Nhà thơ Vũ Quần Phương nhớ lại ký ức về những nhà thơ, nhà văn lão thành như Chế Lan Viên, Tố Hữu, Nguyễn Tuân... thế hệ đàn anh - những người đã "lót ổ" cho thế hệ hôm nay dưới mái nhà văn chương.
LTS: Ngày 30/9, tại Hải Phòng, Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức Hội nghị đại biểu các nhà văn lão thành Việt Nam lần thứ nhất năm 2023.
Hội nghị đánh giá những thành tựu to lớn của các nhà văn lão thành đối với nền văn học Việt Nam trong 50 năm qua. Đồng thời nhằm tôn vinh các thế hệ nhà văn cả đời đi theo Đảng trên con đường giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường trên mọi mặt cũng như xây dựng một nền văn học, văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
VietNamNet xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương, là tiếng vọng thời gian tưởng nhớ tới thế hệ nhà văn lão thành.
Thế là tôi đã bước vào tuổi mụ 85 hôm 8/9 vừa qua. Sống tử như đùa mà ào một cái đã vào chặng cuối của đời người. Tiếng tích tắc của đồng hồ vẫn như mọi khi mà tâm trạng nhìn thời gian của mình không như xưa nữa. Không hiểu sao tuổi lớn thì cảm giác về thời gian như không còn chính xác, thấy chóng hết ngày, hết tháng, hết năm.
Thế là đã 60 năm tính từ cái ngày tôi được rủ đến họp thơ ở Hội Nhà văn Việt Nam. Trụ sở Hội khi ấy không phải ở 65 Nguyễn Du mà ở phía đối diện, bên số chẵn. Hồi đó (thập niên 1960) lứa chúng tôi được gọi là cây bút trẻ, sau này gọi là lứa chống Mỹ, hầu hết chưa vào Hội nhà văn.
Anh Thái Giang được giải Nhất cuộc thi thơ của Tạp chí Văn Nghệ năm 1962 và sau đó trong nhiều cuộc thi thơ khác anh luôn được giải cao mà khi viết bài này tôi giở tập kỷ yếu của hội ra xem hấy đến năm 1966, anh mới vào hội nhưng hầu như tất cả các cuộc họp về thơ, chúng tôi thường được mời dự. Mời giấy hoặc mời miệng kèm theo lời dặn của anh Chế Lan Viên hoặc anh Tế Hanh: ''Gặp anh em viết nhớ rủ các bạn ấy đến cho vui''.
Tôi đến buổi đầu là theo suất "rủ đến cho vui ấy”. Mà vui thật! Lần đầu tiên tôi được ngồi thật gần, được trò chuyện với các nhà thơ mà tôi được học tác phẩm của họ ở trung học: Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, Anh Thơ, Nguyễn Xuân Sanh, Yến Lan... Đôi khi là: Tú Mỡ, Huy Cận, Phạm Huy Thông, Vũ Đình Liên, Quang Dũng... Tôi thích thú như được ngồi trò chuyện với người trong cổ tích.
Buổi ấy tôi thấy anh Chế Lan Viên ngồi giữa cái đi-văng, một bên là Ca Lê Hiến một bên là Trường Giang. Anh Chế Lan Viên hồi đó là Trưởng tiểu ban thơ, người triệu tập và điều hành cuộc họp. Anh tạo một không khí thật gần giữa chúng tôi, những người còn nhiều rụt rè với văn chương và ngại ngùng trước các tên tuổi đã vào văn học sử như những người khai sinh nền thơ hiện đại nước nhà viết bằng quốc ngữ.
Trong buổi họp ấy Ca Lê Hiến đọc bài thơ tình yêu Anh là con sông chảy trước cửa nhà em. Trường Giang, người luôn có thơ đăng báo hồi ấy, đọc bài Gà Đông Cảo. Hai bài thơ chọn ngẫu nhiên mà giới thiệu khá chính xác hai mạch cảm xúc của các anh. Sau đó anh Ca Lê Hiến về miền Nam chiến đấu và làm thơ dưới bút danh Lê Anh Xuân. Anh hy sinh sau chiến dịch Mậu Thân.
