Chủ Nhật, 30 tháng 8, 2015

Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo dục miền Bắc


Đã in  tạp chí NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN


Tôi vốn là người làm nghề nghiên cứu văn học.Trong cái nghề thuộc loại công tác tư tưởng này, những năm trước 1975, tôi chỉ được phép đọc các sách báo miền Bắc, còn sách vở miền Nam bị coi như thứ quốc cấm. 
Có điều, không phải chỉ là sự tò mò, mà chính lương tâm nghề nghiệp buộc tôi không thể bằng lòng với cách làm như vậy. 
Tôi cho rằng, muốn hiểu cặn kẽ văn học hiện đại, phải hiểu văn học cổ điển; muốn hiểu văn họcVN phải hiểu văn học thế giới. Thế thì để hiểu văn học miền Bắc làm sao lại lảng tránh việc nghiên cứu văn học miền Nam được.
 Đối với giáo dục cũng vậy. Từ sau 30-4-75, tôi vẫn sống ở Hà Nội. Sự tiếp xúc với giáo dục miền Nam (dưới đây viết là GDMN), chỉ dừng ở mức sơ sài bề ngoài.
 Tuy nhiên, do việc tìm hiểu chính nền giáo dục miền Bắc (GDMB) ở tôi lâu nay kéo dài trong bế tắc, trong khoảng mươi năm gần đây tôi tìm thấy  ở GDMN một điểm đối chiếu.
Lúc cảm nhận được phần nào sự khác biệt giữa hai nền giáo dục Bắc-Nam 1954-1975 cũng là lúc tôi hiểu thêm về nền giáo dục mà từ đó tôi lớn lên và nay tìm cách xét đoán. Tôi không chỉ muốn nêu một số đặc điểm mà còn muốn xếp loại nền giáo dục tôi đã hấp thụ. 
Bài viết này có thể được đọc theo chủ đề khác đi một chút: Nhận diện  giáo dục Hà Nội  từ 1975 về trước  qua sự đối chiếu bước đầu với giáo dục Sài Gòn.


                                KHÁC BIỆT NGAY TỪ HOÀN CẢNH HÌNH THÀNH       
 Chỗ khác nhau giữa GDMN và GDMB xuất phát trước tiên từ hoàn cảnh xã hội mỗi nền giáo dục đó được đặt vào, từ đó mà nó lớn lên là cái điểm đích mà nó hướng tới phục vụ.
Ngay từ những năm 1948 - 50, nền giáo dục tự phát trước tiên đã hình thành ở các vùng hồi trước gọi là vùng tự do; không chỉ Việt Bắc, những vùng tự do này tồn tại ở cả Nam bộ, rồi nam và trung Trung bộ, rồi  tập trung và có ý nghĩa nhất với tương lai giáo dục là những quan niệm, những cách hình thành, các trường sở… về sau.
Cái mà ta gọi là giáo dục miền Bắc chỉ là sự kéo dài của lối phát triển giáo dục trong chiến tranh. 
Nhờ có tinh thần yêu nước và những bài bản đã học được trong các nhà trường Pháp thuộc, nên ban đầu, nền giáo dục này có tạo được một số hiệu quả nào đó.
Việc kéo nhau lên Việt Bắc lúc đầu ai cũng nghĩ là chỉ một hai năm. Sống tạm bợ ít ngày cần gì. Nhưng rồi đường lối trường kỳ kháng chiến tiếp thu được từ Trung quốc được quán triệt khiến mọi mặt hoạt động được đặt lại trong đó có công tác giáo dục. Làm theo ý chí hơn khả năng thực tế. Quan niệm giáo dục chưa hình thành cũng phải làm.
 Giáo dục chiến tranh, do dó, luôn luôn là một nền giáo dục dở dang chắp vá, mà lại vẫn phải khoác cho mình cái chức danh lớn lao của một nền giáo dục mới mẻ, cách mạng .
 Trong khi ở khu vực kháng chiến hình thành nền giáo dục như trên thì, ngay từ trước 1954, một nền giáo dục do người Pháp mở từ trước cũng đã tồn tại ở Hà Nội, Hải Phòng, Huế, và rõ nhất là ở Sài Gòn, và sau này chuyển giao, phát triển trở thành giáo dục miền Nam.
 Đối tượng của những so sánh đối chiếu dưới đây là hai thực thể quá khác nhau, còn phải nghiên cứu công phu,  ý kiến của chúng tôi chỉ mới là những phác thảo sơ bộ.                               
                                   
                                                     CHUẨN VÀ  PHI CHUẨN
Đáng lẽ khi hòa bình lập lại những người kháng chiến đã trở về Hà Nội  cái tinh thần giáo dục phi tiêu chuẩn  hôm qua cần phải vượt qua, thì -- như một thói quen và kết quả của một hiểu biết thiển cận -- nó lại ăn sâu vào mọi mặt, chi phối cách hình thành và những định hướng lớn của GDMB
Nói quá lên thì có thể bảo, như một cơ thể, GDMB thuộc loại tiên thiên bất túc, tức sinh ra đã không đủ các bộ phận cần thiết, sinh ra đã bất thành nhân dạng.
 Phương châm ở đây là làm lấy được, tức là chưa đủ điều kiện, nhưng thấy cần, vẫn cứ làm -- rồi để yên lòng nhau, sẽ viện ra đủ lý lẽ để chống chế, để lấp liếm và xa hơn nữa, sẵn sàng tự ca tụng.

Ví dụ một trường đại học trước tiên phải có đủ bộ phận giảng viên đảm nhiệm việc giảng dạy theo những quy định quốc tế. Ở các nước gọi là đang phát triển, một trường đại học chỉ được thành lập khi có một bộ phận nòng cốt là những giáo sư đã học tập ở những Sorbone, Oxford hoặc những trường tương tự… trở  về.
Đâu người ta cũng hướng tới những yêu cầu này để noi theo, nay chưa làm được thì mai làm. GDMN cũng theo, GDMB thì không.
 Trên danh nghĩa đại học VN cũng có những người gọi là giáo sư hay tiến sĩ đấy, nhưng đó là ta phong với nhau để làm việc, chứ thực tế  thấp hơn hẳn chuẩn mực quốc tế “một cái đầu”.
Rộng hơn câu chuyện giáo viên là chuyện cơ sở vật chất và không khí học thuật của một trường đại học.
 Rồi rộng hơn câu chuyện của  riêng ngành đại học là chuyện của mọi cấp học. 
Tính phi chuẩn  bao trùm trong mọi lĩnh vực, từ trường sở, sách giáo khoa, cách cho điểm, cách tổ chức thi cử…, cho tới chất lượng dạy và học.
 Sau mấy chục năm chiến tranh, cái sự làm lấy được làm theo ý chí đã thành chuẩn mực duy nhất, nó chi phối tất cả, khiến giáo dục VN có cách tồn tại, cách vận hành riêng chẳng giống ai. Các trường mới lập ra phải theo trường cũ, sau giải phóng thì miền Bắc buộc miền Nam phải theo.
 Tạm ví một cách thô thiển: như trong khi người ta đi thì mình phải bò phải lết, vậy mà vẫn tự hào rằng mình cũng đang đi, chứ đâu có đứng yên.


