Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2010

Bớt nhậu để tiết kiệm hàng tỷ đôla cho đất nước

Hàng năm theo lời kêu gọi của UBTW mặt trận tổ quốc Việt Nam vào ngày 31/12 cả nước lại hướng về những người đồng bào ruột thịt còn nghèo khổ. Đó cũng là trách nhiệm của những doanh nhân bên cạnh việc tạo ra công ăn việc làm và đóng góp cho xã hội. Hàng năm, không ít doanh nhân vẫn âm thầm vận động bạn bè mọi lúc mọi nơi để cùng chung tay làm những việc thiết thực như: từ thiện, hiến máu nhân đạo... Năm nay, việc kêu gọi các doanh nhân tiết kiệm trong tiêu dùng, ăn nhậu, tiết kiệm năng lượng để sử dụng tiền đó gửi cho quỹ nối vòng tay lớn, các quỹ từ thiện khác vẫn tiếp tục được thực hiện và được mọi người rất đồng tình hưởng ứng.
Việt Nam chúng ta đang đứng trong số các nước vô địch về ăn nhậu. Với gần 3 tỷ lít bia, rượu tiêu thụ hàng năm, ước tính tương đương 3 tỷ đôla. Tạm tính tiền đồ nhậu mất khoảng 3 tỷ đôla nữa, thì hàng năm chúng ta đã ăn nhậu hết hơn 6 tỷ đôla.

Vậy chúng ta còn đâu tiền tiết kiệm để tái đầu tư cho nền kinh tế. Tiền đó lại trông chờ vào vốn vay ODA, đầu tư trực tiếp của nước ngoài FDI và tiền hàng triệu người Việt trên toàn thế giới lao động gian khổ, vất vả tích cóp để gửi về cho đất nước suốt bao nhiêu năm qua.
Nếu chúng ta có tài thì phải làm đủ ăn, đủ để tái đầu tư cho nền kinh tế như Hàn Quốc là một đất nước diện tích nhỏ chưa bằng 1/3 nước ta không có tài nguyên, dân số bằng một nửa nhưng GDP gấp 10 lần nước ta, tại sao vậy? Tất cả là từ trí tuệ, sức lao động, cần kiệm của con người mà ra. Những nước đạo Hồi họ còn cấm uống rượu, bia.
Việc tiết kiệm trong ăn nhậu hoàn toàn làm được trong tầm tay, so với việc hàng triệu ngư dân dũng cảm đang đánh bắt cá và bảo vệ chủ quyền của đất nước tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngày đêm đối mặt với thiên tai, nhân tai thì việc này khó gấp ngàn lần việc tiết kiệm trong ăn nhậu.
Chỉ cần có ý thức, thay vì uống tới bến, 5-10 chai bia, và lại ói ra, chúng ta có thể uống một vài chai vừa không hại cho sức khỏe, đỡ tốn tiền thuốc vì một đồng tiền nhậu sẽ tốn một đồng tiền thuốc chữa bệnh từ nhậu mà ra, tai nạn giao thông, các tệ nạn, và suy nhược nòi giống từ rượu, bia, thuốc lá. Có những người nhậu nuốt cả mật cá, trăn rồi lăn ra chết, ăn đủ thứ lẩu có hóa chất, thực phẩm không rõ nguồn gốc từ phương bắc, hay uống cao trăn tưởng khỏe như trăn mà không biết sẽ bị liệt dương vĩnh viễn, và tận diệt các loại thú rừng... Khi uống bia, rượu hãy nhìn xuống cái bụng của mình xem có đẹp, có tốt không? Hay là toàn bệnh tật ở trong đó? Chúng ta cần học tập tính thiết thực và tiết kiệm của các nước tư bản, bỏ ngay hình thức.
Nhà hàng của mọi gia đình :: Nhất Kỳ Nhất Hội

Thay đổi một thói quen xấu trong văn hóa ăn uống bê tha, sinh bệnh tật, cần bắt đầu từ các quan chức, các doanh nhân, tầng lớp giầu có trong xã hội, tiêu thụ nhiều của cải vật chất nhiều nhất trong xã hội. Trong những dịp lễ Tết cuối năm chỉ có giới thừa tiền mới biếu nhau những chai rượu hàng triệu đồng, săn tìm đặc sản rừng, biển, mua những cây cảnh hàng chục triệu đồng từ phá rừng.. Còn dân nghèo làm gì có tiền để mua, hàng hóa khan hiếm, lạm phát tăng cao do nội tại nền kinh tế yếu kém nhập siêu báo động đỏ. Giới nhà giàu vét hàng, tầng lớp công nhân lương thấp không đủ tiền mua thực phẩm để ăn, không đủ sức để liên tục tăng ca.
Trong khi thủ tướng Singapore làm gương cho cả thế giới khi đi họp APEC tại Hà Nội với máy bay giá rẻ thì cổ động viên chúng ta đi hẳn 2 chuyên cơ đến Malaysia xem bóng đá rồi về ngay trong ngày làm cả thế giới phải kinh ngạc. Thật thương các cầu thủ và thủ môn dũng cảm của chúng ta đã đá gấp hai lần sức lực, rất quả cảm, nhìn những gương mặt vàng, xanh vì mệt tôi hiểu rằng phần lớn họ từ con nhà nghèo mà ra. Khi còn nhỏ như thời chúng tôi cần sữa, thịt thì không có, đến nay vẫn kham khổ thì làm sao mà cứ kỳ vọng mãi mãi vô địch, nếu các cổ động viên biết tiết kiệm và dành tiền đó cho họ và thế hệ măng non của bóng đá thì tốt biết bao.
Ngay từ hôm nay những người lãnh đạo của đất nước, của doanh nghiệp phải làm gương, kêu gọi thực hiện chính sách thắt lưng buộc bụng đặc biệt tốt trong giai đoạn suy thoái kinh tế như hiện nay, bằng những hành động thiết thực như giảm chi tiêu, ăn nhậu và làm gương trước tiên cho cấp dưới, đơn vị của mình học tập. Các doanh nhân, chủ doanh nghiệp cũng phải làm tấm gương về tiết kiệm cho chính doanh nghiệp của mình điều này hoàn toàn làm được.
Ngay từ Tết dương lịch, Tết âm lịch, đang là dịp ăn chơi tới bến, có thể giảm ngay ngân sách chi tiêu cho những bữa tiệc linh đình, thừa mứa. Hãy có những ngày Tết ăn chay vừa rất tốt cho sức khỏe và làm việc thiện rất tốt cho tâm, như thời bao cấp tết tinh thần không ăn uống thừa mứa như bây giờ nhưng vẫn rất vui khỏe. Chỉ mua và sử dụng hàng Việt Nam, học người Hàn, người Nhật, hết sức hạn chế mua hàng nước ngoài, vì hàng Việt như cơm mẹ nấu, dù chưa ngon nhưng chúng con vẫn ăn.

Sử dụng tiền tiết kiệm trong ăn nhậu, tiết kiệm năng lượng, nhiên liệu trong sản xuất tiêu dùng là trách nhiệm của tất cả chúng ta để dùng tiền đó cùng với UBTW mặt trận tổ quốc Việt Nam để giúp hàng triệu người tàn tật, bị chất độc da cam, những người nghèo không nơi nương tựa. Hàng triệu ngư dân như đàn ong cần cù, dũng cảm vừa bảo vệ và chắt chiu làm giàu cho đất nước đang làm việc từ địa đầu Móng Cái đến tận Nam cực không sợ hy sinh gian khổ. Hàng triệu đồng bào biên giới miền núi phía Bắc còn rất nghèo khó đang bảo vệ từng tấc đất biên cương của tổ quốc cùng với hàng vạn chiến sỹ dũng cảm nơi biên giới và hải đảo đang thức để bảo vệ sự bình yên biển, trời đất mẹ Việt Nam, cho những thành phố lung linh sắc màu nơi chúng ta vui chơi hưởng hạnh phúc.
Nếu như ngay ngày mai, hơn 3 triệu Đảng viên và hơn 1 triệu doanh nhân trong nước, hãy làm gương trước tiên bằng hành động thiết thực, cắt giảm chi tiêu trong dịp Tết này và tiết kiệm trong suốt cả năm để đóng góp ngay từ 10 đến 100 đôla Mỹ hoặc nhiều hơn nữa cho quỹ “NỐI VÒNG TAY LỚN” năm nay và những năm tới. Cùng đoàn kết một lòng, không có việc gì khó, cùng với người Việt trên toàn thế giới đoàn kết, chung tay, chung sức xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc mà tổ tiên đã đổ biết bao xương máu để giữ cho đến ngày nay.
Việc làm nhỏ của chúng ta sẽ được thế giới ngưỡng mộ vì đạo lý thương yêu và đùm bọc lẫn nhau, là anh em trong cùng một bọc được gọi là đồng bào, cùng chia sẻ để niềm vui nhân đôi cho tất cả đồng bào còn khó khăn, các chiến sỹ, ngư dân nơi biên giới, biển đảo ngay trong những ngày Tết cuối năm đầy ý nghĩa và sẽ rất vui này.

Trâu Vàng


Trung Quốc chặn các quan chức tiệc tùng

Năm 2011, Trung Quốc sẽ áp dụng hàng loạt biện pháp cụ thể để xóa bỏ việc tổ chức tiệc tùng, hội nghị xa hoa của các quan chức. Điều này nằm trong những nỗ lực mới nhất để ngăn chặn nạn tham nhũng làm xói mòn lòng tin vào chính phủ.
Theo Trung Hoa Nhật báo, năm tới đây, Trung Quốc sẽ tiến hành chiến dịch ngăn chặn loại hình "tham nhũng mới”: tổ chức tiệc tùng, hội nghị, diễn đàn xa hoa của các quan chức, đồng thời thắt chặt sự quản lý với việc sử dụng xe công.
Tiệc tùng, hội nghị xa hoa của các quan chức bị Trung Quốc coi là loại hình tham nhũng mới. Ảnh minh họa: wordpress
Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nghe báo cáo về các biện pháp chống tham nhũng, thúc đẩy công tác lãnh đạo “sạch” trong một cuộc họp vừa qua, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào.
Một tuyên bố đưa ra sau cuộc họp cho biết, mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể trong việc xây dựng một chính phủ sạch trong năm nay, nhưng chiến dịch chống tham nhũng vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Theo đó, loại hình tham nhũng mới kể trên là những vấn đề nổi trội, khiến người dân phản đối mạnh mẽ.
"Quá nhiều diễn dàn lớn, hầu hết là không tác dụng, sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp ngân sách nhà nước”, Chu Lí Gia, một giáo sư nghiên cứu tham nhũng tại Học viện Quản lý Trung Quốc cho biết.
Cũng theo nhật báo trên, chiều tối 29/12, Trung Quốc tổ chức họp báo, lần đầu tiên công bố Sách Trắng về các nỗ lực chống tham nhũng. Cuốn sách có tựa đề Nỗ lực chống tham nhũng và xây dựng một chính phủ sạch của Trung Quốc.
Trong khi mang lại sự cải thiện lớn về chất lượng cuộc sống cho hầu hết người dân, thì tăng trưởng kinh tế Trung Quốc cũng dẫn tới tệ nạn tham nhũng rộng lớn và phân biệt giàu nghèo ngày một gia tăng. Người dân than phiền về việc sử dụng sai tiền nhà nước cho các bữa tiệc tùng tốn kém hay những chuyến thị sát nước ngoài của quan chức.
Các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước Trung Quốc cũng không ít lần nhấn mạnh rằng, tham nhũng là mối đe dọa lớn tới sự ổn định chính trị.
Những năm gần đây, Trung Quốc tiến hành nhiều chiến dịch chống tham nhũng. Một trong những vụ bê bối lớn nhất bị phát hiện có sự liên quan của Bí thư Thành ủy Thượng Hải, Trần Lương Vũ. Năm 2008, ông này bị kết án 18 năm tù vì vai trò trong vụ bê bối quỹ lương hưu.
Năm ngoái, một chiến dịch khác tại thành phố Trùng Khánh đã phát hiện ra sự liên quan chặt chẽ giữa quan chức chính phủ với cảnh sát - những người đã “bảo kê” cho tổ chức tội phạm. Vụ việc này đã dẫn tới án tử hình với nguyên Cục trưởng Cục tư pháp thành phố, Văn Cường. Theo đó, Văn Cường phải chấp hành bản án tử hình, bị tịch thu toàn bộ tài sản cá nhân vì phạm 4 tội danh: nhận hối lộ, hiếp dâm, thu nhập bất minh với số lượng lớn và bảo kê cho các băng nhóm tội phạm có tổ chức.
Trong tháng 7, Trung Quốc đã đưa ra quy định yêu cầu các quan chức chính phủ và những công ty nhà nước phải báo cáo mọi thứ, từ tài sản cá nhận tới các hoạt động kinh doanh của vợ và con cái. Tuy nhiên, nhiều nhà phê bình cho rằng, tham nhũng quá ăn sâu bám rễ vào trong hệ thống và không thể giải quyết bằng những quy định.
Nhiều quan tham Trung Quốc có ’’truyền thống" đưa các nguồn lợi bất hợp pháp vào các tài khoản ngân hàng của người thân hay thành viên trong gia đình ở nước ngoài. "Minh bạch là cách tốt nhất để chống tham nhũng", Chu Lí Gia, một chuyên gia chống tham nhũng thuộc Viện Hành chính Trung Quốc cho biết. Một số người kêu gọi thành lập các tổ chức độc lập để chống tham nhũng.
"Rất nhiều quan chức có vợ, con hay người thân đầu tư vào các công ty hay dự án kinh doanh. Chuyện này thời nào cũng có. Bạn có thể chấm dứt tham nhũng chỉ bằng đòi hỏi mọi người phải báo cáo không? Thậm chí họ có báo cáo, thì mọi thứ vẫn luôn là hợp pháp theo điều luật hiện tại", Dương Dương, một giáo sư tại Học viện Chính trị và quản lý công thuộc Đại học Luật và Chính trị Trung Quốc cho biết. "Bạn tự mình đưa ra bản kê khai mà không có ai kiểm tra lại", ông nhấn mạnh. "Rất hiếm tìm ra người làm báo cáo một cách trung thực".
Trung Quốc có những hình phạt rất cứng rắn với người phạm tội tham nhũng. 3 năm trước đây, nguyên Cục trưởng Cục Dược thực phẩm đã bị tử hình với tội danh nhận hối lộ và thiếu trách nhiệm.

