TOÀN BỘ HỒI KÝ TRẦN VĂN GIÀU
Lữ Phương
Khi mất vào năm 100 tuổi (1911-2010), ông Trần Văn Giàu nổi danh như một nhà giáo dạy lịch sử. Nhưng với bản thân lịch sử thì ông cũng đã nổi tiếng từ lâu như một người đã tổ chức thành công cuộc khởi nghĩa tháng 8-1945 ở Nam bộ, và cũng trong quá trình lãnh đạo cuộc khởi nghĩa này ông cũng nổi tiếng cả với những đồn đãi rất xấu cho uy tín chính trị của ông. Mục đích hồi ký[1] của ông là nhằm xoá đi cái màn sương mờ đục phủ lên đoạn đời ngắn ngủi nhưng đầy ý nghĩa phức tạp đó – 1940 -1945 –, kể lại một cách chi tiết toàn bộ quá trình ông lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tháng 8 nói trên ở Nam kỳ, góp tài liệu làm sáng tỏ một vấn đề lịch sử hiện đại của Việt Nam, nhưng đồng thời cũng nhằm mục đích phơi bày sự thật về những kẻ mà ông cho rằng đã dùng những thủ đoạn tồi tệ để bôi nhọ ông, làm ông khổ sở, cho mãi đến cuối đời.
***
Chúng ta đều biết Trần Văn Giàu là một người cộng sản thuộc thế hệ 30 của thế kỷ trước. Một trong những nhà mácxit đầu tiên của Việt Nam thời bị thực dân đô hộ. Dự tính sang Pháp du học để trở thành một trí thức khoa bảng, ông lại bỏ ngang, gia nhập Đảng cộng sản Pháp và được Đảng này giới thiệu qua học trường Stalin ở Nga (cũng gọi là Đại học Phương Đông, từ tháng 5-1931 đến tháng 8-1932). Chủ nghĩa Marx mà ông tiếp thu vào thời kỳ này là hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa đặc trưng Liên xô gọi là học thuyết “Mác-Lênin”, có nguồn từ Lenin nhưng dần dà suy thoái qua những luận giải của Stalin: hạ triết học Marx xuống thành một thứ cẩm nang thực dụng, một công cụ phục vụ chế độ toàn trị, coi Liên xô là trung tâm cách mạng vô sản toàn cầu, Đệ tam Quốc tế do Liên xô lãnh đạo là chỗ dựa vững chắc nhất của phong trào giải phóng dân tộc... Do nguồn gốc đào tạo này, lại hoạt động ở miền Nam, không giao lưu trực tiếp với Trung quốc, nên tư duy cách mạng vô sản của ông mang đậm sắc thái bôn-sê-vích kiểu Nga, không giống các đồng chí của ông ở miền Bắc, bị tác động khá mạnh lý luận cách mạng Trung quốc của Mao Trạch Đông. Một cách tự nhiên, theo phong trào cộng sản thế giới lúc bấy giờ ông tin tưởng vô điều kiện rằng Liên xô là một mô hình mácxit đích thực duy nhất, hiển nhiên vì thế mà xem Đệ Nhị Quốc tế là bọn phản bội xấu xa còn bọn Đệ tứ là kẻ thù nội tại nguy hiểm không kém gì đế quốc tư bản.
Chính ông đã nhận rằng quan điểm cách mạng của ông bấy giờ có phần nghiêng về tả khuynh, ảnh hưởng mạnh mẽ từ Đại hội 6 Quốc tế Cộng sản. Ông cũng nhận thêm rằng chính vì vậy mà suốt một thời gian dài ông không quan tâm đến Nguyễn Ái Quốc[2] – người mà chúng ta biết tư duy cách mạng đã bắt nguồn từ Đại hội 5 QTCS (1924) và Đại hội 7 QTCS (1935), không tham dự Đại hội 6 QTCS (1928)[3]– và thái độ đó của ông chỉ thay đổi khi ông gặp Nguyễn Ái Quốc khi đã về nước lãnh đạo và mang tên Hồ Chí Minh. Điều này không được ông Giàu trình bày trong hồi ký nhưng được phân giải khá thành thật ở một nơi khác.[4]
Môi trường hoạt động của Trần Văn Giàu khá đặc biệt. Hồi ký cho biết cuộc đời “cách mạng chuyên môn” của ông bắt đầu khi tốt nghiệp Đại học Stalin về nước (vào năm 1933): do xứ ủy cũ vừa bị thực dân phá tan, ông đã phải lo xây dựng ngay xứ ủy mới trong một hoàn cảnh mà ông diễn tả là “Trung ương không có” nên “phải vạch lấy con đường mà đi”. Công việc ấy chưa đến đâu thì ông bị bắt. Lần thứ nhất 1933, một năm thì được tha, nhưng lần thứ hai vào 1935 trầm trọng hơn. Bị kết án 5 năm (và 10 năm quản chế), ông không thể tham gia cuộc đấu tranh trên mặt trận báo chí và nghị trường diễn ra công khai ở các đô thị thời Mặt trận Bình dân từ 1936 dến 1939, nếu có hưởng được dư vang gì của phong trào này chỉ là sống được dễ dãi hơn khi ở tù. Đúng hạn 5 năm, về sum họp gia đình chưa đến chục ngày, khi Chiến tranh Thế giới II nổ ra, tất cả mọi hình thức hoạt động yêu nước không-cộng sản hoặc cộng sản (dù Đệ tam hay Đệ tứ) đều bị thực dân coi là bất hợp pháp, nên ông đã bị gom ngay vào “căng” Tà Lài (nơi giam giữ những phần tử bị nghi ngờ). Nhưng cũng từ khu rừng miền Đông Nam bộ này cuối năm 1941, ông đã tổ chức vượt ngục thành công để trở lại hoạt động. Và lần này, trong điều kiện khó khăn hơn trước gấp bội: cuộc khởi nghĩa Nam kỳ vào cuối năm 1940 do Trung ương lãnh đạo vừa thất bại tan tác.
Qua những tài liệu liên quan, chúng ta biết rằng do đánh giá tình hình không chính xác, kế hoạch bị lộ do có nội gián, đặc biệt là sự liên lạc giữa trung ương và địa phương khó khăn, lệnh đình chỉ cuộc khởi nghĩa đến không kịp, sự thất bại đó đã dẫn đến những hậu quả thảm hại chưa từng có cho Đảng cộng sản. Cuộc nổi dậy bị dìm trong bể máu của hàng nghìn người, những ai sống sót đều thu mình lại trong hoài nghi, bi quan, bất động; trong khi đó hầu hết các cán bộ lãnh đạo kỳ cựu quan trọng của Đảng đều bị bắt và bị giết (như Tạ Uyên, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai…), hoặc bị đi tù (Lê Hồng Phong [chết ở Côn Đảo năm 1942], Lê Duẩn, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo…). Ông Giàu đã vượt “căng” Tà Lài trong tình thế đó và đã phải bắt đầu mọi việc như hồi 1933: làm lại cuộc cách mạng không có sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng. Do bị tách rời khỏi mọi hoạt động bên ngoài khá lâu, lại thừa kế một khoảng không về tổ chức, ông không có cách gì để biết được xứ ủy Nam kỳ cũ còn tồn tại hay không, cũng như không thể biết Trung ương có còn tồn tại hay không, do đó cũng không hề biết được ngay vào năm ông tổ chức vượt ngục, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã từ Trung quốc về nước tham dự hội nghị Trung ương lần thứ 8 ở Cao Bằng (tháng 5-1941) để thành lập Mặt trận Việt Minh – điều mà trong hồi ký của mình, ông Giàu cho biết đến mãi sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, khi cách mạng tháng 8 thành công rồi ông mới có được thông tin cùng một lượt với việc nối lại quan hệ với Trung ương.
Tự mình đảm nhận vai trò lãnh đạo trong hoàn cảnh đó, những gì ông đem ra vận dụng đều dựa vào những điều đã học được tại trường Stalin khoá 1931-1932. Lòng tin vào cách mạng của ông đã đi theo bước chân của Hồng quân Liên xô chống phát xít Đức trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Sách gối đầu giường của ông về hoạt động là những gì Lenin viết về cuộc khởi nghĩa Petrograd 1917, có lẽ vì vậy mà ông tỏ ra không mấy quan tâm đến những thứ lý luận đặc trưng Trung quốc do Mao Trạch Đông xướng xuất, như lấy nông thôn bao vây thành thị, chiến thuật biển người, chiến tranh du kích, văn nghệ công nông binh kiểu Diên an, rồi sau này là cải cách ruộng đất, chỉnh phong, chỉnh huấn v.v… Ông Giàu cho rằng phương pháp giành quyền lực cho Đảng cộng sản chỉ có thể thực hiện được bằng cách chuẩn bị thật đầy đủ những chỉ dẫn của Lenin, diễn ra dưới hình thức vũ trang của đông đảo quần chúng tại chỗ được chỉ đạo đồng loạt tiến lên chiếm lĩnh các cơ quan đầu não của nhà nước thống trị, chứ chủ yếu không phải từ ngoài đánh vào, từ xa vận động tới. Ông cho rằng chính đây là định hướng cốt tử để tập trung kế hoạch xây dựng lực lượng thật vững mạnh ngay tại những xí nghiệp, những công sở, những cơ quan yết hầu chiến lược của các thành phố, thị xã… và trong khi nắm vững trọng tâm hoạt động, nếu có quan hệ gì đến nông thôn thì chỉ nên khai thác các vùng phụ cận thành thị để yểm trợ, phối hợp như cất giấu, chế tạo vũ khí, huấn luyện, hội họp, dự trữ, tiếp tế… và cuối cùng trong cao trào nổi dậy sẽ kéo lực lượng ven đô về cùng tác chiến chung với các trung tâm.
Ông Giàu cho biết, trong các văn bản của Đảng Việt Nam, ông chỉ dựa vào Nghị quyết lần thứ 6 của Trung ương họp tại Bà Điểm cuối năm 1939, do tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Nhưng hoàn cảnh tiếp cận văn bản đó thật li kỳ: hồi còn ở Tà Lài ông chỉ nghe qua do các bạn tù phổ biến, nay muốn nghiên cứu lại thì sau khi hỏi han không gặp được ai nhớ lại cho đầy đủ, cuối cùng mới may mắn tìm được một số đoạn chép tay rời rạc giấu trên mái lá của chuồng trâu trong nhà một đồng chí quen biết! Cố gắng tiếp thu cái thần của nó rồi đem so sánh với những điều mà ông biết trước đó, ông nhận thấy đã có sự di chuyển quan trọng về chỉ đạo chiến lược: trong hai nhiệm vụ phản đế và cải cách điền địa của cách mạng tư sản dân quyền do giai cấp vô sản lãnh đạo, thay vì nghiêng về hướng cải cách điền địa như nhiều năm trước đây, Nghị quyết 1939 đã đưa vấn đề chống đế quốc lên hàng đầu, coi đó như nhiệm vụ “chính cốt”. Điều này phù hợp hoàn toàn với tình thế bấy giờ ở Việt Nam, khi chiến tranh nổ ra đẩy các thế lực đế quốc vào chỗ suy yếu tạo điều kiện cho các thuộc địa vùng lên giành độc lập và gác lại các vấn đề khác của cách mạng vô sản. Nhận định này của Trần Văn Giàu, tuy không được chỉ đạo của Trung ương nhưng cũng phù hợp với Nghị quyết của Trung ương tháng 5-1941, coi thời cơ giành độc lập đã đến, chủ yếu khai thác triệt để sự xâu xé lẫn nhau giữa Pháp và Nhật, biểu hiện rất rõ qua chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và đã lãnh đạo thành công khởi nghĩa ở Bắc và Trung.