Trường Giang làm báo Giao thông vận tải và làm thơ với viết hàng ngày cho đến khi về hưu. Anh mất lúc ranh giới giữa hai thế kỷ 20 và 21, vẫn chưa vào hội.
Năm 1972, khi chuyển từ nghề y sang làm biên tập cho buổi Tiếng thơ Đài Tiếng nói Việt Nam tôi càng có điều kiện tiếp xúc với các bậc đàn anh, tính tuổi có người vào hàng cha chú mình rồi. Không chỉ thơ mà cả văn và phê bình. Tôi đã được gặp ông già nhỏ thó lành hiền Hoàng Ngọc Phách, tác giả Tiểu thuyết Tố Tâm (1925), tác phẩm vào loại "cổ điển" của tiểu thuyết hiện đại nước nhà, đã xa vời lắm. Cụ Phách khi ấy đã không viết nữa. Nhưng gặp cụ như gặp một chứng cứ lịch sử của văn chương.
Tôi đã mạnh dạn hỏi cảm giác cụ Nguyễn Công Hoan, khi cuốn Đống rác cũ đang là sự kiện trong dư luận xã hội. Lại có lần trường sư phạm ở Hưng Yên mời cụ Nguyễn Tuân về nói chuyện văn, có mời thêm tôi về nói chuyện thơ. Trường có chiếc xe com-măng-ca vuông và cử một thầy giáo đi đón khách. Chắc để thể hiện sự tôn kính, thầy giáo đón cụ Nguyễn Tuân trước, sau rồi mới lần lượt đến năm người chúng tôi, hai diễn viên ngâm thơ, người đàn, người nói và một ông đi nghe nhờ.
Cụ Nguyễn ngồi ghế cạnh tài xế, là ghế sang nhất ở loại xe ấy. Phải cái mỗi lần có người lên cụ phải bước xuống đường để người ta lật cái ghế cụ đang ngồi ấy lấy lối vào xe. Xe đi lòng vòng đến cả giờ, cụ Nguyễn kiên trì xuống lên đúng yêu cầu.
Đến lần cuối, khi đón đến một ông đi nghe nhờ, ông này nhà ở gần hội, phố Nguyễn Du. Xe dừng, cụ Nguyễn nhanh nhẹn bước xuống, nhưng lần này cụ xách xuống theo cả cái làn cói, trong có cái cặp lồng xinh xắn. Cụ quay lại từ tốn nói với thầy giáo đi đón: "Đến đây gần nhà tôi rồi, xin ông cho tôi về".
Lũ chúng tôi, ngồi phía sau tán chuyện đang vui, mới cuống lên, một người nhảy xuống ốp cụ: "Thưa bác, đi luôn thôi ạ, không đón ai nữa. Chúng cháu vô ý quá xin bác tha lỗi cho". Tài xế cũng nhanh trí cụ Nguyễn vừa lên là đi ngay. Cụ không nói gì nhưng chắc còn đang bực. Trên xe trầm lắng hẳn.
Xe qua cầu Long Biên, chị Kim Dung, diễn viên ngâm thơ, người ít tuổi nhất đoàn, bỗng nhiên hướng lên khen “nhan sắc” nhà văn: "Bác có nước da đẹp quá, cứ đỏ hồng lên. Hôm bác nói chuyện ở đài về nghệ thuật nhả chữ, cháu có được nghe. Cả phát thanh viên, cả ca sĩ, diễn viên thích lắm, vỡ ra bao nhiêu điều, chứ chúng cháu cứ luyện thanh mò, vất vả lắm mà tiến chậm. Bác phải sang nói lại và nói thêm bác ạ. Nhiều người, hôm ấy vắng, chưa được nghe". Thế là câu chuyện bác cháu về phát âm tiếng Việt lại hào hứng cho đến lúc xuống xe.