Thái An (Theo China Daily, AP)

Auld Lang Syne – Những Ngày Đã Xa – Bản nhạc giao thừa


Chào các bạn,
Auld lang syne là một bản nhạc ai trên thế giới cũng biết, và đương nhiên là người Việt Nam nào cũng biết. Tuy nhiên lời chính thức thì có lẽ là đại đa số người đều chỉ biết có một lời chính thức: Ò e Rô-be đánh đu, Tặc-dăng nhảy dù, Zô-rô bắn súng, chết cha con ma nào đây, thằng Tây hết hồn, thằn lằn cụt đuôi. Và tên Việt Nam chính thức của bản nhạc là “Ò E”
Auld lang sine là môt bài thơ phổ thành nhạc theo âm điệu dân ca truyền thống của Tô Cách Lan (Scotland), do Robert Burns viết năm 1788. Burns gởi bản nhạc vào Viện Bảo Tàng Âm Nhạc Tô-Cách-Lan với dòng chữ: “Bản nhạc sau đây là một bản nhạc cổ xưa, chưa bao giờ được in ra, chưa bao giờ được viết xuống, cho đến khi tôi ghi lại từ một ông cụ.”
Auld lang sine là tiếng Tô Cách Lan cũ, có nghĩa là “old long since”, hay “long long ago” and “in the days gone by”–lâu lắm rồi, ngày xửa ngày xưa…

Auld Lang Syne

Should old acquaintance be forgot,
and never brought to mind ?
Should old acquaintance be forgot,
and old lang syne ?

CHORUS:
For auld lang syne, my dear,
for auld lang syne,
we’ll take a cup of kindness yet,
for auld lang syne.

And surely you’ll buy your pint cup !
and surely I’ll buy mine !
And we’ll take a cup o’ kindness yet,
for auld lang syne.

CHORUS
We two have run about the slopes,
and picked the daisies fine ;
But we’ve wandered many a weary foot,
since auld lang syne.

CHORUS
We two have paddled in the stream,
from morning sun till dine;
But seas between us broad have roared
since auld lang syne.

CHORUS
And there’s a hand my trusty friend !
And give us a hand o’ thine !
And we’ll take a right good-will draught,
for auld lang syne.

CHORUS


Những ngày đã xa

Nên quên đi thân thuộc cũ
Và không bao giờ nhớ lại?
Nên quên đi thân thuộc cũ
Và những ngày đã xa?

ĐIỆP KHÚC:
Cho những ngày đã xa, bạn quý
Cho những ngày đã xa
Chúng ta sẽ nâng chén ân cần
Cho những ngày đã xa.

Và chắc chắn là bạn sẽ mua cho bạn một ly
Và chắc chắn là tôi sẽ mua cho tôi!
Và chúng ta sẽ nâng ly ân cần,
Cho những ngày đã xa.

ĐIỆP KHÚC
Hai đứa tôi đã chạy trên những triền đồi
Hái hoa cúc dại
Nhưng chúng tôi đã lang thang những đôi chân mệt mõi
Từ những ngày đã xa

ĐIỆP KHÚC
Hai đứa tôi đã chèo trong suối
Từ sáng đến giờ cơm tối
Nhưng những con biển rộng giữa chúng tôi đã gào thét
Từ những ngày đã xa

ĐIỆP KHÚC
Và có một bàn tay, người bạn tin cẩn ơi!
Và giúp chúng tôi một tay!
Và chúng ta sẽ uống một ly tốt bụng
(Hay: Và chúng ta sẽ chèo đúng và tốt bụng)
Cho những ngày đã xa.

ĐIỆP KHÚC

(TĐH dịch)

Khỏi cần phải nói ta cũng biết là bản này được chơi khắp thế giới khi chuông giao thừa điểm 12 giờ đêm.
Sau đây mời các bạn đón giao thừa với vài video clips về Auld Lang Syne.

1. Auld Lang Syne, nhạc nền chính trong phim “Waterloo Bridge”.
2. Auld Lang Syne, do Dougie McLean hát bằng tiếng Tô-cách-lan.
3. Andre Rieu, trình tấu violin với các nhạc sĩ bag pipes của Tô-Cách-Lan.

Happy New Year! Chúc Mừng Năm Mới!

by Trần Đình Hoành

Thứ Năm, 30 tháng 12, 2010

ABBA Happy New Year 2011


Hạnh phúc năm mới

Hết xừ nó sâm banh rồi
Pháo hoa cũng tịt mít
Còn mỗi mình với nó
Chán vật!

Tiệc cũng tàn xừ nó rồi
Mới sáng ra giời xám ngoét
Thôi thì cứ mặc kệ hôm qua
Giờ mình với nó cứ gào cái đã

Hạnh phúc năm mới
Hạnh phúc năm mới
Cầu cho chúng mình thỉnh thoảng có thị lực
Ờ, vào nhà hàng xóm tự nhiên như vào nhà mình.. hè hè…
Hạnh phúc năm mới
Hạnh phúc năm mới
Cầu cho chúng mình đều có tí hy vọng và tí di chúc
Nếu không thì nằm xuống và chết đi
Cả mình và nó

Thỉnh thoảng mình lại nhìn thấy
Thế giới mới đi lại dũng cảm ra phết
Mình lại còn thấy nó ngoi lên trong đống tro của cuộc đời mình.. hè hè..
Ối giời, đàn ông toàn là lũ ngốc
Cứ tưởng là mình OK lắm đấy.. húc
Trông kìa, kéo lê cái quả chân đất sét
Lăng qua lăng quăng, vít

Hạnh phúc năm mới
Hạnh phúc năm mới
Cầu cho chúng mình thỉnh thoảng có thị lực
Ờ, vào nhà hàng xóm tự nhiên như vào nhà mình..hè hè…
Hạnh phúc năm mới
Hạnh phúc năm mới
Cầu cho chúng mình đều có tí hy vọng và tí di chúc
Nếu không thì nằm xuống và chết đi
Cả mình và nó

Ơ hơ, bây giờ tự nhiên mình thấy
Những quả mơ của mình lúc trước đều chết ngoẻo, chả còn đếch gì nữa.
Lại hết xừ nó một thập kỷ nữa
Mà mười năm nữa thì bố ai mà biết là cái gì chờ mình ở phía trước…hu hu

Thôi thì cứ nói: Hạnh phúc năm mới.
Hạnh phúc năm mới
Cầu cho chúng mình thỉnh thoảng có thị lực
Ờ, vào nhà hàng xóm tự nhiên như vào nhà mình..hè hè…
Hạnh phúc năm mới
Hạnh phúc năm mới
Cầu cho chúng mình đều có tí hy vọng và tí di chúc
Nếu không thì nằm xuống và chết đi
Cả mình và nó


Happy New Year – ABBA

No more champagne
And the fireworks are through
Here we are, me and you
Feeling lost and feeling blue

It’s the end of the party
And the morning seems so grey
So unlike yesterday
Now’s the time for us to say

Happy new year
Happy new year
May we all have a vision now and then
Of a world where every neighbour is a friend
Happy new year
Happy new year
May we all have our hopes, our will to try
If we don’t we might as well lay down and die
You and I

Sometimes I see
How the brave new world arrives
And I see how it thrives
In the ashes of our lives
Oh yes, man is a fool
And he thinks he’ll be okay
Dragging on, feet of clay
Never knowing he’s astray
Keeps on going anyway

Happy new year
Happy new year
May we all have a vision now and then
Of a world where every neighbour is a friend
Happy new year
Happy new year
May we all have our hopes, our will to try
If we don’t we might as well lay down and die
You and I

Seems to me now
That the dreams we had before
Are all dead, nothing more
Than confetti on the floor
It’s the end of a decade
In another ten years time
Who can say what we’ll find
What lies waiting down the line
In the end of eighty-nine
Happy new year
Happy new year
May we all have a vision now and then
Of a world where every neighbour is a friend
Happy new year
Happy new year
May we all have our hopes, our will to try
If we don’t we might as well lay down and die
You and I

 Lời chúc hi-tech hơn, lấy từ Google Translate
 
Không có thêm rượu sâm banh
Và pháo hoa được thông qua
Ở đây chúng tôi là, tôi và bạn
Cảm thấy bị mất và cảm giác màu xanh

Đó là kết thúc của Đảng
Và buổi sáng dường như rất xám
Vì vậy, không giống như ngày hôm qua
Bây giờ là lúc để chúng ta nói

Chúc mừng năm mới
Chúc mừng năm mới
Có thể chúng ta đều có một tầm nhìn bây giờ và sau đó
Trong một thế giới mà mỗi người hàng xóm là một người bạn
Chúc mừng năm mới
Chúc mừng năm mới
Có thể chúng ta đều có hy vọng của chúng tôi, sẽ của chúng tôi để cố gắng
Nếu chúng ta không chúng ta cũng có thể nằm xuống và chết
Bạn và tôi

Đôi khi tôi thấy
Làm thế nào thế giới mới dũng cảm đến
Và tôi thấy làm thế nào nó phát triển mạnh
Trong đống tro tàn của cuộc sống chúng ta
Oh có, người đàn ông là một kẻ ngốc
Và ông nghĩ rằng ông sẽ ổn thôi
Kéo về, chân đất sét
Không bao giờ biết anh lạc lối
Dù sao vẫn không ngừng đi

Chúc mừng năm mới
Chúc mừng năm mới
Có thể chúng ta đều có một tầm nhìn bây giờ và sau đó
Trong một thế giới mà mỗi người hàng xóm là một người bạn
Chúc mừng năm mới
Chúc mừng năm mới
Có thể chúng ta đều có hy vọng của chúng tôi, sẽ của chúng tôi để cố gắng
Nếu chúng ta không chúng ta cũng có thể nằm xuống và chết
Bạn và tôi

Dường như tôi bây giờ
Đó là ước mơ của chúng tôi đã có trước khi
Có phải tất cả không có gì, chết nhiều hơn
Than confetti trên sàn
Đó là kết thúc một thập kỷ
Trong một thời gian mười năm
Ai có thể nói những gì chúng ta sẽ tìm thấy
Những gì nằm chờ đợi xuống dòng
Trong phần cuối của 89
Chúc mừng năm mới
Chúc mừng năm mới
Có thể chúng ta đều có một tầm nhìn bây giờ và sau đó
Trong một thế giới mà mỗi người hàng xóm là một người bạn
Chúc mừng năm mới
Chúc mừng năm mới
Có thể chúng ta đều có hy vọng của chúng tôi, sẽ của chúng tôi để cố gắng
Nếu chúng ta không chúng ta cũng có thể nằm xuống và chết
Bạn và tôi
Đón năm mới qua những bài hát bất hủ


Bấm vào > để nghe phát trực tiếp ở thanh dưới cùng bên trái:
mag special new year HUNG 31.12.10
(16:45)













Thứ Tư, 29 tháng 12, 2010

Bài viết của Trung tướng Không quân Trung Quốc Lưu Á Châu về cuộc chiến xâm lược Việt Nam 1979

Lưu Á Châu là Trung tướng Không quân của Trung Quốc, Chính ủy Đại học Quốc Phòng Trung Quốc. Tại căn cứ Không quân Côn Minh - Vân Nam, Lưu Á Châu đã có một bài phát biểu có nhiều điểm làm cho người ta chú ý. Đọc bài phát biểu đó, chúng ta có thể nhận thức sâu thêm, hiểu kỹ hơn một vài vấn đề lâu nay chúng ta vẫn để tâm tìm hiểu và hiểu cái “cách” của Trung Quốc ứng xử với thế giới hiện đại.Từ trước, đối với cuộc chiến xâm lược Việt Nam 1979, chúng ta mới nghe câu nói của Đặng Tiểu Bình: “đánh để dạy cho Việt Nam một bài học”. Nhưng lần này, Lưu Á Châu, một vị tướng trong hàng ngũ cao cấp của Trung Quốc tiết lộ cho ta biết thêm: Trung Quốc đánh Việt Nam là để cho “Mỹ xem”, vì Mỹ vừa mới thua Việt Nam 1975, còn căm tức Việt Nam, đánh để “trả hận” cho người Mỹ; từ đó có được viện trợ của các nước phương Tây, đứng đầu là Mỹ: “Nhờ cuộc chiến này, Mỹ đã ồ ạt viện trợ kỹ thuật và cả viện trợ quân sự, tiền vốn cho Trung Quốc”… .VŨ HỒNG NGỰ