Xứ uỷ Nam kỳ – do ông vận động thành lập vào tháng 10 năm 1943 và được bầu làm bí thư –, vì cách bức về liên lạc, không nhận được bất cứ chỉ thị nào của Trung ương, nhưng cũng đã nhìn thấy cơ hội đó, để có những hành động thích hợp và đã thành công. Điều đó đã biểu hiện rõ ràng qua nhận thức của ông Giàu trong việc xác định “đối tượng trực tiếp” mà khởi nghĩa cách mạng cần đánh đổ ở Nam kỳ: đó sẽ không phải là thực dân Pháp (vì đã bị Nhật tước khí giới) cũng không phải là phát xít Nhật (vì Nhật đã đầu hàng) mà là “chính quyền bù nhìn” do Nhật dựng nên, mà chính quyền này lại “đang rệu rã và không có ý chí đề kháng đáng kể”, cho nên nếu trung lập hóa được quân Nhật thì việc đánh đổ chính quyền ấy “sẽ thành công nhanh chóng và không gặp khó khăn gì lắm”. Phân tích ấy của ông Giàu xác nhận rằng tương quan lực lượng đã thay đổi hoàn toàn có lợi cho cách mạng. Và điều đó hàm nghĩa rằng các đảng phái, tôn giáo phi cộng sản, dù có quần chúng và vũ khí, xưa nay thường dựa vào phát xít và thực dân để hoạt động nay hoàn toàn thất thế. Vấn đề chỉ còn là thời cơ và thời cơ cũng đã đến như một món quà giúp những chuyên viên nổi dậy mở màn và chấm dứt cuộc giành chính quyền nhanh chóng và không mấy khó khăn: nghìn năm có một, một khoảng trống về quyền lực nhà nước đã xuất hiện, khi cuộc đảo chính ngày 9-3-1945 của Nhật đối với Pháp diễn ra rồi sau đó không lâu Nhật phải đầu hàng vô điều kiện (14-8-1945) vì hai trái bom nguyên tử của Mỹ.
***
Ông Giàu cho rằng những cố gắng của ông dù sao cũng chỉ là những mò mẫm “bất đắc dĩ”, không tránh khỏi sai biệt và cả sai lầm khi so với đường lối của Trung ương. Đọc hồi ký ông viết, không thấy ông nói đến những sai lầm, cũng không thấy nhắc đến những điều ông bị Trung ương phê phán một cách chính thức, nhưng chỉ thấy ông nói đến những sai biệt và cho rằng những sai biệt ấy là sự vận dụng những nguyên lý vào những điều kiện khác nhau, vấn đề là xét xem sự vận dụng ấy có mang đến thành công hay không. Biện luận này của ông đã được thực tế xác nhận qua những chuẩn bị chu đáo của xứ uỷ Nam kỳ về mặt chủ quan để đón nhận những thuận lợi do thời cơ mang đến.
Tuy vậy, khi đem đường lối mà ông Giàu áp dụng ở miền Nam, so với đường lối Trung ương để xét vấn đề một cách tổng thể, chúng ta thấy nhiều so le quan trọng, quan trọng nhất là thiếu một nội dung cụ thể để hình thành mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc trong tình hình đặc biệt của Việt Nam vào lúc bấy giờ. Mọi người đều biết, trong khi Trung ương, chủ trương cố ý che giấu bớt nguồn gốc cộng sản của chính quyền mới thành lập (sau đó không lâu đã phải công khai tuyên bố giải tán Đảng để đưa vào bí mật) thì trong cuộc diễu hành 2 tháng 9 ở Sài gòn, như ông Giàu đã mô tả trong hồi ký, cờ búa liềm lại quá nặng vì quá lớn khi được dương lên! Mọi người cũng đều biết, trong tình thế bị cách biệt hoàn toàn với với “phe dân chủ ” (cách mạng Trung quốc chưa thắng lợi), lại bị đủ loại thế lực chống cộng sản (trong và ngoài) bao vây tứ phía và thực dân Pháp thì chuẩn bị trở lại phục hồi sự thống trị bằng vũ lực, Trung ương đã chủ trương hoà hoãn, thương lượng bằng nhiều cách để chuẩn bị đối phó thì trong Nam ông Giàu, mặc dầu hiểu rõ sự cần thiết của Mặt trận, nhưng vẫn cứ bám chặt vào những chuẩn mục cách mạng vô sản mà Lenin đã áp dụng ở Petrograd, qua đó phân tuyến ta địch để xử lý các vấn đề nẩy sinh, nhất là trong nội bộ dân tộc.
Trước những khác biệt về chủ trương chiến lược đó, thái độ của ông Giàu với một số cán bộ lãnh đạo Trung ương, đặc biệt với Hoàng Quốc Việt là người đại diện của Trung ương được cử vào Nam sau ngày 2-9-1945, có nhiều điều phức tạp hơn những gì ông đã viết. Không phải ông không đúng khi cùng với Phạm Ngọc Thạch phản đối lệnh của Hoàng Quốc Việt giải tán Thanh niên Tiền phong vì tổ chức này thực chất do xứ uỷ lập ra nhờ khôn khéo tranh thủ được sự đồng ý của Nhật, dùng làm bình phong tập hợp một cách rộng rãi công khai và các tầng lớp quần chúng chuẩn bị cho khởi nghĩa và thực tế đã đóng vai trò cực kỳ lợi hại trong khởi nghĩa. Sự phẫn nộ của ông Giàu cũng chính đáng khi thấy Hoàng Quốc Việt đứng ra xin tha cho Trần Văn Vi vì ông này trong khi được xem là nhân vật số 1 của xứ uỷ Giải phóng lại chính là người, theo sự trình bày của ông Giàu, “đã dẫn đầu mấy ngàn tín đồ Hoà Hảo có vũ trang kéo vào Cần Thơ, tháng 9 năm 1945, đòi nắm chính quyền trên 7 tỉnh miền Tây Nam Bộ”. Chúng ta không có điều kiện để biết lý do hành động thật sự của Hoàng Quốc Việt, nhưng giả định sự trình bày của ông Giàu là đúng trong những trường hợp nói trên, thì một cách khách quan cũng không vì thế mà có thể cho rằng trong rất nhiều trường hợp thái độ của ông Giàu là đúng hoàn toàn.
Hãy thử so sánh chủ trương của xứ uỷ Nam kỳ qua ứng xử của Trần Văn Giàu với ứng xử của Trung ương qua hành động của Hồ Chí Minh – thí dụ đối với vua Bảo Đại, với phe Tàu Tưởng (có cả những lực lượng bản xứ tùng theo để chia quyền với cộng sản) sang Việt Nam giải giới quân Nhật, với việc thương lượng với thực dân Pháp để có thời gian chuẩn bị cho cuộc tranh đấu mới … – thì không thể cho rằng ý kiến của Hoàng Quốc Việt, với tư cách đại diện của Trung ương, là sai lầm trong mọi trường hợp. Nhất là những ứng xử liên hệ đến sách lược liên minh hành động với những thế lực bản địa (như với phe Hoà Hảo và Đệ Tứ…) hoặc các quyết định có ảnh hưởng tới cuộc chiến đấu toàn cục (như phát lệnh kháng chiến toàn quốc). Nhìn chung, ta có thể cho rằng nếu đường lối của xứ uỷ Nam kỳ do ông Giàu lãnh đạo đã sáng tạo ra những hình thức táo bạo, linh hoạt, tạo được sức mạnh vượt qua các phe phái (thân Nhật, phi cộng hoặc chống cộng) để tiến lên giành quyền lực cho cách mạng thì xét trên tổng thể và lâu dài lại không hoàn toàn thích đáng.
Ý nghĩa của đường lối ấy chỉ tỏ ra có hiệu lực tích cực vào một thời cơ đặc biệt thuận lợi nào đó về mặt chiến thuật, ở đó cuộc khởi nghĩa có điều kiện phát triển tốt nhất và kết thúc nhanh chóng nhất ngay tại các trung tâm đầu não của địch theo mô hình Petrograd – nói cụ thể là vào khoảng từ 9-3-1945 (ngày Nhật đảo chánh Pháp) đến 14-8-1945 (ngày Nhật đầu hàng đồng minh), chứ không thể vượt khỏi thời điểm ấy để trở thành định hướng cho cả giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ chống đế quốc mà nội dung của nó đã được khẳng định từ lâu về mặt lý luận là cuộc cách mạng tư sản dân quyền trong đó mặt trận dân tộc thống nhất là công cụ quyết định để Đảng cộng sản tập hợp lực lượng thực hiện các chương trình tối thiểu của mình.
***
Khi nhìn lại mọi việc, chắc hẳn ông Giàu biết rõ điều đó và cũng chỉ muốn Trung ương Đảng thông cảm với tinh thần trách nhiệm cách mạng cao nhất của ông trong những giới hạn của hoàn cảnh mà ông không thể vượt qua, quan trọng nhất là không thể liên lạc được với Trung ương trong suốt quãng thời gian nói trên. Tuy vậy khi đọc hồi ký của ông chúng ta lại thấy ông tỏ ra khá bực bội với “mấy ông lớn trong Trung ương”, trong đó có Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt, nguyên nhân như ông trình bày là do ông nghĩ rằng mấy “ông lớn” đó, đặc biệt Hoàng Quốc Việt, đã đứng hẳn về phía những kẻ đã đặt điều vu cáo cho ông nhiều tội lỗi tầy đình nên luôn luôn tỏ ra thành kiến và đánh giá ông một cách không công bằng, ngay trong những ngày diễn ra cách mạng tháng 8 và cả về sau này nữa.
Hồi ký của ông đã để ra nhiều đoạn nói đi nói lại nhận định này mà theo sự trình bày của ông là hoàn toàn bất công và sai sự thật, bao gồm mấy việc quan trọng như sau: 1935, bị bắt ông đã đầu hàng và khai báo một đảng viên cộng sản Pháp có nhiệm vụ liên lạc với Đông Dương; 1941 ông được Pháp tổ chức cho vượt “căng” Tà Lài để ra ngoài giả bộ hoạt động cách mạng nhưng thật sự là “phá cộng sản”; 1944 không hiểu sao người ta lại cho rằng ông đã chỉ điểm một đồng chí ở Trung ương được cử vào Nam để điều tra “vụ Trần Văn Giàu”; 1945 theo Nhật lập ra Thanh niên Tiền phong và lấy “cờ vàng sao đỏ” làm biểu tượng cho tổ chức này để đối lại với “cờ đỏ sao vàng” của Việt Minh. Còn nhiều chuyện khác nữa nhưng kết lại mọi việc đều quy về một tội khủng khiếp đối với một người Việt Nam và hơn nữa một người Việt Nam theo nghề “cách mạng chuyên môn”: đó là tội thoả hiệp có hệ thống với các loại kẻ thù của dân tộc, từ Tây đến Nhật, để bán đứng đồng chí và phá hoại cách mạng. Một cái tội như vậy thật đáng chết, như phe xứ uỷ Giải phóng đã từng tuyên án đối với ông, thực chất chỉ là hoàn toàn vu cáo, vậy mà sau này khi ra công tác ở chiến khu Việt Bắc 1951, ông đã bị Hoàng Quốc Việt dựa vào đó để hỏi cung suốt một buổi tối chỉnh huấn, có một anh cố vấn Tàu “trẻ bân” ngồi nghe bên cạnh một tay phiên dịch!
Đối với một người cộng sản kỳ cựu như ông, những cung cách ứng xử miệt thị và nghi ngờ ấy là cực kỳ đau đớn, nhục nhã cho nên sau nhiều lần muốn chết đi cho xong, ông đã gượng dậy, quyết chí bỏ công đi tìm nhân chứng, hồ sơ, lật lại các sự việc để minh oan cho mình, kết quả là trong rất nhiều trang hồi ký từng việc một đã được xới lại và xuất hiện trở lại với những chi tiết thực sự của chúng. Tất cả đều chứng minh là ông vô tội. Tất cả đều được ông kết luận là do sự vu cáo của hai nhân vật trong xứ uỷ Giải Phóng tên là Trần Văn Vi và Bùi Văn Dự mà ra. Chính những kẻ xấu này đã tìm cách vu cáo ông tạo nên nghi kị của Trung ương với ông.
