(Phần thứ nhất, Phần thứ hai, Phần thứ Ba)
ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU
Tình cờ hay không, tác giả hai tập hồi kí huyền thoại ấy, hai cá tính rất khác nhau, lại có những điểm tương đồng kì lạ. Họ đều là những nhân vật lịch sử, đã góp phần làm nên lịch sử Việt Nam thế kỉ XX. Do số phận trắc trở, sinh thời họ đã trở thành những nhân vật huyền thoại, trong tưởng tượng của những người hâm mộ hay tò mò, thù ghét hay quý mến. Cả hai đều ra đời trên đất nước Việt Nam đau thương, người tháng trước, kẻ tháng sau, vào cùng năm 1911, cách đây gần đúng một trăm năm. Mỗi người một cách, cả hai đã làm nên lịch sử. Lại đã từng dạy sử (một người dạy sử trước khi làm nên lịch sử, một người ngược lại), hơn nữa, cả hai, về cuối đời, đều trở thành chủ tịch danh dự của Hội khoa học lịch sử Việt Nam. Thêm một trùng hợp nữa, cách đây tám thập niên, ở xa nhau vạn dặm, họ đều viết về “ vấn đề dân cày ” ngày nay vẫn còn nóng bỏng, vấn đề của những vấn đề Việt Nam thế kỉ XX. Nhưng nếu có một lí do quan trọng hơn mọi lí do khiến mọi người mong muốn tìm đọc hồi kí của họ, thì đó là: tên tuổi đã đi vào lịch sử, quyền bính có lúc ở tột đỉnh, nhưng họ đã trải qua những oan khuất kì bí vì họ không được lên tiếng giãi bày, còn người gây ra oan khuất lại nắm giữ quyền cao chức trọng, chỉ nhỏ giọt những lời lên án, vu khống họ bằng lời rỉ tai, xì xậm (cùng lắm thì “phổ biến miệng trong họp tổ”).
Hai nhân vật ấy, không nói, nhiều người cũng đoán ra: Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Giàu.
Từ đầu năm 2010, bước sang tuổi bách niên, hai ông đã phải nằm bệnh viện. Lễ mừng thọ (truyền hình) của họ diễn ra trên giường trắng, trong tháng 8 và tháng 9. Ông Trần Văn Giàu vừa từ trần ngày 16.12.2010.
Đêm hôm ấy, viết đôi dòng về cuộc đời giáo sư họ Trần, tôi ước mong sớm được đọc trên mạng tập hồi kí của ông trong một văn bản toàn vẹn, không bị cắt đục, vo tròn hay bóp méo. Bài viết đưa lên mạng Diễn Đàn, anh Trần Hữu Dũng đưa tiếp lên trang Viet-Studies và gửi thư hỏi tôi: Chưa có bản hồi kí sao? Hóa ra anh cũng đã nhận được một bản “số hóa” mà Trần Văn Giàu nói tới trong Lời nói đầu (dưới đây). Không phải là bản điện tử, nên chúng tôi phải tổ chức đánh máy lại. Tác giả chưa rà lại bản in này, mà sự việc kể lại trong đó lại xảy ra cách đây hơn 60 năm, nhân vật nhiều khi được gọi bằng bí danh, nên nhất thiết phải sửa lỗi chính tả và lỗi đánh máy, thêm chú thích và nếu cần, chú giải (việc này đòi hỏi nhiều công phu, mà những hiểu biết mà chúng tôi không đủ). May thay, ý muốn được đọc một văn bản hoàn chỉnh không phải chỉ chúng tôi mới có. Anh Trần Hữu Dũng vừa “hô” trên mạng, đã có ngay năm bảy bạn đọc, người ở trong nước, người ở đôi bờ Đại Tây Dương, sốt sắng hưởng ứng.
Nhờ vậy, ban biên tập Viet-Studies và ban biên tập Diễn Đàn vinh dự công bố Hồi kí Trần Văn Giàu.
Chúng tôi bắt đầu, kỳ này, bằng Lời nói đầu của tác giả (viết năm 1995), và chương Câu chuyện mười năm kết thúc (trong phần V, tức là phần cuối cùng, của Hồi kí).