Trung tướng Không quân Trung Quốc Lưu Á Châu
VÌ SAO TRUNG QUỐC ĐÁNH VIỆT NAM NĂM 1979?
Sau khi nói về “Giấc mơ quân đội và đất nước hùng mạnh”; “đây không chỉ là giấc mơ mà đã trở thành niềm tin vững chắc của tôi”, “tôi rất yêu quý quân đội chúng ta, 15 tuổi, tôi nhập ngũ, đến nay đã 34 năm trong quân đội; tôi đã cống hiến cả tuổi thanh xuân và sẽ cống hiến cả đời mình cho quân đội”, ông ta nói về việc “quân đội Trung Quốc đã hai lần phát huy vai trò chính trị quan trọng”.
Một lần là sóng gió chính trị 4/6 (sự kiện quân đội giải tán biểu tình tại Thiên An Môn 4/6/1989). “Có thể nói, không giải quyết vấn đề “4/6”, không có cục diện phát triển phồn vinh của Trung Quốc ngày hôm nay; không có quân đội, vấn đề ngày “4/6” sẽ không giải quyết, cũng không thể có 13 năm huy hoàng”. Thiên An Môn là chuyện của Trung Quốc, còn đây là chuyện liên quan đến Việt Nam chúng ta. “Một lần khác là cuộc chiến tự vệ chống Việt Nam năm 1979 và cuộc chiến “Lưỡng Sơn” sau này (cuộc chiến “Lão Sơn” và “Giả Âm Sơn” theo cách gọi của Trung Quốc, tức cuộc lấn chiếm của Trung Quốc ở khu vực điểm cao 1509 huyện Vị Xuyên và Núi Bạc, huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang, Việt Nam - N.D). Đặc biệt là cuộc chiến tự vệ đánh trả Việt Nam năm 1979, nhiều đồng chí chưa nhận thức được ý nghĩa của cuộc chiến này.
Khi đó, có người nói: chúng ta đánh nhau với người Việt Nam, hiện nay, những người hy sinh là liệt sĩ, sau khi quan hệ hai nước trở lại tốt đẹp, họ sẽ là gì? Tôi trả lời: “Vẫn là liệt sĩ!”. Vì sao? Chúng ta phải nhìn nhận cuộc chiến này từ góc độ chính trị. Ý nghĩa của cuộc chiến này nằm bên ngoài cuộc chiến. Cuộc chiến này của đồng chí Đặng Tiểu Bình là đánh để hai người xem, một là Đảng Cộng sản Trung Quốc, hai là người Mỹ.
Sau khi Đặng Tiểu Bình trở lại cầm quyền vào năm 1978, tháng 1/1979, ông thăm Mỹ, tháng 2/1979 đánh Việt Nam. Về chính trị, cuộc chiến này không thể không đánh. Vì sao? Sau khi Đặng Tiểu Bình trở lại nắm quyền, chương trình cải cách mở cửa của Trung Quốc đã được ông vạch sẵn, muốn thực hiện chương trình này phải xác lập quyền lực tuyệt đối trong nội bộ Đảng. Phải đánh một trận. Khi đó, “bè lũ bốn tên” vừa bị đập tan, những người có tư tưởng cực tả trong nội bộ Đảng còn rất đông, họ vừa chống lại Đặng Tiểu Bình, vừa phản đối lại đường lối và chính sách của ông. Muốn cải cách phải có quyền lực. Biện pháp xác định quyền lực nhanh nhất là gây chiến tranh. Lưu Dụ (?) cũng làm như vậy. Khi đó, rất nhiều người phản đối chiến tranh, cho rằng Quân Giải phóng vừa trải qua “cách mạng văn hóa”, không thể đánh trận được. Tuy nhiên, Đặng Tiểu Bình rất quyết đoán, dẹp mọi tranh cãi, chỉ huy Quân Giải phóng ào ạt vượt qua biên giới vào ngày 17/2. Thứ hai là người Mỹ, ý nghĩa của việc này cũng rất lớn.
Đến nay, Đặng Tiểu Bình đã xa chúng ta được 5 năm, nhưng tôi cũng luôn cảm thấy ông ở cạnh bên chúng ta. Lý Hiến Trung (Chủ nhiệm Chính trị Bộ Tư lệnh Không quân Bắc Kinh) nói: “Mao Trạch Đông của chúng ta, càng ngẫm càng thấy vĩ đại”. Thời gian càng lùi xa, sự vĩ đại của Đặng Tiểu Bình càng khiến chúng ta cảm nhận rõ ràng hơn. Ông chuyển hướng cả đất nước Trung Quốc chúng ta. Các đồng chí thấy đấy, cuộc chiến này xảy ra năm 1979.
Trung tướng Lưu Á Châu. Nguồn: Shanghaiist.com.
Năm 1975, sau khi hao binh tổn tướng, người Mỹ cuống cuồng tháo chạy khỏi Việt Nam. Đặng Tiểu Bình nói, tôi dạy cho Việt Nam một bài học. Khi đó, Việt Nam đang theo ai? Đang theo Liên Xô. Đặng Tiểu Bình tấn công. Cuộc chiến phản kích tự vệ đối với Việt Nam vào lúc đó của Đặng Tiểu Bình thực sự đã đưa Trung Quốc ra khỏi cái gọi là phe xã hội chủ nghĩa của Liên Xô. Khi ấy, nhiều nước Đông Âu không hài lòng, nói rằng một nước xã hội chủ nghĩa lại đánh một nước xã hội chủ nghĩa khác. Khi đó, Đặng Tiểu Bình đã thấy rõ không cần thứ chủ nghĩa xã hội ấy của họ. Kết quả như thế nào? Chủ nghĩa xã hội giả hiệu đã chết yểu.
Vào năm 1989, tất cả các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ hàng loạt. Ngay cả Liên Xô cũng tan rã. 10 năm trước đó, Đặng Tiểu Bình đã nhận ra vấn đề này, dùng chiến tranh để vạch rõ ranh giới với các nước xã hội chủ nghĩa. Đặng Tiểu Bình, thật là một kỳ tài! Vừa rồi, tôi nói gây ra cuộc chiến tranh này vì người Mỹ, chính là trả hận cho người Mỹ. Có bằng chứng không? Có đấy. Ngày hôm trước rời Nhà Trắng thì ngày hôm sau, Đặng Tiểu Bình bắt đầu đánh Việt Nam. Vì sao có thể giúp Mỹ hả giận? Bởi vì, người Mỹ vừa tháo chạy nhục nhã khỏi Việt Nam. Chúng ta sao lại giúp người Mỹ hả giận? Thực ra không phải vì Mỹ, mà là vì chúng ta, vì cải cách mở cửa. Trung Quốc không thể cải cách mở cửa mà không có viện trợ của các nước phương Tây, đứng đầu là Mỹ. Nhờ cuộc chiến này, Mỹ đã ồ ạt viện trợ kinh tế, kỹ thuật, khoa học kỹ thuật và cả viện trợ quân sự, tiền vốn cho Trung Quốc.
Tuần trăng mật giữa Mỹ và Trung Quốc kéo dài đến mười năm, đến ngày 4/6/1989 mới tạm lắng. Cuộc chiến này đem lại cho Trung Quốc những gì? Đó là một lượng lớn thời gian, tiền bạc và kỹ thuật. Nhờ những yếu tố này, Trung Quốc tiếp tục đứng vững sau khi Liên Xô sụp đổ. Đây là thành công vĩ đại. Thậm chí có thể nói, bước đi đầu tiên của cải cách mở cửa Trung Quốc chính là từ cuộc chiến tranh này. Với ý nghĩa đó, cống hiến của quân đội Trung Quốc đối với công cuộc cải cách mở cửa thật to lớn vô cùng” (1).
Người Việt Nam chúng ta cũng nên biết về chuyện nội bộ của quân đội Trung Quốc, từ cách nhìn của người chỉ huy cao cấp, đã nhuốm màu “quan phương”, nhưng cũng có tình tiết lý thú; làm ta hiểu rõ thêm thực chất của cuộc chiến tranh mà ông Lưu gọi là “tự vệ”! (Trung Quốc đánh Việt Nam từ lệnh của Đặng Tiểu Bình là do ông nói ra, chứ Việt Nam có đánh Trung Quốc trước đâu!).