Vấn đề “hai xứ uỷ”[5] trong thời kỳ Cách mạng tháng Tám ở Nam bộ chủ yếu với hai nhân vật Trần Văn Vi và Bùi Văn Dự nói trên (ông Giàu không kéo vào đây một số nhân vật khác) vì vậy đã trở thành đầu mối gây nên oan khuất cho ông. Theo sự trình bày của ông thì cái gọi là xứ uỷ Giải phóng này chỉ bao gồm một số phần tử rất ít của xứ uỷ cũ còn sót lại sau cuộc khởi nghĩa thất bại năm 1940, không hoạt động gì cả mà chỉ nằm im chờ thời. Sau khi ông Giàu lập ra xứ uỷ mới (tháng 10-1943) và hoạt động một thời gian, đến tháng 4-1945 (sau Nhật đảo chánh) thì từ “căng” Bà Rá trở về, Trần Văn Vi mới cho khôi phục lại xứ uỷ cũ ở Mỹ Tho, có Bùi Văn Dự làm phó ( và vì có cơ quan tuyên truyền mang tên Giải phóng, nên gọi là “xứ uỷ Giải phóng” để phân biệt với xứ uỷ do ông Giàu lập ra mang tên “xứ uỷ Tiền phong” vì có tờ báo mang tên Tiền phong). Nghe biết việc này ông Giàu đã tìm cách gặp họ để đặt vấn đề thống nhất nhưng không có kết quả sau nhiều lần thương lượng; và lý do họ nêu ra để không thể hợp tác được với Trần Văn Giàu là vì Trần văn Giàu là một Việt gian phản cách mạng với nhưng tội lỗi đã kể trên, đính chính thế nào họ cũng không nghe. Trong hồi ký, sau khi ngẫm nghĩ cả một đời, ông Giàu vẫn viện ra ác ý, lòng đố kị tầm thường của con người để giải thích sự vu cáo đó. Ông nói rằng nếu như mình là một anh bí thư của một chi bộ xã ở một xó Đồng Tháp Mười nào đó thì chẳng sao, nhưng đằng này ông lại là bí thư xứ uỷ lừng lẫy tên tuổi và tài năng nên mới bị ganh ghét, như ý nghĩa một câu Kiều: chữ tài liền với chữ tai một vần! Có chỗ ông nại thêm lý do: trong khi ông tìm mọi cách mà không gặp được Trung ương để giải thích thì do họ liên lạc được nên họ mới có cơ hội để gièm pha làm cho Trung ương hiểu sai về ông.
Giả sử như tin vào những gì ông Giàu trình bày chúng ta không thể không nêu ra câu hỏi sau đây: tại sao với một sự vu cáo tầy trời như vậy mà nhiều lần cho điều tra, Trung ương vẫn cứ tin vào lời lẽ vô lý, thiếu bằng cớ của những kẻ cố ý hại người đó? Nhất là dễ tin đến mức suốt trong một thời gian dài, trong khi vẫn tiếp xúc với phe Giải phóng để nghe họ thì Trung ương lại cố tình né tránh không liên lạc trực tiếp với ông để làm cho ra lẽ? Ông cũng cho biết từng đưa nhiều người ra Bắc liên hệ để tường trình mọi việc nhưng kết quả lại tồi tệ hơn: cuối cùng Hoàng Quốc Việt đại diện Trung ương vào Nam không phải để giải oan hoặc xử lý ngay cho ông mà phải sau một thời gian xảy ra bất đồng rồi mới kết luận rằng Trần Văn Giàu “vô kỷ luật, vô chính phủ” phải được (cùng với Phạm Ngọc Thạch) đưa ra Bắc!
***
Chúng ta cảm động khi đọc những lời thống thiết của một người viết hồi ký mà mục đích không có gì hơn là muốn đòi lại sự thật cho mình để được thanh thản ra đi vĩnh viễn, nhưng rất ngần ngại khi xem những lý giải của ông về những oan khuất mà ông phải chịu đựng là hoàn toàn thoả đáng. Ông đã nhập hai vấn đề làm một: một bên là những lời vu cáo giả định đến từ những kẻ ganh ghét ông và một bên là những sai biệt, có thể nói cả những bất đồng, của ông với Trung ương và bị Trung ương phê phán. Thực sự đó là hai vấn đề mà cái logic toát ra từ những gì ông viết trong hồi ký đã cho chúng ta thấy như vậy: hai vấn đề dó khác nhau, mỗi vấn đề có những tính chất riêng, có quan hệ với nhau nhưng không đồng nhất. Vấn đề khác biệt về đường lối giữa xứ uỷ Nam kỳ với Trung ương đã được nói ở trên: nó bộc lộ thật rõ trong quan điểm lý luận về cách mạng dân tộc dân chủ giữa hai bên và cả trong việc ông Giàu bày tỏ quyết liệt sự bất đồng của mình với Hoàng Quôc Việt sau ngày 2 tháng 9 ở Sài gòn trong một số chủ trương cụ thể. Những sai biệt và bất đồng này là có thật, phần lớn do hoàn cảnh khách quan quy định, không thể dựa hoàn toàn vào những tị hiềm cá nhân để giải thích.
Còn về những ân oán giữa ông và mấy nhân vật của xứ uỷ Giải phóng có thể cũng không hoàn toàn đơn giản như ông diễn giải. Những điều mà họ vu cáo cho ông cực kỳ trầm trọng, trong thực tế chỉ là những tin đồn. Có thể do ganh ghét cá nhân mà bịa ra nhưng vẫn chỉ là tin đồn, không thể bỗng dưng dựng nên những chuyện động trời như vậy mà có thể làm hại ngay được người ta, bằng cớ là uy tín của ông – trừ việc bị phe chống đối bên ngoài bôi nhọ (cho đến nay vẫn bị những chuyên viên chống cộng tiếp tục khai thác) –, lại không hề sứt mẻ đối với quần chúng, với các đồng chí của ông trong xứ uỷ do ông lãnh đạo, với cả những người từ chối “khử” ông khi được phe Giải phóng xúi giục, do đó việc chuẩn bị cuộc khởi nghĩa cho đến ngày thành công đã không bị ảnh hưởng. Phân tích theo một hướng khác, cũng có thể xem những tin đồn ấy đã bắt nguồn từ những sự kiện đáng nghi ngờ mà vì một lý do nào đó, chưa thể xác minh hoặc xử lý nên có thể kéo dài trong dư luận, khiến những mơ hồ ban đầu trầm trọng thêm vì những đồn đãi mới, những yếu tố mới nẩy sinh trong đó không thể không nói đến những bất đồng về quan điểm giữa các nhóm khác nhau trong bản thân hàng ngũ cách mạng trước tình hình mới ở Nam bộ, nhất là trong điều kiện thiếu vắng sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương.[6]
Dù sao thì tạm gác lại những khía cạnh phức tạp khác của vấn đề chưa có điều kiện để làm rõ ở đây (nhất là quan điểm đầy đủ và khách quan của nhóm “Giải phóng”) mà chỉ xét chuyện họ quy tội ông Giàu, chúng ta thấy trong tất cả các thứ mà họ nêu ra đều liên hệ đến chuyện “làm tay sai cho địch”, thật ghê gớm đối với nội bộ những người cộng sản, nhưng nhìn sâu vào hiện tượng thì trong đó lại có những chuyện ai cũng có thể nhận ra sự phi lý của chúng và có thể phủ nhận hết sức dễ dàng – như ông Giàu đã làm – vì có rất nhiều người hợp tác với ông, biết rõ sự việc vẫn còn sống và đang giữ những chức vụ quan trọng có thể viện ra làm nhân chứng (như trong chuyện vượt “căng Tà Lài”, chuyện “cờ vàng sao đỏ” của Thanh niên Tiền phong…). Tuy vậy trong những tố cáo lại có một chuyện khởi đầu hơi mập mờ đó là việc năm 1935 một đảng viên cộng sản Pháp làm nhiệm vụ liên lạc với Đông Dương tên là Deschamps bị bắt sau khi ông Giàu đi tù không lâu, từ đó sinh ra nghi vấn đây đó về việc người đảng viên liên lạc bị bắt là do ông Giàu khai báo. Ông cho đó là không đúng nên sau này đã tìm ra mọi bằng cớ chứng minh được rằng kẻ khai báo Deschamps là một nhân vật khác, không dính dáng gì đến ông. Nhưng vào lúc bấy giờ, phần ông thì tiếp tục ở tù (5 năm), phần “đoàn thể” của ông thì vì hoạt động trong bí mật, cách bức, chưa có cơ hội để thẩm tra, cho nên mọi việc đã trở thành tiếng đồn treo lở lửng trên số phận chính trị của ông, rất dễ để những người ganh ghét hoặc bất đồng với ông khai thác. Tiếng đồn đó là có cơ sở trong thực tế chứ không phải vu vơ. Nếu Trung ương có bị tác động bởi những báo cáo loại này từ nguồn tin của “phe Giải phóng” thì cũng chỉ là những thông tin để cảnh giác và điều tra chứ không thể để tuỳ tiện và dễ dàng kết luận như ông đã suy luận rằng “các ông lớn Trung ương” đã đứng về phe bên kia để “trù” ông.
Trong phần cuối của hồi ký, ông Giàu có kể một sự kiện chứng tỏ nhận xét trên đây là có cơ sở: đó là việc đầu năm 1988 ông được Lê Đức Thọ – mệnh danh lão Sáu Búa lừng danh mà chỉ nghe tên ai cũng ớn – mời cơm cùng một số đồng chí lão thành tại Sài gòn, nhân đó ông có đề nghị Lê Đức Thọ khi về Hà Nội can thiệp với Ban tổ chức Trung ương ra văn bản khẳng định tính chất không có cơ sở của những vu cáo về ông bấy lâu nay. Lời đề nghị được chấp nhận và một tháng sau ông Giàu nhận được quyết nghị do Nguyễn Đức Tâm (đang làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương thay Lê Đức Thọ) ký, trong đó có những xác nhận làm ông hài lòng, duy chỉ có vụ Deschamps 1935 thì vẫn quy trách nhiệm cho ông. Tất nhiên ông Giàu khiếu nại vì ông vẫn cho là mình vô tội, mặc dù những gì ông kể trong hồi ký về vụ này còn có nhiều chỗ mập mờ (nhất là việc ông nhận khi bị bắt có khai này nọ, chứ không kiên cường được như Trần Phú) làm người ta có thể suy diễn vấn đề theo hướng khác. Dù sao với một nhà cách mạng trung kiên như ông thì một cái kết thúc như vậy cho cả một đời buồn phiền vì tai tiếng cũng có thể gọi được là thắng lợi “về cơ bản” rồi.
Điều đó chứng tỏ rằng, nếu có bị Trung ương phê bình thì những phê bình ấy chủ yếu không hề phát xuất từ mấy chuyện ông bị vu cáo đã bán mình cho Tây, cho Nhật: mấy chuyện động trời này mà lúc bấy giờ bị Trung ương cho là cần xử lý thì đời ông chắc hẳn đã chuyển sang hướng khác hoàn toàn rồi. Trái lại, sau ngày 2 tháng 9, 1945, sau khi bị Hoàng Quốc Việt ngưng chức xứ uỷ Nam kỳ, chuyển ông ra Bắc gặp Trung ương (chắc chắn là để kiểm điểm), khi ông đề đạt nguyện vọng được sang Mặt trận Biển Hồ (Campuchia) hoạt động tiếp tế cho kháng chiến Nam bộ thì được chấp nhận ngay, không có gì cần thẩm tra lâu dài. Đầu năm 1947, ông được điều động về Việt Bắc đảm nhận chức vụ Tổng giám đốc Nha Thông tin. Năm 1951, trong một đợt chỉnh huấn theo kiểu Mao, bị Hoàng Quốc Việt đem chuyện cũ ra hoạnh hoẹ, nhưng cũng chẳng làm gì được ông. Năm ấy ông vẫn tham gia Bộ giáo dục, để từ đó về sau luôn nhận lãnh các chức vụ quan trọng trong ngành này. Trong lí lịch của ông, vụ Deschamps thực sự chỉ còn là một vết mờ, dù chưa xoá hẳn được nhưng chẳng liên can gì đến những vu cáo động trời từng đồn đãi trong dư luận.