Tối hôm đó, lúc sắp lên hội trường làm phận sự của tôi, bác Nguyễn Tuân bảo: "Trưa nay anh nghe tôi nói rồi. Bây giờ tôi xin đến nghe anh một lúc". Tôi thành thật thưa: "Có bác là kỷ niệm đẹp cho cháu nhưng cháu cũng sợ". Bác nhắc: "một lúc thôi". Một lúc trôi qua, bác lặng lẽ đứng dậy về phòng.
Phòng nghỉ là một lớp học cải biên, có giường tôi và giường bác Nguyễn. Khi tôi về thấy bác còn thức. Tôi hỏi: "Bác không ngủ ạ". Bác Nguyễn đáp: "Tôi không ngủ sớm. Thường đọc một chút. Và lại muốn chờ anh. Anh có dây mắc màn chưa? Tôi có mang theo cuộn dây gai. Trên bàn ấy, anh lấy mà dùng". Không hiểu sao, đến nay tôi vẫn nhớ chi tiết ấy.
Cụ Nguyễn Tuân có một cảm tình đặc biệt với những gì truyền thống. Có một điều gì vừa như xa xôi lại vừa như gắn bó hàng ngày với cụ mà chúng ta chỉ có thực sự chứng kiến mới hiểu ra các giá trị của những vang bóng từ một thuở xa xưa trong tâm hồn cụ. Tôi đã thấy, cũng ở đài, ngay trong phòng biên tập của chúng tôi, hồi chiến tranh chống Mỹ, cuộc gặp ngẫu nhiên của cụ và bà Quách Thị Hồ.
Bà Hồ là nghệ sĩ còn sót lại của thời xưa. Tuổi cao nhưng giọng vang, ấm. Bà hát ca trù hay ngâm thơ theo các làn truyền thống hay lạ lùng, có sức gợi lại những nề nếp văn hóa từ nhiều thời của nước mình, dấu xưa xe ngựa, bâng khuâng lắm.
Bữa ấy bà nhờ ông Đinh Khắc Ban, người chơi đàn đáy nổi danh từ trước cách mạng đun cho ấm nước, chị Trần Thị Tuyết thì rửa ấm chén. Bà Hồ lấy từ chiếc túi xách tay phong trà Thái Nguyên đặc biệt, hồi ấy trà ngon phải mua ngoài chợ đen, bà Hồ đã tự san ra từng phong nhỏ vừa với một ấm trà. Bà Hồ pha trà nghiêm cẩn, sang trọng như thực hiện một lễ nghi.
Bà nâng hai tay chén trà nhỏ đưa mời ông Nguyễn. Ông Nguyễn cũng hai tay đón chén trà nghi ngút khói. Ông nhấp trà, ngẫm nghĩ rồi nhìn bà Hồ, thư thả: "Trà ngon, bà pha khéo nhưng... hình như nước chưa đủ sôi". Bà Hồ sửng sốt nhìn ông Nguyễn: "Ơ hay, ông lạ nhỉ, nước người ta vừa đun xong. Ông thấy đấy mà lại bảo chưa đủ sôi là đủ thế nào?".
Ông Nguyễn im lặng, nét mặt bình thản. Bà Hồ rót chén trà mới, nhấp nhấp lại rồi tươi tỉnh và thân ái nhìn ông Tuân mà rằng: "Hay là ông ngậm trà vào miệng, tôi rót thắng nước vào xem đủ sôi chưa". Mấy biên tập viên chúng tôi ngồi quanh vừa làm việc vừa hóng chuyện hai cố nhân, ai cũng bừng gương mặt, thích thú nhưng không dám cười thành tiếng. Tôi cũng vui mà quên đưa mắt liếc bác Nguyễn, người nổi tiếng kỹ tính xem lúc ấy bác thế nào nhưng tôi chắc ông cụ xúc động.
