chúng làm thế nào hiểu được núi sông, cây cỏ, bầu trời và vùng biển của Việt Nam, làm thế nào hiểu được cái thế thiên hiểm của địa hình Việt Nam, “bất cứ nơi nào trên đất nước ta cũng là những Chi Lăng, Đống Đa, sông biển ta đều là những Bạch Đằng, Hàm Tử”.
Phải chăng tập đoàn phản động Bắc Kinh đang muốn diễn lại thế trận xâm lược Việt Nam của các thế lực bành trướng phương Bắc dưới thời phong kiến ?
Chúng ta đều biết rằng mỗi khi muốn đánh nước ta thì bọn phong kiến phương Bắc thường đánh chiếm Lâm ấp, Chiêm Thành để tạo nên thế trận bao vây từ hai hướng. Ngày nay, để chuẩn bị xâm lược Việt Nam, tập đoàn phản động Bắc Kinh lại ra sức biến Cam-pu-chia thành căn cứ quân sự vững chắc của chúng, và để phối hợp với quân của chúng từ phía Bắc đánh xuống, vừa để chuẩn bị cho cuộc chinh phục Đông Nam châu Á sau này. Thế nhưng, nhân dân Cam-pu-chia đã vùng lên làm chủ vận mệnh của mình, khôi phục tình hữu nghị lâu đời với nhân dân Việt Nam anh em, giáng cho bọn bành trướng một đòn chí mạng, thế trận nham hiểm của chúng đã bị phá vỡ.
Phải chăng tập đoàn phản động Bắc Kinh cho rằng, chúng là tập đoàn cầm quyền ở một nước lớn đang đội lốt Mác – Lê nin, lại câu kết chặt chẽ với chủ nghĩa đế quốc quốc tế và mọi loại phản động nhất trên thế giới, thì chúng đã có vây cánh hơn trước, cho nên đã đủ sức để phát động chiến tranh xâm lược quy mô lớn thôn tính nước ta, buộc nhân dân ta phải khuất phục ?
Ngang nhiên xâm lược nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng đã lộ rõ bộ mặt phản cách mạng trước dư luận tiến bộ toàn thế giới. Không những nhân dân ta đang quyết tâm chống lại chúng, đánh bại chúng, mà nhân dân Liên-xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, nhân dân tiến bộ cả thế giới đều đứng lên chống lại chúng; những người cộng sản chân chính và phong trào cộng sản và công nhân khắp trái đất đang kiên quyết chống lại chúng. Ngay nhân dân cách mạng Trung Quốc và những người cộng sản Trung Quốc chân chính cũng đang đứng lên và sẽ đứng lên ngày càng đông đảo chống lại chúng. Chúng không nghe thấy tiếng thét phẩn nộ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới nguyền rủa chúng, lên án chúng đó sao ?
Hơn thế nữa, những kẻ đồng minh của chúng là chủ nghĩa đế quốc quốc tế và mọi loại phản động hiện đang trên con đường suy yếu, nội bộ đầy mâu thuẫn, làm sao có thể hà hơi tiếp sức để cứu vớt chúng khỏi cảnh cô lập. Còn ba dòng thác cách mạng của thời đại thì đang ở trên thế tiến công mạnh mẽ. Hệ thống xã hội chủ nghĩa ngày nay mạnh hơn bao giờ hết, không ngừng phát huy tác dụng là nhân tố chủ yếu quyết định sự phát triển của xã hội loài người trong thời đại mới, bất chấp sự phản bội của các thế lực bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn câu kết với chủ nghĩa đế quốc, bất chấp sự giãy giụa điên cuồng của chủ nghĩa đế quốc liên minh với các thế lực bành trướng và bá quyền nước lớn.
Chúng phải biết rằng, chỉ có chủ nghĩa Mác- Lê-nin chân chính, chỉ có lý tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội, chỉ có nhân dân cách mạng và những người cộng sản chân chính mới có sức mạnh vô địch, sức mạnh đó nhất định sẽ đánh bại tất cả mọi thế lực phản động, kể cả bọn phản động Trung Quốc xâm lược.