***
Trong lời nói đầu của cuốn hồi ký của mình, ông Giàu có viết dòng sau đây: “Tôi chỉ viết hồi ký khoảng thời gian 1940-1945 vì đó là thời gian tôi sống có chất lượng hơn hết trong cuộc đời dài quá 80 năm, xấp xỉ 90 năm”. Thực sự thì với tuổi đời 100 năm hiếm có của ông, ông đã bỏ ra hết 80 năm (ông bắt đầu hoạt động khi 20 tuổi) theo đuổi cuộc cách mạng cộng sản, ở nhiều nơi, làm nhiều việc, đáng chú ý nhất là 50 năm trong ngành giáo dục, nhưng khi viết hồi ký ông chỉ viết về 5 năm ngắn ngủi, 1940 đến 1945, ngắn ngủi nhưng ông cho rằng đó là thời gian ông “sống có chất lượng hơn hết”. Nói cho chính xác về khoảng thời gian này thì phải tính từ cuối năm 1941 khi ông vượt “căng” Tà Lài ra hoạt động cho đến ngày ông lãnh đạo thành công cuộc khởi nghĩa tháng 8 ở Nam bộ. Hầu hết thời gian trước khi ra khỏi Tà Lài ông đều sống trong tù. Sau ngày 2 tháng 9, 1945, không theo thủ tục quy định do Hoàng Quốc Việt đề ra, ông đã tự tiện phát tán “Lời kêu gọi kháng chiến”, để liền sau đó tự nói với mình: “Thế là đời chính trị của Trần Văn Giàu đã hết”.[7] Có nghĩa là cuộc sống “có chất lượng” của ông gom vào những ngày tháng ngắn ngủi ấy cũng đã hết.
Hiểu theo nghĩa rộng thì thật sự sau đó ông vẫn chưa dứt khỏi nghề làm làm chính trị vì ông vẫn còn là một đảng viên cộng sản và còn tin tưởng mãnh liệt vào Lenin (và cả Stalin) mà ông thần phục từ thời thanh niên. Nhưng có một cái gì đó không còn gì là khí thế vốn có của ông trong mấy dòng chữ sau đây: “Kiểm lại, tôi thấy trong hơn ba, bốn mươi năm bị hàm oan, tôi không hề rời công tác, việc gì giao cho dầu nhỏ tôi cũng làm tròn, không giao việc gì thì tôi viết sách, viết báo, dạy học và tôi đã đạt những thành tựu tôi mong muốn, giữ vững tư cách đảng viên, giữa vững nhân cách Việt Nam”. Nhẫn nhục, khiêm tốn và đã mất đi hoàn toàn cái hơi hám của thứ “chính trị” định nghĩa như một thái độ dấn thân đầy hứng khởi, sáng tạo để biến đổi thế gian cùng với cái ý chí mãnh liệt của một người muốn ghi tên mình vào hàng ngũ những lãnh tụ thay đổi thế gian như trong những ngày Cách mạng Mùa thu ở Sài Gòn.
Nhưng cũng qua những gì ông viết về những ngày làm “chính trị” có nội dung trên đây như một hoài niệm mà chúng ta biết được những gì đã diễn ra thực sự ở Nam bộ và vai trò thực sự của ông trong cuộc khởi nghĩa Mùa thu đó: đó sẽ là những tư liệu sống của một người cộng sản vẫn còn đủ lòng tự trọng để nói lên sự thật, giúp những người viết sử về sau dựng lại trung thực hơn những gì họ đã viết, đặc biệt làm rõ hơn mối quan hệ giữa trung ương và địa phương, giữa lãnh đạo và tự phát, ghi nhận tính sáng tạo đa nguyên trong đấu tranh cách mạng, từ đó hy vọng chấm dứt được các thứ lý giải có tham vọng không chính đáng muốn quy mọi hiện tượng phức tạp về một đầu mối giả tạo,[8] và cũng căn cứ vào đó chấm dứt việc khái quát hoá những sai lầm có giới hạn của ông trong cuộc khởi nghĩa lịch sử ấy.
Riêng với tôi, một kẻ hậu sinh không quen ông đến độ thân thiết, từ đất Sài gòn này, cũng có một thời theo tiếng gọi của Marx, của Lenin mà đi theo con đường làm cách mạng vô sản, nay không còn tin tưởng bao nhiêu vào con đường ấy nữa, nhưng đọc hồi ký của ông, tôi vẫn quý trọng ông như một tiền bối, chăm chú theo dõi những việc ông kể về lịch sử đất nước để mong hiểu thêm lịch sử của con người ông nhiều hơn: tôi đã hiểu ông như một chiến sĩ vô sản của đất Nam kỳ mà sự cá biệt độc đáo trong tính cách của ông đã vượt qua rất xa vai trò ông giữ trong cái tập thể mà ông muốn phụng sự suốt đời. Ông đam mê, kiên cường, chết sống cho sự nghiệp chung cũng là để thể hiện vị trí cá nhân của mình đến chỗ cao nhất. Nhưng cũng chính từ tham vọng “chính trị” ấy ông đã bước ra ngoài cái chuẩn mực mà lý luận cách mạng của ông đã quy định thành lý do tồn tại cho cái “đoàn thể” hiện thân cho thứ lý luận đó. Có lẽ từ đó ông tạo ra bi kịch, oán thù, hiểu lầm, và tiếc nuối cho mình. Và cũng chính vì vậy mà khi ông làm cộng sản không có Trung ương lãnh đạo thì ông sống một cuộc sống “ có chất lượng”, tuy bị tai tiếng nhưng đầy say mê và đạt được vinh quang tột đỉnh. Còn khi ông trở về làm cộng sản có sự lãnh đạo của Trung ương, thì tuy vẫn có thể trở thành anh hùng nhưng thâm tâm dường như ông vẫn coi đó chỉ là một thứ anh hùng “phải đạo”, anh hùng xó bếp. Một thứ anh hùng chấm dứt “anh hùng”. Một thứ chính trị hết còn là “chính trị”.
***
Hồi ký ông viết đã lâu nhưng chỉ cho xuất hiện sau khi ông mất khiến chúng ta không khỏi bùi ngùi nhận ra trong hành vi đó ý nghĩa một cuộc dấn thân tổng lực cuối cùng nhằm vớt vát lại sự chói sáng cho một vầng hào quang đã bị cái thực thể mà ông phấn đấu hy sinh suốt đời làm lu mờ đi. Cái hậu mà hồi ký của ông gợi ra có thể làm yên lòng những người quý mến ông nhưng với ông có thể chỉ là thời điểm để ông nhớ lại “những đồng tuyết năm xưa” nhiều hơn. Đó là một cái hậu, hiểu theo nghĩa “chính trị” của ông, có vẻ như không có gì gọi được là “cách mạng vô sản” cả!
© Thời Đại Mới
DANH NHÂN VIỆT. Giáo sư Trần Văn Giàu là nhân vật lịch sử Nam Bộ, cặp song sinh thế kỷ với đại tướng Võ Nguyên Giáp trong thời đại Hồ Chí Mính. Hồi ký Trần Văn Giàu là tác phẩm sẽ còn được nhiều người đọc lại. Thời gian và sự khen chê không làm nhoà được dấu ấn của người đã góp phần làm nên lịch sử, nghiên cứu và giảng dạy lịch sử. Bài viết của Lữ Phương “Vài ghi nhận nhân đọc Hồi ký Trần Văn Giàu” có nhiều tư liệu quý đáng đọc và suy ngẫm. Đoạn kết còn phải bàn thêm “Riêng với tôi …cho đến hết”. Hình như vấn đề Nam Bộ và quy non sông về một mối, vấn đề lãnh tụ và ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, chiến lược và sách lược, tổng thể và vùng miền … chưa được luận bàn thấu tình đạt lý để hiểu được uẩn khúc lịch sử và đời người. Tôi nhớ bài thơ từ sách tuổi thơ “Học đi em. Học đi mà nhớ mãi. Quê hương ta một dãi. Từ mũi Cà Mau, đến địa đầu Móng Cái. Quê hương ta. Đồng ruộng phì nhiêu. Đủ bốn mùa hoa trái. Núi Trường Sơn vĩ đại. bờ biển rộng bao la. Có Việt Bắc, mồ ma giặc Pháp , nối liền Đồng Tháp Nam Bộ Thành Đồng…”. Lịch sử cần sự thật và suy ngẫm. (Hoàng Kim)
Đọc hồi ký Trần Văn Giàu, suy nghĩ về ba ông họ Trần
Lữ Phương
Khi mất vào năm 100 tuổi (1911-2010), ông Trần Văn Giàu nổi danh như một nhà giáo dạy lịch sử. Nhưng với bản thân lịch sử thì ông cũng đã nổi tiếng từ lâu như một người đã tổ chức thành công cuộc khởi nghĩa tháng 8-1945 ở Nam bộ, và cũng trong quá trình lãnh đạo cuộc khởi nghĩa này ông cũng nổi tiếng cả với những đồn đãi rất xấu cho uy tín chính trị của ông. Mục đích hồi ký[1] của ông là nhằm xoá đi cái màn sương mờ đục phủ lên đoạn đời ngắn ngủi nhưng đầy ý nghĩa phức tạp đó – 1940 -1945 –, kể lại một cách chi tiết toàn bộ quá trình ông lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tháng 8 nói trên ở Nam kỳ, góp tài liệu làm sáng tỏ một vấn đề lịch sử hiện đại của Việt Nam, nhưng đồng thời cũng nhằm mục đích phơi bày sự thật về những kẻ mà ông cho rằng đã dùng những thủ đoạn tồi tệ để bôi nhọ ông, làm ông khổ sở, cho mãi đến cuối đời.
***
Chúng ta đều biết Trần Văn Giàu là một người cộng sản thuộc thế hệ 30 của thế kỷ trước. Một trong những nhà mácxit đầu tiên của Việt Nam thời bị thực dân đô hộ. Dự tính sang Pháp du học để trở thành một trí thức khoa bảng, ông lại bỏ ngang, gia nhập Đảng cộng sản Pháp và được Đảng này giới thiệu qua học trường Stalin ở Nga (cũng gọi là Đại học Phương Đông, từ tháng 5-1931 đến tháng 8-1932). Chủ nghĩa Marx mà ông tiếp thu vào thời kỳ này là hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa đặc trưng Liên xô gọi là học thuyết “Mác-Lênin”, có nguồn từ Lenin nhưng dần dà suy thoái qua những luận giải của Stalin: hạ triết học Marx xuống thành một thứ cẩm nang thực dụng, một công cụ phục vụ chế độ toàn trị, coi Liên xô là trung tâm cách mạng vô sản toàn cầu, Đệ tam Quốc tế do Liên xô lãnh đạo là chỗ dựa vững chắc nhất của phong trào giải phóng dân tộc... Do nguồn gốc đào tạo này, lại hoạt động ở miền Nam, không giao lưu trực tiếp với Trung quốc, nên tư duy cách mạng vô sản của ông mang đậm sắc thái bôn-sê-vích kiểu Nga, không giống các đồng chí của ông ở miền Bắc, bị tác động khá mạnh lý luận cách mạng Trung quốc của Mao Trạch Đông. Một cách tự nhiên, theo phong trào cộng sản thế giới lúc bấy giờ ông tin tưởng vô điều kiện rằng Liên xô là một mô hình mácxit đích thực duy nhất, hiển nhiên vì thế mà xem Đệ Nhị Quốc tế là bọn phản bội xấu xa còn bọn Đệ tứ là kẻ thù nội tại nguy hiểm không kém gì đế quốc tư bản.
Chính ông đã nhận rằng quan điểm cách mạng của ông bấy giờ có phần nghiêng về tả khuynh, ảnh hưởng mạnh mẽ từ Đại hội 6 Quốc tế Cộng sản. Ông cũng nhận thêm rằng chính vì vậy mà suốt một thời gian dài ông không quan tâm đến Nguyễn Ái Quốc[2] – người mà chúng ta biết tư duy cách mạng đã bắt nguồn từ Đại hội 5 QTCS (1924) và Đại hội 7 QTCS (1935), không tham dự Đại hội 6 QTCS (1928)[3]– và thái độ đó của ông chỉ thay đổi khi ông gặp Nguyễn Ái Quốc khi đã về nước lãnh đạo và mang tên Hồ Chí Minh. Điều này không được ông Giàu trình bày trong hồi ký nhưng được phân giải khá thành thật ở một nơi khác.[4]
Môi trường hoạt động của Trần Văn Giàu khá đặc biệt. Hồi ký cho biết cuộc đời “cách mạng chuyên môn” của ông bắt đầu khi tốt nghiệp Đại học Stalin về nước (vào năm 1933): do xứ ủy cũ vừa bị thực dân phá tan, ông đã phải lo xây dựng ngay xứ ủy mới trong một hoàn cảnh mà ông diễn tả là “Trung ương không có” nên “phải vạch lấy con đường mà đi”. Công việc ấy chưa đến đâu thì ông bị bắt. Lần thứ nhất 1933, một năm thì được tha, nhưng lần thứ hai vào 1935 trầm trọng hơn. Bị kết án 5 năm (và 10 năm quản chế), ông không thể tham gia cuộc đấu tranh trên mặt trận báo chí và nghị trường diễn ra công khai ở các đô thị thời Mặt trận Bình dân từ 1936 dến 1939, nếu có hưởng được dư vang gì của phong trào này chỉ là sống được dễ dãi hơn khi ở tù. Đúng hạn 5 năm, về sum họp gia đình chưa đến chục ngày, khi Chiến tranh Thế giới II nổ ra, tất cả mọi hình thức hoạt động yêu nước không-cộng sản hoặc cộng sản (dù Đệ tam hay Đệ tứ) đều bị thực dân coi là bất hợp pháp, nên ông đã bị gom ngay vào “căng” Tà Lài (nơi giam giữ những phần tử bị nghi ngờ). Nhưng cũng từ khu rừng miền Đông Nam bộ này cuối năm 1941, ông đã tổ chức vượt ngục thành công để trở lại hoạt động. Và lần này, trong điều kiện khó khăn hơn trước gấp bội: cuộc khởi nghĩa Nam kỳ vào cuối năm 1940 do Trung ương lãnh đạo vừa thất bại tan tác.