Cái câu nói của bà Hồ chát chúa thế nhưng hình như lại u ẩn chút hương thân ái từ một thời xa, đủ mang bác Nguyễn về ngược thời gian bốn mươi năm trước. Cái thời nhố nhăng và đau đớn của những ông TYPN, ông Xuân Tóc Đỏ, những chị Dậu, anh Phu, vẫn có những tấm lòng thương nhau, phục nhau thầm lặng của đám văn nhân tài tử thật sự biết tài đức nhau.
Cái chi tiết "đời" mà tôi chứng kiến hôm ấy quá mảnh mai mà sao tôi cứ ấn tượng mãi. Đọc tường thuật đám tang Tản Đà hay đám tang Vũ Trọng Phụng cũng thấy được tình cảm ấy.
Thế hệ viết đang dự cuộc họp này, có hạnh phúc là lúc mới vào nghề, đã được thở cùng khí quyển văn chương với các bậc khai sơn phá thạch cho nền văn chương nước nhà trong thời nước mất. Năm tháng chưa xa nhưng cuộc đời đã khác, trong câu chuyện hay trong tính cách các cụ, chúng ta như còn nhận ra dấu vết của cái thời ngỡ như trong tiền kiếp nhưng lại là bối cảnh văn chương của những tác phẩm mà chúng ta mê đắm.
Năm 1984, về làm ở Nhà xuất bản Văn học, tôi được giao làm tuyển tập cho các nhà văn trước cách mạng. Về thơ, phần trước cách mạng, chỉ chọn 20 bài. Nói chung, các tác giả đều vui "in gì thì in, được in là chúng tôi vui rồi". Riêng anh Xuân Diệu cho rằng với anh 20 bài thì biết giới thiệu gì, anh đề nghị lấy thêm. Nhà xuất bản không thay đổi lượng bài được. Anh xin để anh tự chọn. Điều ấy tôi làm biên tập, tôi có thể phối hợp với anh được. Nhưng khi duyệt, nếu phải thay bài thì anh thuận cho. Anh Xuân Diệu nói: "Thế thì tôi chờ, khi nào tác giả được chọn tôi in".
Tôi vẫn nghĩ thơ Xuân Diệu trước cách mạng có những bài hay lắm, có thể là hay nhất trong các tác giả Thơ Mới, hay trong cả tiến trình thơ Việt. Những bài ấy để dài lại rất “vu vơ", dễ bị gạt. Mà không in tuyển Xuân Diệu thì chẳng ra làm sao. Tôi loay hoay tìm cách gỡ. Gỡ chưa ra sáng hôm sau, sớm lắm, anh Xuân Diệu đạp xe đến căn nhà tội nghiệp của gia đình tôi ở phố Trương Hán Siêu.
Anh nói: "Đêm qua anh nghĩ lại. Mình dỗi không in thì họ không in thật. Thế là vì mấy lượm lúa mà mình bỏ cả vụ gặt. Thôi họ muốn chọn thế nào cũng được. In thơ bây giờ như chạy đồ đạc ra khỏi đám cháy nhà. Chạy khỏi ngọn lửa của thời gian. Túm được thứ nào cứ bế đại ra. Chọn lọc gì nữa. Sẽ còn nhiều lần chọn lọc, sắp xếp lại. Các cậu chưa phải là người chọn cuối cùng đâu". Rồi anh vận ca dao: Trời mà bắt chết thời thôi/ Nếu còn, tôi sẽ no xôi chán chè.
Bữa ấy anh Xuân Diệu nói liền một thôi. Tôi chỉ biết nghe, càng nghe càng nhẹ lòng. Nhẹ lòng vì nút thắt đã được gỡ. Nhưng lúc tiễn anh về, nhìn theo dáng lưng anh, như lầm lũi như kiên nhẫn, trên chiếc xe đạp Favorit, tôi như ngộ ra một triết lý sống của anh, cái triết lý chấp nhận, chấp nhận để thích ứng, để tồn tại, để phấn đấu cho cái đích mình đã định, với anh là tham gia đánh giặc cứu nước và làm thơ hay. Những cái đích thơ nhiều lúc phải tạm thời gác lại.