III

Tổ quốc ta một lần nữa dang đứng trước nguy cơ còn mất.
Toàn quân và toàn dân ta hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng, với niềm tin vô hạn, với tinh thần quyết chiến quyết thắng cao nhất, đang anh dũng lên đường ra trận, giáng cho quân xâm lược Trung Quốc những đòn chí mạng.
Tiếp theo cuộc chiến tranh giải phóng chống đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ, cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống giặc Trung Quốc xâm lược là một cuộc chiến tranh toàn dân phát triển đến những đỉnh cao mới. Trong lịch sử chống ngoại xâm, chúng ta đã từng lấy nhân nghĩa thắng bạo tàn, lấy chính nghĩa thắng phi nghĩa, lấy những giá trị cao quý nhất của con người mà thắng sức mạnh của sắt thép.
Ngày nay, vì độc lập, chủ quyền của đất nước, vì sự sống còn của dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, vì sự trong sáng của chủ nghĩ Mác – Lê-nin, chúng ta nhất định đánh thắng hoàn toàn chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn, đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của bọn cầm quyền phản động Trung Quốc.
Bí quyết bách chiến bách thắng của dân tộc ta là cả nước chung sức lại, toàn dân đoàn kết chiến đấu, phát động và tổ chức chiến tranh toàn dân, phát huy đến trình độ cao sức mạnh của cả nước đánh giặc, thề không đội trời chung với kẻ thù xâm lược. Từ miền biên cương đến các hải đảo, từ thành thị đến nông thôn, toàn thể đồng bào các dân tộc trong cả nước, các tôn giáo, các đảng phái, bất kể già, trẻ, gái, trai, hễ là người dân Việt Nam thì đều kiên quyết đứng lên giết giặc, cứu nước; năm mươi triệu đồng bào từ Bắc chí Nam kết thành đội ngũ chiến đấu là 50 triệu dũng sĩ giết giặc Trung Quốc xâm lược.
Hơn lúc nào hết, sự nghiệp giữ nước vĩ đại đòi hỏi ở mỗi người chúng ta những hy sinh lớn lao. Trên con đường đi đến thắng lợi, khó khăn gian khổ còn nhiều. Tuy nhiên, sức mạnh giữ nước của dân tộc ta ngày nay lớn mạnh hơn bao giờ hết, chúng ta có những điều kiện cơ bản hơn bao giờ hết.
Đã qua rồi những ngày mà nhân dân ta chưa có một tấc đất tự do, chưa có một tấc sắt trong tay, trong khi nhiệm vụ đề ra là phải chớp lấy thời cơ đưa Tổng khởi nghĩa tháng Tám đến thắng lợi. Cũng đã qua rồi những năm tháng của hai cuộc kháng chiến thần thánh, lúc đầu còn phải chiến đấu với gậy tầm vông và súng kíp, về sau cũng chỉ mới có nửa nước được giải phóng làm hậu phương.
Bước vào kỷ nguyên mới, đất nước ta đã thay đổi và khác xưa. Cả nước Việt Nam đã hoàn toàn độc lập và thống nhất, đang vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở chế độ xã hội mới, với sự nhất trí chính trị và tinh thần, với lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa và tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa ngày càng cao, chúng ta đã xây dựng được nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, một lực lượng vũ trang hùng mạnh hơn bao giờ hết.
Cả nước một lòng, phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc, nhân dân ta quyết nâng cao hơn nữa những kinh nghiệm đánh giặc, cứu nước, phát triển hơn nữa khoa học và nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Ngày nay, chiến tranh nhân dân ở các địa phương trên mọi miền đất nước đã có một bước phát triển mới, một sức mạnh chiến đấu mới hết sức to lớn. Mỗi một người dân là một chiến sĩ. Mỗi bản làng, xí nghệp, nông trường, hợp tác xã, thị xã, quận huyện, là một pháo đài kiên cường chống giặc. Mỗi tỉnh, thành là một đơn vị chiến lược có đủ sức mạnh tiêu diệt hàng vạn quân địch. Cả nước ta là một chiến trường rộng lớn. Thực tế đó đã được chứng minh ngay từ những ngày đầu kháng chiến khi giặc Trung Quốc xâm lược đặt chân lên mảnh đất biên cương của Tổ quốc ta. Trong cuộc đọ sức với dân quân tự vệ và bộ đội địa phương của ta, quân đội chính quy của chúng đã bị giáng trả những đòn trừng phạt nặng nề. Mỗi một ngọn đồi ở biên cương là một Chi Lăng chồng chất xác thù. Mỗi một con suối, dòng sông là một Bạch Đằng nhuộm đỏ máu giặc. Ý nghĩa quan trọng của những thắng lợi đầu tiên của quân và dân ta là ở chỗ đó.
Ngày nay, quân đội ta đã có những binh đoàn chủ lực hùng mạnh, có sức đột kích lớn, khả năng cơ động cao, sức chiến đấu mạnh, đã từng tiêu diệt hàng chục vạn quân địch trong một trận tiến công, dù kẻ địch đông như thế nào, hung hãn và được trang bị như thế nào. Trước họa xâm lăng, phối hợp chặt chẽ với cuộc chiến đấu tại chỗ của nhân dân, cả ba thứ quân đều đánh giỏi. Lục quân, hải quân, không quân đều đánh giỏi. Bộ đội thường trực phải thật tinh. Lực lượng hậu bị phải thật mạnh. Vừa chiến đấu vừa rèn luyện, nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, nâng cao kỷ luật trong toàn quân, làm chủ mọi thứ binh khí kỹ thuật hiện đại, nâng cao trình độ hiệp đồng tác chiến, tạo nên chất lượng chiến đấu thật cao, sức mạnh và hiệu lực chiến đấu thật lớn. Các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam quyết làm tròn xuất sắc mọi nhiệm vụ, phát huy tác dụng to lớn trên chiến trường, tiêu diệt quân giặc Trung Quốc xâm lược.
Trong cuộc kháng chiến thần thánh bảo vệ Tổ quốc hiện nay, với ý chí chiến đấu cao, với những kinh nghiệm sẵn có, với những tổ chức đã được hình thành, với những thế trận đã được bố trí, quân và nhân dân ta nhất định phát huy lên một trình độ mới khả năng chủ động và sáng tạo của mình, đánh bại hoàn toàn quân xâm lược. Nhanh chóng phát hiện và nắm vững quy luật của chiến tranh, bám sát và nắm chắc quân địch, nhanh chóng phát hiện chỗ yếu cơ bản và chỗ mạnh tạm thời của quân địch. Lấy đó làm cơ sở để thực hiện chiến lược làm chủ đất nước để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để giữ vững quyền làm chủ đất nước. Làm chủ chiến trường trong từng trận chiến đấu, trong từng hướng chiến dịch cũng như trong toàn bộ cuộc chiến tranh. Luôn luôn chủ động, luôn luôn quán triệt tư tưởng tiến công, Kiên quyết và linh hoạt, giỏi đánh địch bằng mọi hình thức, tiến công dũng mãnh, phản công kiên quyết, phòng ngự ngoan cường. Bất luận trong tình hình so sánh lực lượng như thế nào, điều kiện và phương tiên vũ khí như thế nào đều phải tạo nên sức mạnh tổng hợp áp đảo, đánh địch trên thế mạnh, giành chủ động về ta, dồn địch vào thế bị động. Đó chính là biểu hiện cao nhất của tư tưởng cách mạng tiến công, là biểu hiện tập trung của tinh thần làm chủ tập thể ở trên chiến trường.
Cuồng vọng của bọn bành trướng Trung Quốc và vô hạn độ. Mưu đồ độc ác và nham hiểm của chúng là trường kỳ tiêu hao lợc lượng của ta, trường kỳ phá hoại công cuộc hòa bình xây dựng đất nước ta. Mục đích sâu xa mà chúng theo đuổi là dùng trăm phương nghìn kế làm sao cho nước Việt Nam ta không thể trở nên một nước xã hội chủ nghĩa giàu mạnh để chúng dễ dàng khuất phục, dễ dàng thôn tính.
Chính vì vây, mà trong lúc tập trung sức lực ra chiến trường để tiêu diệt chúng, quét sạch chúng ra khỏi bờ cõi, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta, thì nhân dân ta phải ra sức phấn đấu, vừa chiến đấu, vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc nhỡng nhiệm vụ cấp bách mà Trung ương Đảng để ra, thực hiện kỳ được phương sách giữ nước và dựng nước về lâu dài.
Trên mặt trận, đồng bào và chiến sĩ ta phải chiến đấu kiên cường cũng cảm, đánh bại quân xâm lược. Ở hậu phương, khắp cả nước, đồng bào và chiến sĩ ta phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, chi viện cho tiền tuyến và ra sức xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, ổn định đời sống của nhân dân. Lao động quên mình với năng suất cao, luyện tập quân sự để sẵn dàng ra trận. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cả nước phải có sự cố gắng vượt bậc về mọi mặt, kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, thực hiện càng đánh càng thắng, càng đánh càng mạnh.
Để bảo vệ độ lập, chủ quyền của tổ quốc, chỉ có một con đường là tiêu diệt hoàn toàn giặc Trung Quốc xâm lược. Để làm cho nước ta ngày càng giàu mạnh lên, chỉ có một con đường là vừa giành thắng lợi trên mặt trận, vừa giành thắng lợi trong lao động sản xuất, chăm lo đời sống cho chiến sĩ và đồng bào ta trong cả nước. Đó là nhiệm vụ cao nhất mà Đảng và Tổ quốc đề ra cho các chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân, cho giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tầng lớp trí thức xã hội chủ nghía, cho mỗi một người công dân yêu nước trong lúc này. Hơn lúc nào hết, với tính sáng tạo phi thường, toàn dân và toàn quân ta nhất định sẽ lập nên những chiến công vang dội trên tiền tuyến, đồng thhời lập nên những chiến công to lớn trong công cuộc xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước.
Trước tình hình mới, chúng ta cần ra sức biến tiềm lực mọi mặt của đất nước thành sức mạnh quân sự trên chiến trường, chuyển sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân thành sức mạnh lớn nhất của chiến tranh nhân dân bảo vệ tổ quốc, muốn vậy cần căn cứ vào kế hoạch đã được chuẩn bị và tình hình diễn biến thực tế của chiến tranh mà nhanh chóng động viên sức người, sức của phục vụ tốt nhất cho chiến tranh và quốc phòng, đồng thời tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm đời sống của nhân dân.
Đây là một công tác tổ chức thực tiễn cực kỳ quan trọng, có liên quan đến mọi mặt đời sống của xã hội. Chúng ta phải làm thật tốt công tác tổ chức thực tiễn ấy, vừa tập trung lực lượng để đánh thắng quân xâm lược, vừa tăng cường quản lý kinh tế – xã hội, nâng cao kỷ luật lao động và hiệu quả kinh tế trong tất cả các ngành, các địa phương. Có làm được như vậy, chúng ta mới phát huy được tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, động viên được mạnh mẽ và kịp thời sức người, sức của cho tiền tuyến, thực hiện “Tất cả để đánh thắng giặc Trung Quốc xâm lược”, đồng thời bảo vệ tính mệnh, tài sản của nhân dân, xây dựng hậu phương ngày càng vững mạnh.
Trong những thế kỷ trước đây, trước họa xâm lăng, chúng ta chứ hề có những bạn đồng minh lớn mạnh như bây giờ. Tuy vậy, dân tộc ta đã nêu cao tinh thần chiến đâu bất khuất, tự lực tự cường và tài thao lược kiệt xuất, đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược của các thế lực bành trướng thống trị ở Trung Quốc lúc bấy giờ.
Ngày nay, trong thời đại mới, sự nghiệp chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam ta có một ý nghĩ quốc tế to lớn. Đứng lên chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dân tộc Việt Nam đã được coi như lương tri và trái tim của cả loài người. Dựa vào sức mình là chính, chúng ta có cả loài người tiến bộ cổ vũ và ủng hộ mạnh mẽ. Chúng ta só sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn và có hiệu lực của Liên-xô -nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên trái đất- và của các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác. Chúng ta có tình đoàn kết chiến đấu keo sơn của nhân dân Lào và nhân dân Cam-pu-chia anh em” “Hết lòng ủng hộ Việt Nam”, “không được đụng đến Việt Nam”, đó là ý chí và hành động của mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Trung Quốc xâm lược. Trong lịch sử của dân tộc, chưa bao giờ bằng lúc này, kể cả trong những năm kháng chiến chống Mỹ, nhân dân Việt Nam ta lại được sự đồng tình, ủng hộ quốc tế mạnh mẽ, rộng rãi, kịp thời và kiên quyết như ngày nay.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”
Cả nước lên đường ra trận.
Giương cao ngọn cờ của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh đứng đầu là đồng chí Lê Duẫn kính mến, với quyết tâm cao, với niềm tin lớn, quân và dân ta kiên quyết tiến lên, đánh thắng cuộc chiến tranh phi nghĩa của giặc Trung Quốc xâm lược, đưa sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam đến toàn thắng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Bọn phản động Trung Quốc xâm lược nhất định sẽ thất bại !
Nhân dân Việt Nam nhất định thắng lợi !
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa muôn năm !