Qua những tài liệu liên quan, chúng ta biết rằng do đánh giá tình hình không chính xác, kế hoạch bị lộ do có nội gián, đặc biệt là sự liên lạc giữa trung ương và địa phương khó khăn, lệnh đình chỉ cuộc khởi nghĩa đến không kịp, sự thất bại đó đã dẫn đến những hậu quả thảm hại chưa từng có cho Đảng cộng sản. Cuộc nổi dậy bị dìm trong bể máu của hàng nghìn người, những ai sống sót đều thu mình lại trong hoài nghi, bi quan, bất động; trong khi đó hầu hết các cán bộ lãnh đạo kỳ cựu quan trọng của Đảng đều bị bắt và bị giết (như Tạ Uyên, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai…), hoặc bị đi tù (Lê Hồng Phong [chết ở Côn Đảo năm 1942], Lê Duẩn, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo…). Ông Giàu đã vượt “căng” Tà Lài trong tình thế đó và đã phải bắt đầu mọi việc như hồi 1933: làm lại cuộc cách mạng không có sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Đảng. Do bị tách rời khỏi mọi hoạt động bên ngoài khá lâu, lại thừa kế một khoảng không về tổ chức, ông không có cách gì để biết được xứ ủy Nam kỳ cũ còn tồn tại hay không, cũng như không thể biết Trung ương có còn tồn tại hay không, do đó cũng không hề biết được ngay vào năm ông tổ chức vượt ngục, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã từ Trung quốc về nước tham dự hội nghị Trung ương lần thứ 8 ở Cao Bằng (tháng 5-1941) để thành lập Mặt trận Việt Minh – điều mà trong hồi ký của mình, ông Giàu cho biết đến mãi sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, khi cách mạng tháng 8 thành công rồi ông mới có được thông tin cùng một lượt với việc nối lại quan hệ với Trung ương.
Tự mình đảm nhận vai trò lãnh đạo trong hoàn cảnh đó, những gì ông đem ra vận dụng đều dựa vào những điều đã học được tại trường Stalin khoá 1931-1932. Lòng tin vào cách mạng của ông đã đi theo bước chân của Hồng quân Liên xô chống phát xít Đức trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Sách gối đầu giường của ông về hoạt động là những gì Lenin viết về cuộc khởi nghĩa Petrograd 1917, có lẽ vì vậy mà ông tỏ ra không mấy quan tâm đến những thứ lý luận đặc trưng Trung quốc do Mao Trạch Đông xướng xuất, như lấy nông thôn bao vây thành thị, chiến thuật biển người, chiến tranh du kích, văn nghệ công nông binh kiểu Diên an, rồi sau này là cải cách ruộng đất, chỉnh phong, chỉnh huấn v.v… Ông Giàu cho rằng phương pháp giành quyền lực cho Đảng cộng sản chỉ có thể thực hiện được bằng cách chuẩn bị thật đầy đủ những chỉ dẫn của Lenin, diễn ra dưới hình thức vũ trang của đông đảo quần chúng tại chỗ được chỉ đạo đồng loạt tiến lên chiếm lĩnh các cơ quan đầu não của nhà nước thống trị, chứ chủ yếu không phải từ ngoài đánh vào, từ xa vận động tới. Ông cho rằng chính đây là định hướng cốt tử để tập trung kế hoạch xây dựng lực lượng thật vững mạnh ngay tại những xí nghiệp, những công sở, những cơ quan yết hầu chiến lược của các thành phố, thị xã… và trong khi nắm vững trọng tâm hoạt động, nếu có quan hệ gì đến nông thôn thì chỉ nên khai thác các vùng phụ cận thành thị để yểm trợ, phối hợp như cất giấu, chế tạo vũ khí, huấn luyện, hội họp, dự trữ, tiếp tế… và cuối cùng trong cao trào nổi dậy sẽ kéo lực lượng ven đô về cùng tác chiến chung với các trung tâm.
Ông Giàu cho biết, trong các văn bản của Đảng Việt Nam, ông chỉ dựa vào Nghị quyết lần thứ 6 của Trung ương họp tại Bà Điểm cuối năm 1939, do tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Nhưng hoàn cảnh tiếp cận văn bản đó thật li kỳ: hồi còn ở Tà Lài ông chỉ nghe qua do các bạn tù phổ biến, nay muốn nghiên cứu lại thì sau khi hỏi han không gặp được ai nhớ lại cho đầy đủ, cuối cùng mới may mắn tìm được một số đoạn chép tay rời rạc giấu trên mái lá của chuồng trâu trong nhà một đồng chí quen biết! Cố gắng tiếp thu cái thần của nó rồi đem so sánh với những điều mà ông biết trước đó, ông nhận thấy đã có sự di chuyển quan trọng về chỉ đạo chiến lược: trong hai nhiệm vụ phản đế và cải cách điền địa của cách mạng tư sản dân quyền do giai cấp vô sản lãnh đạo, thay vì nghiêng về hướng cải cách điền địa như nhiều năm trước đây, Nghị quyết 1939 đã đưa vấn đề chống đế quốc lên hàng đầu, coi đó như nhiệm vụ “chính cốt”. Điều này phù hợp hoàn toàn với tình thế bấy giờ ở Việt Nam, khi chiến tranh nổ ra đẩy các thế lực đế quốc vào chỗ suy yếu tạo điều kiện cho các thuộc địa vùng lên giành độc lập và gác lại các vấn đề khác của cách mạng vô sản. Nhận định này của Trần Văn Giàu, tuy không được chỉ đạo của Trung ương nhưng cũng phù hợp với Nghị quyết của Trung ương tháng 5-1941, coi thời cơ giành độc lập đã đến, chủ yếu khai thác triệt để sự xâu xé lẫn nhau giữa Pháp và Nhật, biểu hiện rất rõ qua chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và đã lãnh đạo thành công khởi nghĩa ở Bắc và Trung.
Xứ uỷ Nam kỳ – do ông vận động thành lập vào tháng 10 năm 1943 và được bầu làm bí thư –, vì cách bức về liên lạc, không nhận được bất cứ chỉ thị nào của Trung ương, nhưng cũng đã nhìn thấy cơ hội đó, để có những hành động thích hợp và đã thành công. Điều đó đã biểu hiện rõ ràng qua nhận thức của ông Giàu trong việc xác định “đối tượng trực tiếp” mà khởi nghĩa cách mạng cần đánh đổ ở Nam kỳ: đó sẽ không phải là thực dân Pháp (vì đã bị Nhật tước khí giới) cũng không phải là phát xít Nhật (vì Nhật đã đầu hàng) mà là “chính quyền bù nhìn” do Nhật dựng nên, mà chính quyền này lại “đang rệu rã và không có ý chí đề kháng đáng kể”, cho nên nếu trung lập hóa được quân Nhật thì việc đánh đổ chính quyền ấy “sẽ thành công nhanh chóng và không gặp khó khăn gì lắm”. Phân tích ấy của ông Giàu xác nhận rằng tương quan lực lượng đã thay đổi hoàn toàn có lợi cho cách mạng. Và điều đó hàm nghĩa rằng các đảng phái, tôn giáo phi cộng sản, dù có quần chúng và vũ khí, xưa nay thường dựa vào phát xít và thực dân để hoạt động nay hoàn toàn thất thế. Vấn đề chỉ còn là thời cơ và thời cơ cũng đã đến như một món quà giúp những chuyên viên nổi dậy mở màn và chấm dứt cuộc giành chính quyền nhanh chóng và không mấy khó khăn: nghìn năm có một, một khoảng trống về quyền lực nhà nước đã xuất hiện, khi cuộc đảo chính ngày 9-3-1945 của Nhật đối với Pháp diễn ra rồi sau đó không lâu Nhật phải đầu hàng vô điều kiện (14-8-1945) vì hai trái bom nguyên tử của Mỹ.
***
Ông Giàu cho rằng những cố gắng của ông dù sao cũng chỉ là những mò mẫm “bất đắc dĩ”, không tránh khỏi sai biệt và cả sai lầm khi so với đường lối của Trung ương. Đọc hồi ký ông viết, không thấy ông nói đến những sai lầm, cũng không thấy nhắc đến những điều ông bị Trung ương phê phán một cách chính thức, nhưng chỉ thấy ông nói đến những sai biệt và cho rằng những sai biệt ấy là sự vận dụng những nguyên lý vào những điều kiện khác nhau, vấn đề là xét xem sự vận dụng ấy có mang đến thành công hay không. Biện luận này của ông đã được thực tế xác nhận qua những chuẩn bị chu đáo của xứ uỷ Nam kỳ về mặt chủ quan để đón nhận những thuận lợi do thời cơ mang đến.
Tuy vậy, khi đem đường lối mà ông Giàu áp dụng ở miền Nam, so với đường lối Trung ương để xét vấn đề một cách tổng thể, chúng ta thấy nhiều so le quan trọng, quan trọng nhất là thiếu một nội dung cụ thể để hình thành mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc trong tình hình đặc biệt của Việt Nam vào lúc bấy giờ. Mọi người đều biết, trong khi Trung ương, chủ trương cố ý che giấu bớt nguồn gốc cộng sản của chính quyền mới thành lập (sau đó không lâu đã phải công khai tuyên bố giải tán Đảng để đưa vào bí mật) thì trong cuộc diễu hành 2 tháng 9 ở Sài gòn, như ông Giàu đã mô tả trong hồi ký, cờ búa liềm lại quá nặng vì quá lớn khi được dương lên! Mọi người cũng đều biết, trong tình thế bị cách biệt hoàn toàn với với “phe dân chủ ” (cách mạng Trung quốc chưa thắng lợi), lại bị đủ loại thế lực chống cộng sản (trong và ngoài) bao vây tứ phía và thực dân Pháp thì chuẩn bị trở lại phục hồi sự thống trị bằng vũ lực, Trung ương đã chủ trương hoà hoãn, thương lượng bằng nhiều cách để chuẩn bị đối phó thì trong Nam ông Giàu, mặc dầu hiểu rõ sự cần thiết của Mặt trận, nhưng vẫn cứ bám chặt vào những chuẩn mục cách mạng vô sản mà Lenin đã áp dụng ở Petrograd, qua đó phân tuyến ta địch để xử lý các vấn đề nẩy sinh, nhất là trong nội bộ dân tộc.