Ngay lứa chúng ta thôi cũng đã đáp ứng nhu cầu tình thế nhiều phen lắm. Nhưng chúng ta vẫn có những nhà thơ xuất sắc, những bài thơ được công chúng rộng lớn mến yêu. Bài thơ Tây tiến của Quang Dũng, lứa đàn anh thời kháng chiến 9 năm và bài thơ Một người yêu nước mình của Trần Vàng Sao, lứa chúng ta trong cuộc kháng chiến lần sau, là hai đỉnh thơ độc đáo, đột xuất nhô lên rồi tuyệt tự. Nó không có hậu duệ. Tại sao? Trả lời câu hỏi ấy cũng là một cách thu thập kinh nghiệm làm nghề.
Tố Hữu, nhà thơ tài năng duy nhất không phải "nhận đường" hay "tìm đường", ông cứ thẳng hướng ban đầu mà tiến. Có lần tôi được nghe ông khuyên, khi ấy ông đã hưu: "Xúc động thì nên viết, viết ngay nhưng đăng lúc nào thì phải tính". Và ông tiếc. Hồi ông qua nước bạn đang cách mạng văn hóa, nhiều chuyện muốn viết lắm nhưng nghĩ thế nào lại thôi. Khi chiến tranh biên giới phía Bắc, muốn viết thì cảm xúc lại mở rồi.
Một lần khi tôi hỏi tại sao ông ít thơ tình yêu thế, có phải vì cương vị xã hội mà ông không dám bộc bạch. Ông nói: "Không phải, tôi có được làm thơ vì tôi hay vì thơ đâu. Hồi Từ ấy, tôi làm thơ để tuyên truyền lý tưởng, sau này là để giải thích chính sách. Các cậu đừng coi tôi là nhà thơ chuyên nghiệp, thơ tôi nghiệp dư, cách mạng mới là chuyên nghiệp". Tố Hữu nói xong, trầm ngâm. Tôi nhìn ông, thầm nghĩ đấy mới chính là chỗ lớn của thơ Tố Hữu.
Tôi hay hỏi tâm sự nghề viết, ở cuộc họp này xin được đôi nét tưởng nhớ, tri ân lớp đàn anh thuộc thế hệ đầu, những người đã lót ổ cho chúng ta, dưới mái nhà văn chương tam đại đồng đường khi ấy. Còn lớp chống Pháp và chính lớp chúng ta nữa, nhiều nỗi lòng, nhiều mong ước nghe cảm động lắm, thương nghề lắm, xin để một dịp khác.
Nhà thơ Vũ Quần Phương
Con trai cả của ông là Vũ Hà Văn, GS Toán học hiện đang giảng dạy tại ĐH Yale (Mỹ). Cậu con trai út là Vũ Thanh Điềm cũng từng là thủ khoa Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, hiện là chuyên gia của hãng Google.
"Gia tài" lớn của nhà thơ Vũ Quần Phương
Con trai cả của ông là Vũ Hà Văn, GS Toán học hiện đang giảng dạy tại ĐH Yale (Mỹ). Cậu con trai út là Vũ Thanh Điềm cũng từng là thủ khoa Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, hiện là chuyên gia của hãng Google.
- “Cũng giống như bàn tay có những ngón dài ngắn, tôi không bao giờ trách về sự không thành công của con, lại càng không để con buồn vì những sự không thành công ấy. Nếu cuộc đời chỉ sống với hai từ “giá như” sẽ rất vất vả”.
Có nói chuyện với nhà thơ Vũ Quần Phương mới thấu rõ tình yêu tuyệt đối mà ông dành cho hai người con trai của mình. Kể từ năm 1970, khi cậu con trai cả Vũ Hà Văn ra đời, ông bắt đầu viết nhiều hơn những bài thơ dành cho con. Cho đến khi cả hai con đã giỏi giang, thành đạt, ông vẫn giữ thói quen ấy như để nhắc nhớ lại những kỷ niệm.