Vài hình ảnh:
tại biên giới Lạng Sơn(1979)
tù binh Trung Quốc (1979)
Đặng Tiểu Bình tháng 2/1979 ra lệnh “cho Việt nam một bài học”


Chú thích:

(1)- Lỗ Tấn: “Mở lịch sử ra tra cứu … Chỉ thấy trên mỗi tờ giấy viết xiêu xiêu những chữ nhân, nghĩa, đạo đức … mà nhìn thấu đến giữa những dòng chữ thì ra cả cuốn đều chép rặt có ba chữ: “Ăn thịt người” … “.


Đăng lại trên:

“Đại Tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp”
Vị Tướng Của Hòa Bình
PGS-TSKH Bùi Loan Thùy chủ biên
NXB Văn Hóa Sài Gòn 5/2009
trang 1266-1277



*****

chú thích bổ sung:

Bài báo quan trọng nầy được "phát hiện" trong cuốn sách nói trên, được đánh máy lại và phổ biến lần đầu tiên trên Bauvinal.info.free.fr trong tập tư liệu e-book " Xung đột trên biển Đông không còn là nguy cơ tiềm ẩn" do Hồng Lê Thọ chủ biên. Hiện còn được lưu trên nhiều trang mạng và cả trên blog NLG.


Lính Trung Quốc khiêu khích bộ đội ta (mũ cứng), cửa khẩu phía Bắc 1978

Mai Thanh Hải Blog - Mờ sáng 17/2/1979, Trung Quốc đã bất ngờ nổ súng, ào ạt xua bộ binh, xe tăng dưới sự yểm hộ của pháo hạng nặng, đồng loạt tấn công vào các điểm cao, mục tiêu quân sự - chính trị kinh tế của 6 tỉnh trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta.

Chúng ta đã bị bất ngờ trước cuộc tấn công. Sự chống trả ngăn bước quân xâm lược, ngay những ngày đầu chỉ được thực hiện bằng những Đồn, Trạm, đơn vị Công an Vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng), bộ đội địa phương, dân quân - du kích - tự vệ và cả những người dân, với trang bị thiếu thốn, lạc hậu. Đến khi các đơn vị chủ lực cơ động từ các vùng miền, tỉnh khác về và đặc biệt là cấp tốc hành quân bằng máy bay, tàu hỏa từ miền Nam ra, chiến trường Campuchia về, thì số lượng không nhỏ cơ sở hạ tầng của ta đã bị lính Trung Quốc phá hủy tan nát, hàng vạn người dân bị thiệt hại và hàng triệu người mất nhà cửa, ruộng vườn, phải tay bị tay gậy, bồng bế nhau sơ tán về tuyến sau. Rất nhiều nhiều đơn vị chủ lực cơ động ra "chi viện cho biên giới phía Bắc" đã không kịp... nổ một phát súng, dù là chỉ thiên trên đầu quân bành trướng xâm lược, bởi lý do rất đơn giản: Quân Trung Quốc đã phá xong, giết xong, rút về từ... tám hoánh.
Lính Trung Quốc đe dọa phóng viên chụp hình
Hôm nay, cho dù một số người cầm quyền đã ký Hiệp định không nhắc lại sự kiện 17-2-1979 cùng quãng thời gian 10 năm sau đó, ròng rã bảo vệ biên giới Tổ quốc; người ta cũng "tế nhị" không ghi lại trong sách Lịch sử trong các cấp học dạy học sinh và cũng muốn lãng quên quá khứ máu xương - nước mắt cả chục năm liền trên biên cương... Thế nhưng chắc chắn, sẽ có 1 lúc nào đó, người ta sẽ phải công khai, sẽ phải tìm hiểu và lật lại vấn đề, để ít nhất rút ra bài học về quan hệ với kẻ láng giềng tham lam và bài học cảnh giác, nắm bắt tình hình, dự đoán tình huống và nhất là để Tổ quốc không bị bất ngờ...
Năm 1979, trước khi cuộc chiến nổ ra, những hành động khiêu khích quân sự, leo thang tình hình của nhà cầm quyền Trung Quốc với Việt Nam xảy ra liên tục. Đơn cử như: Rút hết chuyên gia, kỹ sư, công nhân kỹ thuật đang giúp đỡ, làm việc ở tất cả các công trình, dự án về nước; dựng lên cái gọi là "Nạn Kiều" và kêu gọi, xúi giục những người Việt gốc Hoa, sinh sống bao đời, bao thế hệ, bỏ hết nhà cửa, công việc ở Việt Nam, rồng rắn kéo nhau về "cố quốc" Trung Quốc, trên mọi phương tiện, hiểm nguy...
Đặc biệt, trên biên giới phía Bắc thời điểm 1978, hầu như các tỉnh đều nóng bỏng tình trạng lính Trung Quốc cải trang thành người dân, tràn quan biên giới, xâm nhập vào đất ta để cướp phá lương thực - thực phẩm, phá hoại sản xuất, gây rối - hành hung - bắt cóc cán bộ, nhân dân...

Thi thể chiến sĩ Lê Đình Chinh
Cao trào nhất phải kể đến trường hợp Thượng sỹ Lê Đình Chinh (sinh năm 1960, quê ở xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa), chiến sĩ thuộc Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 12, Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng), đã hy sinh ngày 26-8-1978, tại biên giới Lạng Sơn. Thượng sỹ Lê Đình Chinh hy sinh trong khi ngăn chặn hàng chục lính Trung Quốc giả dạng côn đồ, vượt biên giới sang đất ta hành hung cán bộ, phụ nữ, nhân dân địa phương và xác của người chiến sĩ Biên phòng gần 20 tuổi này, bê bết những vết dao quắm, nhưng vẫn phải để vậy, đưa lên băng ca ra cửa khẩu, gọi bên Trung Quốc sang nhìn, để tố cáo...
Trước những hành động khiêu khích như vậy, rất nhiều người đoán chắc sẽ có xung đột - chiến tranh, thế nhưng một số người lại không nghĩ vậy và đến khi súng đã nổ rền trên biên giới, người ta mới "à!" vỡ lẽ và cuống cuồng điều quân chủ lực về chi viện cho những Đồn Công an vũ trang chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, ngọn lê cuối cùng, chiến sĩ cuối cùng; những tiểu đội dân quân - du kích tắc bụp bắn lính Trung Quốc đen đặc bằng súng trường K44, tiểu liên K50 từ hồi đánh Pháp...
Tàu Hải giám xâm phạm nghiêm trọng lãnh hải Việt Nam
Tháng 5/2011, hành động khiêu khích quân sự của Trung Quốc lại được tái diễn bằng việc 3 tàu tuần tra biển Trung Quốc phăm phăm chạy vào sâu trong lãnh hải Việt Nam 84 hải lý để uy hiếp, tấn công tàu địa chấn Bình Minh 02 của Tạp đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN) ngay trên vùng biển Phú Yên - Khánh Hòa suốt 4 tiếng đồng hồ. Điều lạ ở đây là suốt thời gian tàu Bình Minh 02 và 4 tàu bảo vệ phải chơi trò "đâm, ủi" giằng co với các tàu Trung Quốc hiện đại trên biển, trong phía bờ không có bất cứ hành động trợ giúp, cứu viện nào, cho dù Quân cảng Cam Ranh (nơi đậu đỗ của các tàu chiến đấu hiện đại nhất thuộc Quân chủng Hải Quân) và sân bay Thành Chơn (hay còn gọi là căn cứ không quân Phan Rang, nơi lúc nào cũng sẵn sàng cất cánh những biên đội máy bay chiến đấu SU30 bảo vệ Trường Sa), nằm gần ngay đó, với tổng thời gian ra tới nơi, chắc chỉ khoảng 15-20 phút.