TÂM LÝ QUÂN ĐỘI TRUNG QUỐC - NHÌN TỪ ÔNG LƯU
Khi đó, tôi đến thăm bộ đội tham gia chiến đấu, để lại ấn tượng rất sâu đậm đối với tôi. Khi ấy, cải cách mở cửa đã bắt đầu, đặc biệt là khi tác chiến ở “Lưỡng Sơn”, hậu phương vẫn ca hát nhảy múa trong thanh bình. Các cán bộ chiến sĩ không những phải đối mặt với thử thách sinh tử, mà đều có gánh nặng cuộc sống. Đặc biệt là cán bộ cơ sở, hầu hết gia đình đều rất khó khăn. Lúc đó, tôi đến viếng một chính trị viên đại đội của Quân đoàn 14, anh ta đã hy sinh. Vợ anh ta gặp tôi, nói rằng, trước khi ra trận, chồng chị vẫn còn nợ tiền, khi phát lương tháng cuối cùng trước khi ra trận, trừ hết các khoản nợ, chỉ còn 5 xu tiền lương trong túi. Cuối cùng, cô ấy đưa cho tôi xem bản kê di vật, chỉ còn đúng 5 xu. Tôi thấy thật xót xa.
Có một chiến sĩ gia đình nghèo đói, di chúc của họ thật đầy máu và nước mắt. Trong di chúc của một chiến sĩ, có đoạn, nếu tôi chết, mong công xã hãy cho gia đình tôi một con bò. Có người khác viết, nếu tôi chết, hãy cởi bộ quân phục của tôi đem về quê, anh em nhà tôi không có quần áo để mặc. Xem những trang viết này thật là xót xa.
Tinh thần của các binh sĩ vĩ đại như núi Thái Sơn. Từ hậu phương đến tiền tuyến, tôi thấy sự chênh lệch quá lớn, không thể nói lên lời! Không chỉ là cuộc sống mà còn những cái khác. Chẳng hạn, tôi đã từng điều tra bộ đội tham chiến ở bốn quân đoàn, những cán bộ có vợ chưa cưới thì 100% đều từ hôn, không có trường hợp ngoại lệ. Tôi xem thư đoạn tuyệt hôn nhân của một cô gái, viết cũng rất có lý: “Anh hy sinh không còn không sao, nếu anh bị thương mất chân mất tay, chúng ta sẽ biết sống ra sao?”. Đây cũng là thực tế. Một chính trị viên phó đại đội ở quân đoàn 27 dẫn đầu đội xung kích tấn công một ngọn núi, bị hy sinh, cả đội xung kích có 30 người thì hy sinh 20.
Sau khi trở về, đại đội tập hợp những người sống sót trong toàn đại đội điểm danh, thi thể của chính trị viên phó đại đội và hai mươi mấy chiến sĩ đặt trên một sân phơi của dân. Vào lúc đó, thư của vợ chưa cưới chính trị viên phó cũng vừa gửi đến. Thư gì vậy? Thư cắt đứt quan hệ hôn nhân. Trước mặt những người sống sót và trước thi thể những người đã hy sinh trong đó có chính trị viên phó, đại đội trưởng đã đọc bức thư ấy, các chiến sĩ toàn đơn vị ai cũng đầm đìa nước mắt. Tôi luôn thấm thía khung cảnh khi ấy và tâm trạng của họ. Ánh sáng nhân tính vào thời điểm ấy mới rực sáng nhất. Khi bước vào chiến đấu rất hiếm thấy lời nói hùng hồn. Thật sự có thể làm rung động lòng người thì tuyệt đối không thể tràng giang đại hải, càng không thể là đạo lý suông. Trầm tĩnh có sức mạnh lớn hơn nhiều so với ồn ào náo động.
Tôi đi qua một đơn vị chuẩn bị bước vào chiến đấu, tâm trạng háo hức trước khi tham chiến của bộ đội như miêu tả trong tiểu thuyết, trên phim ảnh, truyền hình… tất cả đều chỉ là sự phóng đại. Trước khi tác chiến, một vùng bộ đội đóng quân tĩnh lặng như tờ. Cán bộ chỉ huy đều ẩn nấp ở nơi rất xa. Khi thời bình, số cán bộ chỉ huy này rất khí phách hào hùng. Có một cán bộ cho đến nay vẫn còn duy trì quan hệ với tôi. Khi đó tôi là cán bộ cấp Tiểu đoàn phó, anh là Sư đoàn trưởng. Anh gặp tôi, nói một cách khí phách: “Tôi có 3 suy nghĩ, cậu hãy viết thành sách cho tôi! Thứ nhất, tôi muốn làm George Smith Patton Jr của Trung Quốc; thứ hai, binh sĩ được coi là gì? Binh sĩ chính là những con số Ả rập; thứ 3, tôi mong mỏi được đánh trận. Đánh một trận thăng một cấp”.
Chính vì mấy câu nói đó, tôi đã không tha thứ cho anh ấy. Anh ấy không có thiện cảm với chiến sĩ. Thời bình, nếu Đại đội trưởng, người chỉ huy có quan hệ tốt với chiến sĩ, thì có thể đoàn kết thành một tập thể vững mạnh, nhưng nếu có chút mâu thuẫn, chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng mỗi người một phách. Tuy nhiên, khi chiến tranh nổ ra, cán bộ, chiến sĩ cũng sẽ sẵn sàng xông pha không chùn bước.
Các bạn đều biết tôi từng viết một tác phẩm có tiêu đề Vương Nhân Tiên. Tác phẩm này đã gây tiếng vang rất lớn. Vương Nhân Tiên là Phó Tham mưu Đại đội thuộc Sư đoàn 14, Quân đoàn 14, người Côn Minh, thuộc dòng dõi con em cán bộ. Trước chiến tranh, Vương Nhân Tiên từng bị xử lý do vi phạm kỷ luật, sau này hy sinh. Có người cho rằng anh ấy không phải là anh hùng, nhưng tôi cho rằng anh ấy là anh hùng, hơn thế nữa còn là anh hùng đích thực.
Quân đoàn trưởng Quân đoàn 14 khi đó, xxx từng nói: “Nghe nói Lưu Á Châu muốn viết về Vương Nhân Tiên? Quân đoàn 14 có nhiều nhân vật anh hùng như vậy sao không viết, lại đi viết về một người như vậy?”. Người khác đem chuyện này kể với tôi, tôi chỉ bĩu môi một cách khinh thường. Hugo từng nói, trong chủ nghĩa anh hùng đích thực tuyệt đối có một chủ nghĩa nhân đạo đích thực tuyệt đối. Rủi ro của Vương Nhân Tiên chính là điển hình của chủ nghĩa nhân đạo, đồng thời cũng là điển hình của chủ nghĩa anh hùng.
Vương Nhân Tiên vốn yêu một cô bạn gái tại Côn Minh, nhưng khi quân đội di chuyển đến Lão Sơn, cô bạn gái này đã cắt đứt quan hệ với Vương Nhân Tiên. Sau khi quân đội tiến vào khu vực Lão Sơn, đóng quân tại một địa phương gọi là Lạc Thủy Động. Vương Nhân Tiên và một số cán bộ khác ở trong một gia đình nông dân người Miêu. Nữ chủ nhà là một cô gái dân tộc Miêu rất xinh đẹp, vừa kết hôn không lâu, có một đứa con mới sinh. Tính cách của cô gái này tràn đầy nhiệt huyết, rắn rỏi khí khái. Đa phần các cô gái dân tộc thiểu số đều có đặc điểm chung như vậy. Không giống với các cô gái dân tộc Hán, không dám yêu cũng không dám oán hận. Dân tộc Hán là một dân tộc không có tình yêu nhất. Dù dân tộc Hán có dân số đông nhất trên thế giới, nhưng họ không có tình yêu. Ở nước ngoài vì tình yêu có thể gây chiến tranh, Trung Quốc có thể không? Ngô Tam Quế được coi là nam nhi dám chiến đấu vì tình yêu, lại vẫn bị cho là Hán gian.
Cô gái Miêu. Tranh của Jin Ming Lee.
Cô gái người Miêu ở Lạc Thủy Động sau khi nhìn thấy Vương Nhân Tiên đẹp trai, phong độ, cao 1m82. Nghe nói trên khuôn mặt anh ấy luôn mỉm cười, ban đầu Vương Nhân Tiên không hề để ý tới cô ta. Phụ nữ nông thôn mà, gia cảnh rất nghèo. Mặc dù, lớn lên rất xinh đẹp, nhưng đã là người có con. Trước khi bộ đội lên Lão Sơn, cô gái người Miêu đã rót nước vào bình cho tất cả các chiến sĩ đóng quân tại nhà cô và cố ý cho thêm đường vào bình của Vương Nhân Tiên, đường cho vào nhiều đến mức ngọt như mật ong.
Buổi tối, cô gái người Miêu bế con đến phòng của Vương Nhân Tiên. Cô đã hành động một cách tự nhiên nhất trước mặt Vương Nhân Tiên: cởi áo cho con bú. Hai người cứ ngồi với nhau như vậy trong căn phòng. Vương Nhân Tiên ra sức rít thuốc. Anh ấy đang cố gắng kìm chế. Nhưng cuối cùng không kìm chế nổi. Vì sao không thể? Điều này là có lý do, lý do đó chính là ngày mai bộ đội phải lên Lão Sơn. Chuyến đi này có thể anh ấy muốn “ghi danh”. Anh ấy là người đàn ông có tâm huyết, chính trực, chưa từng quan hệ với phụ nữ. Anh khẳng định, nghĩ lại chuyện đó anh vẫn không đành lòng. Đây là lẽ hết sức thường tình của con người.
Khi đó, hai người đã quan hệ trong chuồng heo. Ngày thứ 2, tình hình đột nhiên thay đổi, các cuộc tiến công đã bị hoãn lại. Kế hoạch tác chiến bị trì hoãn, vì vậy tình yêu của họ đã đến một cách tự nhiên như vậy. Bất cứ việc gì đều giống nhau, đã có một lần thì sẽ có một trăm lần. Trong những ngày đó, bất cứ nơi đâu của Lạc Thủy Động đều lưu lại những hình ảnh yêu thương của họ. Tuy nhiên, số lần quan hệ trong chuồng heo cũng tương đối nhiều. Vương Nhân Tiên sau mỗi lần làm chuyện đó đều hút thuốc, hết điếu này đến điếu khác, thật là nguy hiểm. Cô gái Miêu rất hạnh phúc, đã hát ngay tại chuồng heo. Một cô gái thật có cá tính!
Sau này, người chồng của cô đã phát hiện ra, hỏi cô đã quan hệ với ai, cô không nói, cuối cùng chồng cô đã báo cáo vụ việc lên đơn vị. Tập đoàn quân 14 cảm thấy đây là một sự việc hết sức nghiêm trọng, phá hoại kỷ luật quần chúng. Quân đoàn trưởng Quân đoàn 14 xxx ra lệnh xử nghiêm. Quân đội đã triệu tập tất cả các cán bộ và binh lính đóng gần nhà cô gái Miêu, xếp thành hàng, gọi cho cô gái đến nhận mặt. Cô gái người Miêu thật cương nghị, hôm đó tôi cảm thấy còn phải cung kính nể phục. Cô bước tới phía trước Vương Nhân Tiên, chỉ tay nói: “Chính là anh ấy” rồi lại nói một câu gì đó, tôi nghe không hết, nhưng ý nói là tôi thích anh ấy, tôi yêu anh ấy. Trưởng ban Bảo vệ nói: “Tôi đã sớm đoán được là Vương Nhân Tiên. Tôi đã nhìn thấy đầu thuốc lá cao cấp có ở khắp nơi trong chuồng heo. Mùi thơm của những đầu thuốc này chỉ có anh ta hút”.
Vương Nhân Tiên bị kỷ luật và giáng cấp từ Phó Đại đội xuống cấp Trung đội. Ngày tấn công Lão Sơn, Trung đoàn điều Vương Nhân Tiên lên tuyến đầu. Ngày 12/7, một sư đoàn của Việt Nam và quân ta đã xảy ra một cuộc chiến giằng co quyết liệt tại khu vực Lão Sơn. Pháo bắn suốt ngày đêm. Vì Lạc Thủy Động cách tuyến đầu rất gần, có thể nhìn thấy một vùng trời rực lửa đạn bom. Cô gái người Miêu cứ ngồi ở đầu thôn, ngóng về phía Lão Sơn. Người chồng đã đánh cô, xuống tay rất nặng. Đầu và mồm đều bị chảy máu, làm cô bất động. Vương Nhân Tiên đang chiến đấu tại điểm cao nhất của mặt trận. Anh là tham mưu pháo binh, đã kịp thời báo cáo hàng nghìn tình huống cho pháo binh tuyến sau. Hỏa lực pháo binh của quân ta dài như tầm mắt, dội lên đầu kẻ địch.
Tháng 8, tôi leo lên Lão Sơn, nhìn xuống phía dưới, vẫn còn nhìn thấy cảnh thây xác. Đó đều là xác quân địch bị bắn chết trong cuộc chiến “12/7”. Sau này, quân địch phát hiện trên địa phương này có căn cứ, đã tập trung hỏa lực đánh vào đây. Vương Nhân Tiên đã hy sinh. Đồng đội của anh ấy nói rằng, khi chết, anh đang dựa vào một gốc cây và cứ đứng chết như vậy. Sau khi bộ đội rút đi, vẫn đi qua Lạc Thủy Động. Cô gái người Miêu đứng ở đầu thôn, tìm từng người, từng người một. Các sĩ quan binh lính đi ngang qua cô, họ đều cúi đầu, giống như đã phạm một lỗi lầm. Họ đã thay đổi quan điểm về Vương Nhân Tiên và khi đó đã có một tâm trạng hoàn toàn thay đổi.
Cuối cùng, cô gái cũng biết Vương Nhân Tiên đã hy sinh. Bạn xem cô gái đó sẽ làm gì? Cô đã bán tài sản trong nhà lấy tiền mặt, mua hai tút thuốc lá đầu lọc tương đối cao cấp, đến trước mộ của Vương Nhân Tiên, bóc toàn bộ hai tút thuốc, rồi châm lửa từng điếu từng điếu một, cắm lên mộ. Trên mộ đã cắm đầy thuốc. Khi đó, tôi nghe thấy hết sức cảm động.
Năm 1984, khi tôi đến Lão Sơn thì mộ của Vương Nhân Tiên đã được xây rồi. Ban đầu, trong quân đội không ghi công cho Vương Nhân Tiên, sau này, do yêu cầu mạnh mẽ của các nhà văn như chúng tôi, Vương Nhân Tiên đã được ghi công, đại để được ghi công hạng nhất. Khi đó, tôi đi tìm bia mộ tại nghĩa trang liệt sĩ và tôi đã tìm thấy. Tôi đã học theo cách của cô gái người Miêu, bóc một bao thuốc lá, đốt từng điếu và cắm lên mộ anh. Khi đó, tôi là Phó Tiểu đoàn Ban Liên lạc Không quân.
Năm 1999, tức 15 năm sau đó, tôi đảm nhiệm cương vị Chủ nhiệm Chính trị Không quân Bắc Kinh, tôi lại cùng một vài đồng chí Trưởng ban như Vương Xuân Ba, Lưu Phan đã đến nghĩa trang liệt sĩ Ma Lật Pha. Lão Sơn vẫn xanh tươi như xưa. Lần đó, tôi chỉ mang rượu, thuốc lá từ Bắc Kinh, trước mộ Vương Nhân Tiên tôi đã rót rượu và châm thuốc mời anh. Tôi và các đồng chí đi cùng đều không cầm được nước mắt. Họ nói, Chủ nhiệm vẫn còn tình cảm sâu đậm với vùng đất này quá! Sau khi tôi đến công tác tại Không quân Thành Đô, tạm thời tôi vẫn chưa đi. Đương nhiên tôi muốn đi. Bia mộ ngàn năm vẫn biết nói. Khu vực Ma Lật Pha có vài nghìn ngôi mộ, đến gần mỗi ngôi mộ là đến gần một linh hồn. Đến gần nghĩa trang liệt sĩ Ma Lật Pha, những toan tính đời thường trong đầu không còn tồn tại nữa (2).

V.H.N trích bình
--------------------------------------------------------------------------------
(1) & (2):Bản dịch của TTXVN.
Bài liên quan:
Đọc Lưu Á Châu để hiểu thêm một vài vấn đề về Trung Quốc (kỳ cuối)

Vấn Đề Biên Giới Giữa Việt Nam Và Trung Quốc (NXB Sự Thật 1979)

VẤN ĐỀ BIÊN GIỚI GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội-1979
Phụ trách bản đưa in: Phạm Xuyên, Nguyễn Hanh
Trình bày bìa: Nghiêm Xuân Thành
In 5.100 cuốn, khổ 12,5x19 tại Nhà máy in Tiến bộ-Hà Nội. Số in 528, Số XB 15/79
Xong ngày 15 tháng 4 năm 1979. Nộp lưu chiểu tháng 4-1979



LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Việt Nam là một nước độc lập có chủ quyền. Đường biên giới Việt Nam và Trung Quốc đã hình thành rõ rệt trong nhiều thế kỷ trước. Đã nhiều lần trong lịch sử, nước ta đã cử các sứ bộ sang Trung Quốc họp hoặc hội nghị với Trung Quốc (như hai cuộc Hội nghị Vĩnh Bình giữa nhà Lý và nhà Tống năm 1033 và năm 1084 ) để ấn định biên cương.
Đến thế kỷ thứ XIX đế quốc Pháp thiết lập chế độ thực dân ở nước ta, Chính phủ Pháp nhân danh Việt Nam và triều đình nhà Thanh ký các Công ước 1887, 1895 giải quyết vấn đề biên giới Việt Nam và Trung Quốc, chính thức công nhận đường biên giới đó. Đồng thời đường biên giới đó được cụ thể hoá bằng 310 cột mốc quốc giới, trên thực địa đã có phần lợi cho phía Trung Quốc.
Mặc dù vậy, để xây dựng biên giới hữu nghị lâu dài giữa Việt Nam và Trung Quốc vì lợi ích của cả hai dân tộc, tháng 12 năm 1957, Ban Chấp hành trung ương Đảng ta đã đề nghị nguyên tắc giữ nguyên trạng đường biên giới do lịch sử để lại, mọi vấn đề biên giới và lãnh thổ phải do hai Chính phủ quyết định, mọi vấn đề tranh chấp có thể xảy ra về biên giới và lãnh thổ cần được giải quyết bằng thương lượng hoà bình. Tháng 4 năm 1958 phía Trung Quốc trả lời đồng ý với đề nghị của Đảng ta.
Nhưng trong thực tế, thái độ của phía Trung Quốc trái ngược hẳn. Thi hành chính sách bành trướng đại dân tộc và học đòi thái độ hống hách đè nén các dân tộc, các nước láng giềng của các triều đại phong kiến trước đây, nhà cầm quyền Bắc Kinh trong nhiều năm nay đã gây ra bao nhiêu vụ khiêu khích biên giới, lấn chiếm đất đai của Việt Nam, phá hoại hai cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 1974 và năm 1977-1978 để giải quyết vấn đề biên giới. Ngày 17 tháng 2 năm 1979 họ lại phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, ồ ạt tiến đánh 6 tỉnh của Việt Nam tiếp giáp với Trung Quốc với 60 vạn quân.
Để giúp bạn đọc hiểu được thực chất của vấn đề biên giới Việt –Trung, thấy rõ thiện chí của Đảng, Chính phủ và nhân dân ta, thái độ phản trắc của những người cầm quyền Trung Quốc, Nhà xuất bản Sự Thật xuất bản cuốn sách này. Cuốn sách gồm toàn bộ bản “ Bị vong lục của Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc nhà cầm quyền Trung Quốc gây khiêu khích, xâm lấn lãnh thổ Việt nam ở vùng biên giới” công bố ngày 15 tháng 3 năm 1979 tại Hà Nội.
Chúng tôi chú thích thêm một số điểm ở cuối sách để bạn đọc tham khảo.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 3 năm 1979
NHÀ XUẤT BẢN SỰ THẬT
 