Tác giả của áng thơ “Áo đỏ” có con trai cả là Vũ Hà Văn, Giáo sư Toán học hiện đang giảng dạy tại Trường Đại học Yale (Mỹ). Cậu con trai út là Vũ Thanh Điềm cũng từng là thủ khoa Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, hiện là chuyên gia của hãng Google.
Gia đình nhà thơ Vũ Quần Phương. Vợ chồng GS Vũ Hà Văn (trái). |
Ông tích cực tạo bầu không khí thích chữ nghĩa cho con. Trong căn nhà rộng chừng 15m2 của gia đình lúc bấy giờ có tới ba thế hệ cùng sinh sống. Dù chật chội nhưng ông vẫn cố gắng tạo cho con một góc học tập riêng. Và thế là khoảng khe hẹp tạo bởi bức tường nhà và cánh cửa khi mở ra vừa đủ chỗ cho Văn và Điềm học tập.
Nhà thơ Vũ Quần Phương thủ thỉ: “Văn bộc lộ tố chất học toán từ khi còn rất nhỏ. Ví như khi hai mẹ con đang đi trên đường, Văn nhận thấy rằng dù là số bên chẵn hay bên lẻ, cứ cộng hai số nhà cạnh nhau sẽ tạo ra một số chẵn. Những tư duy hợp logic đó xuất hiện từ rất sớm. Sau này, khi Văn lên lớp 1, cô giáo cũng nói rằng, con có tư duy Toán học tốt. Bố mẹ nên đi tìm một trường chuyên cho con theo học”.
“Bố hứa bắt cho con con ve
|
Còn chiếc bàn học khi ấy cũng chỉ là một cái thùng giấy úp ngược. Nhà thơ Vũ Quần Phương đã đặt rất nhiều sách trong đó. Ông bảo, đó là cách rèn cho con thói quen đọc. Đọc sách vừa để giải trí, vừa để tích lũy kiến thức về sau. Từ việc tìm hiểu bất đắc dĩ, lâu dần sẽ gây thích thú và trở thành nền tảng kiến thức ban đầu cho con. Những cuốn sách được ông đặt vào thường là những trang truyện cổ tích bồi đắp tâm hồn dân tộc hay truyện cổ Hi Lạp giúp con biết văn minh thế giới phương Tây,…
Dù rất kì vọng, nhưng nhà thơ Vũ Quần Phương ít khi đặt áp lực cho con. Đích đến cuối cùng, ông bảo, là khiến những đứa trẻ lớn lên luôn cảm thấy hạnh phúc.
“Cũng giống như bàn tay có những ngón dài ngắn, tôi không bao giờ trách về sự không thành công của con, lại càng không để con buồn vì những sự không thành công ấy. Nếu cuộc đời chỉ sống với hai từ “giá như” sẽ rất vất vả”.
Cũng bởi triết lý ấy mà giờ đây, dù đã gần 80 tuổi nhưng nhà thơ Vũ Quần Phương vẫn cảm thấy tự xấu hổ vì đã từng đánh con. “Sau cái lần ấy, tôi không bao giờ làm điều đó nữa. Khi đánh con là do xuất phát từ sự nóng giận, thiếu kiểm soát. Nhìn con đau đớn, tôi thấy mình thật ác. Đòn roi có thể khiến cha mẹ nhanh chóng đạt được mục đích nhưng lại làm đứa trẻ bị tổn thương”.
Ông thừa nhận, dạy con cũng chính là cách dạy mình. Kẻ nóng nảy phải học cách giữ bình tĩnh và làm chủ cảm xúc. Người yêu thương phải học cách khéo léo để không tạo ra sự ỉ lại, vòi vĩnh cho con. Do vậy, dạy con vừa dễ lại vừa khó.
Quan tâm đến việc học của con, cho nên đến tận bây giờ, nhà thơ Vũ Quần Phương vẫn nhớ như in tên từng người thầy đã dạy con mình. Ông cho rằng, không ai khác, người thầy có vai trò quan trọng nhất trong việc dạy dỗ một đứa trẻ nên người. Cũng chính thầy là người đã tạo ra những tài năng.