Cáp thăm dò bị tàu Trung Quốc cắt
Cũng giống như cuối năm 1978, khi hành động khiêu khích của Trung Quốc xảy ra, quá mức chịu đựng, hệ thống các cơ quan truyền thông lại có dịp lên tiếng xả láng, phản đối (điều mà lâu lắm rồi mới được phép, từ sau sự kiện 14/3/1988) và cũng ý chang cuối năm 1978, những phát ngôn của Nhà nước mới dừng ở cấp Bộ Ngoại giao, chưa thấy cấp cao hơn tỏ bày, động đậy...
Cuộc chiến tranh biên giới 1979 kéo dài trong cả chục năm, với không biết máu xương đã đổ xuống, cũng có 1 phần lý do bất ngờ, chủ quan không lường trước mưu đồ của kẻ xâm lấn. Thế nhưng sau hơn 32 năm, chẳng lẽ cái bài học xương máu, cực kỳ quan trọng với mỗi chính thể, lại không rút ra được?..
Thế giới ngày nay đã khác. Vị thế của quốc gia cũng đã khác. Ý thức của con người cũng đã khác và cách nhìn nhận, đánh giá vấn đề cũng khác. Thế nhưng vẫn không gì thay đổi được là tinh thần dân tộc và yêu chuộng hòa bình, không muốn chiến tranh ở mỗi con người, mọi dân tộc, các quốc gia. Người dân Việt Nam - Trung Quốc, không ai muốn tái diễn cuộc chiến tranh như 1979, bởi suy cho cùng, trong mọi cuộc chiến tranh, chỉ người dân là chịu sự mất mát, hy sinh và ý thức của mỗi người, đều đặt niềm tin vào phương pháp xử lý, giải quyết vấn đề của những người cầm quyền.
Nếu nhà cầm quyền Trung Quốc không âm mưu biến Biển Đông thành ao nhà, đưa những lính thủy Trung Quốc ra xâm phạm lãnh hải quốc gia khác, bắn giết người dân nước khác, thì chắc chắn những người mẹ Trung Quốc sẽ không phải tủi hổ khi cái chết của con mình bị gọi là "trừng trị đích đáng", "quân xâm lược"; nếu bài học cảnh giác, không để Tổ quốc bị bất ngờ được những người lãnh đạo Việt Nam thấm thía, thì chắc chắn sẽ không có những người nằm xuống trong uất ức, không thể hiểu vì sao mình lại bị bắn, như trong buổi sáng sớm ngày 17-2-1979 và bao nhiêu người mẹ, người vợ Việt Nam, đến bây giờ vẫn không biết xác của 64 người thân bộ đội Hải quân mình nằm đâu, khi trúng đạn Trung Quốc, sáng 14-3-1988 tại vùng biển Cô Lin - Gạc Ma, Trường Sa của Việt Nam.
Biên phòng Việt Nam - Trung Quốc đấu khẩu trên đường biên
Bảo vệ đất nước, không chỉ đơn giản là chuyện gọi điện mời báo chí đến họp, phát biểu mấy câu vô hồn như máy khâu chạy lạch xạch quen thuộc, chiếm mấy phút thời lượng trên Truyền hình Quốc gia phản đối, yêu cầu này khác; Bảo vệ đất nước, càng không thể là thi thoảng gặp gỡ - hội đàm cấp này khác và tranh thủ "gài" chuyện chủ quyền lãnh thổ để đối tác "lưu ý giúp đỡ"; Bảo vệ đất nước, lại không thể chơi trò "nói như rồng leo, làm như mèo mửa": Tuyên bố trên Báo đài, trước Hội trường, Cử tri thì hùng hồn, nhưng khi xảy ra sự việc thì im thin thít, thậm chí không thấy có mặt trên bản tin VTV, như thường lệ; bảo vệ đất nước, tuyệt đối không thể bịt mồm người khác muốn sát cánh hô câu "Bảo vệ đất nước"...
Bảo vệ đất nước, điều đầu tiên là phải tâm niệm "đất nước phải được bảo vệ", giữ gìn uy danh, phát huy truyền thống quật cường vốn có và phát huy, khơi gợi tinh thần dân tộc trong mỗi công dân. Bảo vệ đất nước - Việc này càng quan trọng hơn khi tư thế của người bảo vệ hiên ngang, ngẩng đầu chứ không dúm dó, sợ sệt và chấp nhận "Trạng chết, Chúa cũng băng hà"... Một chính thể mà những người cầm quyền không biết thổi bùng, tranh thủ ngọn lửa yêu nước trong mỗi công dân, khi chủ quyền lãnh thổ quốc gia bị xâm phạm thì chính thể ấy không đặt lợi ích dân tộc, người dân lên hàng đầu và dĩ nhiên, khái niệm bảo vệ đất nước - người dân, có chăng chỉ chuyện nằm trên giấy. Lâu nay, chúng ta hay nhắc đến 2 chữ "đồng thuận", thời điểm này là dịp tốt nhất để những người lãnh đạo tỏ rõ vai trò gắn kết, tạo sự đồng thuận trong nhân dân trong việc bảo vệ - xây dựng Tổ quốc. Mọi công dân Việt đang chờ đợi những người lãnh đạo tỏ rõ chính kiến yêu nước, phát động yêu nước và noi gương yêu nước, từ câu chuyện nhỏ mà lớn, truyền thống và hiện tại: "Cương quyết chặn đứng mọi âm mưu xâm lược và để Tổ quốc không bị bất ngờ"...
Bài học này, cha ông ta đã truyền lại từ bao đời trước và vẫn còn vẹn nguyên, nóng hổi cách đây hơn 32 năm: Ngày 17-2-1979, Trung Quốc bất ngờ tấn công xâm lược Việt Nam...

-----------------------------------------------------------------------





HÌNH ẢNH TRUNG QUỐC KHIÊU KHÍCH VIỆT NAM, TRƯỚC 17-2-1979


Lính Trung Quốc khiêu khích bộ đội ta (mũ cứng) tại cửa khẩu biên giới phía Bắc, 1978

Người Việt gốc Hoa bị lôi kéo về Trung Quốc


Người Việt gốc Hoa phải bỏ nơi sinh sống, làm việc để về Trung Quốc trong gian nguy

Lính Trung Quốc hung hãn đe dọa phóng viên chụp hình


Biên phòng Việt Nam - Trung Quốc đấu khẩu ngay trên đường biên giới 2 nước


Thi thể chiến sĩ Lê Đình Chinh sau khi bị lính Trung Quốc dùng dăm quắm chém đến chết

Một số nhóm thám báo đột nhập vào Việt Nam bị bắt giữ



Chủ Nhật, 29 tháng 5, 2011

Fareed Zakaria: How to beat bribery? =Làm thế nào để diệt trừ tham nhũng?

 


Fareed Zakaria: How to beat bribery
Fareed Zakaria: Làm thế nào để diệt trừ tham nhũng?