Trước những khác biệt về chủ trương chiến lược đó, thái độ của ông Giàu với một số cán bộ lãnh đạo Trung ương, đặc biệt với Hoàng Quốc Việt là người đại diện của Trung ương được cử vào Nam sau ngày 2-9-1945, có nhiều điều phức tạp hơn những gì ông đã viết. Không phải ông không đúng khi cùng với Phạm Ngọc Thạch phản đối lệnh của Hoàng Quốc Việt giải tán Thanh niên Tiền phong vì tổ chức này thực chất do xứ uỷ lập ra nhờ khôn khéo tranh thủ được sự đồng ý của Nhật, dùng làm bình phong tập hợp một cách rộng rãi công khai và các tầng lớp quần chúng chuẩn bị cho khởi nghĩa và thực tế đã đóng vai trò cực kỳ lợi hại trong khởi nghĩa. Sự phẫn nộ của ông Giàu cũng chính đáng khi thấy Hoàng Quốc Việt đứng ra xin tha cho Trần Văn Vi vì ông này trong khi được xem là nhân vật số 1 của xứ uỷ Giải phóng lại chính là người, theo sự trình bày của ông Giàu, “đã dẫn đầu mấy ngàn tín đồ Hoà Hảo có vũ trang kéo vào Cần Thơ, tháng 9 năm 1945, đòi nắm chính quyền trên 7 tỉnh miền Tây Nam Bộ”. Chúng ta không có điều kiện để biết lý do hành động thật sự của Hoàng Quốc Việt, nhưng giả định sự trình bày của ông Giàu là đúng trong những trường hợp nói trên, thì một cách khách quan cũng không vì thế mà có thể cho rằng trong rất nhiều trường hợp thái độ của ông Giàu là đúng hoàn toàn.
Hãy thử so sánh chủ trương của xứ uỷ Nam kỳ qua ứng xử của Trần Văn Giàu với ứng xử của Trung ương qua hành động của Hồ Chí Minh – thí dụ đối với vua Bảo Đại, với phe Tàu Tưởng (có cả những lực lượng bản xứ tùng theo để chia quyền với cộng sản) sang Việt Nam giải giới quân Nhật, với việc thương lượng với thực dân Pháp để có thời gian chuẩn bị cho cuộc tranh đấu mới … – thì không thể cho rằng ý kiến của Hoàng Quốc Việt, với tư cách đại diện của Trung ương, là sai lầm trong mọi trường hợp. Nhất là những ứng xử liên hệ đến sách lược liên minh hành động với những thế lực bản địa (như với phe Hoà Hảo và Đệ Tứ…) hoặc các quyết định có ảnh hưởng tới cuộc chiến đấu toàn cục (như phát lệnh kháng chiến toàn quốc). Nhìn chung, ta có thể cho rằng nếu đường lối của xứ uỷ Nam kỳ do ông Giàu lãnh đạo đã sáng tạo ra những hình thức táo bạo, linh hoạt, tạo được sức mạnh vượt qua các phe phái (thân Nhật, phi cộng hoặc chống cộng) để tiến lên giành quyền lực cho cách mạng thì xét trên tổng thể và lâu dài lại không hoàn toàn thích đáng.
Ý nghĩa của đường lối ấy chỉ tỏ ra có hiệu lực tích cực vào một thời cơ đặc biệt thuận lợi nào đó về mặt chiến thuật, ở đó cuộc khởi nghĩa có điều kiện phát triển tốt nhất và kết thúc nhanh chóng nhất ngay tại các trung tâm đầu não của địch theo mô hình Petrograd – nói cụ thể là vào khoảng từ 9-3-1945 (ngày Nhật đảo chánh Pháp) đến 14-8-1945 (ngày Nhật đầu hàng đồng minh), chứ không thể vượt khỏi thời điểm ấy để trở thành định hướng cho cả giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ chống đế quốc mà nội dung của nó đã được khẳng định từ lâu về mặt lý luận là cuộc cách mạng tư sản dân quyền trong đó mặt trận dân tộc thống nhất là công cụ quyết định để Đảng cộng sản tập hợp lực lượng thực hiện các chương trình tối thiểu của mình.
***
Khi nhìn lại mọi việc, chắc hẳn ông Giàu biết rõ điều đó và cũng chỉ muốn Trung ương Đảng thông cảm với tinh thần trách nhiệm cách mạng cao nhất của ông trong những giới hạn của hoàn cảnh mà ông không thể vượt qua, quan trọng nhất là không thể liên lạc được với Trung ương trong suốt quãng thời gian nói trên. Tuy vậy khi đọc hồi ký của ông chúng ta lại thấy ông tỏ ra khá bực bội với “mấy ông lớn trong Trung ương”, trong đó có Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt, nguyên nhân như ông trình bày là do ông nghĩ rằng mấy “ông lớn” đó, đặc biệt Hoàng Quốc Việt, đã đứng hẳn về phía những kẻ đã đặt điều vu cáo cho ông nhiều tội lỗi tầy đình nên luôn luôn tỏ ra thành kiến và đánh giá ông một cách không công bằng, ngay trong những ngày diễn ra cách mạng tháng 8 và cả về sau này nữa.
Hồi ký của ông đã để ra nhiều đoạn nói đi nói lại nhận định này mà theo sự trình bày của ông là hoàn toàn bất công và sai sự thật, bao gồm mấy việc quan trọng như sau: 1935, bị bắt ông đã đầu hàng và khai báo một đảng viên cộng sản Pháp có nhiệm vụ liên lạc với Đông Dương; 1941 ông được Pháp tổ chức cho vượt “căng” Tà Lài để ra ngoài giả bộ hoạt động cách mạng nhưng thật sự là “phá cộng sản”; 1944 không hiểu sao người ta lại cho rằng ông đã chỉ điểm một đồng chí ở Trung ương được cử vào Nam để điều tra “vụ Trần Văn Giàu”; 1945 theo Nhật lập ra Thanh niên Tiền phong và lấy “cờ vàng sao đỏ” làm biểu tượng cho tổ chức này để đối lại với “cờ đỏ sao vàng” của Việt Minh. Còn nhiều chuyện khác nữa nhưng kết lại mọi việc đều quy về một tội khủng khiếp đối với một người Việt Nam và hơn nữa một người Việt Nam theo nghề “cách mạng chuyên môn”: đó là tội thoả hiệp có hệ thống với các loại kẻ thù của dân tộc, từ Tây đến Nhật, để bán đứng đồng chí và phá hoại cách mạng. Một cái tội như vậy thật đáng chết, như phe xứ uỷ Giải phóng đã từng tuyên án đối với ông, thực chất chỉ là hoàn toàn vu cáo, vậy mà sau này khi ra công tác ở chiến khu Việt Bắc 1951, ông đã bị Hoàng Quốc Việt dựa vào đó để hỏi cung suốt một buổi tối chỉnh huấn, có một anh cố vấn Tàu “trẻ bân” ngồi nghe bên cạnh một tay phiên dịch!
Đối với một người cộng sản kỳ cựu như ông, những cung cách ứng xử miệt thị và nghi ngờ ấy là cực kỳ đau đớn, nhục nhã cho nên sau nhiều lần muốn chết đi cho xong, ông đã gượng dậy, quyết chí bỏ công đi tìm nhân chứng, hồ sơ, lật lại các sự việc để minh oan cho mình, kết quả là trong rất nhiều trang hồi ký từng việc một đã được xới lại và xuất hiện trở lại với những chi tiết thực sự của chúng. Tất cả đều chứng minh là ông vô tội. Tất cả đều được ông kết luận là do sự vu cáo của hai nhân vật trong xứ uỷ Giải Phóng tên là Trần Văn Vi và Bùi Văn Dự mà ra. Chính những kẻ xấu này đã tìm cách vu cáo ông tạo nên nghi kị của Trung ương với ông.
Vấn đề “hai xứ uỷ”[5] trong thời kỳ Cách mạng tháng Tám ở Nam bộ chủ yếu với hai nhân vật Trần Văn Vi và Bùi Văn Dự nói trên (ông Giàu không kéo vào đây một số nhân vật khác) vì vậy đã trở thành đầu mối gây nên oan khuất cho ông. Theo sự trình bày của ông thì cái gọi là xứ uỷ Giải phóng này chỉ bao gồm một số phần tử rất ít của xứ uỷ cũ còn sót lại sau cuộc khởi nghĩa thất bại năm 1940, không hoạt động gì cả mà chỉ nằm im chờ thời. Sau khi ông Giàu lập ra xứ uỷ mới (tháng 10-1943) và hoạt động một thời gian, đến tháng 4-1945 (sau Nhật đảo chánh) thì từ “căng” Bà Rá trở về, Trần Văn Vi mới cho khôi phục lại xứ uỷ cũ ở Mỹ Tho, có Bùi Văn Dự làm phó ( và vì có cơ quan tuyên truyền mang tên Giải phóng, nên gọi là “xứ uỷ Giải phóng” để phân biệt với xứ uỷ do ông Giàu lập ra mang tên “xứ uỷ Tiền phong” vì có tờ báo mang tên Tiền phong). Nghe biết việc này ông Giàu đã tìm cách gặp họ để đặt vấn đề thống nhất nhưng không có kết quả sau nhiều lần thương lượng; và lý do họ nêu ra để không thể hợp tác được với Trần Văn Giàu là vì Trần văn Giàu là một Việt gian phản cách mạng với nhưng tội lỗi đã kể trên, đính chính thế nào họ cũng không nghe. Trong hồi ký, sau khi ngẫm nghĩ cả một đời, ông Giàu vẫn viện ra ác ý, lòng đố kị tầm thường của con người để giải thích sự vu cáo đó. Ông nói rằng nếu như mình là một anh bí thư của một chi bộ xã ở một xó Đồng Tháp Mười nào đó thì chẳng sao, nhưng đằng này ông lại là bí thư xứ uỷ lừng lẫy tên tuổi và tài năng nên mới bị ganh ghét, như ý nghĩa một câu Kiều: chữ tài liền với chữ tai một vần! Có chỗ ông nại thêm lý do: trong khi ông tìm mọi cách mà không gặp được Trung ương để giải thích thì do họ liên lạc được nên họ mới có cơ hội để gièm pha làm cho Trung ương hiểu sai về ông.
Giả sử như tin vào những gì ông Giàu trình bày chúng ta không thể không nêu ra câu hỏi sau đây: tại sao với một sự vu cáo tầy trời như vậy mà nhiều lần cho điều tra, Trung ương vẫn cứ tin vào lời lẽ vô lý, thiếu bằng cớ của những kẻ cố ý hại người đó? Nhất là dễ tin đến mức suốt trong một thời gian dài, trong khi vẫn tiếp xúc với phe Giải phóng để nghe họ thì Trung ương lại cố tình né tránh không liên lạc trực tiếp với ông để làm cho ra lẽ? Ông cũng cho biết từng đưa nhiều người ra Bắc liên hệ để tường trình mọi việc nhưng kết quả lại tồi tệ hơn: cuối cùng Hoàng Quốc Việt đại diện Trung ương vào Nam không phải để giải oan hoặc xử lý ngay cho ông mà phải sau một thời gian xảy ra bất đồng rồi mới kết luận rằng Trần Văn Giàu “vô kỷ luật, vô chính phủ” phải được (cùng với Phạm Ngọc Thạch) đưa ra Bắc!
***
Chúng ta cảm động khi đọc những lời thống thiết của một người viết hồi ký mà mục đích không có gì hơn là muốn đòi lại sự thật cho mình để được thanh thản ra đi vĩnh viễn, nhưng rất ngần ngại khi xem những lý giải của ông về những oan khuất mà ông phải chịu đựng là hoàn toàn thoả đáng. Ông đã nhập hai vấn đề làm một: một bên là những lời vu cáo giả định đến từ những kẻ ganh ghét ông và một bên là những sai biệt, có thể nói cả những bất đồng, của ông với Trung ương và bị Trung ương phê phán. Thực sự đó là hai vấn đề mà cái logic toát ra từ những gì ông viết trong hồi ký đã cho chúng ta thấy như vậy: hai vấn đề dó khác nhau, mỗi vấn đề có những tính chất riêng, có quan hệ với nhau nhưng không đồng nhất. Vấn đề khác biệt về đường lối giữa xứ uỷ Nam kỳ với Trung ương đã được nói ở trên: nó bộc lộ thật rõ trong quan điểm lý luận về cách mạng dân tộc dân chủ giữa hai bên và cả trong việc ông Giàu bày tỏ quyết liệt sự bất đồng của mình với Hoàng Quôc Việt sau ngày 2 tháng 9 ở Sài gòn trong một số chủ trương cụ thể. Những sai biệt và bất đồng này là có thật, phần lớn do hoàn cảnh khách quan quy định, không thể dựa hoàn toàn vào những tị hiềm cá nhân để giải thích.