                                       KHÁC BIỆT TRONG  QUAN NIỆM  

Về bộ máy giáo dục
Có dịp tìm hiểu lại nền giáo dục trước 1945 và nền giáo dục ở Sài Gòn trước 75, tôi nhận ra một sự thật -- hồi đó, bản thân giáo dục là một hệ thống quyền lực. Nó có nguyên tắc tổ chức riêng và những con người riêng của nó.
 Nhà thơ Chế Lan Viên có lần nói với Nguyễn Khải và Nguyễn Khải về kể lại cho tôi một nhận xét. Ông Chế bảo, ở xã hội cũ, một viên tri huyện tuy vậy vẫn phải nể nhà sư trụ trì mấy ngôi chùa lớn, hay các vị đỗ đạt cao nay không làm gì chỉ về mở trường trong vùng. 
Còn các chức danh đốc học, giáo thụ, huấn đạo – các học quan tương ứng với tỉnh, phủ, huyện -- là người do triều đình cử, chứ không phải do chính quyền địa phương cử, hoặc nếu địa phương cử thì triều đình cũng phải duyệt.
Tôi cảm thấy điều này được GDMN tiếp tục. Nền giáo dục ở đây do những người thành thạo chuyên môn quyết định.
 Còn ở miền Bắc  thì hoàn toàn ngược lại. 
Nhiều vị sư do địa phương phân công vào chùa hoạt động, hoặc sau khi vào chùa, lấy việc cộng tác với chính quyền làm niềm vinh dự, nghĩa là trong hệ thống sai bảo của chính quyền theo nghĩa đen.
Còn người phụ trách giáo dục các cấp hoàn toàn do Ủy ban cử sang.
Cả những hiệu trưởng cũng vậy, phải do Ủy ban thông qua.
Bộ máy tổ chức cán bộ địa phương thường hoạt động theo nguyên tắc là ai tài giỏi cho đi phụ trách các ngành chính trị kinh tế. Còn văn hóa giáo dục sẽ phân công cho những người kém thế lực và kém năng lực.
Đánh đấm ở chiến trường hay vật lộn với sản xuất với thị trường mới khó, chứ việc quản mấy ông thầy với đám học trò ranh, ai làm chẳng được – người ta hiểu vậy.
Một người bạn già có hiểu nhiều về giáo dục ở  thời Việt Nam dân chủ cộng hòa kể với tôi là Bộ trưởng Bộ giáo dục trong chính phủ liên hiệp thành lập 2-1946 là Đặng Thai Mai. 
Nhưng về sau, do sinh viên trường đại học Đông dương đề xuất thắc mắc, Đặng Thai Mai chỉ tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm, nên phải thay bẳng Nguyễn Văn Huyên có bằng tiến sĩ Sorbone Đại học số một của Pháp.
Việc chọn người tham gia chính phủ thời kỳ 1945-46 có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng tôi tin chắc rằng thời ấy việc cử Bộ trưởng Bộ giáo dục buộc phải tuân theo nhiều chuẩn mực nghiêm khắc, chứ không phải à uôm hoặc phe cánh chạy chọt, như hiện nay
.
Vả chăng vấn đề không phải chỉ riêng ông bộ trưởng, mà là mọi cấp quan chức của giáo dục.

Một trong những chuyện vui vui  xảy ra với nền giáo dục hôm nay là chỉ thị của Bộ gíáo dục khoảng cuối 2013 cho các tỉnh, khuyên cơ quan chính quyền tỉnh nên cẩn thận và ráo riết trong việc kiểm soát các tin tức tiêu cực từ các cuộc thi.
Nó là bằng chứng cho thấy giáo dục đã nát như thế nào và người ta cố tình che giấu như thế nào.
Nhưng nó cũng tố cáo sự phụ thuộc hoàn toàn của nhà trường vào nhà cầm quyền. Giáo dục trở thành việc nhà của địa phương rồi, người ta cho biết cái gì thì dân được biết cái đó.

Một kỷ niệm nữa có liên quan tới việc giáo dục phụ thuộc chính trị một cách thô thiển. Những năm 55 – 58,  tôi học cấp II Chu Văn An. Trường ở ngay cạnh Chủ tịch phủ. Hễ có các vị quan khách nước ngoài tới thăm, xe đưa từ sân bay Gia Lâm về Ba Đình, là bọn tôi được lệnh bỏ học, ra đứng đường để hoan nghênh các vị khách quý.
Ở các địa phương việc huy động thầy trò vào các công việc gọi là công ích, là công tác chính trị của địa phương, càng phổ biến.
Người ta tự coi mình đương nhiên có quyền can thiệp vào mọi việc của nhà trường. Còn những việc như thế, làm hại đến chất lượng giáo dục ra sao, thì không ai cần biết.

Những nguyên tắc căn bản của giáo dục
Mấy năm gần đây hoạt động của GDMN được nhắc nhở nhiều trên báo chí, nhất là trên mạng.
Nhờ thế, bọn tôi có thêm dịp để nghĩ lại về nền giáo dục mà đến nay ít được biết tới.

Trong một bài mang tên Nền giáo dục ở miền Nam 1954-75, một nhà giáo dục đồng thời trước đây là một quan chức trong nghề (như trên đã nói, quan chức giáo dục ở miền Nam khác hẳn quan chức miền Bắc), ông  Nguyễn Thanh Liêm, đã nhắc lại những nguyên tắc căn bản của nền giáo mới là nhân bản khai phóng dân tộc những nguyên tắc này đã ghi trong Hiến pháp VNCH 1967.

Đối chiếu với giáo dục miền Bắc, sơ bộ tôi thấy đại khái thấy hai nguyên tắc đầu cũng thường được Hà Nội nhắc tới, nhưng được giải thích khác đi, và nguyên tắc thứ ba thì hoàn toàn người làm GDMB không  có một ý niệm gì hết.

Về tính dân tộc
 Ta hãy đọc lại cách giải thích của các nhà giáo miền Nam. Ở đây, bảo đảm tính dân tộc, phát triển tinh thần quốc gia của học sinh  có nghĩa

giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.
http://hocthenao.vn/2013/10/16/nen-giao-duc-o-mien-nam-1954-1975-trich-nguyen-thanh-liem/

 Các nhà giáo miền Bắc, trên đại thể, cũng nói thế. Nhưng điểm nhấn thì khác. Trong cách giải thích của người làm giáo dục Hà Nội, tính dân tộc trước tiên là việc dân mình tự làm lấy giáo dục của mình. Chúng tôi thường tự hào đây là một nền giáo dục riêng của người Việt, một nền giáo dục không có dây dưa gì  nhiều với nền giáo dục  mà thế kỷ trước, người Pháp đã mang lại. Chúng tôi làm lấy và đôi khi cố ý làm ngược với những bài bản thời thuộc địa.
 Đây là cách hiểu về tính dân tộc mà giới văn hóa tư tưởng đề xuất và được coi là tư tưởng chỉ đạo. Thì cũng là cách hiểu trong giáo dục.
 Một khía cạnh khác trong cách hiểu về tính dân tộc của miền Bắc. Không phải là những người làm giáo dục không biết chỗ yếu kém vốn có. Để tự trấn an, người ta biện hộ rằng trong cái vẻ luộm thuộm nhếch nhác, hình như GDMB đang trở lại với nền giáo dục của ông cha ta ngày xưa thời trung đại, chỉ cốt phát huy tinh thần hiếu học của con người. 
Dân tộc trong trường hợp này, dân tộc đồng nghĩa với “ta về ta tắm ao ta”, từ chối những đổi mới hiện đại.
 Cũng chính là những lý do được viện dẫn khi, trong đời sống văn hóa, người ta kéo nhau trở lại với  các phong tục cổ hủ và khuếch trương mê tín đến một mức độ người xưa không thể tưởng tượng.
Trong khi đó, như vừa dẫn ở trên, tính dân tộc được các nhà GDMN hiểu là phải hướng về một thứ dân tộc hiện đại.

Về tính nhân bản
 Trên giấy tờ văn bản, chẳng bao giờ giới văn hóa giáo dục miền Bắc phủ nhận tính nhân bản, tuy là trong thực tế người ta rất ngại nói tới.
 Phần thì xã hội ở đây đã xem đấu tranh giai cấp là động lực phát triển; phần nữa thì đang trong thời chiến tranh, không thể nói nhiều đến tình người, nó xâm hại ý chí chiến đấu.
Khi cần phải nói chuyện với thế giới, các nhà tư tưởng miền Bắc cũng công nhận nhân đạo chủ nghĩa là lý tưởng tốt đẹp và giáo dục phải có nhiệm vụ hướng tới.
 Nhưng trong thực tế, cách lý giải nghĩa về chủ nghĩa nhân đạo thường giản đơn và cổ lỗ. Lại thường giải nghĩa rất mới: “chủ nghĩa nhân đạo cao nhất là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu chống lại mọi áp bức bất công”.
 Trong bài Đế quốc Mỹ phải là kẻ thù riêng của mỗi trái tim ta của Chế Lan Viên, người ta còn thấy những câu thơ mà có lẽ con người ở các xã hội khác không sao hiểu nổi:
--Miền Nam ta ơi
Cái hầm chông là điều nhân đạo nhất
– Ngọn súng trường ta ơi ngọn súng rất nhân tình
Giới giáo dục miền Bắc cũng  theo sự chỉ đạo đó.
Cách giải thích về nhân bản của các nhà giáo miền Nam ngược hẳn. Theo tôi hiểu , nó gần với cách hiểu của phạm trù này ở các xã hội hiện đại.
  Hãy thử đọc một số sách thuộc tủ sách giáo dục của nhà xuất bản cũng tên là Trẻ, in ra ở Sài Gòn khoảng mấy năm sau 1970.
 Lúc này, một nhóm các nhà giáo dục, có lẽ mới đi học Anh Mỹ về, lập nhóm và đã công bố nhiều tài liệu mới viết có, vừa được dịch có.
 Khi bàn về  mục đích giáo dục, Nguyễn Hòa Lạc viết:

Mục đích tối thượng  của giáo dục là làm thế nào giúp con người đạt được nhân cách, các bản ngã đích thực của mình, hầu có thể  sống trọn kiếp nhân  sinh […] nghĩa là giúp họ thể hiện  được con người của mình  trong ý nghĩa “con người là một hiện hữu tại thế, một hữu thể có  lý trí và tự do, vừa suy tư vừa hành động”.
Lê Thanh Hoàng Dân- Trần Hữu Đức..Các vấn đề giáo dục nxb Trẻ,1970 tr 209

  Cách hiểu như thế này cố nhiên không bao giờ được đề lên như mục đích của GDMB. Với các nhà giáo Hà Nội, nhất là vào thời kỳ sau khi Hà Nội được tiếp quản từ tay người Pháp (10-1954),  không làm gì có những con người chung chung. Mỗi con người đều thuộc về một giai cấp do đó họ phải sự chỉ đạo của các đảng phái đại diện giai cấp của họ. Cách hiểu của GDMN:

chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
http://hocthenao.vn/2013/10/16/nen-giao-duc-o-mien-nam-1954-1975-trich-nguyen-thanh-liem/

 dù có được coi là đúng đi nữa, cũng không bao giờ được ứng dụng. Mà trong thực tế, lại làm ngược.
  Trước sau, với nền GDMB, chấp nhận nhân bản theo nghĩa hiện đại, và đặt vấn đề  tôn trọng cá tính của mỗi cá nhân, bao giờ cũng là một chuyện quá phiền phức, giá có công nhận là đúng nữa thì hoàn cảnh hiện thời không cho phép người ta tuân thủ. 
Vào khoảng những năm 1960, có cả một cuộc vận động chống chủ nghĩa cá nhân.
Thế thì làm  sao có thể tính chuyện nghiên cứu về con người cá nhân, và giúp lớp trẻ thực hiện bản thể cá nhân vốn có trong họ được! 
Cái luận điểm từng được thống nhất nêu ra trong các văn bản miền Nam

Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác.
 Giáo dục Việt Nam cộng hòa http://vi.wikipedia.org/wiki/

phải được coi là xa lạ và nếu có ai nghĩ vậy thì cần phê phán.

Chúng tôi không dẫn lại đây các văn kiện có tính chỉ đạo đối với GDMB trong đó việc đào tạo con người thành những công cụ đắc lực cho cuộc chiến đấu trước mắt được nhấn mạnh.  Chỉ xin lưu ý một điểm, đó không phải là phát minh của các nhà chỉ đạo GDMB nói chung mà  còn là nguyên lý chỉ đạo giáo dục ở một nước mà miền Bắc lấy làm mẫu như giáo dục Nga xô viết. 
Trong cuốn Các vấn đề giáo dục thuộc tủ sách giáo dục nxb Trẻ đã nói, có một  phần lớn điểm sơ lược về giáo dục nước ngoài, cả phương Đông lẫn phương Tây, chắc là do kê cứu các sách nghiên cứu của Anh Mỹ và Pháp  mà viết lại. Phần viết về giáo dục Nga kết lại như sau:

--Xét chung thì nền giáo dục ở Nga  rất thực tiễn và khoa học, nhưng nó chỉ là thứ giáo dục một chiều, nhăm biến con người thành một công cụ sản xuất [và ở VN là chiến đấu - VTN] tới mức tối đa. Một khi con người đã trở thành công cụ của guồng máy cộng sản thì mất hết nhân tính. Do đó chúng ta có thể kết luận rằng giáo dục xô viết tuy thực tiễn và hữu hiệu nhưng lại phi nhân tính. (Sđd tr. 228)

Có thể mượn để nói về GDMB.

Về tính khai phóng
Trong mấy chữ gọi là nguyên tắc căn bản trong các tài liệu GDMN, đối với bọn Hà Nội chúng tôi,  chữ khai phóng là hơi lạ.
Mở Hán Việt tân từ điển  của Nguyễn Quốc Hùng ( Khai trí  S.1975),  thấy ghi  khai phóng tức mở mang và buông thả, ý nói làm cho tốt đẹp hơn; không kìm giữ,  mà trái lại, muốn giúp đỡ cho tiến xa hơn.
Thoạt đầu tôi thấy là trong một mức độ nào đó,  khai phóng có vẻ gần với khái niệm hiện đại tiên tiến của miền Bắc, mấy chữ này thường dùng cả trong kinh tế lẫn giáo dục.
Về sau đặt khai phóng vào cái nền chung của các nguyên tắc căn bản của GDMN, tôi mới hiểu khai phóng gần với  khái niệm cơ bản của nhân học hiện đại là tự do – và do đó quá mới mẻ với chúng tôi.
Trong cuốn Chân dung  những nhà cải cách giáo dục tiêu biểu trên thế giới, do tổ chức Unesco bảo trợ biên soạn và chi phí xuất bản (bản dịch tiếng Việt của nxb Thế giới, H. 2004), phần viết về Thái Nguyên Bồi (1868-1940),  có đoạn dẫn lại mấy ý của vị Hiệu trưởng sáng lập Đại học Bắc Kinh có liên quan tới  phương hướng phát triển  giáo dục của nước Trung Hoa thế kỷ XX.

  Chúng ta phải được tự do tư tưởng và tự do ngôn luận và không để cho một trường phái triết học hay bất kỳ một loại hình tôn giáo nào giam hãm tư tưởng chúng ta. Trái lại chúng ta phải hướng tới  những tư tưởng cao cả mang tính nhân loại, những tư tưởng sẽ tồn tại mãi, bất kể không gian và thời gian. Đó là nền giáo dục xứng đáng với tên gọi nền giáo dục toàn cầu.(sđ d tr138 )

 Giáo dục  giúp cho thế hệ trẻ có cơ hội phát triển trí lực và hoàn thiện tính cách cá nhân, đóng góp cho nền văn minh nhân loại.  Bởi vậy giáo dục không hể  trở thành công cụ đặc biệt  giúp cho những kẻ muốn thao túng xã hội theo đuổi những mục đích xấu xa. Việc dạy dỗ tại nhà trường  phải hoàn tòan trao cho các nhà giáo độc lập không bị ảnh hưởng bởi bất cứ đảng phái chính trị hay tôn giáo nào (sđ d tr 143).  
                            
Tinh thần khai phóng như vậy đã trở thành một khía cạnh chủ yếu của quan niệm nhân bản như trên đã nói.
 Tinh thần khai phóng này cũng chi phối  cách các nhà GDMN hiểu khác đi về tính dân tộc, so với nội dung được GDMB  chấp nhận. 
Các nhà GDMN từng hào hứng nói về xu thế hội nhập đến rất sớm của mình. Cách nói của Nguyễn Thanh Liêm:

Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.
http://hocthenao.vn/2013/10/16/nen-giao-duc-o-mien-nam-1954-1975-trich-nguyen-thanh-liem/

 là theo tinh thần khai phóng vừa nói.
  Với GDMB, nói dân tộc là để từ chối khai phóng. Còn với GDMN, chính là cần khai phóng thì mới giải quyết vấn đề dân tộc một cách triệt để.
Nhìn theo cách nào thì khai phóng mà các nhà giáo dục ở Sài Gòn đã nóicũng bao hàm một ý nghĩa mà GDMB không thể chấp nhận được. Thậm chí phải nói là GDMB đã làm ngược lại.