VẤN ĐỀ BIÊN GIỚI GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

I- Sự hình thành biên giới lịch sử giữa Việt Nam và Trung Quốc và sự thoả thuận năm 1957-1958 về biên giới giữa hai nước.
1-- Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng giáp giới nhau trên đất liền và trên biển (vịnh Bắc Bộ). Đường biên giới giữa hai nước đã được hình thành qua quá trình lịch sử lâu dài. Trước khi bị Pháp áp đặt chế độ thực dân, Việt Nam đã là một nước độc lập có chủ quyền, có đường biên giới rõ rệt, ổn định với Trung Quốc.
Cách đây gần 100 năm, Chính phủ Pháp và triều đình nhà Thanh Trung Quốc đã ký kết các Công ước 1887-1895 giải quyết vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, chính thức công nhận về cơ bản đường biên giới vốn có đó.
Việc hoạch định biên giới đã được hai bên cùng tiến hành theo từng đoạn từ tháng 1 năm 1886 đến tháng 3 năm 1887; ngày 26 tháng 6 năm 1887 hai Chính phủ nói trên đã ký Công ước hoạch định biên giới tại Bắc Kinh. Điều 1 của Công ước này đã hoạch định đoạn biên giới giữa Việt Nam với các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và một phần tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). Điều 2 của Công ước đã hoạch định biên giới trong vịnh Bắc Bộ và đoạn biên giới giữa Việt Nam và phần còn lại của tỉnh Vân Nam cho đến Sông Đà. Chính phủ Pháp và triều đình nhà Thanh lại ký tại Bắc Kinh Công ước ngày 20 tháng 6 năm 1895 bổ sung cho Công ước năm 1887 nói rõ thêm về đoạn biên giới giữa Việt Nam và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) 1.
Việc cắm mốc đã được tiến hành từ đầu năm 1890 đến tháng 6 năm 1897. Hệ thống mốc giới gồm trên 310 mốc đã cụ thể hoá đường biên giới trên thực địa; nói chung các mốc giới đó còn tồn tại cho đến ngày nay.
Thực tế, từ ngày ký các Công ước, các chính quyền kế tiếp nhau ở hai bên đều thực hiện chủ quyền trong vùng đất và phần vịnh Bắc Bộ do đường biên giới phân định. Tuy nhiên các chính quyền phản động của Trung Quốc từ 1949 về trước cũng đã lấn chiếm trên 60 điểm của Việt Nam.
Như vậy, đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc chạy suốt trên đất liền và trong vịnh Bắc Bộ đã được hoạch định rõ ràng trong các Công ước ký kết giữa Chính phủ Pháp và triều đình nhà Thanh trong những năm 1887-1895 và đã được chính thức cắm mốc ( trên đất liền). Đó là một đường biên giới hoàn chỉnh cả trên trên đất và trong vịnh Bắc Bộ, có cơ sở lịch sử trong đời sống chính trị lâu đời của hai dân tộc, có giá trị pháp lý quốc tế vững chắc, có đầy đủ yếu tố thực tế để nhìn nhận tại thực địa.
Qua các văn kiện trao đổi, Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc đã nhiều lần xác nhận đường biên giới lịch sử đó. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng cuộc đàm phán và ký kết Công ước hoạch định biên giới đã được tiến hành song song với việc đàm phán ký kết Công ước về thương mại giữa Pháp và nhà Thanh. Triều đình nhà Thanh ra sức liên kết hai vấn đề này để gây sức ép với Pháp. Trong quá trình thương lượng, vì mục đích sớm mở rộng buôn bán với Trung Quốc, thành lập các lãnh sự quán Pháp trên đất Trung Quốc và nhanh chóng thực hiện kế hoạch bình định Việt Nam, Pháp đã cắt nhượng cho nhà Thanh mũi Bắc Luân, vùng Giang Bình, tổng Tu Long và một số nơi khác, làm thiệt hại cho nhân dân Việt Nam.
2--Mặc dù vậy, tháng 11 năm 1957, Ban Chấp hành trung ương Đảng Lao Động Việt Nam ( tức Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay) đã nêu với phía Trung Quốc: hai bên giữ nguyên trạng 2 đường biên giới do lịch sử để lại, vấn đề quốc giới là vấn đề quan trọng nên cần được giải quyết theo những nguyên tắc pháp lý đang có hoặc được xác định lại và phải do Chính phủ hai nước quyết định, mọi tranh chấp có thể xảy ra về biên giới, lãnh thổ cần được giải quyết bằng thương lượng. Đây là một chủ trương đúng đắn, hợp tình hợp lý, phù hợp với thực tế lịch sử và luật pháp quốc tế. Tháng 4 năm 1958, Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc trả lời đồng ý với đề nghị của phía Việt Nam. Sự thoả thuận nói trên của hai Đảng có ý nghĩa nguyên tắc và thực tiễn to lớn vì không những để giải quyết các vấn đề bất đồng về biên giới và lãnh thổ mà còn để xây dựng đường biên giới hữu nghị lâu dài giữa hai nước. Đó là những ý nghĩ chân thành và lòng mong muốn thật sự của Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam, cho nên phía Việt Nam luôn luôn triệt để tôn trọng sự thoả thuận giữa hai Trung ương Đảng.
Nhưng thái độ của phía Trung Quốc lại trái ngược hẳn, họ vi phạm ngày càng nghiêm trọng sự thoả thuận đó và không tôn trọng nguyên tắc giữ nguyên trạng đường biên giới do lịch sử để lại và đã lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở 90 điểm trên toàn tuyến biên giới Việt Trung từ 1949 đến nay.