Còn về những ân oán giữa ông và mấy nhân vật của xứ uỷ Giải phóng có thể cũng không hoàn toàn đơn giản như ông diễn giải. Những điều mà họ vu cáo cho ông cực kỳ trầm trọng, trong thực tế chỉ là những tin đồn. Có thể do ganh ghét cá nhân mà bịa ra nhưng vẫn chỉ là tin đồn, không thể bỗng dưng dựng nên những chuyện động trời như vậy mà có thể làm hại ngay được người ta, bằng cớ là uy tín của ông – trừ việc bị phe chống đối bên ngoài bôi nhọ (cho đến nay vẫn bị những chuyên viên chống cộng tiếp tục khai thác) –, lại không hề sứt mẻ đối với quần chúng, với các đồng chí của ông trong xứ uỷ do ông lãnh đạo, với cả những người từ chối “khử” ông khi được phe Giải phóng xúi giục, do đó việc chuẩn bị cuộc khởi nghĩa cho đến ngày thành công đã không bị ảnh hưởng. Phân tích theo một hướng khác, cũng có thể xem những tin đồn ấy đã bắt nguồn từ những sự kiện đáng nghi ngờ mà vì một lý do nào đó, chưa thể xác minh hoặc xử lý nên có thể kéo dài trong dư luận, khiến những mơ hồ ban đầu trầm trọng thêm vì những đồn đãi mới, những yếu tố mới nẩy sinh trong đó không thể không nói đến những bất đồng về quan điểm giữa các nhóm khác nhau trong bản thân hàng ngũ cách mạng trước tình hình mới ở Nam bộ, nhất là trong điều kiện thiếu vắng sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương.[6]
Dù sao thì tạm gác lại những khía cạnh phức tạp khác của vấn đề chưa có điều kiện để làm rõ ở đây (nhất là quan điểm đầy đủ và khách quan của nhóm “Giải phóng”) mà chỉ xét chuyện họ quy tội ông Giàu, chúng ta thấy trong tất cả các thứ mà họ nêu ra đều liên hệ đến chuyện “làm tay sai cho địch”, thật ghê gớm đối với nội bộ những người cộng sản, nhưng nhìn sâu vào hiện tượng thì trong đó lại có những chuyện ai cũng có thể nhận ra sự phi lý của chúng và có thể phủ nhận hết sức dễ dàng – như ông Giàu đã làm – vì có rất nhiều người hợp tác với ông, biết rõ sự việc vẫn còn sống và đang giữ những chức vụ quan trọng có thể viện ra làm nhân chứng (như trong chuyện vượt “căng Tà Lài”, chuyện “cờ vàng sao đỏ” của Thanh niên Tiền phong…). Tuy vậy trong những tố cáo lại có một chuyện khởi đầu hơi mập mờ đó là việc năm 1935 một đảng viên cộng sản Pháp làm nhiệm vụ liên lạc với Đông Dương tên là Deschamps bị bắt sau khi ông Giàu đi tù không lâu, từ đó sinh ra nghi vấn đây đó về việc người đảng viên liên lạc bị bắt là do ông Giàu khai báo. Ông cho đó là không đúng nên sau này đã tìm ra mọi bằng cớ chứng minh được rằng kẻ khai báo Deschamps là một nhân vật khác, không dính dáng gì đến ông. Nhưng vào lúc bấy giờ, phần ông thì tiếp tục ở tù (5 năm), phần “đoàn thể” của ông thì vì hoạt động trong bí mật, cách bức, chưa có cơ hội để thẩm tra, cho nên mọi việc đã trở thành tiếng đồn treo lở lửng trên số phận chính trị của ông, rất dễ để những người ganh ghét hoặc bất đồng với ông khai thác. Tiếng đồn đó là có cơ sở trong thực tế chứ không phải vu vơ. Nếu Trung ương có bị tác động bởi những báo cáo loại này từ nguồn tin của “phe Giải phóng” thì cũng chỉ là những thông tin để cảnh giác và điều tra chứ không thể để tuỳ tiện và dễ dàng kết luận như ông đã suy luận rằng “các ông lớn Trung ương” đã đứng về phe bên kia để “trù” ông.
Trong phần cuối của hồi ký, ông Giàu có kể một sự kiện chứng tỏ nhận xét trên đây là có cơ sở: đó là việc đầu năm 1988 ông được Lê Đức Thọ – mệnh danh lão Sáu Búa lừng danh mà chỉ nghe tên ai cũng ớn – mời cơm cùng một số đồng chí lão thành tại Sài gòn, nhân đó ông có đề nghị Lê Đức Thọ khi về Hà Nội can thiệp với Ban tổ chức Trung ương ra văn bản khẳng định tính chất không có cơ sở của những vu cáo về ông bấy lâu nay. Lời đề nghị được chấp nhận và một tháng sau ông Giàu nhận được quyết nghị do Nguyễn Đức Tâm (đang làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương thay Lê Đức Thọ) ký, trong đó có những xác nhận làm ông hài lòng, duy chỉ có vụ Deschamps 1935 thì vẫn quy trách nhiệm cho ông. Tất nhiên ông Giàu khiếu nại vì ông vẫn cho là mình vô tội, mặc dù những gì ông kể trong hồi ký về vụ này còn có nhiều chỗ mập mờ (nhất là việc ông nhận khi bị bắt có khai này nọ, chứ không kiên cường được như Trần Phú) làm người ta có thể suy diễn vấn đề theo hướng khác. Dù sao với một nhà cách mạng trung kiên như ông thì một cái kết thúc như vậy cho cả một đời buồn phiền vì tai tiếng cũng có thể gọi được là thắng lợi “về cơ bản” rồi.
Điều đó chứng tỏ rằng, nếu có bị Trung ương phê bình thì những phê bình ấy chủ yếu không hề phát xuất từ mấy chuyện ông bị vu cáo đã bán mình cho Tây, cho Nhật: mấy chuyện động trời này mà lúc bấy giờ bị Trung ương cho là cần xử lý thì đời ông chắc hẳn đã chuyển sang hướng khác hoàn toàn rồi. Trái lại, sau ngày 2 tháng 9, 1945, sau khi bị Hoàng Quốc Việt ngưng chức xứ uỷ Nam kỳ, chuyển ông ra Bắc gặp Trung ương (chắc chắn là để kiểm điểm), khi ông đề đạt nguyện vọng được sang Mặt trận Biển Hồ (Campuchia) hoạt động tiếp tế cho kháng chiến Nam bộ thì được chấp nhận ngay, không có gì cần thẩm tra lâu dài. Đầu năm 1947, ông được điều động về Việt Bắc đảm nhận chức vụ Tổng giám đốc Nha Thông tin. Năm 1951, trong một đợt chỉnh huấn theo kiểu Mao, bị Hoàng Quốc Việt đem chuyện cũ ra hoạnh hoẹ, nhưng cũng chẳng làm gì được ông. Năm ấy ông vẫn tham gia Bộ giáo dục, để từ đó về sau luôn nhận lãnh các chức vụ quan trọng trong ngành này. Trong lí lịch của ông, vụ Deschamps thực sự chỉ còn là một vết mờ, dù chưa xoá hẳn được nhưng chẳng liên can gì đến những vu cáo động trời từng đồn đãi trong dư luận.
***
Trong lời nói đầu của cuốn hồi ký của mình, ông Giàu có viết dòng sau đây: “Tôi chỉ viết hồi ký khoảng thời gian 1940-1945 vì đó là thời gian tôi sống có chất lượng hơn hết trong cuộc đời dài quá 80 năm, xấp xỉ 90 năm”. Thực sự thì với tuổi đời 100 năm hiếm có của ông, ông đã bỏ ra hết 80 năm (ông bắt đầu hoạt động khi 20 tuổi) theo đuổi cuộc cách mạng cộng sản, ở nhiều nơi, làm nhiều việc, đáng chú ý nhất là 50 năm trong ngành giáo dục, nhưng khi viết hồi ký ông chỉ viết về 5 năm ngắn ngủi, 1940 đến 1945, ngắn ngủi nhưng ông cho rằng đó là thời gian ông “sống có chất lượng hơn hết”. Nói cho chính xác về khoảng thời gian này thì phải tính từ cuối năm 1941 khi ông vượt “căng” Tà Lài ra hoạt động cho đến ngày ông lãnh đạo thành công cuộc khởi nghĩa tháng 8 ở Nam bộ. Hầu hết thời gian trước khi ra khỏi Tà Lài ông đều sống trong tù. Sau ngày 2 tháng 9, 1945, không theo thủ tục quy định do Hoàng Quốc Việt đề ra, ông đã tự tiện phát tán “Lời kêu gọi kháng chiến”, để liền sau đó tự nói với mình: “Thế là đời chính trị của Trần Văn Giàu đã hết”.[7] Có nghĩa là cuộc sống “có chất lượng” của ông gom vào những ngày tháng ngắn ngủi ấy cũng đã hết.
Hiểu theo nghĩa rộng thì thật sự sau đó ông vẫn chưa dứt khỏi nghề làm làm chính trị vì ông vẫn còn là một đảng viên cộng sản và còn tin tưởng mãnh liệt vào Lenin (và cả Stalin) mà ông thần phục từ thời thanh niên. Nhưng có một cái gì đó không còn gì là khí thế vốn có của ông trong mấy dòng chữ sau đây: “Kiểm lại, tôi thấy trong hơn ba, bốn mươi năm bị hàm oan, tôi không hề rời công tác, việc gì giao cho dầu nhỏ tôi cũng làm tròn, không giao việc gì thì tôi viết sách, viết báo, dạy học và tôi đã đạt những thành tựu tôi mong muốn, giữ vững tư cách đảng viên, giữa vững nhân cách Việt Nam”. Nhẫn nhục, khiêm tốn và đã mất đi hoàn toàn cái hơi hám của thứ “chính trị” định nghĩa như một thái độ dấn thân đầy hứng khởi, sáng tạo để biến đổi thế gian cùng với cái ý chí mãnh liệt của một người muốn ghi tên mình vào hàng ngũ những lãnh tụ thay đổi thế gian như trong những ngày Cách mạng Mùa thu ở Sài Gòn.
Nhưng cũng qua những gì ông viết về những ngày làm “chính trị” có nội dung trên đây như một hoài niệm mà chúng ta biết được những gì đã diễn ra thực sự ở Nam bộ và vai trò thực sự của ông trong cuộc khởi nghĩa Mùa thu đó: đó sẽ là những tư liệu sống của một người cộng sản vẫn còn đủ lòng tự trọng để nói lên sự thật, giúp những người viết sử về sau dựng lại trung thực hơn những gì họ đã viết, đặc biệt làm rõ hơn mối quan hệ giữa trung ương và địa phương, giữa lãnh đạo và tự phát, ghi nhận tính sáng tạo đa nguyên trong đấu tranh cách mạng, từ đó hy vọng chấm dứt được các thứ lý giải có tham vọng không chính đáng muốn quy mọi hiện tượng phức tạp về một đầu mối giả tạo,[8] và cũng căn cứ vào đó chấm dứt việc khái quát hoá những sai lầm có giới hạn của ông trong cuộc khởi nghĩa lịch sử ấy.
Riêng với tôi, một kẻ hậu sinh không quen ông đến độ thân thiết, từ đất Sài gòn này, cũng có một thời theo tiếng gọi của Marx, của Lenin mà đi theo con đường làm cách mạng vô sản, nay không còn tin tưởng bao nhiêu vào con đường ấy nữa, nhưng đọc hồi ký của ông, tôi vẫn quý trọng ông như một tiền bối, chăm chú theo dõi những việc ông kể về lịch sử đất nước để mong hiểu thêm lịch sử của con người ông nhiều hơn: tôi đã hiểu ông như một chiến sĩ vô sản của đất Nam kỳ mà sự cá biệt độc đáo trong tính cách của ông đã vượt qua rất xa vai trò ông giữ trong cái tập thể mà ông muốn phụng sự suốt đời. Ông đam mê, kiên cường, chết sống cho sự nghiệp chung cũng là để thể hiện vị trí cá nhân của mình đến chỗ cao nhất. Nhưng cũng chính từ tham vọng “chính trị” ấy ông đã bước ra ngoài cái chuẩn mực mà lý luận cách mạng của ông đã quy định thành lý do tồn tại cho cái “đoàn thể” hiện thân cho thứ lý luận đó. Có lẽ từ đó ông tạo ra bi kịch, oán thù, hiểu lầm, và tiếc nuối cho mình. Và cũng chính vì vậy mà khi ông làm cộng sản không có Trung ương lãnh đạo thì ông sống một cuộc sống “ có chất lượng”, tuy bị tai tiếng nhưng đầy say mê và đạt được vinh quang tột đỉnh. Còn khi ông trở về làm cộng sản có sự lãnh đạo của Trung ương, thì tuy vẫn có thể trở thành anh hùng nhưng thâm tâm dường như ông vẫn coi đó chỉ là một thứ anh hùng “phải đạo”, anh hùng xó bếp. Một thứ anh hùng chấm dứt “anh hùng”. Một thứ chính trị hết còn là “chính trị”.