Trong những tuần tới, chúng tôi sẽ lần lượt công bố theo thứ tự toàn văn tác phẩm. Đương nhiên, bản điện tử này sẽ tôn trọng nguyên tác, chỉ sửa những lỗi đánh máy và lỗi chính tả; trong phạm vi cho phép, sẽ thêm chú thích và chú giải cần thiết. Tất cả các bình chú ấy là của những người biên tập (trừ trường hợp của tác giả thì chúng tôi sẽ chua rõ). Vì đây là một chứng từ lịch sử, tuy biết bạn đọc nóng lòng, chúng tôi sẽ cố gắng làm nhanh nhưng không vội, theo đúng tiêu chí nói trên. Tuy nhiên, công việc này không khỏi có sai sót, rất mong nhận được sự chỉ dẫn của bạn đọc. Bản đã lên mạng rồi, chúng tôi vẫn tiếp tục hoàn chỉnh và cập nhật, những thay đổi (nếu có) về nội dung sẽ được ghi rõ ngày tháng để tiện việc tra cứu. Đây cũng là dịp để tập hợp những hình ảnh liên quan tới tác giả và những nhân vật nói tới trong hồi kí (trong chừng mực có thể, sẽ ghi rõ nguồn gốc).
Thay mặt hai ban biên tập, chúng tôi xin thành thực cảm ơn tất cả các bạn xa gần đã góp phần vào việc chuyển giao bản thảo, đánh máy, chỉ dẫn... để tập Hồi kí Trần Văn Giàu này đến tay bạn đọc năm châu.
Nguyễn Ngọc Giao
19.12.2010
Lời nói đầu
Tôi viết tập “hồi ký” này từ cuối những năm 1970. Viết xong, tôi nhờ anh em ở Long An ̶ tỉnh nhà ̶ đánh máy; ý muốn viết hồi ký để con cháu xem chớ không phải để in ra thành sách, vì trong hồi ký có lắm chuyện “không lấy gì làm hay”, buồn nữa là khác. Nhưng vài ba anh em Long An, không xin phép tôi, tự ý đánh máy thêm mấy bản, chỉ giao lại cho tôi hai bản, họ giữ mấy bản tôi không biết, nhưng tôi được biết họ đã chuyền tay đọc khá rộng. Nhiều bạn bảo tôi cứ phát hành tập hồi ký này đi. Tôi không ưng. Có lý do.
Tôi thấy rằng không ít hồi ký đã được in ấn kể sự việc rất hay mà cũng chen vào một ít điều hoặc tác giả bịa hoặc lúc nghe kể đã thất thiệt. Viết hồi ký trước hết là viết những điều mình mắt thấy tai nghe và tự làm là chính, mà viết về mình thì dễ “chủ quan”: bớt cái dở thêm cái hay là điều khó tránh khỏi; tôi ngập ngừng khi định viết hồi ký là vì vậy. Nhưng có một số việc, nếu mình không kể lại thì không ai biết, không ai nhớ, không ai viết, không ai làm sáng tỏ cho mình bằng mình. Thành ra viết hồi ký vừa là đóng góp sử liệu vừa là yên ủi mình. Trong lịch sử dù là lịch sử của một khoảng đời ngắn ngủi, mình chỉ là một tiếng của ngàn trùng ngọn sóng trên biển sôi động: ghi lại một tiếng, thật ra có nghĩa lý gì lớn lắm đâu, có thêm bớt gì lắm đâu? Nhiều lắm thì làm cho một số người mất thì giờ đọc, hay mất tiền mua. “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”; tục ngữ thì như vậy. Song, da, dầu là da cọp, nhiều năm rồi sâu mọt đục cũng hết. Tiếng, trừ ra tiếng của một số ít vĩ nhân, làm sao mà còn mãi với thời gian? Năm trăm năm sau cách mạng tháng Tám, dân ta sẽ còn nhớ chỉ tên của một mình cụ Hồ, mình ông Giáp. Cho nên, viết hồi ký này, tôi chỉ mong cho cháu một đời sau mình biết được rằng ông nó đã gắng sức làm tròn trách nhiệm ở đời, đã sống có nhân cách. Thế là đủ.
Tôi chỉ viết hồi ký khoảng thời gian 1940-1945 vì đó là thời gian tôi sống có chất lượng hơn hết trong cuộc đời dài quá 80 năm, xấp xỉ 90 năm. Tôi viết “Lời nói đầu” này ngày 27 tháng 10 năm 1995, sau khi tôi đọc lại bản hồi ký lần thứ ba.
Trần Văn Giàu
--------------------------------------------------------------------------------
Câu chuyện mười năm đã kết thúc
Việc gì rồi cũng phải có kết thúc, duy kết thúc hay dở, đúng sai là vấn đề khác. Một ngày, tôi nhớ đâu là đầu năm 1988, tốt trời, tôi được Lê Đức Thọ[1] mời dự buổi chiêu đãi ở T.78[2] với một số đồng chí. Tôi lấy làm lạ: là bởi vì, ở Hà Nội từ 1954 đến 1976, anh Thọ chưa hề đến nhà riêng tôi, chưa hề gọi tôi lên văn phòng hay nhà riêng của anh. Còn tôi thì tôi quen cái tánh “ mọi rợ ” là chưa bao giờ tự mình đến thăm bất cứ ai có chức, có quyền lớn hơn tôi – trừ trường hợp duy nhất là cụ Tôn Đức Thắng mà tôi thỉnh thoảng lên thăm, trước hết là vì anh Hai Thắng cứ vài ba tháng thì xuống thăm hai vợ chồng tôi một lần.