  Hẳn là không xa sự thật lắm nếu kết luận trong khi giáo dục thế giới và GDMN là khai phóng thì GDMB là khép kín. Trong khi GDMB chỉ hướng tới các mục đích trước mắt – một tinh thần thiển cận sát mặt đất--, thì tinh thần khai phóng mà GDMN muốn xây dựng bao giờ cũng giúp cho người ta hướng tới tương lai.
Trong cuốn Các vấn đề giáo dục đã nói, ở tr  204 tập I, tôi còn thấy các tác giả dẫn lại một câu của Kant:

 Mục đích của giáo dục là huấn luyện trẻ  không phải chỉ nhằm vào sự thành công của chúng trong tình trạng xã hội hiện tại  mà nhằm một tình trạng có thể  tốt đẹp hơn, hợp với một quan niệm lý tưởng của nhân loại (sđ d tr 204).

GD MN nhằm vào những mục đích như thế mà GDMB thì không.

                                                               ĐOẠN KẾT

Giống như xã hội nơi đây, sự phát triển giáo dục ở miền Bắc đi theo một cái mạch phải nói là không bình thường.
Nếu GDMN tiếp nối cái mạch giáo dục của nhiều nước trên thế giới và trực tiếp là nền giáo dục VN trước 1945 thì GDMB, xét theo cả chặng đường dài năm sáu chục năm, trong khi cố tìm cốt cách riêng của mình, hóa ra lại chẳng tuân theo quy luật  nào cả.
 Nếu GDMN được triển khai theo một đường hướng khoa học của thế giới hiện đại thì GDMB lại có những khía cạnh như trở lại thời tiền hiện đại.

 Cần nói thêm là trong khi phải làm giáo dục một cách mò mẫm, những người làm giáo dục ở miền Bắc trước 1975 đã luôn luôn tự nhủ rằng chúng ta đang làm một cuộc cách mạng trong giáo dục và giáo dục ta đang là một nền giáo dục tiên tiến.
 Đó là một ý nguyện chính đáng.
Trong chiến tranh, Hà Nội hoàn toàn khép kín. Muốn thì cũng muốn lắm, nhưng trong hoàn cảnh đóng cửa cách ly với thế giới, làm gì có chuyện hội nhập theo đúng nghĩa của nó.
Cuộc sống trì trệ kéo dài. 
Đối chiếu với những điều bọn tôi được dạy bảo từ nhà trường phổ thông và sau này từng coi là phương hướng suy nghĩ, với các tài liệu mới đọc được, càng thấy trong khi khác biệt với GDMN, thì GDMB cũng khác nhiều so với thế giới. Đủ hiểu tại sao sau khi đào tạo trong nước, ra tiếp xúc với xã hội hiện đại, cánh học sinh sinh viên miền Bắc bọn tôi thường ú ớ, lạc lõng, trong khi những người được GDMN đào tạo thì hội nhập rất tự nhiên và hiệu quả.


Mươi năm gần đây, tình hình có chút đổi khác, nhưng là chỉ đổi khác trên bề mặt. Cựa quậy mấy  thì nền giáo dục này cũng không khác được so với chính mình. Nó đã cạn kiệt năng lực tự cải hóa. Ngay cả những người trong bộ máy quyền lực cũng đều tính chuyện cho con em mình qua nhiểu nước phương Tây, nhất là sang Mỹ để học. Nhưng họ chỉ lo được cho gia đình riêng của họ thôi. Ở trong nước, những bài bản của miền Bắc cũ được tân trang lại chút ít vẫn ngự trị trong toàn bộ nền giáo dục, và trong thâm tâm, nhiều người đã bắt đầu nghĩ rằng hình như có một bãi lầy đã được tạo ra và chúng ta không bao giờ ra thoát.


Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2015

Y tế phương Tây: Mô hình Đức, 40 năm chuyển hoá và đổi mới

 Phạm Duy Thoại Berlin, Đức
 Tóm tắt
Sư phát triển của Y tế phương Tây từ trên hai thế kỷ qua là do biết vận dụng khoa học tự nhiên. Nhờ tính hiệu quả, Tây y đã thuyết phục, đạt được tin tưởng trong chẩn đoán cũng như trong chữa trị và đóng vai trò chủ yếu của mọi hệ thống y tế quốc gia. Các hệ thống y tế phương Tây hoạt động trên ba nguyên tắc: Trong khi y tế Mỹ chủ yếu qua các bảo hiểm y tế tư, ở Anh lại do nhà nước trực tiếp điều hành. Tại Đức hệ thống y tế hoạt động độc lập với nhà nước và quỹ y tế xã hội nắm vai trò quyết định ngân sách. Trong những thập kỷ qua sự khác biệt về nguyên tắc trên càng lúc càng có nhiều chỗ tiếp cận nhau. Kể từ thời điểm khủng hoảng xăng dầu vào những năm 70 và nhất là sau khi thống nhất đất nước năm 1989, nước Đức đã có hàng loạt chương trình cũng như luật lệ cải tổ và chuyển hoá hai hệ thống y tế Đông-Tây vốn khác nhau về cơ bản. Mô hình y tế Đức hiện nay có một số đặc điểm được coi là mẫu mực như mức độ bảo hiểm cao, quyền tự do chọn lựa bác sĩ, bệnh viện và sự bình đẳng trong việc khám, chữa bệnh. Mặt khác trong mô hình này cũng có một số nhược điểm mà thử thách chính là chưa kiểm soát được hiệu quả chi phí y tế ngày càng cao. Trong chiến lược y tế, y tế dự phòng và y tế cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khoẻ người dân, qua đó giảm được chi phí y tế và hổ trợ cho nền kinh tế quốc dân.