“Thời còn đi học, tôi được thầy giáo giao cho một chức vụ quan trọng là mỗi sáng tạt vào nhà ôm giúp thầy cái phích nước ra đình làng. Cái chức đó khiến tôi cảm thấy hãnh diện lắm! Nói vậy để thấy rằng vai trò người thầy khi ấy rất được trọng vọng. Thầy được chúng tôi tôn kính tới mức thần thánh hoá, như thể một thế giới mà mình không thể với tới được.
Đến khi Văn và Điềm đi học, tôi dạy lại hai con như thế! Tôi nhớ, người thầy ảnh hưởng nhất tới Văn là thầy Tôn Thân. Thầy đã đánh thức những khám phá và sự say mê tìm tòi bản chất toán học của trẻ. Cùng với thầy Tôn Thân có thầy Quán, thầy Bình. Tôi đã từng chuyển trường cho con đến Trưng Vương chỉ để con được học những người thầy giỏi đó. Tôi nghĩ rằng, người thầy có vai trò quan trọng nhất trong sự thành công của con”.
Nhật ký là thứ “lương khô” làm vơi đi nỗi nhớ
Thứ gia tài đáng giá nhất với nhà thơ Vũ Quần Phương bây giờ, ngoài những vần thơ, chính là hai cậu con trai tài giỏi. Nhưng ông vẫn không thôi trở trăn về nỗi niềm cô đơn. Sáu tuổi mồ côi cha. Mười tuổi đi xa nhà. Đến khi về già lại phải sống xa con. Vì thế, đọc thơ của Vũ Quần Phương, người ta dễ nhận thấy những suy tư ngay từ trong tâm tưởng.
Càng về già, nhà thơ Vũ Quần Phương càng viết nhiều hơn những vần thơ về gia đình
Nhà thơ Vũ Quần Phương luôn nâng niu đến tận bây giờ là những trang nhật ký còn đẫm thương nhớ ông ghi chép lại tuổi thơ của hai con. Ông ví, đó là thứ “lương khô” giúp ông vơi đi nỗi nhớ con trong những lúc “đói lòng”. Đến nay, gia tài ấy đã tăng lên với hơn mười quyển.
Nỗi nhớ con khiến nhà thơ dù đã ở tuổi 78 vẫn phải rơi nước mắt. Ông khẽ chậm rãi lấy tay lau đi những giọt nhớ. Sự đa cảm của một nhà thơ khiến ông dễ bồi hồi khi nhắc lại những chuyện xưa cũ.
“Đã có những lúc tôi nghĩ mình không còn là trung tâm của các con nữa. Trước đây khi đưa con ra sân bay là tiễn con “đi” sang Mỹ. Nhưng giờ, những lần ấy lại là tiễn con “về” nhà nó. Do vậy, mỗi khi được gặp con lòng tôi lại chộn rộn. Ngay lúc vui mừng nhất tôi đã ngậm ngùi nghĩ về lúc chia tay”.
Có lẽ vì thế mà trong những bài viết cho con, giọng ông có pha chút gì đó nuối tiếc, bùi ngùi. Tấm lòng của người cha được trải hết vào câu chữ.
“Những dòng nhật ký là những ghi chép đời thường mà tôi gửi trao tới các con. Có thể không lâu nữa tôi sẽ mất đi, nhưng những trang nhật ký ấy vẫn sẽ còn lại, là hành trang giúp các con bước tiếp trong cuộc đời”.