Bữa chiêu đãi hôm đó của anh Thọ, có mặt bốn người được mời: chị Năm Bi[3], Tào Tỵ[4], Tô Ký[5], và tôi – Trần Văn Giàu.
Ăn uống, trò chuyện thân mật. Không có riêng bàn về vấn đề gì cả.
Lúc buổi tiệc tàn, anh em sắp chia tay, thì tôi xin nói một tâm sự, nói với Thọ, giữa Bi, Tỵ, Ký:
“Tôi cảm ơn anh Sáu mời cơm với các bạn đều là quen thân từ lâu. Tôi có việc tâm sự cần nói với anh Sáu, có các anh chị nghe, nghe tôi và nghe anh Sáu sẽ nói sau. Các đồng chí cho phép tôi nói lối nói ở trong tù, tôi và Thọ cùng ở banh 1[6], khám 8; Côn Lôn những năm 1935/1936. Đồng ý chứ?
– Tao là Giàu, mày, ở khám 8, banh 1, là Khải, Phan Đình Khải[7]; hôm nay chúng ta nói chuyện thân mật như cách đây mấy mươi năm, khi còn ở ngoài Côn Lôn. (Tới đây, thì Thọ liền nói với các đồng chí khách kia: hồi ở khám, ở banh tụi mình gọi nhau bằng mày tao như vậy đó, không khi nào có thưa anh, thưa chú; hồi ở Côn Lôn chính Giàu dạy tôi học chủ nghĩa Mác-Lênin, chớ trước đó mình có học gì bao nhiêu đâu!).
Tôi nói với Thọ: “Chúng ta là những người quá 70 tuổi, xấp xỉ 80 rồi, sắp đi theo cụ Hồ rồi. Mấy mươi năm nay, tao chịu những cái hàm oan mà mày, Khải, mày biết hết, biết rõ trắng đen. Chúng ta đều muốn đi theo cụ Hồ một cách thanh thản. Vậy lần này, Thọ về Hà Nội hãy có quyết định rõ, bằng văn bản của Ban Tổ chức Trung ương về tất cả những điều người ta vu cáo cho Giàu, được không? ”
Thọ hứa, hứa trước mặt chị Năm Bi, anh Tào Tỵ, chú Ba Tô Ký.
Chủ khách chia tay nhau trong vui vẻ, thân ái nữa.
Một tháng sau, ủy viên thường vụ Thành ủy là Bảy Dự[8] đến nhà tôi, đem cho tôi một bức thơ, mở ra, thấy cái quyết nghị của Ban Tổ chức Trung ương mà tôi chờ đợi mấy chục năm nay. Người ký tên không phải là Lê Đức Thọ mà là Nguyễn Đức Tâm, đương chức bí thư phụ trách tổ chức như Thọ trước đây. Tôi đọc lên cho Dự nghe. Vả lại bức thư không niêm, chỉ chuyển tải quyết nghị. Chắc ở Trung ương có bản lưu: bốn việc tố cáo, vu cáo, quyết nghị này cho là không căn cứ ; còn một vụ là Deschamps 1935 thì quyết nghị nói rằng tôi, Giàu, có chịu trách nhiệm.
Tôi tuyên bố ngay với Bảy Dự rằng tôi không bằng lòng và tôi sẽ cãi. Dự bảo với tôi rằng, như thế này thì tốt lắm rồi, cãi làm gì nữa. Tôi nói lại rằng tôi sẽ nhờ Thành ủy gởi cho Ban Tổ chức một bức thơ để tỏ rõ lại mọi việc. Tôi đã viết và gởi bức thơ đó, trong ấy không có gì lạ hơn là hai bức thơ trả lời cho tôi của đồng chí Nguyễn Văn Trân (Prigorny)[9] và đồng chí trưởng ban Lịch sử Đảng thành phố – đã chép lại bên trên và đã photocopy. (Xin xem Phụ lục dưới đây).
Một tháng sau nữa, tôi đuợc giấy của Ban Tổ chức Trung ương cho đi Liên Xô nghỉ hè ở Sotchi (Hắc Hải).