One out of every four people on this planet paid a bribe last year. Bribery has been said to cost the world $1 trillion a year. The United Nations says bribes accounted for one fourth of Afghanistan's annual GDP.
Một trong số bốn người trên hành tinh này phải trả một khoản tiền hối lộ trong năm ngoái. Người ta ước tính: thế giới đã phải chi tới 1 ngàn tỷ Mỹ kim/năm, cho tệ nạn hối lộ/tham nhũng. Riêng Afghanistan, Liên Hiệp Quốc nói rằng hối lộ chiếm một phần tư GDP hàng năm của nước này.
So I was intrigued to hear about an innovative idea to deal with corruption from one of the places most plagued by it - India.
Vì thế, tôi rất tò mò muốn nghe về một ý tưởng sáng tạo đối phó với nạn tham nhũng, từ một trong những nơi bị nạn tham nhũng tràn ngập nhất: Ấn Độ.
India's Chief Economic Adviser, the economist Kaushik Basu, posted a paper on his personal website in which he made a case for legalizing certain types of bribes.
Trưởng Cố vấn kinh tế Ấn, nhà kinh tế Kaushik Basu, mới đây đăng trang web cá nhân của mình một bài viết trong đó ông đề nghị thực hiện việc cho hợp thức hóa một số cách thức để hối lộ.
Corruption is a huge and growing problem in India. More than half of all Indians say they had to pay a bribe last year. Many of those are what Basu calls "harassment bribes" - illegal payments to get basic services, like an extra 100 rupees to get a driver's license or a routine permission.
Tham nhũng là một vấn đề lớn và đang tái diễn ở Ấn Độ. Hơn một nửa dân số người Ấn Độ nói rằng họ đã phải trả một khoản tiền hối lộ năm ngoái. Đa số những khoản tiền hối lộ đó, được Kaushik Basu gọi là "hối lộ quấy rối – harassment bribes" – các khoản thanh toán bất hợp pháp để có được dịch vụ cơ bản, như thêm 100 rupee để có được giấy phép lái xe hoặc một giấy phép bình thường.
These are the kinds of bribes Basu wants to change the law on. Under current Indian law, both the bribe giver and the bribe taker are guilty. If they're caught, both are fined an equal amount, say 100 rupees. So the state gets 200 rupees total.
Đây là những loại hối lộ Kaushik Basu muốn luật chống hối lộ phải thay đổi. Theo luật Ấn Độ hiện nay, cả người cho hối lộ và người lấy tiền hối lộ đều phạm tội. Nếu họ bị bắt, cả hai đều bị xử phạt một số tiền bằng nhau, ví dụ như 100 rupee. Vậy, nhà nước được thu vô 200 rupee.
Basu has a radical proposal. Fine the bribe taker, the government official, 200 rupees, he says. Let the bribe giver go scot-free. So the government collects the same amount in fines, but the person who had to pay the bribe is not fined. Instead, he gets his bribe money back.
Kaushik Basu có một đề nghị cấp tiến hơn vì ông đề nghị phạt các quan chức nhân viên nhà nước, người lấy tiền hối lộ, 200 rupee và tha người đưa tiền hối lộ. Vậy, nhà nước thu vô, cũng cùng một lượng tiền phạt, nhưng người đã phải trả tiền hối lộ lại không bị phạt. Thay vào đó, quí vị nhận được tiền hối lộ của quí vị trở lại.
So how does this reduce corruption? Well, Basu's game theory simulation suggests that bribery in general will decrease because people who are asked for bribes can pay the money and they can still go and complain without worrying that they will be prosecuted. And the corrupt official who takes the bribe will know that if they take the money they face twice the penalty.
Vậy điều này làm giảm tệ trạng tham nhũng như thế nào? Lý thuyết trò chơi mô phỏng [game theory simulation] của Kaushik Basu cho thấy hối lộ nói chung sẽ giảm vì những người bị đòi cho hối lộ có thể trả tiền hối lộ và họ vẫn có thể đi khiếu nại mà không lo lắng rằng họ sẽ bị truy tố. Và các nhân viên quan chức tham nhũng nhận hối lộ sẽ biết rằng: nếu họ lấy tiền hối lộ, họ phải đối mặt với hình phạt gấp đôi.
It's a fascinating idea. It has come in for lots of criticism in India, but the critics are missing the point. India needs creative thinking to cure the cancer of corruption that is actually getting much worse, and not just in India.
Đây là một ý tưởng hấp dẫn. Nó đã bị rất nhiều chỉ trích ở Ấn Độ, nhưng các nhà phê bình không nhận thấy điểm này. Ấn độ cần có tư duy sáng tạo để chữa trị căng bệnh ung thư thối nát của tham nhũng vì nó càng ngày càng tồi tệ hơn nữa, và không chỉ ở Ấn Độ thôi, mà còn các nơi khác, như trong bản đồ dưới đây, cho thấy.

Xxx

It's a corruption index, put together by Transparency International. The redder a country is, the more corrupt its bureaucrats. The yellow spots are less corrupt. You notice here in the U.S. we're not doing too badly.
Đây là chỉ số tham nhũng, do Tổ chức Minh bạch Quốc tế nghiên cứu. Các màu đỏ: càng đỏ ở một quốc gia, nói đó càng có nhiều quan chức tham nhũng của mình. Các chỗ màu vàng, lại ít tham nhũng hơn. Như bạn có thể thấy ở nước Mỹ này chúng ta cũng xử sựu không tồi lắm.
So what's the least corrupt country in the world? Singapore.
About five decades ago, that tiny country was newly independent, and for all of the rapid growth, it had the usual third world baksheesh culture. That changed under Lee Kuan Yew. He decided to pay government officials at par with those in the private sector. That killed the incentive for officials to be corrupt.
Vậy, nước tham nhũng ít nhất trên thế giới là nước nào? Singapore.
Khoảng năm thập kỷ trước đây, đất nước nhỏ bé này vừa được độc lập, và dù cho có đạt được những thành tựu nhanh chóng, Singapore cũng có một văn hóa baksheesh “xin-cho nhũng nhiễu” ở thế giới thứ ba, như bình thường. Điều đó bị thay đổi dưới thời Lý Quang Diệu. Lý Quang Diệu quyết định trả tiền nhân viên quan chức chính phủ ngang bằng với những người trong khu vực tư nhân. Điều đó tiêu diệt những khích lệ cho các cán bộ muốn tham nhũng.
The Singapore solution is expensive, especially for large countries with large bureaucracies, but it would probably still be a bargain considering how much corruption costs most economies.
Another innovative idea came out of Africa. The Sudanese-born billionaire Mo Ibrahim often wondered why his continent had the richest resources, the richest natural resources, and yet the poorest people.
Nhưng giải pháp Singapore tốn nhiều tiền, nhất là đối với các nước lớn với hệ thống quan liêu lớn, nhưng nó vẫn có thể là một giao kèo có lợi nhiều cho Singapore, khi cứu xét tệ trạng tham nhũng làm tổn hại nhiều đến các nền kinh tế trên thế giới như thế nào. Một ý tưởng sáng tạo khác đề ra từ Châu Phi. Tỷ phú người Sudan Mo Ibrahim thường tự hỏi tại sao lục địa của mình có nguồn tài sản và tài nguyên thiên nhiên giàu có nhất, nhưng lại là những người nghèo nhất.
Identifying corrupt leaders is the problem. Ibrahim tried to change those leaders' incentives. He instituted the annual Ibrahim Prize. It awards $5 million to an African leader who is not corrupt and leads office peacefully. The winner then goes on to get an additional $200,000 annually for life.
Nhận thấy rằng tệ trạng tham những trong cấp lãnh đạo là vấn đề chính. Mo Ibrahim đã cố gắng đề ra các khích lệ dành cho những người lãnh đạo ở cấp quốc gia. Ông lập ra Giải thưởng Ibrahim hàng năm và trao tặng 5 triệu USD cho một nhà lãnh đạo châu Phi, nếu không tham nhũng trong thời gian cầm quyền và rời bỏ chính trường một cách yên ổn. Người đoạt giải thưởng, sau đó, sẽ nhận được thêm $ 200,000/năm, trọn đời.
A great incentive, right? The problem is they couldn't find a winner for 2009 or 2010. The jury simply refused to make the award to someone who was not truly deserving.
Đây có phải là một khích lệ tuyệt vời không cho châu Phi? Vấn đề là họ không thể tìm thấy một người, để đề cử vào Giải thưởng Ibrahim năm 2009 và 2010. Ban giám khảo đã từ chối trao giải thưởng cho những người không thực sự xứng đáng.
But the point of this story isn't to despair. Corruption or bribery are not innate cultural qualities. Singapore shows that cultures can change. Studies show that these crimes are due to inertia. If everyone's doing it, then there's incentive to take and offer bribes as well. But how do you get to a critical mass where people stop doing it? Well, smart government policies and good leadership from the private and public sector help.
Điểm chính của đây này không phải là sự vô vọng. Tham nhũng hay hối lộ không phải là phẩm chất văn hóa bẩm sinh. Singapore cho thấy văn hóa có thể thay đổi được mà. Các cuộc nghiên cứu cho thấy những tội ác này là do quán tính. Nếu tất cả mọi người đều làm như thế, thì mọi người có động cơ để đòi và lấy hối lộ. Nhưng làm thế nào để quí vị đi tới một khối điểm quan trọng khi mọi người cùng ngừng làm việc đó? Khi mà chính sách thông sáng của chính phủ và sự lãnh đạo tốt đẹp từ khu vực tư nhân và công cộng sẽ giúp tệ trạng này giảm bớt đi.
It is possible. This is the year of change, after all. And remember, much of the popular anger against governments in the Arab world this year was fueled by the sense that they were out of touch, repressive and corrupt. So let's try more ideas like the one from Mr. Basu in India.
Đây là điều có thể làm được vì đây là năm của sự thay đổi. Và hãy nhớ rằng, cơn nổi giận từ quần chúng chống lại chính phủ trong thế giới Ả Rập năm nay đã được thúc đẩy bởi sự nhận thức rằng các chính quyền họ đã rời xa quần chúng, tàn ác và tham nhũng. Vì vậy, hãy thử những ý tưởng mới lạ hơn, như một trong những ý tưởng của Kaushik Basu ở Ấn Độ.