II- Tình hình Trung quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ năm 1954 đến nay.
Trong một phần tư thế kỷ vừa qua, nhà cầm quyền Trung Quốc đã lần lượt lấn chiếm hết khu vực này đến khu vực khác của Việt nam, từ khu vực nhỏ hẹp đến khu vực to lớn, từ khu vực quan trọng về quân sự đến khu vực quan trọng về kinh tế. Họ đã dùng đủ mọi thủ đoạn, kể cả những thủ đoạn xấu xa mà các chế độ phản động của Trung Quốc trước kia không dùng.
1--Từ xâm canh, xâm cư đến xâm chiếm đất.
Lợi dụng đặc điểm là núi sông hai nước ở nhiều nơi liền một dải, nhân dân hai bên biên giới vốn có quan hệ họ hàng, dân tộc, phía Trung Quốc đã đưa dân họ vào những vùng lãnh thổ Việt Nam để làm ruộng, làm nương rồi định cư những người dân đó ở luôn chỗ có ruộng nương, cuối cùng nhà cầm quyền Trung Quốc ngang ngược coi những khu vực đó là lãnh thổ Trung Quốc.
+ Khu vực Trình Tường thuộc tỉnh Quảng Ninh là một thí dụ điển hình cho kiểu lấn chiếm đó. Khu vực này được các văn bản và các bản đồ hoạch định và cắm mốc xác định rõ ràng là thuộc lãnh thổ Việt Nam: đường biên giới lịch sử tại đây đi qua một dãy núi cao, chỉ rõ làng Trình Tường và vùng chung quanh là lãnh thổ Việt Nam. Trên thực tế, trong bao nhiêu đời qua, những người dân Trình Tường, những người Trung Quốc sang quá canh ở Trình Tường đều đóng thuế cho nhà đương cục Việt Nam. Nhưng từ năm 1956 phía Trung Quốc tìm cách nắm số dân Trung Quốc sang làm ăn ở Trình Tường bằng cách cung cấp cho họ các loại tem phiếu mua đường, vải và nhiều hàng khác, đưa họ vào công xã Đồng Tâm thuộc huyện Đông Hưng, khu tự trị Choang-Quảng Tây. Nhà đương cục Trung Quốc nghiễm nhiên biến một vùng lãnh thổ Việt Nam dài 6 km, sâu hơn 1,3 km thành sở hữu tập thể của một công xã Trung Quốc, thành lãnh thổ Trung Quốc. Từ đó, họ đuổi những người Việt Nam đã nhiều đời nay làm ăn sinh sống ở Trình Tường đi nơi khác, đặt đường dây điện thoại, tự cho phép đi tuần tra khu vực này, đơn phương sửa lại đường biên giới sang đồi Khâu Thúc của Việt Nam. Tiếp đó họ đã gây ra rất nhiều vụ hành hung, bắt cóc công an vũ trang Việt Nam đi tuần tra theo đường biên giới lịch sử và họ phá hoại hoa màu của nhân dân địa phương. Trình Tường không phải là một trường hợp riêng lẻ, còn đến trên 40 điểm khác mà phía Trung Quốc tranh lấn với thủ đoạn tương tự như xã Thanh Loa, huyện Cao Lộc (mốc 25, 26, 27) ở Lạng Sơn, Khăm Khau (mốc 17-19) ở Cao Bằng, Tà Lùng, Làn Phù Phìn, Minh Tân (mốc 14) ở Hà Tuyên, khu vực xã Nặm Chay (mốc 2-3) ở Hoàng Liên nSơn với chiều dài hơn 4 km, sâu hơn 1 km, diện tích hơn 300 ha. Có thể nói đây là một kiểu chiếm đất một cách êm lặng.
2--Lợi dụng việc xây dựng các công trình hữu nghị để đẩy lùi biên giới sâu vào lãnh thổ Việt Nam.
Năm 1955, tại khu vực Hữu Nghị Quan, khi giúp Việt Nam khôi phục đoạn đường sắt từ biên giới Việt-Trung đến Yên Viên gần Hà Nội, lợi dụng lòng tin của Việt nam, phía Trung Quốc đã đặt điểm nối ray đường sắt Việt Trung sâu trong lãnh thổ Việt nam trên 300 m so với đường biên giới lịch sử, coi điểm nối ray là điểm mà đường biên giới giữa hai nước đi qua. Ngày 31 tháng 12 năm 1974, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã đề nghị Chính phủ hai nước giao cho ngành đường sắt hai bên điều chỉnh lại điểm nối ray cho phù hợp với đường biên giới lịch sử nhưng họ một mực khước từ bằng cách hẹn đến khi hai bên bàn toàn bộ vấn đề biên giới thì sẽ xem xét. Cho đến nay họ vẫn trắng trợn nguỵ biện rằng khu vực hơn 300 m đường sắt đó là đất Trung Quốc với lập luận rằng “ không thể có đường sắt của nước này đặt trên lãnh thổ nước khác”.
Cũng tại khu vực này, phía Trung Quốc đã ủi nát mốc biên giới số 18 nằm cách cửa Nam Quan 100 m trên đường quốc lộ để xoá vết tích đường biên giới lịch sử, rồi đặt cột kilômét số 0 đường bộ sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên 100 m, coi đó là vị trí đường quốc giới giữa hai nước ở khu vực này.
Như vậy họ đã lấn chiếm một khu vực liên hoàn từ đường sắt sang đường bộ thuộc xã Bảo Lâm, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn của Việt nam dài 3,1 km và vào sâu đất Việt Nam 0,5 km. Năm 1975 tại khu vực mốc 23 (xã Bảo Lâm, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn) họ định diễn lại thủ đoạn tương tự khi hai bên phối hợp đặt đường ống dẫn dầu chạy qua biên giớ, phía Việt Nam đề nghị đặt điểm nối ống dẫn dầu đúng đường biên giới, họ đã từ chối, do đó bỏ dở công trình này.
Khi xây dựng các công trình cầu cống trên sông suối biên giới, phía Trung Quốc cũng lợi dụng việc thiết kế kỹ thuật là thay đổi dòng chảy của sông suối về phía Việt nam để nhận đường biên giới có lợi cho phía Trung Quốc.
Cầu ngầm Hoành Mô thuộc tỉnh Quảng Ninh được Trung Quốc giúp xây dựng vào năm 1968. Một thời gian dài sau khi cầu được xây dựng xong, hai bên vẫn tôn trọng đường biên giới ở giữa cầu, vật liệu dự trữ để sửa chữa cầu sau này cũng được đặt ở mỗi bên với số lượng bằng nhau tính theo đường biên giới giữa cầu. Nhưng do Trung Quốc có sẵn ý đồ chỉ xây một cống nước chảy nằm sát bờ Việt nam nên lưu lượng dòng chảy đã chuyển hẳn sang phía Việt Nam, từ đó phía Trung Quốc dịch đường biên giới trên cầu quá sang đất Việt Nam. Thủ đoạn như vậy cũng được thực hiện đối với cầu Pò Hèn (Quảng Ninh), đập Ái Cảnh (Cao Bằng), cầu Ba Nậm Cúm ( Lai Châu)…
3--Đơn phương xây dựng các công trình ở biên giới lấn sang đất Việt Nam.
Trên đoạn biên giới đất liền cũng như ở các đoạn biên giới đi theo sông suối, tại nhiều nơi, phía Trung Quốc đã tự tiện mở rộng xây dựng các công trình để từng bước xâm lấn đất.
Tại khu vực mốc 53 (xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 20 tháng 2 năm 1970 phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong, và ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc.
Các thị trấn Ái Điểm (đối diện với Chi Ma, Lạng Sơn), Bình Mãng (đối diện Sóc Giang, Cao Bằng) vốn đã nằm sát các mốc giới 43 và 114 lại ngày càng được phía Trung Quốc mở rộng ra lấn sang đất Việt Nam từ hàng chục đến hàng trăm mét với công trình, nhà cửa, trường học, khu phố…
Bằng cách tổ chức lâm trường, trồng cây gây rừng, làm đường chắn lửa, đặt hệ thống điện cao thế, điện thoại lấn vào lãnh thổ Việt Nam, Trung Quốc đã biến nhiều vùng đất khác của Việt Nam thành đất của Trung Quốc.
4-- Từ mượn đất của Việt Nam đến biến thành lãnh thổ của Trung Quốc.
Ở một số địa phương do địa hình phức tạp, điều kiện sinh hoạt của dân cư Trung Quốc gặp khó khăn, theo yêu cầu của phía Trung Quốc, Việt Nam đã cho phía Trung Quốc mượn đường đi lại, cho dùng mỏ nước, cho chăn trâu, lấy củi, đặt mồ mả…trên đất Việt Nam. Nhưng lợi dụng thiện chí đó của Việt Nam, họ đã dần dần mặc nhiên coi những vùng đất mượn này là đất Trung Quốc. Khu vực Phia Un (mốc 94-95) thuộc huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng là điển hình cho kiểu lấn chiếm này. Tại đây, mới đầu phía Trung Quốc mượn con đường mòn rồi tự ý mở rộng mặt đường để ô tô đi lại được vào khu vực mỏ của Trung Quốc, đặt đường dây điện, đưa dân đến ở ngày càng đông, lập làng bản mới. Dựa vào “ thực tế” đó, từ 1956 họ không thừa nhận đường biên giới lịch sử chạy trên đỉnh núi Phia Un mà đòi biên giới chạy xa về phía nam con đường, sâu vào đất Việt Nam trên 500 mét. Lý lẽ của họ là nếu không phải đất của Trung Quốc sao họ lại có thể làm đường ô tô, đặt đường điện thoại được…Nguyên nhân chủ yếu của việc họ lấn chiếm là vì khu vực Phia Un có mỏ măng gan.
5--Xê dịch và xuyên tạc pháp lý các mốc quốc giới để sửa đổi đường biên giới.
Ngoài việc lợi dụng một số mốc giới đã bị Trung Quốc xê dịch từ trước sai với nguyên trạng đường biên giới lịch sử để chiếm giữ trái phép đất Việt Nam, nay phía Trung Quốc cũng tự ý di chuyển mốc ở một số nơi hoặc lén lút đập phá, thủ tiêu các mốc không có lợi cho họ như ở khu vực Chi Ma (Lạng Sơn), khu vực mốc 136 ở Cao Bằng…Đối với những trường hợp như vậy, họ đều khước từ đề nghị của phía Việt Nam về việc hai bên cùng điều tra và lập biên bản xác nhận. Ngay tại một số nơi mà vị trí mốc giới đặt đúng với đường biên giới lịch sử, họ cũng tìm cách xuyên tạc đường biên giới đã rõ ràng chạy giữa hai mốc như khu vực Kùm Mu-Kim Ngân-Mẫu Sơn (mốc 41, 42, 43) ở Lạng Sơn dài trên 9 km, sâu vào đất Việt Nam 2,5 km, diện tích gần 1000 ha, khu vực Nà Pảng-Kéo Trình (mốc 29, 30, 31) ở Cao Bằng dài 6,45 km sâu vào đất Việt Nam 1,3 km, diện tích gần 200 ha.
6-- Làm đường biên giới lấn sang đất Việt Nam
Để chuẩn bị cho các cuộc tấn công xâm lược Việt Nam, liên tiếp trong nhiều năm trước, phía Trung Quốc đã thực hiện kế hoạch làm đường biên giới quy mô lớn nấp dưới danh nghĩa là để “ cơ giớ hoá nông nghiệp”. Đặc biệt là từ năm 1974 tại đây, họ đã mở ồ ạt những chiến dịch làm đường, có nơi huy động một lúc 8.000 người vào công việc này. Trong khi làm các đường đó, họ đã phá di tích về đường biên giới lịch sử, nhiều nơi họ đã lấn vào lãnh thổ Việt Nam, chỉ tính từ tháng 10 năm 1976 đến năm 1977, bằng việc làm đường biên giới họ đã lấn vào đất Việt Nam hàng chục điểm, có điểm diện tích rộng trên 32 ha, sâu vào đất Việt Nam trên 1 km như khu vực giữa mốc 63-65 thuộc huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng hay khu vực giữa mốc 1-2 Cao Ma Pờ thuộc tỉnh Hà Tuyên dài 4 km, sâu vào đất Việt Nam 2 km.
7-- Lợi dụng việc vẽ bản đồ giúp Việt Nam để chuyển dịch đường biên giới.
Năm 1955-1956, Việt Nam đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt Nam tỷ lệ 1/100.000. Lợi dụng lòng tin của Việt Nam, họ đã sửa ký hiệu một số đoạn đường biên giới dịch về phía Việt Nam, biến vùng đất của Việt Nam thành đất Trung Quốc. Thí dụ họ đã sửa ký hiệu ở khu vực thác Bản Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định chiếm một phần thác Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong.
8-- Dùng lực lượng vũ trang uy hiếp và đóng chốt để chiếm đất.
Trên một số địa bàn quan trọng, phía Trung Quốc trắng trợn dùng lực lượng vũ trang để cố đạt tới mục đích xâm lấn lãnh thổ. Tại khu vực Trà Mần-Suối Lũng (mốc 136-137) thuộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng, năm 1953 Trung Quốc đã cho một số hộ dân Trung Quốc sang xâm cư ở cùng với dân của Việt Nam; sau đó họ tiếp tục đưa dân sang thêm hình thành ba xóm với 16 hộ, 100 khẩu mà họ đặt tên là Si Lũng theo tên một làng của Trung Quốc gần đó. Tuy thế cho đến năm 1957 phía Trung Quốc vẫn thừa nhận khu vực này là đất của Việt Nam. Từ năm 1967 trở đi, họ tiến hành việc dựng trường học, bắc dây truyền thanh, đào hố khai thác than chì rồi ngang nhiên cắm cờ biểu thị chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Tháng 6 năm 1976 họ đã trắng trợn đưa lực lượng vũ trang đến đóng chốt để đàn áp quần chúng đấu tranh và ngăn cản việc tuần tra của Việt nam vào khu vực này, chiếm hẳn một vùng đất Việt Nam trên 3,2 km có mỏ than chì.
Ở khu vực giữa mốc 2-3 thuộc xã Nậm Chảy, huyện Mường Khương, tỉnh Hoàng Liên Sơn cũng xảy ra tình hình như vậy. Năm 1967-1968, nhiều hộ người Mèo thuộc huyện Mã Quan, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc chạy sang định cư ở đây. Phía Việt Nam đã yêu cầu phía Trung Quốc đưa số dân đó trở về Trung Quốc, nhưng họ đã làm ngơ, lại tiếp tục tăng số dân lên đến 36 hộ gồm 152 người, vào vùng này thu thuế, phát phiếu vải cho dân, đặt tên cho xóm dân Mèo này là “ Sìn Sài Thàng”, tên của một bản Trung Quốc ở bên kia biên giới cách khu vực này 3 km. Mặc dù phía Việt Nam đã nhiều lần kháng nghị, họ vẫn không rút số dân đó đi, trái lại, đầu năm 1976 còn đưa lực lượng vũ trang vào đóng chốt chiếm giữ. Nay họ đã lập thêm đường dây điện thoại, loa phóng thanh, dựng trường học, tổ chức đội sản xuất , coi là lãnh thổ Trung Quốc.
9-- Đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Quần đảo Hoàng Sa ( mà Trung Quốc gọi là Tây Sa) cách Đà Nẵng khoảng 120 hải lý về phía đông. Phía Việt Nam có đầy đủ tài liệu để chứng minh rằng quần đảo này cũng như quần đảo Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Nam Sa) ở phía nam là lãnh thổ Việt nam. Từ lâu, nhân dân Việt nam đã phát hiện và khai thác quần đảo Hoàng Sa, nhà Nguyễn đã chính thức thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo đó. Sau khi thiết lập chế độ bảo hộ nước Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX, Pháp nhân danh nước Việt Nam đã lập tại quần đảo đó hai đơn vị hành chính, một trạm khí tượng mà các số liệu được cung cấp liên tục trong mấy chục năm cho Tổ chức Khí tượng thế giới (OMM) dưới ký hiệu Hoàng Sa (Pattle). Việt Nam đã lên tục thực hiện chủ quyền của mình đối với quần đảo này. Vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa là rõ ràng và không thể chối cãi.
Nhưng sau khi quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam theo các quy định của Hiệp định Pa-ri ngày 27 tháng 1 năm 1973, và nhân lúc nhân dân Việt Nam đang đẩy mạnh cuộc đấu tranh để giải phóng miền nam Việt Nam và nguỵ quyền miền nam sắp sụp đổ, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã trắng trợn dùng lực lượng vũ trang chiếm quần đảo Hoàng Sa.
Cách họ đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa vẫn là cách họ đã dùng để lấn chiếm đất đai của các nước láng giềng, nhưng với một sự phản bội hèn hạ vì họ luôn khoe khoang là “hậu phương đáng tin cậy của nhân dân Việt Nam anh em”. Đại để sự kiện diễn biến như sau:
- Ngày 26 tháng 12 năm 1973, Bộ Ngoại giao Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thông báo cho Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa biết ý định của mình sẽ tiến hành thăm dò dầu lửa trong vịnh Bắc Bộ và đề nghị hai nước tiến hành đàm phán để xác định chính thức biên giới giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ.
- Ngày 11 tháng 1 năm 1974, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố quần đảo Tây Sa (tức là Hoàng Sa của Việt Nam), quần đảo Nam Sa ( tức là Trường Sa của Việt Nam) là lãnh thổ của Trung Quốc và không cho ai xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ của Trung Quốc.
- Ngày 18 tháng 1 năm 1974, Chính phủ Trung Quốc trả lời phía Việt Nam, đại ý nói: đồng ý đề nghị đàm phán về vịnh Bắc Bộ, nhưng không đồng ý cho nước thứ ba vào thăm dò, khai thác vịnh Bắc Bộ, thực tế là họ ngăn cản Việt Nam hợp tác với Nhật Bản, Pháp, Ý trong việc thăm dò, khai thác thềm lục địa Việt Nam trong vịnh Bắc Bộ.
- Ngày 19 tháng 1 năm 1974, với một lực lượng lớn hải quân và không quân, Trung Quốc tiến đánh quân đội của chính quyền Sài Gòn đóng ở quần đảo Hoàng Sa và họ gọi cuộc hành quân xâm lược quần đảo này là “cuộc phản công tự vệ”
Từ năm 1973 về trước, phía Trung Quốc đã lấn chiếm, gây khiêu khích ở nhiều nơi trên biên giới Việt-Trung. Từ khi họ đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, các sự kiện biên giới do họ gây ra, các vụ lấn chiếm đất đai Việt Nam ngày càng tăng:
Năm 1974: 179 vụ
Năm 1975: 294 vụ
Năm 1976: 812 vụ
Năm 1977: 873 vụ
Năm 1978: 2175 vụ.
 
III- Hai cuộc đàm phán giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc để giải quyết những vấn đề biên giới giữa hai nước.
Năm 1957-1958 hai bên thoả thuận cùng với việc giữ nguyên trạng đường biên giới do lịch sử để lại sẽ tiến hành các cuộc hội đàm cấp tỉnh để giải quyết những vấn đề cụ thể thuộc về dân sinh và trật tự trị an ở vùng biên giới hai nước. Từ đó đã có nhiều cuộc họp giữa các địa phương và đã đi đến một số quy định về việc đi lại, buôn bán, thăm hỏi…giữa nhân dân các tỉnh biên giới. Tuy nhiên, việc giải quyết vấn đề lãnh thổ phải do Chính phủ hai nước tiến hành đàm phán. Vì vậy đã có hai cuộc đàm phán cấp Thứ trưởng Bộ Ngoại giao năm 1974 và năm 1977-1978.
Cuộc đàm phán lần thứ nhất:
Nhằm phục vụ công cuộc xây dựng đất nước, ngày 26 tháng 12 năm 1973, Chính phủ Việt Nam đã đề nghị với Chính phủ Trung Quốc mở cuộc đàm phán giữa hai Chính phủ để xác định chính thức đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ.
Ngày 18 tháng 1 năm 1974, Chính phủ Trung Quốc nhận lời đàm phán nhưng đòi không được tiến hành công tác thăm dò trong một khu vực hình chữ nhật giữa vĩ tuyến 18 độ-20 độ, kinh tuyến 107 độ-108 độ và “không để nước thứ ba vào thăm dò vịnh Bắc Bộ” với mục đích ngăn cản Việt Nam khai thác những tài nguyên của mình trong thềm lục địa Việt Nam.
Ngày 15 tháng 8 năm 1974 cuộc đàm phán được tiến hành ở Bắc Kinh.
Công ước Pháp-Thanh 1887, Điều 2 đã nói rõ: Kinh tuyến Pa-ri 105 độ 43’ kinh độ đông ( nghĩa là kinh tuyến Grin-uých 108 độ 03’13’’) là đường biên giới giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ. Phía Việt nam sẵn sàng bàn với phía Trung Quốc để xác định về cửa vịnh Bắc Bộ, từ đó đi đến xác định chính thức đường biên giới trong vịnh.
Phía Trung Quốc hoàn toàn phủ nhận Điều 2 của Công ước 1887, không coi đường kinh tuyến nói trên là đường biên giới, một mực nói rằng trong vịnh Bắc Bộ xưa nay chưa hề có đường biên giới, nay hai nước phải bàn bạc để phân chia. Mặc dù phía Việt Nam tuyên bố sẵn sàng nghe ý kiến của phía Trung Quốc, nhưng họ chỉ nói một cách chung chung là nếu theo đường kinh tuyến đó thì họ “được phần nhỏ quá, còn phía Việt Nam được phần lớn quá”, cho nên phải “phân chia công bằng, hợp lý”, nhưng họ cũng không chịu đưa ra một phương án nào cụ thể, cố tình kéo dài cuộc đàm phán. Cuối tháng 11 năm 1974 cuộc đàm phán phải tạm ngừng.
Cuộc đàm phán lần thứ hai.
Ngày 18 tháng 3 năm 1975, Chính phủ Trung Quốc đề nghị với Chính phủ Việt Nam mở cuộc đàm phán giữa hai Chính phủ về vấn đề biên giới trên bộ giữa hai nước vào năm 1975.
Ngày 12 tháng 4 năm 1975, Chính phủ Việt Nam trả lời đồng ý về nguyên tắc, nhưng vì trước mắt đang bận nhiều việc do sự phát triển của tình hình giải phóng miền nam Việt Nam nên Chính phủ Việt Nam đề nghị lùi cuộc đàm phán vào một thời gian thích hợp. Trong lúc chờ đợi, phía Việt Nam đề nghị hai bên mở lại các cuộc hội đàm giữa các tỉnh biên giới, nhưng những cuộc đàm phán này cũng không đưa lại kết quả gì, trong khi đó phía Trung Quốc ngày càng tăng cường vi phạm và khiêu khích ở biên giới Việt Nam-Trung Quốc.
Ngày 7 tháng 10 năm 1977, cuộc đàm phán bắt đầu tại Bắc Kinh giữa đại biểu Chính phủ Việt Nam và đại biểu Chính phủ Trung Quốc để giải quyết những vấn đề về biên giới trên bộ và trong vịnh Bắc Bộ. Phía Việt Nam một lần nữa khẳng định hai bên cần triệt để tôn trọng Công ước 1887 và 1895 về đường biên giới trên bộ và trên biển, vì vậy cần bàn về về toàn bộ đường biên giới. Phía Trung Quốc một mực chỉ muốn bàn vấn đề biên giới trên bộ.
Cuộc đàm phán gặp khó khăn. Để đưa cuộc đàm phán tiến lên, phía Việt Nam đồng ý bàn vấn đề biên giới trên bộ trước, vấn đề biên giới trong vịnh Bắc Bộ sau. Nhưng phía Trung Quốc vẫn không chịu bàn. Họ đòi phía Việt Nam phải từ bỏ quan điểm cho rằng trong vịnh Bắc Bộ đã có đường biên giới thì họ mới bàn vấn đề biên giới trên bộ.
Để tìm lối thoát, phía Việt Nam lại đề nghị hai bên đi ngay vào bàn vấn đề biên giới trên bộ, còn bất đồng về vịnh Bắc Bộ mỗi bên giữ ý kiến của mình và sẽ bàn sau. Trên cơ sở những đề nghị của Việt Nam và những đề nghị của Trung Quốc, phía Việt Nam đã đưa ra một bản dự thảo Hiệp định về đường biên giới quốc gia trên bộ giữa hai nước để hai bên cùng bàn bạc. Toàn văn bản dự thảo Hiệp định như sau:
DỰ THẢO
HIỆP ĐỊNH VỀ ĐƯỜNG BIÊN GIỚI QUỐC GIA TRÊN BỘ GIỮA NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ NƯỚC CỘNG HOÀ NHÂN DÂN TRUNG HOA

Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
Xuất phát từ lòng mong muốn không ngừng củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và tình hữu nghị vĩ đại truyền thống trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc;
Nhằm mục đích xây dựng đường biên giới hữu nghị lâu dài giữa Việt Nam và Trung Quốc, phù hợp với nguyện vọng tha thiết và lợi ích cơ bản của nhân dân hai nước;
Trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, hoàn toàn bình đẳng với nhau và trên nguyên tắc tôn trọng đường biên giới do lịch sử để lại;
Đã thoả thuận những điều sau đây:
Điều 1
Hai bên chính thức xác nhận đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được hoạch định và cắm mốc theo các văn kiện về biên giới ký kết giữa Chính phủ Cộng hoà Pháp và Chính phủ nhà Thanh Trung Quốc là đường biên giới quốc gia giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
Các văn kiện biên giới đó gồm có:
Công ước về hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc ký ngày 26 tháng 6 năm 1887, với các biên bản và bản đồ hoạch định kèm theo.
Công ước bổ sung Công ước về hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc ngày 26 tháng 6 năm 1887, ký ngày 20 tháng 6 năm 1895 với các biên bản và bản đồ hoạch định kèm theo
Các biên bản và bản đồ cắm mốc thực hiện hai Công ước nói trên ký kết từ ngày 15 tháng 4 năm 1890 đến ngày 13 tháng 6 năm 1897, ngày hoàn thành việc cắm mốc đoạn đường biên giới giữa Bắc Kỳ (Việt Nam) và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc).
Trong các điều khoản sau đây, các văn kiện về biên giới nói trên được gọi tắt là “ Công ước 1887 và Công ước 1895”
Điều 2
Hai bên cam kết tôn trọng đường biên giới quốc gia giữa hai nước nói ở điều 1.
Những vùng đất nào do bên này quản lý vượt quá đường biên giới nói ở Điều 1 thì nay trả lại cho bên kia.
Điều 3
Đường biên giới quốc gia giữa hai nước nói ở Điều 1 nói chung là rõ. Trường hợp có một số ít nơi trên đường biên giới sau khi hai bên đã cùng nhau đối chiếu, nghiên cứu nhiều lần theo đúng các quy định của Công ước 1887 và Công ước 1895 mà vẫn không xác định được là thuộc về bên nào, thì hai bên sẽ qua khảo sát thực địa, hiệp thương hữu nghị giải quyết theo nguyên tắc công bằng hợp lý .
Điều 4
1-- Đối với những nơi đường biên giới đi trên sông, suối, cũng như đối với các cù lao, bãi nổi trên các sông, suối biên giới đó và trường hợp các sông suối biên giới đổi dòng vì nguyên nhân thiên nhiên, hai bên triệt để tuân theo các quy định của Công ước 1887 và Công ước 1895 liên quan đến đường biên giới trên các sông, suối đó.
2-- Không kể đường biên giới trên sông, suối biên giới theo các quy định của Công ước 1887 và Công ước 1895 như thế nào, đường biên giới trên các cầu bắc qua các sông, suối đó đều đi qua chính giữa cầu.
Điều 5
Trong thời hạn một năm, sau khi quyết định của Uỷ ban liên hợp nói ở Điều 7 dưới đây về từng đoạn đường biên giới được hai Chính phủ chuẩn y, dân ở vùng đất mà bên này trả lại cho bên kia sẽ trở về sinh sống ở nước mà mình mang quốc tịch.
Trường hợp có người muốn ở lại thì trong thời hạn đó họ phải đăng ký với chính quyền địa phương để trở thành công dân của bên được trả vùng đất.
Điều 6
Mỗi bên không để dân của mình vượt đường biên giới sang quá canh và làm ăn trái phép tại những vùng đất thuộc lãnh thổ bên kia.
Ở những vùng đất trả lại cho nhau, sẽ chấm dứt quá canh ngay sau khi quyết định của Uỷ ban liên hợp nói ở Điều 7 dưới đây về từng đoạn đường biên giới được hai Chính phủ chuẩn y.
Người có hoa màu làm trên đất quá canh chưa thu hoạch sẽ được phép sang chăm nom cho đến lúc thu hoạch xong, và phải tuân theo mọi luật lệ của nước sở tại.
Điều 7
Sau khi Hiệp định này có hiệu lực, hai bên thành lập Uỷ ban liên hợp biên giới Việt nam-Trung Quốc (goị tắt là Uỷ ban liên hợp) gồm số đại biểu hai bên bằng nhau. Uỷ ban liên hợp căn cứ vào các điều khoản của Hiệp định này thực hiện nhiệm vụ sau đây:
1-- Xác định cụ thể trên thực địa toàn bộ đường biên giới quốc gia trên bộ giữa hai nước theo Điều 1 của Hiệp định này;
2-- Giải quyết trên thực địa những nơi trên đường biên giới nói trong Điều 2 và Điều 3 của Hiệp định này. Các quyết định của Uỷ ban liên hợp về từng đoạn đường biên giới phải được hai bên chuẩn y;
3-- Giải quyết những vấn đề liên quan đến việc bên này trả lại những vùng đất cho bên kia;
4-- Kiểm tra và xác nhận vị trí của các mốc quốc giới theo Công ước 1887 và Công ước 1895, đặt lại những mốc quốc giới không ở đúng vị trí theo các Công ước nói trên và đặt thêm các mốc quốc giới bổ sung ở những nơi hai bên thấy cần thiết, giải quyết các vấn đề liên quan đến việc tu bổ các mốc quốc giới;
5-- Soạn thảo Nghị định thư xác định trên thực địa đường biên giới quốc gia trên bộ giữa hai nước, vẽ bản đồ đường biên giới đó có ghi tỉ mỉ vị trí đường biên giới và vị trí các mốc quốc giới; Uỷ ban liên hợp bắt đầu hoạt động ngay sau khi được thành lập và kết thúc nhiệm vụ sau khi Nghị định thư nói trên được ký kết.
Điều 8
Nghị định thư với bản đồ kèm theo nói ở Điều 7, đoạn 5 sẽ do hai Chính phủ ký kết và sẽ là một bộ phận cấu thành của Hiệp định này.
Điều 9
Hiệp định này sẽ được phê chuẩn và có hiệu lực kể từ ngày trao đổi văn kiện phê chuẩn.
Sau khi Hiệp định này có hiệu lực và Nghị định thư nói ở Điều 7, đoạn 5 của Hiệp định được ký kết, mọi Công ước, văn kiện có liên quan đến đường biên giới trên bộ giữa hai nước lập tức mất giá trị.
Làm tại……….ngày………tháng………năm……….thành hai bản bằng tiếng Việt Nam và tiếng Trung Quốc, cả hai văn bản Việt Nam và Trung Quốc đều có giá trị như nhau.
THAY MẶT CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THAY MẶT CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HOÀ NHÂN DÂN TRUNG HOA

Phía Trung Quốc đã từ chối xem xét bản dự thảo Hiệp định đó. Họ đưa ra một đề nghị khác, thực chất là đề nghị cũ của họ được sửa đổi. Ý đồ của họ là nhằm duy trì hiện trạng biên giới (không phải nguyên trạng đường biên giới lịch sử) nhằm giữ những chỗ họ lấn chiếm và sửa lại nhiều chỗ có lợi cho họ.
Cuộc đàm phán kéo dài, dây dưa đến mười tháng không đi đến kết quả. Ngay trong khi phía Trung Quốc tăng cường khiêu khích ở biên giới , gây ra vụ người Hoa, cắt viện trợ cho Việt Nam, phía Việt Nam vẫn kiên trì tiếp tục nói chuyện. Nhưng cuối cùng không đi đến kết quả gì, vì tình hình chứng tỏ là phía Việt Nam càng thiện chí thì phía Trung Quốc càng lấn tới. Họ ngoan cố thực hiện dã tâm bành trướng nước lớn của họ, cho nên họ không chịu đáp ứng một điều kiện nào do phía Việt Nam đưa ra. Cuộc đàm phán về biên giới bị thất bại, trách nhiệm hoàn toàn thuộc về phía Trung Quốc.