***
Hồi ký ông viết đã lâu nhưng chỉ cho xuất hiện sau khi ông mất khiến chúng ta không khỏi bùi ngùi nhận ra trong hành vi đó ý nghĩa một cuộc dấn thân tổng lực cuối cùng nhằm vớt vát lại sự chói sáng cho một vầng hào quang đã bị cái thực thể mà ông phấn đấu hy sinh suốt đời làm lu mờ đi. Cái hậu mà hồi ký của ông gợi ra có thể làm yên lòng những người quý mến ông nhưng với ông có thể chỉ là thời điểm để ông nhớ lại “những đồng tuyết năm xưa” nhiều hơn. Đó là một cái hậu, hiểu theo nghĩa “chính trị” của ông, có vẻ như không có gì gọi được là “cách mạng vô sản” cả!
© Thời Đại Mới
Đọc hồi ký Trần Văn Giàu, suy nghĩ về ba ông họ Trần
Lê Mai
“Câu chuyện mười năm đã kết thúc” khép lại hồi ký Trần Văn Giàu, bằng một cuộc gặp gỡ đầu năm 1988 với Lê Đức Thọ – bấy giờ là cố vấn Ban chấp hành TW ĐCS VN. Trần Văn Giàu: “từ 1954 đến 1976, anh Thọ chưa hề đến nhà riêng tôi, chưa hề gọi tôi lên văn phòng hay nhà riêng của anh. Còn tôi thì tôi quen cái tánh “mọi rợ” là chưa bao giờ tự mình đến thăm bất cứ ai có chức, có quyền lớn hơn tôi – trừ trường hợp duy nhất là cụ Tôn Đức Thắng mà tôi thỉnh thoảng lên thăm, trước hết là vì anh Hai Thắng cứ vài ba tháng thì xuống thăm hai vợ chồng tôi một lần”.
Song, chỉ với một cuộc gặp gỡ duy nhất sau hơn hai mươi năm ấy, sử dụng phương pháp không ai ngờ tới – dùng lối nói ở trong tù, xưng hô “tao, mày” với Lê Đức Thọ, Trần Văn Giàu đã buộc Lê Đức Thọ phải hứa ra nghị quyết minh oan cho mình.
Ta hãy đọc lại cuộc nói chuyện với Lê Đức Thọ, vì nó quá đặc sắc:
“Tao là Giàu, mày, ở khám 8, banh 1, là Khải, Phan Đình Khải; hôm nay chúng ta nói chuyện thân mật như cách đây mấy mươi năm, khi còn ở ngoài Côn Lôn…Chúng ta là những người quá 70 tuổi, xấp xỉ 80 rồi, sắp đi theo cụ Hồ rồi. Mấy mươi năm nay, tao chịu những cái hàm oan mà mày, Khải, mày biết hết, biết rõ trắng đen. Chúng ta đều muốn đi theo cụ Hồ một cách thanh thản. Vậy lần này, Thọ về Hà Nội hãy có quyết định rõ, bằng văn bản của Ban Tổ chức Trung ương về tất cả những điều người ta vu cáo cho Giàu, được không? Thọ hứa, hứa trước mặt chị Năm Bi, anh Tào Tỵ, chú Ba Tô Ký”.
Năm xưa, bản lĩnh, trí tuệ của ông đã thể hiện rất cao trong các cuộc tranh luận với Hoàng Quốc Việt, tuy nó dẫn ông tới hậu quả nhãn tiền. Nay, cuộc gặp với Lê Đức Thọ, chúng ta gặp lại bản lĩnh ấy, trí tuệ ấy – bản lĩnh, trí tuệ của con người làm nên lịch sử, nhân chứng lịch sử và là nhà sử học lớn.
Đến đây, tôi chợt suy nghĩ về ba ông họ “Trần”: Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (Trương Gia Triều) và Trần Văn Trà (Nguyễn Chấn). Sự nổi tiếng của ba ông họ “Trần” không chỉ giới hạn trong phạm vi biên giới VN. Người ta nhanh chóng nhận thấy, sau cuộc chiến mà họ hiến dâng gần trọn đời, hình như họ lặng lẽ rút lui về viết sách, viết báo, nghiên cứu lịch sử, tránh xa vòng danh lợi?
Đây là mấy câu thơ của Trần Văn Trà, từng là Tư lệnh B2:
Ra đi hai bàn tay trắng
Trở về một dải giang sơn
Trăng xưa, hạc cũ, dòng sông lặng
Mây nước yên tình, thiên mã thăng
Thanh thản, như Thánh Gióng về trời – tất nhiên, không phải về trời để mà “vui thú điền viên”. Tâm hồn của con người từng trải qua dâu bể vẫn minh triết, trí tuệ. Nguyên nhân nào khiến một vị tướng có tài, công lao là thế, bỗng dưng muốn “thiên mã thăng”?
Bất giác, tôi nhớ một đoạn trong hồi ký của Trần Văn Trà. Trong khi đang nói về cuộc họp Bộ Chính trị, Bộ Tổng tham mưu, vấn đề thi hành Hiệp định Pari, ông bỗng xen vào một đoạn luận về đức và tài. Đức, “không có gì giống với kiểu người trước mặt tươi cười vồn vã, sau lưng tìm cách đâm nhau, “miệng nam mô bụng một bồ dao găm”. Tài, không phải biểu hiện ở lời nói ba hoa, phô trương, bề ngoài. Nói không đi đôi với làm thì nói không có giá trị gì, lý luận không chứng minh bằng thực tế thì chỉ là lý luận suông…Mình không gương mẫu nói không ai nghe, gia đình không hòa hợp gương mẫu thì nói gì xây dựng xã hội trật tự, công minh”. Trong thời điểm đó, ở VN ai cũng rõ, “gia đình không hòa hợp gương mẫu” là nhân vật nào! Cuốn sách nhanh chóng bị thu hồi – dĩ nhiên, cuốn sách không chỉ có thế.
Vẫn theo Trần Văn Trà, Bộ Tổng tham mưu chủ trương kế hoạch năm 1975 không đánh lớn, chỉ lo phá bình định ở đồng bằng sông Cửu Long. Ở miền Đông, chủ lực không đánh lớn. B2 định đánh Đồng Xoài, Phước Long nhưng Bộ không đồng ý mà chỉ cho đánh nhỏ, giải quyết một số cứ điểm nhỏ trên đường 14. Năm 1975 đánh nhỏ là để tích lũy lực lượng chờ thời cơ cho năm 1976. Lê Duẩn nói trong buổi gặp Trần Văn Trà, có cả Phạm Hùng tham dự, “các anh tung chủ lực ra đánh ngay từ đầu mùa khô, đánh Đồng Xoài và tiếp theo một loạt các trận đánh lớn khác, như vậy là không phù hợp”. Song, nghe Trần Văn Trà và Phạm Hùng giải thích, Lê Duẩn đồng ý cho đánh Đồng Xoài. Sau khi ba chi khu Bù Đăng, Bù Đốp, Đồng Xoài của VNCH thất thủ, ông Trà lại đề nghị cho giải phóng luôn tỉnh Phước Long theo như kế hoạch của B2. Ông Trà điện về Bộ tư lệnh B2 chỉ đạo trận đánh Phước Long, bức điện nhờ Bộ Tổng tham mưu chuyển. Trong khi ông đang nghiên cứu tình hình trên bản đồ thì Lê Ngọc Hiền – Phó Tổng tham mưu trưởng đến. Lê Ngọc Hiền đưa ra bức điện, nói chưa cho điện đi, vì trong điện cho sử dụng xe tăng và pháo lớn, điều mà cấp trên đã dặn không được phép. Ông Trà bực mình mà rằng, là tư lệnh chiến trường, chẳng lẽ tôi không có quyền chỉ huy các lực lượng của tôi sao? Không lẽ điện của tôi lại bị kiểm duyệt và bắt buộc phải sửa đổi ngoài ý muốn của tôi? Yêu cầu đồng chí cho điện đi và đồng chí sẽ phải chịu trách nhiệm nếu điện của tôi bị chẫm trễ, lỡ thời cơ (Trần Văn Trà – Những chặng đường lịch sử của B2 thành đồng).
Trận Phước Long được đánh giá là “một đòn trinh sát chiến lược”, thử phản ứng của Hoa Kỳ và VNCH. Lịch sử VN trình bày kế hoạch giải phóng miền Nam được vạch ra và thực hiện một cách hoàn hảo, gần như mọi việc đã dự kiến trước hết cả! Song, qua hồi ký Trần Văn Trà, chúng ta thấy vấn đề không đơn giản như thế và nó phức tạp hơn rất nhiều!
Sau năm 1975, cùng sống tại Sài Gòn, ba ông họ “Trần” tiếp tục là những người nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực. Có thể nói, sử của Trần Văn Giàu đọc hết sức hấp dẫn, nguồn trí tuệ vô cùng lớn. Các tác phẩm Triết học và tư tưởng, Biện chứng pháp, Lịch sử cận đại VN, Chống xâm lăng…của Trần Văn Giàu có tính chất kinh điển. Người ta tự hỏi, nếu ông theo đuổi sự nghiệp chính trị, liệu có một nhà sử học tầm cỡ như thế không?
Còn Trần Bạch Đằng đã quá nổi tiếng trong tư cách một lão thành cách mạng, một nhà nghiên cứu uyên bác. Sức suy nghĩ, sức sáng tạo, sức viết của ông khó ai có thể sánh kịp. Có tới sáu thư ký mà không kịp ghi lại các ý tưởng của ông. Chỉ cần đi đi lại lại một lúc là ông đọc xong một bài báo cho thư ký ghi. Tết năm 1999, ông viết tới 25 bài báo – một kỷ lục. Ông là chủ tịch đầu tiên của Uỷ ban giải thưởng Trần Văn Giàu.
Vậy nên, tôi khá ngạc nhiên nghe Xuân Thủy (từng là Trưởng đoàn đàm phán tại Pari của VNDCCH) nhận xét: “cái anh lúc thì Trần Bạch Ðằng, lúc thì Tư Ánh, lất khất như con lật đật, lúc nào cũng cao ngạo, tỏ ra thông minh xuất chúng, nhưng thực chất rổng tuếch” (Đỗ Trung Hiếu – Tiến trình thống nhất Phật giáo). Rõ ràng, chúng ta khó mà đồng tình với đánh giá đó của Xuân Thủy. Trần Bạch Ðằng từng là phó ban Dân vận Trung ương, phụ trách công tác tôn giáo vận. Vẫn theo Đỗ Trung Hiếu, ban Tôn giáo Mông Cổ “tỏ ra khâm phục tài năng ông Trần Bạch Ðằng”. Họ nghĩ ông Trần Bạch Ðằng là ủy viên Bộ chính trị, Trưởng ban tôn giáo Chính phủ!
Không có người nào trong ba ông họ “Trần” giữ chức vụ cao tương xứng với tài năng của họ. Tại sao? “Xin đừng nghĩ đồng chí rồi thì không ai xấu nữa. Trong hàng ngũ ta chỉ có chỗ của yêu thương”. Tôi lại càng nhớ các cuộc tranh luận của Trần Văn Giàu với Hoàng Quốc Việt – nhất là thời điểm quyết định số phận ông Giàu. Xét đến cùng, người trí thức chân chính không cần địa vị.
Đọc hồi ký Trần Văn Giàu, suy nghĩ về ba ông họ “Trần”, tôi xin kết thúc bằng mấy câu thơ của Việt Phương:
Một phần tư thế kỷ qua đi và có lẽ bây giờ ta đã biết
Thế nào là thương yêu thế nào là chém giết
Ta đã thấy chỗ lõm chỗ lồi trên mặt trăng sao
Những vết bùn trên tận đỉnh chín tầng cao…