Nguyễn Lan lược dịch

For the congregation of hypocrites shall be desolate and fire shall consume the tabernacle of bribery... Job 15:34 (KJV). The word of God is equal to God and it cannot change. The scripture says: “By righteousness a nation is lifted up, but sin is a cause of shame to the people” Proverb 14:34 (BBE).
The greed to make money, become popular and gain untold power has led so many people into the sins of bribery. Bribery which is the dishonest art of persuading someone, either by giving him or her money or any valuable item is a sin that is causing shame to the people and bringing withering economic woe to the nation. Nowadays, it has become stylish to grab the nation by the throat and steal from her coffers. Government officials, contractors, suppliers etc have taken it as a way of life to bribe their way through inglorious riches and tremendous wealth. They bribe and receive bribe, perverting justice, abandoning national project and making the environment and our economy unbearable for the masses.
If you are involved in this illicit art, this is what the wealthiest man from east(Job) is telling you. “Fire shall consume the tabernacle of those who are engaged in bribery” Any empire or business organization built through bribery will not stand the test of time. It will eventually suffer the heat of adverse economic inferno and it will not remain. You will look for it, behold it will be no more. You may collect bribe in your closet and pretend in public. The scripture says, you are a hypocrite and the hypocrites the scripture says “ …shall be desolate…….” “Of all the things in the world that stink in the nostrils of men, hypocrisy is the worst” - Spurgeon. And “a hypocrite is a fellow who isn’t himself on Sundays”. No matter your pretence, you have an end and it is desolation. If you take bribe and bring the money to the house of God to impress, the scripture is saying that your end is not going to be comfortable.
Bribery is dangerous, it enthrones mediocrity and crucify merit. It destroys standards, silence excellence and discourage patriotism and heroism. Where bribery thrives, under development is celebrated. Our educational system has became a gallery to display shame and mediocrity. Schools produce graduates who lack feat to competent effectively in this fast changing world. Lecturers receive bribe and students bribe their way out. The economy is full of bribe givers and bribe collectors. The economic boat of our nation is sinking because the syndicates of evil are on board.
William .E. Gladstone said: “Selfishness is the greatest curse of the human race” when you bribe to have everything for your self, depriving the right people from getting and being there, that is a sure curse of human race. You may seem to enjoy temporal success but in no distant time all will amount to nothing and your name will fade away. Prophet Amos was right when he said, for as much therefore you trample on the poor, … you have built houses of hewn stone, but you will not dwell in them, you have planted vine yards, but you shall not drink their wine… You who afflict the just, who take bribe …” Amos 5:11-12.
Honestly, we are living in an environment highly infested with the disease called bribery. Amidst all these iniquities what do we do? As a matter of fact. Samuel judged Israel all the days of his life but his own children were rejected by the elders of Israel . They demanded for a King as bribery had taken a dangerous and systematic toll among the sons of Samuel. Every right thinking citizen should reject any body who receive and gives bribe. Clergies should frown at their donations. Their wealth should not be celebrated because in a passing moment, it will definitely loose its value.
What is the way forward for them?
Amos 5:14-15 has the verdict: Seek good, and not evil, that you may live ……. And establish justice in the court. If you are a student offering bribe to your lecturer and exam officials, seek good and repent. The process of divide and rule, sacrificing of merit on the altar of mediocrity among our politicians should be put aside and be replaced with patriotism and firm national integrity. If you have bribed and received bribe before; restitution is the answer. Return and surrender your ill-gotten wealth for national development and God will firmly establish you in life as every good and perfect gift comes from God.

"Tổ quốc nhìn từ biển" & CHÙM THƠ CỦA BÙI MINH QUỐC

Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển
Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa
Ngàn năm trước con theo cha xuống biển
Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa

Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc
Các con nằm thao thức phía Trường Sơn
Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả
Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn

Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển
Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng
Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa
Trong hồn người có ngọn sóng nào không
Minh họa: Văn Nguyễn
Nếu Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo
Lạc Long cha nay chưa thấy trở về
Lời cha dặn phải giữ từng thước đất
Máu xương này con cháu vẫn nhớ ghi

Đêm trằn trọc nỗi mưa nguồn chớp bể
Thương Lý Sơn đảo khuất giữa mây mù
Thương Cồn Cỏ gối đầu lên sóng dữ
Thương Hòn Mê bão tố phía âm u

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao thương tích
Những đau thương trận mạc đã qua rồi
Bao dáng núi còn mang hình góa phụ
Vọng phu buồn vẫn dỗ trẻ, ru nôi

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm họa
Đã mười lần giặc đến tự biển Đông
Những ngọn sóng hóa Bạch Đằng cảm tử
Lũ Thoát Hoan bạc tóc khiếp trống đồng

Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo
Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn chập chờn
Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy
Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân

Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả
Những chàng trai ra đảo đã quên mình
Một sắc chỉ về Hoàng Sa thuở trước (*)
Còn truyền đời con cháu mãi đinh ninh

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát
Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời
Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất
Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi

Nguyễn Việt Chiến

(*) Mới đây người dân huyện đảo Lý Sơn đã tìm thấy một sắc chỉ của vua triều Nguyễn năm 1835 cử dân binh ra canh giữ đảo Hoàng Sa




CHÙM THƠ CỦA BÙI MINH QUỐC

THƠ DÂNG
Kính dâng anh linh các liệt sĩ
vì Tổ Quốc đã bỏ mình trong lòng đất lòng biển
Hoàng Sa Trường Sa
Tôi ngước mắt vọng trời
Trời rựng máu
Hoàng Sa
Trường Sa
Tôi cúi đầu tìm đất
Đất ứa lệ
Hoàng Sa
Trường Sa
Tôi vây giữa ngàn thông ngàn hoa
Gốc thông nào cũng khắc
Hoàng Sa
Trường Sa
Cánh hoa nào cũng nhắc
Hoàng Sa
Trường Sa
Kìa vụt hiện ngọc ngà
Người mẫu
Em lớn từ lệ máu
Hoàng Sa
Trường Sa
Ê a bên thềm miệng sữa ê a
Vỗ lòng tôi tựa sóng
Hoàng Sa
Trường Sa
Sực nghe xuân gõ cửa mọi nhà
Âm âm
rền
Hoàng Sa
Trường Sa.
Đà Lạt 24g30.19.01.2008
BMQ