IV- Tình hình Trung Quốc gây khiêu khích, xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ của Việt Nam từ năm 1978 đến nay
Từ đầu năm 1978 đến ngày 17 tháng 2 năm 1979, ngày mà nhà cầm quyền Bắc Kinh đưa quân ồ ạt xâm lược Việt Nam, một mặt họ làm bế tắc cuộc đàm phán về biên giới, mặt khác họ công khai thực hiện chính sách điên cuồng chống Việt Nam.
Nói riêng về khu vực biên giới, nhà cầm quyền Bắc Kinh leo thang dùng vũ lực, tăng cường khiêu khích xâm phạm biên giới, chủ quyền, lãnh thổ của Việt Nam.
Từ đầu năm 1978 đến khoảng tháng 8 năm 1978, nhà cầm quyền Bắc Kinh dùng dụ dỗ, cưỡng ép người Hoa đang làm ăn yên ổn ở Việt Nam, chủ yếu là tại các tỉnh biên giới, chạy về Trung Quốc hòng gây rối loạn về chính trị, xã hội và kinh tế cho Việt Nam khi đó đang phải giải quyết hậu quả nặng nề của những thiên tai chưa từng thấy ở Việt Nam trong vòng 100 năm qua, đồng thời họ chuẩn bị một số tay chân cần thiết cho các cuộc hành quân xâm lược sau này. Với những thủ đoạn thâm độc đó, họ đã lôi kéo khoảng 170.000 người Hoa về Trung Quốc. Thâm độc hơn cả là họ thình lình đóng cửa biên giới trong lúc dòng người Hoa đang ùn ùn đổ về Trung Quốc, để kiếm cớ xúi giục những người đó chống lại nhà đương cục Việt Nam. Đó là tình hình họ đã gây ra ở cầu biên giới Bắc Luân (thuộc tỉnh Quảng Ninh), ở cửa khẩu Hữu nghị quan (thuộc tỉnh Lạng Sơn), trong lúc người Hoa ùn tắc lại, họ cho bọn tay sai kết hợp với một bọn côn đồ hành hung, gây hỗn loạn ngày 8 tháng 8 năm 1978 ở cầu Bắc Luân, ngày 25 tháng 8 năm 1978 ở Hữu nghị quan, làm chết hai cán bộ và công an biên phòng của Việt Nam và 25 người khác bị thương.
- Nhà cầm quyền Bắc Kinh ồ ạt đưa quân đội (bộ binh, thiết giáp, không quân, pháo binh) áp sát biên giới, xây dựng công sự, bố trí trận địa trên các điểm cao suốt dọc biên giới, đưa thường dân Trung Quốc ở vùng biên giới vào sâu nội địa. Trong lúc đó, bộ máy tuyên truyền đồ sộ của Bắc Kinh vu cáo Việt Nam “xâm phạm lãnh thổ Trung Quốc” và Phó thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình, bất chấp các nguyên tắc của Liên hợp quốc, lên tiếng đe doạ “dạy cho Việt Nam một bài học”, “trừng phạt Việt Nam”.
- Các lực lượng vũ trang của Trung Quốc liên tiếp xâm nhập lãnh thổ Việt Nam, phá các hàng rào dây thép gai, các bãi mìn và các công trình phòng thủ khác của phía Việt Nam.
- Đột nhập lãnh thổ Việt Nam để tập kích các trạm gác của dân quân và của công an biên phòng Việt Nam, bắn lén, bắt cóc người của Việt Nam đưa về Trung Quốc. Một vài thí dụ:
+ Ngày 13 tháng 10 năm 1978, lực lượng vũ trang Trung Quốc vào sâu đất Việt Nam tại xã Pha Long, huyện Mường Khương, tỉnh Hoàng Liên Sơn, phục kích một tổ công tác đang làm nhiệm vụ, bắn chết hai chiến sĩ công an biên phòng, bắt anh Nguyễn Đình Ấm đưa về Trung Quốc,
+ Ngày 1 tháng 11 năm 1978, ở đồi Chông Mu thuộc tỉnh Cao Bằng, hàng trăm lính với hơn 1.000 dân binh Trung Quốc tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam, nổ súng tiến công một tổ dân quân Việt Nam đang làm nhiệm vụ trên đất Việt Nam,
+ Ngày 23 tháng 12 năm 1978, lực lượng vũ trang Trung Quốc vượt biên giới sang tập kích một tổ dân quân Việt nam đang làm nhiệm vụ trên đất Việt Nam tại khu vực mốc 2 (thuộc Bình Nhi, tỉnh Lạng Sơn), bắt đưa về Trung Quốc 4 người.
Những vụ khiêu khích tương tự phải tính hàng trăm trên toàn tuyến biên giới.
Kể từ đầu năm 1979, các cuộc khiêu khích của phía Trung Quốc được tiến hành với một qui mô ngày càng lớn, với những lực lượng vũ trang ngày càng đông hơn:
Dùng súng lớn (từ đại liên, súng cối 82 đến DKZ75 và 85) từ đất Trung Quốc trắng trợn bắn sang đất Việt Nam, có khi bắn từng đợt, có khi bắn liên tiếp nhiều ngày, mục tiêu của họ là người dân thường đang đi trên đường, các làng bản, các khu phố của các thị trấn, các công trường, lâm trường, nông trường v..v..Dưới đây là một vài thí dụ:
+ Ngày 14 tháng 1 năm 1979 bắn vào thôn Phai Lầu, huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh,
+ Cùng ngày, bắn vào các phố chính của thị xã Lao Cai, tỉnh Hoàng Liên Sơn đang lúc đông người qua lại.
+Ngày 2 tháng 2 năm 1979 bắn vào nhà máy đường Phục Hoà và xóm Hưng Long, xã Quy Thuận, huyện Quảng Hoà, tỉnh Cao Bằng,
+ Từ ngày 10 tháng 1 năm 1979 đến ngày 25 tháng 1 năm 1979, liên tục dùng súng bộ binh các loại và súng cối 82 bắn vào đồn biên phòng Việt Nam ở Trà Lĩnh thuộc tỉnh Cao Bằng,
- Dùng lực lượng bộ binh lớn có hoả lực mạnh yểm trợ tiến công và lấn chiếm một số vùng đất của Việt Nam. Một vài thí dụ:
+ Ngày 10 tháng 2 năm 1979, hơn một tiểu đoàn quân chính quy Trung Quốc tiến vào đất Việt Nam hơn 2 km đánh chiếm các trạm gác của dân quân xã Thanh Loà, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn,
+ Ngày 11 tháng 2 năm 1979, một đại đội quân chính quy Trung Quốc vào đánh chiếm khu vực Hang Nà-Cốc Pheo thuộc xã Cấn Yên, huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng,
+ Ngày 15 tháng 2 năm 1979, một đại đội quân chính quy Trung Quốc vượt biên giới sang đánh chiếm bản Nà Ke, xã Bảo Lâm, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn,
Tất cả những hành động khiêu khích ngang ngược ngày càng nghiêm trọng của phía Trung Quốc từ trước đến nay, nhất là từ năm 1978, không nhằm mục đích nào khác là ráo riết chuẩn bị cuộc chiến tranh xâm lược chống nhân dân Việt Nam. Thực tế đã xác minh điều đó:
Từ rạng sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, nhà cầm quyền Bắc Kinh phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam với 60 vạn quân gồm 11 quân đoàn và nhiều sư đoàn độc lập (trong đó có một số sư đoàn sơn cước chủ yếu gồm những người trước đây đã sang vùng biên giới làm đường giúp Việt Nam và những người Hoa trước đây đã ở Việt Nam), hơn 500 xe tăng và thiết giáp, hơn 700 máy bay các loại. Ngay ngày đầu, gần 20 sư đoàn bộ binh Trung Quốc đồng thời tiến đánh sáu tỉnh của Việt Nam giáp với Trung Quốc: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, Lai Châu.
Do bị thất bại trước những đòn giáng trả nặng nề của nhân dân Việt Nam, bị dư luận toàn thế giới lên án mạnh mẽ và nhân dân Trung Quốc phản đối, nhà cầm quyền Bắc Kinh mấy ngày gần đây đang phải rút quân đội của họ về nước.
Từ khi bắt đầu xâm lược Việt Nam, đi đến đâu, quân xâm lược Trung Quốc cũng bắn bừa bãi, đốt phá, cướp của, hãm hiếp phụ nữ và giết người không ghê tay bằng những cách cực kỳ dã man. Chúng dùng báng súng đập vỡ sọ, đâm người bằng lưỡi lê, chém đầu chặt người ra thành từng khúc, ném lựu đận vào hầm trú ẩn, tập trung người rồi xả súng bắn. Số đông người bị giết hại là người già, phụ nữ và trẻ em. Ở Cao Lâu, Văn Lãng (Lạng Sơn) chúng xé xác em Vi Việt Lương, học sinh lớp 4 ra làm nhiều mảnh, lôi 7 em bé đang ngủ ra bắn rồi chặt từng khúc vứt ra sân. Ở xã Thanh Loà (Lạng Sơn), bốn tên lính Trung Quốc bắt cô giáo cấp 1 người dân tộc Tày mang lên đồi hãm hiếp rồi xả súng bắn chết. Ở xí nghiệp gạch ngói xã Quang Kíu, huyện Bát Xát (Hoàng Liên Sơn), chúng xả súng B40 giết hết nam công nhân, còn nữ công nhân thì hãm hiếp rồi đưa về Trung Quốc.
Đặc biệt nghiêm trọng là ở chợ huyện Bát Xát (Hoàng Liên Sơn), chúng chặt đầu, mổ bụng gần 100 em nhỏ, vứt xác nằm ngổn ngang.
Trong quá trình rút về nước một cách chậm chạp, quân Trung Quốc xâm lược vẫn tiếp tục gây nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam. Chúng bắn pháo, dùng thuốc nổ phá huỷ tất cả những gì còn lại, các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng và thị xã Lao Cai đã bị triệt phá; chúng còn gài lại nhiều mìn ở khắp nơi, thậm chí bỏ thuốc độc xuống giếng nước làm cho một số dân thường bị thương vong hoặc ngộ độc.

V- Con đường đúng đắn để giải quyết các vấn đề về biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc.
1-- Thực tế trình bày ở các phần trên đã chỉ rõ ràng:
- Giữa Việt Nam và Trung Quốc từ lâu đã hình thành một biên giới lịch sử và biên giới đó đã được các Công ước năm 1887 và 1895 hoạch định, tiếp đó được cắm mốc rõ ràng trên suốt hơn 1.400 km trên đất liền.
- Phía Trung Quốc vi phạm sự thoả thuận giữa hai nước về việc giữ nguyên trạng đường biên giới do lịch sử để lại, đã hàng nghìn lần xâm phạm biên giới, chủ quyền, lãnh thổ của nước Việt Nam trong suốt 21 năm qua.
- Phía Trung Quốc đã cố tình làm bế tắc các cuộc đàm phán về vấn đề biên giới giữa hai nước, ngày càng tăng cường khiêu khích vũ trang nước Việt Nam và ngày 17 tháng 2 năm 1979 đã đưa quân ồ ạt xâm lược Việt Nam.
Để che giấu quy mô của cuộc chiến tranh, lừa gạt nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới, nhà cầm quyền Trung Quốc đã nói láo một cách hèn hạ rằng phía Việt Nam đã “khiêu khích”, “xâm lược”, khiến Trung Quốc phải “phản công tự vệ”. Cũng như khi họ xâm lược Ấn Độ năm 1962, lúc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974, phía Trung Quốc từng đã nói là “phản công tự vệ”. Khi những nhà cầm quyền Bắc Kinh nói “phản công tự vệ” chính là họ đang hành động như bọn xâm lược.
Nhà cầm quyền Bắc Kinh còn nói đây chỉ là một cuộc “chiến tranh hạn chế” tiến hành với “những lực lượng biên phòng”. Sự thật rõ ràng là họ tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhằm thôn tính Việt Nam, mở đầu với sự tham gia của hàng chục sư đoàn quân chính quy, bằng số quân Mỹ cao nhất lúc Mỹ tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Nhân dân khắp năm châu, chính phủ nhiều nước kể cả những bạn bè của Đặng Tiểu Bình ở phương Tây đều gọi đây là cuộc xâm lược của Trung Quốc chống Việt Nam. Người dân thường Trung Quốc cũng bắt đầu thức tỉnh về cuộc phiêu lưu mà các nhà cầm quyền Trung Quốc đang đẩy đất nước họ đi tới với những những hậu quả không thể lường hết được.
Vì sao những người cầm quyền Trung Quốc lại tiến hành xâm lược Việt Nam mặc dù điều đó lột trần bộ mặt thật bành trướng đại dân tộc, bộ mặt xâm lược của họ?
Nguồn gốc của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam hiện nay hiện nay là chính sách của những người cầm quyền Trung Quốc nhằm làm cho Việt nam suy yếu hơn, hòng buộc Việt Nam phải khuất phục và phụ thuộc Trung Quốc, đồng thời nhằm thôn tính Lào và Campuchia để biến bán đảo Đông Dương thành bàn đạp của họ để thực hiện chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc của họ ở Đông Nam Á. Họ đã thất bại liên tiếp trong việc dùng bè lũ PônPốt-Iêng Xary đánh Việt Nam từ phía Tây Nam, gây khiêu khích vũ trang và tăng cường sức ép quân sự từ phía bắc, dùng người Hoa để phá rối và gây bạo loạn bên trong, lợi dụng lúc Việt Nam bị khó khăn về kinh tế và lôi kéo các nước cắt cắt viện trợ hòng bóp nghẹt Việt Nam. Họ còn đóng cửa ba lãnh sự quán của Việt Nam ở Côn Minh, Nam Ninh, Quảng Châu, cắt đường tàu liên vận quốc tế, huỷ bỏ Hiệp định về miễn thị thực cho cán bộ hai nước hòng che dấu việc tiến công quân sự chống nước Việt Nam. Cuối cùng, những người cầm quyền Trung Quốc liều lĩnh tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Tiến đánh tất cả sáu tỉnh biên giới phía bắc của Việt Nam, họ còn mưu toan sửa đổi đường biên giới, tức là giữ chặt những chỗ họ đã lấn chiếm trước đây, đồng thời lấn chiếm thêm những chỗ khác. Chính họ đã trắng trợn nói lên điều đó khi họ nói quân Trung Quốc sẽ rút về bên kia “đường biên giới mà Trung Quốc công nhận”. Theo tin đầu tiên, họ đã cho chuyển sâu về phía Việt Nam mốc số 41 và mốc số 45 ở khu vực Chi Ma (tỉnh Lạng Sơn). Mặc dù vậy, họ thường xuyên tuyên bố: “ Trung Quốc không lấy một tấc đất của ai!”.
Lập trường của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được nêu rõ trong Công hàm ngày 2 tháng 3 nămm 1979 gửi Bộ Ngoại giao Trung Quốc: những người cầm quyền Trung Quốc đã gây chiến tranh xâm lược Việt Nam thì họ phải vĩnh viễn chấm dứt xâm lược; phải rút ngay, rút hết, rút không điều kiện quân đội của họ về phía bên kia đường biên giới do lịch sử để alị như hai bên đã thoả thuận; triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Ngày 6 tháng 3 năm 1979, phía Việt Nam đã tuyên bố:
“ Nếu Trung Quốc thật sự rút toàn bộ quân của họ khỏi lãnh thổ Việt Nam như họ đã tuyên bố, thì sau khi quân Trung Quốc rút hết về bên kia đường biên giới lịch sử đã được hai bên thoả thuận tôn trọng, phía Việt nam sẵn sàng đàm phán ngay với phía Trung Quốc ở cấp Thứ trưởng Bộ Ngoại giao về việc khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước. Địa điểm và thời gian sẽ do hai bên thoả thuận”
Nếu những người cầm quyền Trung Quốc tiếp tục chính sách xâm lược chống Việt Nam thì quân và dân Việt Nam sẽ dùng quyền tự vệ thiêng liêng, kiên quyết chiến đấu chống xâm lược để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.
Nhân dân Việt Nam quyết tiếp tục làm hết sức mình gìn giữ tình hữu nghị truyền thống với nhân dân Trung Quốc. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiên quyết đòi nhà cầm quyền Trung Quốc:
1-- Vĩnh viễn chấm dứt xâm lược, phải rút ngay, rút không điều kiện quân đội của họ về nước; chấm dứt mọi hành động tội ác đối với nhân dân Việt nam; triệt để tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; tôn trọng đường biên giới do lịch sử để lại như hai bên đã thoả thuận; phải chấm dứt ngay việc dời cột mốc biên giới và những hành động khác nhằm thay đổi đường biên giới đó.
2-- Cùng phía Việt Nam sớm mở cuộc thương lượng nêu trong Công hàm ngày 15 tháng 3 năm 1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi Bộ Ngoại giao Trung Quốc nhằm đem lại hoà bình và ổn định ở vùng biên giới giữa hai nước, khôi phục quan hệ bình thường giữa hai nước.
Nhân dân và Chính phủ Việt Nam tin chắc rằng các nước xã hội chủ nghĩa anh em, các nước trong Phong trào không liên kết, các nước độc lập dân tộc, các nước bè bạn và nhân dân yêu chuộng hoà bình và công lý trên thế giới sẽ tăng cường đoàn kết, ủng hộ Việt Nam vì độc lập, hoà bình, ổn định ở Đông Nam Á và thế giới.
HẾT