 Y tế phương Tây, thành quả và tiêu chí
 Tây y từ hơn hai thế kỷ qua phát triển nhờ xây dựng trên nền tảng khoa học tự nhiên. Đặc tính của nó là chẩn đoán và chữa trị có chứng cớ nên đã chinh phục lòng tin của con người. Những thành tựu phổ biến đã thay đổi cục diện của đời sống mà ai cũng biết đến như: Chủng đậu từ cuối thế kỷ thứ 18, qua đó mà những trận dịch hàng năm đã từng giết hại thời đại mới TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU & THẢO LUẬN Số 33 tháng 7, 2015 Phạm Duy Thoại | Y tế phương Tây –Mô hình Đức 109 Thời Đại Mới | Tháng 7, 2015 nhiều trăm ngàn người đã được ngăn chận một cách hiệu quả. 1 Thí dụ khác là việc phát hiện vi trùng và sự thành hình của vi trùng học với Robert Koch và Loius Pasteur vào những năm cuối thế kỷ 19. Đến giữa thế kỷ 20 Fleming tìm ra trụ sinh, mở ra một giai đoạn mới trong việc chữa trị. Tây y tiếp tục lấn sâu vào sự sống con người với sự thuốc ngừa thai (1965), thụ tinh trong ống nghiệm (1978) và kịp vào đầu thế kỷ 21 với những công trình giải mã Genom. Xử dụng Tây y để xây dựng một hệ thống y tế trở thành một nhiệm vụ nòng cốt của mỗi quốc gia. Một hệ thống y tế hiệu quả cũng góp phần an dân, ổn định xã hội. Tuỳ khả năng của mỗi nước có khác, nhưng tiêu chí của y tế là những mục đích phổ quát mà căn cứ vào đó ta có thể đánh giá được một hệ thống y tế. Những tiêu chí chủ yếu là: 1. Sự bình đẳng trong việc chẩn đoán và chữa trị, không phân biệt vị địa vị, quyền hạn, giới tính, tôn giáo, chủng tộc v.v… 2. Người bệnh được tiếp cận với những phương pháp khám chữa hiệu quả. 3. Người bệnh không phải lo về chi phí y tế. Tiêu chí số 1 gắn liền với hệ thống chính trị. Trong các hệ thống mà quyền bình đẳng trong đời sống xã hội không được tôn trọng và bảo đảm thì cũng khó có sự bình đẳng trong y tế. Sức khỏe là vốn quí nhất của con người nên người bệnh trông đợi được chẩn đoán và chữa trị bằng những phương pháp hiệu quả nhất, hiện đại nhất. Nhưng tiêu chí thứ 2 cũng là điểm có nhiều tranh cãi. Trong các hệ thống y tế thường có một cơ quan độc lập và có thẩm quyền, hiểu biết về chuyên môn để có thể đề xuất ra những hướng dẫn hợp lý. Điểm 3 xem ra là yêu cầu then chốt. Giải quyết ngân sách cho y tế ở những nước nghèo vốn là một vấn đề nan giải. Ở các nước có màng lưới y tế hay đội ngũ chuyên môn tốt mà ngân sách thiếu thốn thì khả năng cũng bị giới hạn, có khi bị tê liệt không hoạt động được. Ngay ở các nước công nghiệp cao đây cũng là vấn đề kinh niên, đòi hỏi những đổi mới liên tục. Ngân sách của y tế phương Tây theo 3 mô hình khác nhau về nguyên tắc (Hình 1). Trong khi tại Anh quốc -và một số nước Bắc Âu- bảo hiểm y tế là nhiệm vụ của nhà nước, được chi phối bởi Sở y tế quốc gia (National 1 1796 chủng đậu được BS người Anh Edward Jenner thử nghiệm, công bố và được áp dụng rộng rãi ở Anh. Sang thế kỷ 18 luật bắt buộc chủng đậu được áp dụng trong nhiều quốc gia cho đến những năm 60 của thế kỷ 20. Cách nay 40 năm, em bé Rahima Banu người Bangladesh được ghi nhận là ca cuối cùng bị bệnh đậu mùa. 1980 WHO, qua chương trình xóa bỏ bệnh đậu mùa thế giới (Global Smallpox Eradication Program), chính thức tuyên bố bệnh đậu mùa đã được dứt điểm. Phạm Duy Thoại | Y tế phương Tây –Mô hình Đức 110 Thời Đại Mới | Tháng 7, 2015 Health Service) là một bộ phận trực thuộc Bộ y tế. Ở Mỹ bảo hiểm y tế thuộc về tư nhân. Các cơ quan y tế nhà nước chỉ phải lo cho những người trên 64 tuổi (Medicare). Những trường hợp nghèo túng hay tàn tật thì sở xã hội có biện pháp trợ cấp (Medicaid). 15% tức là khoảng 45 triệu người dân Mỹ không có bảo hiểm y tế. Obamacare (Patient Protection and Affordable Care Act, PPACA) là một chính sách lớn của TT Obama nhắm vào đối tượng này. Hình 1: Các mô hình về ngân sách của y tế phương Tây Mô hình y tế Đức Đức và một số nước Trung Âu như Pháp, Áo, Benelux chi phí cho y tế thông qua quỹ bảo hiểm y tế độc lập. Đặc biệt ở Đức, quỹ y tế xã hội đã được thủ tướng Bismarck thành lập từ 1883 như một thủ pháp chính trị để nhằm xoa dịu lực lượng thợ thuyền cũng như chống đỡ lại chủ nghĩa xã hội đang tranh giành ảnh hưởng trong giới này. Mọi người lao động đều bắt buộc phải đóng góp vào quỹ nhằm bảo hiểm bệnh tật và những rủi ro lao động khác. Quỹ được quản lý và hoạt động độc lập với nhà nước. Vào thời điểm này, mô hình Bismarck có một không hai trên thế giới! Thời gian sau thế chiến thứ II, hệ thống bảo hiểm y tế xã hội tuy vẫn duy trì nguyên tắc Bismarck. Nhưng vì kinh tế chưa phục hồi, hệ thống y tế đã được cải tổ về hành chánh để thoả ứng yêu cầu là nghĩa vụ đóng góp vào quỹ không bóp nghẹt khả năng cạnh tranh của kỹ nghệ. Trong số 15% khấu trừ từ lương của người lao động, cơ sở kỹ nghệ phải góp một Phạm Duy Thoại | Y tế phương Tây –Mô hình Đức 111 Thời Đại Mới | Tháng 7, 2015 nửa. Tăng tiền đóng bảo hiểm dẫn đến tăng giá thành sản phẩm, khả năng cạnh tranh sẽ bị tác động tiêu cực. Trong hoàn cảnh thị trường cạnh tranh mô hình Bismarck phải đối đầu với mâu thuẫn là: Một mặt nhà nước muốn an dân, muốn thực hiện lý tưởng cao đẹp lo cho dân, như được ghi trong hiến pháp ("Y tế thuộc về trách nhiệm nhà nước và sức khỏe người dân là tài sản của xã hội"). Hoạt động của bộ máy y tế lại độc lập, không “thuộc quyền”của guồng máy nhà nước. Cuối cùng theo luật định, nhà nước lại phải chịu gánh lấy trách nhiệm cuối cùng! Mâu thuẫn thứ hai chính là nguyên tắc “đoàn kết, đóng góp”. Vì theo cùng phần trăm đóng góp, nên lương nhiều sẽ phải nhiều đóng nhiều, lương ít thì đóng ít, không lương không đóng (trường hợp này quỹ trợ cấp xã hội sẽ đóng thay). Mức độ được bảo hiểm lại giống nhau. Qua đó có sự trải đều già-trẻ, khỏe-ốm, giàu-nghèo. Sự đóng góp như vậy có hàm chứa tính “bất bình đẳng”. Trong hình 2 ta không thấy những người không lao động vì thất nghiệp, những người làm nghề tự do, những bà nội trợ, trẻ em và người già. Đó là những người không có lương nên không thể đóng phần "đoàn kết" của mình vào quỹ bảo hiểm y tế. Họ sẽ có một số biệt lệ dưới nhiều hình thức khác nhau để đều có thể hưởng bảo hiểm. Từ năm 2007 luật pháp bắt buộc mọi người đều phải có bảo hiểm. Năm 2011, theo Sở thống kê liên bang, mạng lưới bảo hiểm phủ kín 99,8% dân sống trên nước Đức. Hình 2: Mô hình Tây Đức: Quỹ bảo hiểm y tế Trong khi tại Tây Đức, nương theo phát triển kinh tế và sự hổ trợ đặc biệt từ Mỹ, cùng với một thế hệ những bác sĩ được tu nghiệp trở về, lực lượng bác sĩ Đức đã nhanh chóng bắc lại nhịp cầu với các nước Tây Âu và Mỹ, thúc đẩy y khoa kịp theo đà tiến thế giới. Nhiều trung tâm giáo dục y khoa hiện đại cũng được xây dựng, tiêu biểu là bệnh viện Klinikum Steglitz thuộc Đại học Tự do (Tây) Berlin được khánh thành Phạm Duy Thoại | Y tế phương Tây –Mô hình Đức 112 Thời