BÊN CỘT MỐC
Tim thắt lại trong buổi chiều lúa non
Bản Nùng xa khói bếp
Hoa phượng đỏ đầy trời xứ Lạng
Đỏ lên từng tấc đất tôi thương
Máu đồng đội đỏ cho màu hoa ấy
Ôi màu khói màu hoa tự bao giờ cứ vậy
Dù ai để ý hay không
Sao lòng ta run rẩy
Tiếng xe ngựa qua cầu Kỳ Lừa
Lóc cóc dưới chiều mưa
Tấm bạt rách trên mui gió lật
Che mái đầu mấy người đàn bà
Nói những chuyện cuốc cày mua bán
Em bé Nùng ngồi trong quang mẹ gánh đi sơ tán
Như chính tôi thuở nào
Mắt em nhìn thăm thẳm làm sao!
Thăm thẳm một đời bao thứ giặc
Chưa giặc nào như giặc này
Quân ăn cướp quân phản trắc
Đã từng vào nhà ta
Như một người bạn thân một người đồng chí
Thăm hỏi vợ ta
Bồng bế con ta
Siết tay ta rất chặt
Cùng nhau ngồi ở góc phòng kia
Quanh bộ bàn ghế trúc
Bữa ăn tươi có nem rán bún bò
Bánh bao nhân thập cẩm…
Nhưng phút chốc bỗng tan tành tổ ấm
Ta đâu có thể ngờ
Phút chốc đã tan tành tổ ấm
Cái tổ ấm vừa nhen sau cuộc chiến tranh dài
Chính bàn tay đã cùng ta chúc rượu
Lại đến đây bắn pháo giật mìn.
Ta xin hiến đời ta làm cột mốc
Phân rõ ranh giới này
Người cộng sản và lũ bạo chúa giương cờ cộng sản
Đứng trên Thiên An Môn hô những lời cách mạng
Được tụng niệm như kinh
Đánh cắp niềm tin của triệu người lao động ngay lành
Ta xin hiến đời ta làm cột mốc
Mẹ Việt Nam cắm chắc ở nơi này
Gan góc
Thẳng ngay
Đến cái chết cũng chẳng hòng đánh bật
Ôi màu hoa lặng lẽ đỏ trong chiều
Lặng lẽ nói tình yêu
Những người lính đêm ngày trên điểm tựa.
Lạng Sơn, tháng 5-1981.
BMQ


PHO TƯỢNG MAO
Ở PHNOM PÊNH
Bây giờ thì lão nằm trơ đó
Làm bẩn cỏ và bùn
Dưới cái nhìn ghê tởm
Của những người trở về sau thảm hoạ
Lão nằm, mặt ngửa lên trời, vẫn tự huyễn hoặc mình trong vẻ uy nghi
Ngỡ đâu đây còn lô xô một biển người mê muội
Vĩ vĩ đại
Muôn muôn năm
Họ hét đến khàn hơi - đâu có hay lịch sử xót thương thầm
Lão nằm, cái mặt phệ như còn luyến tiếc ngẩn ngơ
Đời bạo chúa được tôn xưng như thánh
Bao nhơ nhớp cung đình cũng toả hào quang
Cái khịt mũi cũng thành chân lý
Cuốc đập nát cái đầu nào biết nghĩ
Cuốc đập đầu không gây tiếng vang
Tôi đến Phnom-pênh ngày giải phóng
Gặp lại Úc-xun
Người bạn cũ một thời đánh Mỹ
Nghẹn ngào ôm nhau
Sung sướng
Nhìn dưới chân đổ kềnh pho tượng
Chợt thấy lòng tởm lợm
Nhớ lại thời học sinh
Sao cái cục đồng kia chễm chệ giữa đầu mình?
Phnom-pênh 7-1-1979
Bát-đom-boong tháng 5-1982
BMQ






























Thứ Hai, 23 tháng 5, 2011

Đơn xin được... chết

Đã gần nghìn ngày trôi qua, kể từ ngày người đàn bà dân tộc Tày viết đơn cho các bác sĩ Bệnh viện Bạch Mai xin đưa chồng về để… chết. Ngồi tại nhà mình, bà Hoàng Thị Bình - Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tỉnh Cao Bằng - vẫn sửng sốt và buồn rầu khi tình cờ cùng tôi nhắc lại câu chuyện hy hữu, có chút gì bi hài và cay đắng ấy.
Bà đã về BV Bạch Mai thăm, tặng quà. Rồi, khoảng 400 triệu đồng đã được các nhà hảo tâm gửi về ngõ hầu cứu sống anh chàng người Tày bị ong bò vẽ đốt, hôn mê mấy chục ngày, đã mười phần chết chỉ một phần sống kia. Nạn nhân đã được cứu nhờ phép nhiệm màu của tình nhân ái, nghĩa đồng bào. Song, đó cũng là lúc một trang chuyện rầu lòng khác được mở ra.

“Muốn để chồng chết thì... viết đơn”
Bản Nà Cốc, xã Lê Lai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng nằm hiu quạnh ven con đường thiên lý nối Lạng Sơn với Cao Bằng. Đại gia đình Nông Đoàn Dưỡng đi bộ cả cây số từ bản ra đầu núi đứng chờ chúng tôi. Dưỡng - 36 tuổi - gầy nhom, bước đi liêu xiêu còn phải chống nạng, đầu vẫn trọc lốc, lỗ chỗ các vệt sẹo trắng, nói năng vẫn có cái gì ngơ ngẩn thường gặp của kẻ từ cõi chết trở về.
Ong đốt làm Dưỡng phải nằm mê man bất tỉnh đúng 39 ngày, mê từ vạt núi đi chặt củi đầu xã đến tận BV Bạch Mai dưới Hà Nội. Nằm viện tròn 4 tháng! Dưỡng chỉ nhớ khoảng 18h chiều một ngày cuối tháng 9.2008, đi chặt củi cùng chúng bạn, vừa đụng dao vào bụi rậm, Dưỡng nghe tiếng u u, rồi các “viên đạn màu đen” (ong bò vẽ) đầy lông lá bay kín bầu trời. Nó đốt vào đầu, mu bàn tay, vào mặt anh chi chít. Dưỡng hôn mê từ bìa rừng, chúng bạn phải đẽo cáng khiêng về. Hôn mê sâu, suy thận, suy gan, loãng máu, rối loạn đông máu..., tất cả các bác sĩ ở tuyến huyện, tuyến tỉnh đều lắc đầu bảo phải về khoa Chống độc Bệnh viện Bạch Mai may ra còn 1% hy vọng sống. Ngày 1.10.2008, nạn nhân được nhập viện khoa Chống độc, BV Bạch Mai, Hà Nội, khi các vết ong đốt đã hoại tử.


Chị Hồng đang viết lá đơn “thắc mắc” về số tiền 400 triệu đồng mà độc giả trong và ngoài nước gửi cho Dưỡng chữa bệnh, được chi tiêu ra sao mà gia đình chưa bao giờ được thông báo (do cả nhà Dưỡng ký ngày 26.3.2011).
Chị Hồng đang viết lá đơn “thắc mắc” về số tiền 400 triệu đồng mà độc giả trong và ngoài nước gửi cho Dưỡng chữa bệnh, được chi tiêu ra sao mà gia đình chưa bao giờ được thông báo (do cả nhà Dưỡng ký ngày 26.3.2011).
Vừa vào nhập viện đã thấy thông báo nộp 5 triệu đồng. Vài ngày sau, Nông Thị Hồng - 37 tuổi, vợ Dưỡng - được các nhân viên ngành y gọi lên, thông báo: Đóng 20 triệu đồng tiền viện phí. Hồng rụng rời chân tay. Vay mượn, lạy lục, bán chác đủ thứ, nộp tiền xong. “Vài ngày sau, lại chuẩn bị nộp 10 triệu, ối giời ơi, chồng em vẫn mê man anh ạ” - kể đến đây, Hồng khóc nức nở. Dưỡng gạt nước mắt chống nạng ra ngoài sân.
Hồng bảo: “Em đã đưa chồng về đến thủ đô Hà Nội, nhà em nghèo hết cỡ thế này, anh bảo, có ai lại muốn chồng “được” chết. Nhưng mà em không có một xu trong người, sau quá trình liên tục nộp đủ thứ tiền. Chị Th - bên tài chính của khoa - bảo, mày không có tiền, chồng mày đang thở bằng ống thở, lại phải lọc máu liên tục vì bị ong độc đốt... rút “ống” ra là “chết ngay tại chỗ” (từ ngữ trong nguyên văn). Trời ơi, còn cái gì để bán, em cũng bán ngay để cứu chồng. Nhưng, không có gì cả...”.

3, 4, 11 và nong doan duong 8888_DSC0809 (1).jpg 947.00K: Vợ chồng bệnh nhân Nông Đoàn Dưỡng cùng căn nhà rách nát ở bản Nà Cốc hiện nay. Dưỡng vẫn yếu lẩy bẩy, vẫn trọc đầu vì nọc độc của ong bò vẽ, vẫn phải chống nạng mới đi vững.
Dưỡng vẫn yếu lẩy bẩy, vẫn trọc đầu vì nọc độc của ong bò vẽ, phải chống nạng mới đi vững.
Dưỡng và con gái.
Dưỡng và con gái.
Hồng kể: “Lúc ấy em “bí” lắm, không biết làm thế nào nữa. Trăm sự nhờ các bác sĩ thôi. Chị Th bảo em còn nợ viện 25 triệu phải trả đi. Em bảo em không có đồng nào. Em khóc. Chị bảo, nộp 1 triệu đi, số còn lại sẽ tìm cách miễn cho. Em bảo em không có đồng nào thật mà. Em không có cả tiền đi xe khách về Cao Bằng cơ. Em suy nghĩ mấy tiếng đồng hồ, khóc mãi rồi đành bảo chị Th nếu không nhờ được, em đành cho chồng về quê, lấy thuốc lá lẩu ở địa phương, sống thêm giờ nào hay giờ ấy, chứ biết làm sao? Chị Th bảo, nếu muốn xin cho chồng về, thì phải viết đơn đi. Em viết mãi không xong. Em hỏi chị Th, chị ơi viết thế nào, chị bảo thì viết xin cho chồng về để chết chứ còn thế nào nữa. Chị ấy lấy giấy bút cho em viết mà. Giờ em nhớ, đơn của em là: “Đơn xin cho chồng được chết” (nguyên văn lá đơn đó hiện chúng tôi đang có, như sau: “...Lý do tôi làm đơn này xin cho chồng về để chết vì gia đình gặp hoàn cảnh thật sự khó khăn, chúng em không tiếp tục ở lại bệnh viện được nữa nên gia đình xin cho chồng về để chết...”) .

Lá đơn xin cho chồng được chết từng gây sửng sốt trong công luận.
Lá đơn xin cho chồng được chết từng gây sửng sốt trong công luận.
“Viết xong, em đặt lên bàn của chị Th. Em ra ngoài tìm cách liên lạc với xe cấp cứu của Bệnh viện tỉnh Cao Bằng, bảo các bác ấy lúc nào tiện thể đưa bệnh nhân xuống thì nhớ mang theo cái bình ôxy như hôm đưa chồng em xuống Bạch Mai ấy. Em muốn chồng em sống thêm một tý, về đến nhà cho hai con em được nhìn mặt bố lần cuối...”.

400 triệu của độc giả được chi tiêu ra sao?
Ơn trời, sự việc sau đó đã diễn ra nhân ái hơn là những gì thảm sầu ở trên. Sau chừng hơn 100 ngày điều trị, Dưỡng đã trở về từ cõi chết. Tuy nhiên, vì hôn mê sâu quá lâu, lại thêm nọc ong bò vẽ quá độc, nên Dưỡng đối mặt với chứng teo cơ.
Nông Đoàn Dưỡng khi nằm ở Bệnh viện Bạch Mai và một lần nhà báo đến trao tiền từ thiện của độc giả (tổng số tiền lên tới 400 triệu đồng).
Gặp chúng tôi sau hơn 2 năm về lại bản Nà Cốc, Dưỡng vẫn lẩy bẩy, vẫn cầm nạng chống lui cui. Cả bản làng, cả đại gia đình thật sự cảm ơn các bác sĩ, cảm ơn cả xã hội đã thấy người ta buộc phải buông xuôi sự sống vì đói nghèo mà không hề vô cảm. Và, Dưỡng vẫn không biết rằng, kể từ khi lá đơn “trần đời có một” của Hồng đến tay các nhà báo, một cuộc quyên góp từ nhiều tầng lớp, từ độc giả trong và ngoài nước đã diễn ra và số tiền ủng hộ lên tới 400 triệu đồng.
Trong lá đơn gửi chúng tôi, Hồng cảm ơn xã hội và các bác sĩ thật lòng. Người như Hồng có lẽ cả đời không nói dối ai bao giờ. Hồng viết bằng mực xanh, trên giấy học trò, Dưỡng và bé Diễm (con gái Hồng và Dưỡng) cùng ký: “Chúng tôi là người nhà, khi nhà hảo tâm đưa tiền tận tay, chị Thảo cán bộ bệnh viện còn yêu cầu phải nộp lại”, chuyện 400 triệu ủng hộ chữa bệnh cho Dưỡng, Hồng cũng viết “chúng tôi không được ai thông báo”, “trước khi xuất viện, chúng tôi có được 10 triệu (BV đưa) về tiền xe đi lại và chăm sóc chồng”. Hết.
Thật lòng, nhóm nhà báo chúng tôi tiện công tác qua Thạch An, thăm lại người viết đơn cho chồng được chết, chỉ để tặng chút quà. Bất ngờ nghe chuyện “cắc cớ”, lập tức chúng tôi mở laptop, kết nối Internet, gõ tên “Nông Đoàn Dưỡng” và từ khoá “ong đốt”, thì được hàng chục kết quả với các trang báo lớn, viết kỹ, từ việc Dưỡng bị ong đốt, chụp ảnh lá đơn xin được chết, sự bế tắc, rồi 200 triệu, rồi lên tới 400 triệu ủng hộ bệnh nhân Dưỡng.
Các con số trên cực kỳ rõ ràng, y tá Phạm Thị Thảo (người tiếp nhận tiền cho Dưỡng), rồi TS Phạm Duệ (Giám đốc Trung tâm Chống độc) phát biểu trên báo hẳn hoi: “Bệnh nhân Dưỡng đã nhận được số tiền ủng hộ lên tới 400 triệu đồng” (trích nguyên văn từ một bài báo đã đăng, tác giả Lệ Hà). Và, trước khi đặt bút viết bài này, trao đổi với TS Duệ và một số bác sĩ “trong cuộc”, chúng tôi cũng vẫn nhận được lời xác tín như trên. Ông Duệ bảo, số tiền còn thừa của 400 triệu đồng trên đã được trung tâm hỏi ý kiến một số nhà tài trợ rồi để lại trong quỹ nhằm điều trị bệnh nhân khác.
Các con Dưỡng từng sẵn sàng cho việc mất cha, cả bản đã xẻ gỗ đóng quan tài cho Dưỡng (trong ảnh là con gái Dưỡng).
Một nhà báo tâm huyết trong cuộc vận động tiền cứu Nông Đoàn Dưỡng lại cho rằng, số tiền đó không phải được dùng vì mục đích như ông Duệ nói. Chị đã nhiều lần chị gọi Hồng ra xa khu vực chồng Hồng đang điều trị để gặp riêng, hỏi về việc tiền có đến tay gia đình Hồng không. Hồng đều cho biết, không biết đến số tiền đó, không được ai thông báo gì, dù Hồng biết có nhiều nhà hảo tâm đến thăm chồng mình... Bây giờ, Hồng vẫn có xác nhận với chúng tôi điều này. Nữ nhà báo cũng cảnh báo, nếu tôi hỏi sẽ bị ông Duệ nổi đoá vì “lý do đặc biệt”...
Vậy là đã rõ, dù thế nào thì việc không thông báo, không minh bạch số tiền 400 triệu đồng của nhà hảo tâm cho bệnh nhân Dưỡng vẫn là điều đáng “trách móc”. Bởi tiền đó, như cán bộ trung tâm trả lời báo chí ngay thời điểm vừa có 400 triệu đồng độc giả gửi, là: Tiền gửi cho con người tận khổ Nông Đoàn Dưỡng chữa bệnh. Câu hỏi đặt ra là: Giả sử số tiền thừa sau khi chữa bệnh cho Dưỡng mà không bị thắc mắc, thì trung tâm có sử dụng vào cái gọi là “quỹ” cho bệnh nhân khác như ông Duệ nói không?
Thêm nữa: Thời điểm trung tâm quyết định xin ý kiến nhà hảo tâm (nếu điều này là có thật như ông Duệ nói) là khi nào - trước hay là sau thời điểm có “dư luận”? Liệu có phải, ngay sau khi “toa” thuốc cuối cùng điều trị cho Dưỡng chấm dứt, người ta đã tổng kết tiền thừa và đem tiền đó vào ngay cái quỹ vì bệnh nhân khác không?...
Dù thế nào, nghi ngờ, thắc mắc và bức xúc của một số nhà báo, của gia đình bệnh nhân Dưỡng cũng là chính đáng. Hy vọng chúng ta sẽ sớm có câu trả lời thoả đáng.

Đỗ Doãn Hoàng