Nhà thơ cứ thế bồi hồi nghĩ về “những đứa trẻ”. Ông không nghĩ rằng những đứa con của mình có thể vượt qua nhiều biên giới của kinh độ này, vĩ độ khác. Ước mơ của ông thuở con mới lọt lòng cũng chỉ gói gọn trong đường chỉ mẹ may:
“Cha chưa biết con là trai hay gái
Chỉ biết sau này con lớn lên mọi tấm áo mẹ may con sẽ đều mặc chật
Mọi con đường trên thế gian này con sẽ đều biết vượt
Nhưng lòng con sẽ dừng lại xứ sở trước đường khâu của mẹ
Một đường khâu bằng chỉ thường nhỏ bé
Suốt một đời con cứ mãi bâng khuâng”
Thuý Nga
Nhắc đến những kết quả bước đầu của 2 con trai, nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng công lớn thuộc về vợ ông, bà Đào Thị Hường, đặc biệt là cách bà tạo nên một bầu không khí học tập với một tư duy khoa học trong gia đình. “Người Việt ta từ xưa rất coi trọng nếp sống của từng gia đình, gọi là gia phong và thành tựu của các thành viên trong gia đình, đặc biệt là lớp trẻ phụ thuộc rất nhiều vào điều đó” Không khí học tập trong gia đình được bà Hường xây nên từ chính tấm gương nỗ lực, phấn đấu của bản thân, ngay từ khi các con còn rất nhỏ. “Đáng nhớ nhất là ngay thời điểm Văn mới được 1 tháng tuổi, để quyết tâm học lên cao hơn, cứ 5h sáng, vợ tôi đã rời nhà để lên cơ quan cách nhà gần chục cây số bằng xe đạp và đến 8h tối mới về đến nhà. Thực ra giờ làm chỉ đến 5h chiều nhưng sau đó vợ tôi lại tranh thủ đi học thêm. Độ ấy, mấy tháng liền, ngày nào lúc bà ấy về tới nhà cũng khoảng 8 rưỡi tối thì Văn cũng đã chuẩn bị đi ngủ cùng bà nội”. Bà Hường kể: “Lúc ấy, nghĩ thương con nhưng mình cũng đành cắn rằng để tiếp tục học, vì tương lai của các con mình càng không thể không học. Chậm cũng được nhưng bằng mọi cách vẫn phải học và học bất cứ lúc nào”. Bà Hường chia sẻ, thuở đó, được đi học như vậy cũng nhờ sự ủng hộ của mẹ chồng nhiều. “Bà hiểu cuộc sống cần phải có sự phấn đấu nên rất thông cảm và lặng lẽ hỗ trợ. Sẵn sàng trông cháu suốt từ 6h sáng cho đến 8h tối, vậy nhưng chưa từng một lời ca thán”, bà Hường kể. Có lẽ sống trong một môi trường như vậy, ngay từ bé, cả Văn và Điềm đã cảm nhận được những nỗ lực của các thành viên trong gia đình nên luôn tự học và không hề phải bắt buộc theo khuôn khổ. Thế là cứ thấy mẹ đọc sách thì con cũng học theo, thích ngồi vào bàn học. Vũ Hà Văn đặc biệt rất mê đọc sách và coi bàn học là nơi lúc nào cũng có thể ngồi vào ngay được. Ngoài giờ đi làm, xong việc nhà thì tối đến bà Hường vẫn đều đặn thường xuyên kiểm tra việc học hành của con, chia sẻ các bài toán đố vui, bài thơ,… Mỗi ngày trước khi đi ngủ, bà cũng không quên trò chuyện với con về chuyện ở trường lớp, bạn bè,… Một kỷ niệm đáng nhớ khác là khi Vũ Hà Văn lên 4 tuổi, cũng là năm đầu tiên gia đình cho con cùng gói bánh chưng cho ngày Tết. “Gói bánh chưng nhiều công đoạn nhưng Văn được giao nhiệm vụ xúc bát gạo vào từng lá dong, lần lượt cho bà, bố và mẹ gói bánh. Công việc đơn giản nhưng Văn thích lắm, thấy rằng mình chưa xúc gạo thì không gói được bánh. Ông ngoại sang nhà chơi, khen bánh chưng đẹp, cả nhà bảo do Văn xúc gạo thì cu cậu sướng lắm, phấn khởi ra mặt”. Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng, việc tuy đơn giản nhưng qua đó để con được cảm nhận vai trò của mình trong một gia đình và học cách hỗ trợ các thành viên khác ngay từ khi còn bé. Thanh Hùng |