Đại Mới | Tháng 7, 2015 năm 1969 sau 10 năm chuẩn bị, 4 năm xây dựng với tổn phí là 304 triệu DM, trong đó có 58 triệu do quỹ Benjamin-Franklin (Mỹ) tài trợ. Công trình này có ý nghĩa tượng trưng cho quan hệ Đức-Mỹ. Cũng vì thế Đại sứ Mỹ tại Đức Henry Cabot Lodge, 2 đã tham dự buổi lễ khánh thành tại Tây Berlin, tuyên bố khẳng định Mỹ bảo đảm An ninh và Tự do cho Tây Berlin. Hình 3: Klinikum Steglitz (Free University Berlin) tại Tây Berlin, là trung tâm giáo dục y khoa hiện đại nhất châu Âu trong thời điểm này. Xây dựng với sự trợ giúp của Mỹ và tọa lạc ở Tây Berlin nằm giữa Đông Đức, nó cũng là biểu tượng cho quan hệ chặt chẽ giữa Đức và Mỹ sau chiến tranh ( Nguồn: Berliner Woche). Trong 40 năm vừa qua, hai sự kiện quan trọng là đợt khủng hoảng xăng dầu vào những năm 70 và việc thống nhất nước Đức năm 1989. Tại Tây Đức khủng hoảng xăng dầu dẫn đến tăng thất nghiệp và tác dụng trực tiếp đến quỹ y tế. Các biện pháp cấm xe hơi vào cuối tuần để tiết kiệm 2 Henry Cabot Lodge (1902-1985): Trước nhiệm kỳ tại CHLB Đức Lodge đã từng được Tổng thống Kennedy cử làm Đại sứ Mỹ tại Nam Việt Nam nhằm "uốn nắn" Tổng thống Ngô Đình Diệm, khi phong trào đấu tranh Phật giáo lên cao độ. Lodge được xem là đã cùng CIA nhúng tay vào việc đảo chính và giết Tổng thống Diệm. Phạm Duy Thoại | Y tế phương Tây –Mô hình Đức 113 Thời Đại Mới | Tháng 7, 2015 nhiên liệu không mang lại kết quả kinh tế đáng kể. Trong tình hình đó, khái niệm “giảm chi phí”(Kostendämpfung) cho y tế trở thành một yêu cầu chính trị. Từ 1975-1989 chi phí cho y tế khoảng 6-7% GDP và thường được giữ trong giới hạn này. Chính quyền và các cơ cấu liên hệ đưa ra những biện pháp tiết giảm chi phí chủ yếu qua việc đổi mới cơ cấu truyền thống cũng như giản lược hành chánh. Song song vào đó, từng bước các biện pháp cạnh tranh trong y tế được đưa vào thử nghiệm. Tình hình tại Đông Đức sau chiến tranh từ 1951-1989 có những thành công đáng kể với mức tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm là 4.5%. Nhưng tiềm lực kinh tế của Đông Đức với khoảng 16 triệu dân và GDP cao nhất là 353 tỷ DDR Mark (nếu theo sức mua 1988, 1DM = 4.4 DDR Mark, tính ra là 45 tỷ €) vẫn còn khiêm nhường bên cạnh Tây Đức. 60% bệnh viện phía Đông được xây dựng vào đầu thế kỷ XX và Đông Đức cũng không thoát khỏi nạn chung của các nước XHCN là tình trạng thiếu thiết bị và thuốc cao cấp. Trong giai đoạn từ 1977-1989 có 316.000 dân Đông Đức xin xuất cảnh. 3 Chỉ riêng năm1987, trong số 112.000 người xin xuất cảnh, số lớn có tay nghề cũng như nhiều chuyên viên trong ngành y tế: 4  52.000 Thợ chuyên môn  11.500 Trình độ đại học  1142 Bác sĩ  2675 Chuyên viên y tế, điều dưỡng  670 Giáo viên Trong hệ thống y tế nhà nước XHCN của Đông Đức có một số mặt tích cực nên được ghi nhận như là danh sách tập trung các bệnh ung thư, các công tác tiêm phòng hay các chương trình dự phòng cho thiếu nhi, các bà mẹ v.v… Các trạm y tế cơ sở với các BS chuyên môn (Polikliniken) là một mô hình mà sau khi thống nhất cũng được ứng dụng trên khắp nước Đức (Medizinische Versogungszentren, MVZ), dĩ nhiên với nguyên tắc chi phí khác. 3 Henke, Klaus Dietmar et al. (Hrsg.): Anatomie der Staatssicherheit. Geschichte, Struktur und Methoden. MfS-Handbuch. Teil 3: Wichtige Diensteinheiten. Teil: 17: Die zentrale Koordinierungsgruppe Bekämpfung von Flucht und Übersiedlung, Berlin 1995, S. 50 4 Wolfgang Mayer “Flucht und Ausreise”, Anita-Tykve-Verlag 2002, S. 113 Phạm Duy Thoại | Y tế phương Tây –Mô hình Đức 114 Thời Đại Mới | Tháng 7, 2015 Hình 4: Một số đặc điểm trong thời gian đổi mới và chuyển hóa hệ thống y tế Đức Sau khi nước Đức thống nhất, việc chuyển đổi hệ thống y tế tại các bang phía Đông được khẩn trương tiến hành. Mạng lưới phòng mạch được thành lập. Thay đổi cơ cấu trong các bệnh viện song song với yêu cầu xây dựng và nâng cấp trang thiết bị y khoa một cách lớp lang. Từ năm 1991 cho đến năm 2019 theo luật „phụ thu đoàn kết“ (Solidaritätszuschlag) một khoản tiền 3,75-7,5% tiền lương (tùy theo năm) được thu để hổ trợ các bang phía Đông. Đến nay số tiền chuyển từ Tây sang Đông khoảng 1.500 tỷ €. 5 Chi phí cho y tế của CHLB Đức năm 2012 khoảng 300 tỷ €. 6 G-DRG (German-Diagnosis Related Groups) Giai đoạn sau thống nhất cũng là giai đoạn đổi mới sâu rộng nhất, khi hệ thống tính điểm chi trả cho các dịch vụ y tế theo cùng một giá được áp dụng cho khắp nước Đức. Trong mạng lưới y tế, bệnh viện đóng vai trò then chốt. Chi phí cho bệnh viện chiếm khoảng 30% toàn bộ chi phí cho y tế. DRG là khái niệm chỉ một „gói bệnh“với những vấn đề khác liên hệ với căn bệnh chính. Năm 1983 người Mỹ xử dụng DRG để đánh giá chất lượng chữa trị nội bộ trong các nhà thương hoặc để phân phối ngân sách.Tại Đức, sau nhiều năm chuẩn bị và thử nghiệm tình nguyện, từ năm 2004 G-DRG được chính thức áp dụng một cách bắt buộc cho toàn nước Đức. Và trong thời điểm này nước Đức là nước duy nhất trên thế giới dùng DRG để chi trả phí tổn y tế cho nhà thương. Nguyên tắc cơ bản của việc áp dụng DRG là: Cùng công việc thì được trả cùng một một số tiền. 5 Deutsches Institut für Wirtschaftsforschung, FAZ 01.07.15 6 GDP của CHLB Đức năm 2014 là 2.903 tỷ € Phạm Duy Thoại | Y tế phương Tây –Mô hình Đức 115 Thời Đại Mới | Tháng 7, 2015 Hàng năm các thông tin và đề nghị liên quan đến quá trình áp dụng DRG được tập trung, phân tích và sửa đổi hay bổ xung nhằm cập nhật .  Năm 2015 có tất cả 664 “Gói bệnh”  Ấn định các nhóm bệnh bằng “Trị giá ca bệnh” (Case Mix Index, CMI) căn cứ vào ngân sách và trị giá ca bệnh với CMI=1.0 bằng bao nhiêu tiền. Năm 2015 “Gói bệnh”nào có CMI bằng 1.0 sẽ được chi trả số tiền là 3.190 € Các “Gói bệnh”được mã hóa thí dụ: Ruột thừa. Các khám nghiệm và chi phí liên hệ sẽ được mã hóa là G23. Và G23 có CMI là 0,74. Với biểu giá năm 2015, phí tổn chữa trị giải phẫu ruột thừa sẽ được trả trọn gói là 2.360 € (0,74x3.190€). Tương tự như thế cho bệnh nhân bị đột quỵ là 3.068 € (CMI=0,962x3.190€). Hay trường hợp đau tim nặng phải phẫu thuật ghép tim, với CMI=34,594, nhà thương sẽ được chi trả 110.454 €. Trong thời gian 10 năm qua DRG đã được „tối ưu hóa“. Hệ quả của nó đối với nhà thương là:  Rút ngắn thời gian nằm viện  Tăng số ca bệnh  20-30% thời gian làm việc của bác sĩ là để giải quyết các vấn đề hành chánh  Tạo ra cạnh tranh giữa các nhà thương Với việc chi trả theo gói bệnh, cơ sở y tế hay nhà thương nào không hoạt động hiệu quả kinh tế, chỗ ấy sẽ lỗ lã. Trong thời gian từ 2003-2012 theo báo cáo của cơ quan bảo hiểm y tế có 74 nhà thương với 5200 giường bệnh đã phải đóng cửa. 7 Kết quả của báo cáo năm 2015 công bố về 1000 bệnh viện với 600 hồ sơ chi thu cho thấy 33% những bệnh viện này làm ăn lỗ, 17% có nguy cơ phá sản. 8 Bộ phận thứ hai của mạng lưới y tế là lực lượng bác sĩ phòng mạch tư. Trong tổng số 365.200 bác sĩ hành nghề có 147900 bác sĩ làm việc tại các phòng mạch và 186.300 bác sĩ tại bệnh viện. 9 7 Osterloh, Falk Krankenhausreform: Welche Häuser müssen schließen? Dtsch Arztebl 2015; 112(24): A-1071 / B-895 / C-867 8 Krankenhaus-Rating-Reports 2015. Rheinisch-Westfälisches Institut für Wirtschaftsforschung (RWI), Institute for Health Care Business (hcb), Stiftung Münch und Philips Healthcare. http://www.medhochzweiverlag.de/fileadmin/medhochzwei/Pressemeldungen/FlyerKrankenhaus_Rating_Report_2015_A4-Format.pdf 9 Nguồn: Thống kê 2014 của Deutsche Bundesärztekammer Phạm Duy Thoại | Y tế phương Tây –Mô hình Đức 116 Thời Đại Mới | Tháng 7, 2015 Phí tổn chi trả cho các phòng mạch dựa vào hệ thống tính điểm EBM (Einheitlicher Bewertungsmaßstab) có giá trị từ năm 2009. Khám tổng quát được định là 202 điểm. Căn cứ vào ngân sách và tổng số điểm được ghi nhận mỗi năm, tổ chức thanh toán trung gian sẽ tính ra một định giá bằng tiền. Năm 2015 mỗi điểm được tính là 10 Cent. Với 202 điểm cho khám tổng quát, BS sẽ nhận được thù lao là 20,2 €. Ngoài ra mỗi phòng mạch còn có ngân sách giới hạn từng quý. Đây là một biện pháp nhằm tránh tăng số lượng bệnh nhân vì lý do kinh tế. Hậu quả là nếu không biết tổ chức, chưa hết kỳ hạn mà đã vượt ngân sách, phòng mạch phải đóng cửa cho hết quý. Tuy nhiên giới hạn này có thể thay đổi cho năm sau, nếu có lý do chính đáng. Các phòng mạch BS tư vì thế càng lúc chật vật với gánh nặng hành chánh. Như thế các BS trong bệnh viện hay tại các phòng mạch cũng như nhân viên điều dưỡng thuộc vào “bên thua cuộc”trong quá trình chuyển hoá và thay đổi từ bốn thập niên qua. Họ phải tốn thời giờ nhiều hơn cho công việc hành chánh, và vì thế ít thời giờ hơn cho bệnh nhân. Chi phí cho y tế trong năm 2011 là 293,8 tỷ Euro, là 11,3% của GDP. Nếu tính từ những năm sau thống nhất từ 1999 đến 2011 chi phí y tế tăng hàng năm, tổng cộng tăng 85%, tức là gấp đôi tăng trưởng GDP. Tính theo đầu người chi phí y tế của Đức đứng thứ 3 sau Mỹ và Na Uy. US $ công tư Hình 5: Chi phí cho y tế trên đầu người (2011), Nguồn: Tổ chức cộng tác và phát triển kinh tế châu Âu (OECD). Phạm Duy Thoại | Y tế phương Tây –Mô hình Đức 117 Thời Đại Mới | Tháng 7, 2015 Với mục đích giảm chi, các biện pháp giới hạn ngân sách nhắm vào nhiều mặt. Trong việc chi tiêu của bệnh viện, hơn 50% là tiền trả cho nhân viên nói chung (Hình 6). Nên để giảm chi, công việc đầu tiên cho những chuyên gia kinh tế thường làm là giảm số bác sĩ, y tá. Bác sĩ, điều dưỡng 51,1% Thuốc men, vật dụng y tế 26,9% Ăn ở 24% Hành chính 5,3% Dự phòng, chuyên chở v.v... 9,1% Hình 6: Chi phí cho y tế 2006. (Nguồn: Sở thống kê liên bang) Đặc biệt trong hai thập niên qua có thể mô tả tình hình nội bộ trong các bệnh viện như là những chiến trường không tiếng súng. Những "chiến dịch" thu gọn nhân sự, tối ưu tổ chức và hoạt động thường nhật, cải tổ bộ máy hành chính v.v… là những yêu cầu phải làm thường xuyên . Những chỉ số kinh tế được áp dụng vào bệnh viện và được kiểm soát chặt chẽ. Quan hệ bác sĩ/bệnh nhân vì thế không tránh khỏi bị sức ép kinh tế tác động. Thảo luận Trong nhiều nước, Y tế phương Tây với ba tiêu chí nêu trên- bình đẳng, hiệu quả và người bệnh không phải lo về phí tổn y tế- tuy có ít nhiều khác nhau, nhưng đã trở thành hiện thực trong cuộc sống hàng ngày. Trải qua những thay đổi trong vài chục năm vừa qua ta thấy những nguyên tắc phân chia giữa các hệ thống y tế không còn rõ rệt. Tiêu biểu cho y tế tư nhân ở Mỹ đã có những bổ xung y tế "công" như mạng lưới đỡ những người già và những người không có bảo hiểm. Y tế Anh với nguyên tắc Beveridge từ thời thế chiến thứ II, vốn kỳ vọng bảo hiểm cho mọi người: Người bệnh, bác sĩ hay bệnh viện không cần phải quan tâm đến phí tổn mà chỉ cần tập trung đến việc chữa bệnh. Với những biện pháp giảm chi, y tế công ở Anh quốc ngày nay chỉ còn để chi cho những yêu cầu cơ bản. Đến năm 2015 NHS phải tiết kiệm khoảng 20 tỷ Bảng Anh (khoảng 27 tỷ €). Người dân phải mua thêm những bảo hiểm tư phù hợp với yêu cầu riêng của mình. Mô hình Bismarck của Đức mà đặc điểm là có mức độ bảo hiểm gần như vô hạn, và lại cho phép người bệnh được tự do lựa chọn bác sĩ hay bệnh viện mà mình tin tưởng. Đó là những khía cạnh có thể được coi là mẫu mực cho các nước khác. Với tình trạng tuổi thọ càng ngày càng cao và tiến bộ y khoa còn nhiều đột phá mới tốn kém hơn, chi phí cho y tế có nguy cơ còn tăng tiếp tục. Các yếu tố đó đang là một thử thách nghiêm Phạm Duy Thoại | Y tế phương Tây –Mô hình Đức 118 Thời Đại Mới | Tháng 7, 2015 trọng làm hệ thống y tế trở nên bấp bênh. Bản thân mô hình Đức chứa đựng 3 nhược điểm là: 1. Không kìm hãm nổi chi phí ngày càng cao. 2. Hiệu quả và chất lượng y tế còn nhiều khác biệt khi so sánh với nhau. 3. Thiếu điều phối trong dây chuyền chữa trị. Qua 15 chính sách đổi mới từ hơn 30 năm nay các vấn đề then chốt này vẫn chưa được giải quyết. 10 Trong kế hoạch y tế quốc gia, bảo đảm sức khoẻ người dân còn bao gồm cả chính sách hổ trợ sức khoẻ và dự phòng bệnh tật. Công việc này bao trùm việc vận động cá nhân, các tổ chức xã hội về ý thức và hiểu biết những vấn đề liên quan đến sức khoẻ. Nguyên nhân gây ra những loại bệnh phổ biến đều có thể giảm thiểu, nếu cá nhân và xã hội có khả năng tác động tích cực hơn trong đời sống như ăn uống, cách tổ chức sinh hoạt và làm việc, thói quen vận động, thể dục và thể thao. Hơn 50% của toàn bộ chi phí cho y tế là do 4 nhóm bệnh: Tim mạch, đường ruột, tâm thần và chỉnh hình. 11 Các nước châu Âu bỏ ra trung bình 2.5% GDP cho công tác “Dự phòng và Y tế cộng đồng”. Đức bỏ ra 3.3%, tuy trên mức trung bình, nhưng kém xa các nước như Tân Tây Lan hay Gia Nã Đại khoảng 6%. 12 Trong năm nay (2015) Bộ y tế Đức đã đưa ra chiến lược y tế dự phòng cấp quốc gia. Quỹ xã hội sẽ chi thêm 500 triệu €/ hàng năm nhằm hổ trợ các cơ sở công cộng trong những biện pháp y tế dự phòng. 13 Y tế dự phòng vì thế là một chiến lược quan trọng không những để giảm chi y tế, mà còn tác động tích cực cho nền kinh tế quốc dân. © Thời Đại Mới 10 Chancen für das deutsche Gesundheitssystem, ISBN 978-3-642-25682-0 Springer Berlin (Redefining German Health Care, ISBN 978-3-642-10825-9 Springer, Berlin Heidelberg) 2012. Trong Porter M.E., Teisberg E.O.: Redefining Health Care. Harvard Business School Press 2006 11 Sở thống kê liên bang ( www.gbe-bund.de; Statistisches Bundesamt: Gesundheitsausgaben) 12 Báo cáo của Tổ chức cộng tác và phát triển kinh tế châu Âu (OECD)2007 13 Luật tăng cường hổ trợ sức khoẻ và y tế dự phòng (Das Gesetz zur Stärkung der Gesundheitsförderung und der Prävention, Präventionsgesetz –PrävG). 

Thứ Tư, 26 tháng 8, 2015

Lễ Vu Lan

Nhân mùa Vu Lan năm nay, TSTH gửi đến quý độc giả 1 bài viết của mùa Vu Lan năm xưa (bài viết cách đây 42 năm)


Đã gần hai ngàn năm nay, dân Việt Nam ta đều biết đến lễ Vu Lan và hành lễ Vu Lan. Năm nào cũng vậy, cứ đến ngày rằm tháng bảy âm lịch (15-7 âl), không ai bảo ai cả, mọi người đều tự nhiên tưởng nhớ đến Tổ Tiên, đến Cha Mẹ, đến những người đã khuất. Những kẻ ly hương, xa gia đình, xa cha mẹ lại cảm thấy lòng tưởng nhớ ấy tăng lên gấp bội phần. Các hành động thờ cúng Tổ Tiên, tưởng nhớ cha mẹ có lẽ đã biến thành một đạo : Đó là đạo Hiếu Nghĩa.

Ngày lễ Vu Lan đến, người ly hương cũng như kẻ vẫn còn an sống nơi quê Cha đất Tổ đều có lòng tưởng nhớ. Tháng bảy là tháng nhớ ơn, là mùa báo hiếu, là nguồn đạo hạnh…

Ngày lễ Vu Lan, rằm tháng bảy, là ngày báo hiếu, ngày Phật hoan hỷ, ngày Tăng tự tứ và cũng gọi là ngày xá tội vong nhân. Theo trong đạo Phật thì đến ngày này, tất cả những ai là đạo Phật đều quy tụ trước bàn Phật thật trang nghiêm, cầu an cho cha mẹ hiện tiền và cầu siêu cho thân bằng quyến thuộc đã thoát trần.

Sau đây là phần trình bày quan niệm chữ Hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa thiết thực nhất của ngày lễ Vu Lan:

Trong kinh Phật có nói rằng:

“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.

Nghĩa là trong muôn đức hạnh của con người thì hiếu đứng đầu. Và kinh Phật còn dạy rằng: “Ra đời không gặp Phật, theo thờ Cha Mẹ tức là thờ Phật”.

Sự thật, Cha Mẹ đối với con vô cùng cao cả, hy sinh tất cả đời sống của mình để nuôi con, và con là nguồn hạnh phúc của cha mẹ. Nhất là mẹ, một người suốt đời khổ sở vì con. Như : chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm chẳng rời.

Và chính vì thế mà người ta thường ví : “Đặt con vào dạ là mạ phải đi tu” quả không sai vậy. Biết bao nhiêu khổ cực trong lúc con còn trong bào thai, nâng niu, không làm việc nặng, không ăn loại thức ăn sợ ảnh hưởng đến bào thai. Cũng như lúc sinh ra, bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn những khi trở trời trái gió, con cái nhát chơi biếng ăn, thì mẹ lại lo rầu bối rối, ngồi đứng không yên, nghỉ cả ăn chơi làm lụng để săn sóc thuốc thang, chăm nom cho con mau lành bệnh. Mỗi một tiếng rên của con là một mũi tên nhọn đâm sâu vào tim cha mẹ, và ngược lại, một tiếng cười của con biến thành liều thuốc bổ của cha mẹ. Lúc còn nhỏ thì tập ăn tập nói, tập ngồi tập đi. Khi lớn khôn cho vào trường ăn học, bao nhiêu ước ao, kỳ vọng đều ký thác nơi con tất cả. Cho đến khi trưởng thành cũng vẫn còn lo. Nào là : Tạo nghề nghiệp, lập gia đình. Hơn thế nữa, mỗi khi người con đi làm ăn xa, thì cha mẹ ngày thường ngóng trông tin tức. Bởi thế, một ngày con lớn lên thì một ngày cha mẹ già yếu thêm. Già yếu với chuỗi ngày đầy lo, buồn, vui, sợ. Chỉ đến khi nào tắt thở thì mới không còn lo cho con nữa.

Việt Nam có câu:

“Lên non mới biết non cao,
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ.”

Là một câu ca dao rất đầy ý vị, để cho tất cả mọi người đời đều biết công ơn cha mẹ trong lúc đang nhọc nhằn săn sóc con cái mình.

“Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng,
Công ơn cha mẹ như biển rộng trời cao.”

“Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con.”

Lấy gì báo đáp cho vừa? Bởi vậy, đạo làm con phải lo đền đáp công ơn cha mẹ.

Việt Nam là dân tộc Hiếu Nghĩa làm đầu. Nên có câu:

“Điều thiện cùng tột không gì hơn Hiếu. Điều ác cùng tột không gì hơn Bất Hiếu”.

Vì vậy, đã làm người mà không biết đem lòng hiếu để đền đáp ơn sinh dưỡng thì không những mất cả nhân cách con người mà còn phản lại tinh thần dân tộc, là tinh thần hiếu nghĩa thảo thuận.

“Thờ Trời Đất Quỉ Thần không bằng có hiếu với cha mẹ, vì cha mẹ là vị thần minh cao hơn tất cả các vị thần minh”

Thật công đức hiếu hạnh không thể nghĩ tận cùng được.

Và muốn thành tựu tốt đẹp nhân cách của con người trên đời thì không thể không nghĩ đến “Báo hiếu”.

Câu chuyện xưa dẫn chứng sau đây sẽ nói lên lòng hiếu thuận là quý trọng hơn hết. Không những loài người mà loài vật cũng vậy.

*

CON VOI HIẾU NGHĨA

Ngày xưa, Vua xứ Ba-la-Nại, một hôm cùng đoàn tùy tùng vào rừng săn thú. Đang lúc đi lùng bắt, bỗng nhà vua bắt gặp một con voi trắng như tuyết, có sáu ngà, trông đẹp vô cùng. Vua truyền bắt sống, rồi đem về triều phú thác cho tên Quản Tượng trông coi. Từ khi bị bắt, con voi rất buồn rầu, ngày này sang ngày khác, không ăn, không uống, chỉ đầm đìa nước mắt. Tên Quản Tượng sợ voi chết nên vào tâu mọi sự cho vua hay. Vua liền tự mình đến chuồng hỏi rằng:

- Tại sao ngươi nhịn ăn, nhịn uống, khóc lóc cả ngày thế?

Voi lễ phép quỳ xuống tâu bằng tiếng người (thuở đó, loài vật cũng nói được tiếng người) rằng:

- Tâu Đại vương tôi còn cha mẹ già ở tại rừng xanh, sức lực yếu kém rồi không thể đi tìm thức ăn được, chỉ cậy có mình tôi nuôi dưỡng. Nay tôi bị bắt, cha mẹ tôi không ai nuôi dưỡng, chắc chết mất! Tôi sầu khổ vô cùng, thà chết còn hơn là sống mà không trọn phần hiếu đạo. Vậy, xin Đại vương mở lòng từ bi tha cho tôi trở về nuôi dưỡng mẹ cha đến ngày nào cha mẹ tôi qua đời rồi, tôi sẽ xin trở lại để hầu cận, đền đáp ơn Đại vương.

Nhà vua nghe nói bùi ngùi cảm động mà phán rằng:

- Ngươi là loài muôn thú mà biết thương yêu cha mẹ, lo tròn bổn phận làm con, thì ta đây sao nỡ hẹp lòng mà chẳng cho ngươi về.

Nói rồi, ngài truyền thả voi ra. Voi được thả, mừng rỡ đến trước mặt vua, từ tạ rồi chạy thẳng vào rừng cũ nơi cha mẹ ở.

Mười hai năm sau, một bữa vua đang ngủ tại triều, bỗng thấy con voi lúc trước chạy về, mình mẩy gầy ốm hơn xưa. Nó đến quỳ lạy nhà vua và tâu rằng:

- Tâu Đại vương, cha mẹ tôi bây giờ đã quá vãng cả, công cuộc phụng dưỡng cha mẹ tôi nay đã xong, tôi nhớ lời hứa cũ, xin nguyện từ đây hầu hạ Đại vương.

Vua mừng rỡ, khen voi có hiếu nghĩa và biết giữ lời hứa. Rồi sai người trông nom rất chu đáo con voi này cho đến khi già chết.

Ấy! Chúng ta thấy rằng : Loài vật mà còn biết hiếu nghĩa với cha mẹ huống chi là loài người.

Với tinh thần trên, Thiếu Nhi chúng ta cần xác nhận rằng : “Hiếu thuận báo ân, là một tinh thần căn bản”.


THẢO ĐIỀU
(Bảo Lộc)  


(Trích tuần báo Thiếu Nhi số 102, ra ngày 10-8-1973)