Tôi gởi lại cho Ban Tổ chức cái giấy mời ấy với lời cảm ơn thành thật và lời cắt nghĩa vì sao tôi không đi nghỉ mát ở Hắc Hải, dù ý thì rất muốn (mấy chục năm nay tôi chưa được cho đi nghỉ mát ở Liên Xô lần nào) . Tôi trình bày lý do là: Từ năm 1930, tôi để vợ trẻ[10] của tôi ở nhà một mình, đi mãi, đi miệt, đi làm “cách mạng chuyên nghiệp”. Từ 1930 đó cho đến sau Genève, tôi chỉ được về nhà hai lần, một lần hơn tháng, một lần 9 ngày; hoạt động bí mật, ở tù, có vợ mà bỏ vợ ở nhà mãi; tôi kháng chiến ở Bắc, vợ kháng chiến ở Nam, hai đứa không ở gần nhau như vậy là gần một phần tư thế kỷ, hết tuổi trẻ. Nay, hoà bình lập lại, tôi không đi nghỉ hè đâu xa mà không có vợ tôi cùng đi. Vậy xin gởi lại giấy mời với lời cảm ơn thành thật chớ không phải là chút hờn mát nào, xin các đồng chí ở tổ chức biết cho.
Không tới một tuần sau, Ban Tổ chức Trung ương gởi vào giấy cho vợ tôi cùng đi nghỉ mát hơn một tháng ở Hắc Hải, viếng Moscou, Lêningrad. Đó là vào năm 1988 thì phải, tôi nhớ không rõ. Kiểm lại, tôi thấy trong hơn ba, bốn mươi năm bị hàm oan, tôi không hề rời công tác, việc gì giao cho dầu nhỏ tôi cũng làm tròn, không giao việc gì thì tôi viết sách, viết báo, dạy học và tôi đã đạt những thành tựu tôi mong muốn, giữ vững tư cách đảng viên, giữa vững nhân cách Việt Nam.
Phụ Lục:
Thư của Trần Văn Giàu gởi cho Ban Tổ chức Thành ủy và Ban Tổ chức Trung ương
Kính gửi: Ban Tổ chức Thành ủy
Đồng kính gửi: Ban Tổ chức Trung ương
Ngày 13 tháng 5 năm 1988, đồng chí Bảy Dự trao cho tôi, tại 70 Phạm Ngọc Thạch, bản “Kết luận một số vấn đề tồn tại về lịch sử đồng chí Trần Văn Giàu” (số 182 – CV/TW) do đồng chí Nguyễn Đức Tâm ký.
Thế là “chung thẩm” rồi! Song tôi thấy cần nói vài lời:
1) Rất buồn là việc đã xảy ra từ 1945 đến 1988 mới có kết luận. Kết luận mà không có tranh biện giữa bên tiên cáo và bên bị cáo. Dù sao, vẫn có kết luận và tôi xin thành thật cảm ơn các đồng chí đã quan tâm đến việc của tôi trong lúc trăm công ngàn việc bối rối, đã kết luận căn cứ vào một phần lớn sự thật khách quan, và đã giải quyết phần lớn các vấn đề làm cho tôi đỡ tủi phận.
2) Về vụ vượt ngục Tà Lài. Bản kết luận viết: “Chưa có chứng cớ gì là Pháp tổ chức cho đồng chí Giàu vượt ngục”. Đáng lẽ phải nói: “Không có chứng cớ gì… ” ; việc đã xảy ra từ 1941, đợi tới bao giờ mới có bằng cớ mà nay hãy còn nói là chưa? Không phải một mình tôi vượt ngục, có cả Tô Ký, Năm Đông[11] v.v.… họ còn sống, có Tào Tỵ biết rõ mọi việc. Đáng lẽ phải hỏi tội vu cáo của kẻ nào cố ý bày chuyện hại người ngay trong lúc làm khởi nghĩa tháng Tám, có hậu quả ghê gớm hơn 40 năm trường. Hỏi tội cho biết vậy thôi, chớ cũng sống chết cả rồi, còn hơn thua làm chi.
3) Về vụ Deschamps[12]: “việc khai nhận (của đồng chí Giàu) gây tổn thất cho phong trào cách mạng Nam Bộ và gây tổn thất cho đường giao liên quốc tế”. Đúng là tôi không được anh hùng như Trần Phú: Trần Phú không hở môi. Tôi có hở môi, nhận một số việc đã rồi, nghĩa là có trách nhiệm trong sự tổn thất. Song, Nguyễn Văn Trân (Prigorny) còn sống, làm chứng rằng người khai ra Deschamps không phải là tôi, không một ai bị bắt vì tôi khai, cả chỗ ở tôi, ở Phú Lạc (xóm của Trân – tôi ở hai kỳ, rất lâu) không ai thấy Giàu dắt Tây về bắt người tra khảo. Nay tôi về đó, bà con vẫn còn quý mến như xưa. Mà người khai Deschamps cũng không phải là người phát giác. Kẻ phát giác là thợ Sáu, chồng giả của chị Mười Tốt, chánh hiệu mật thám, mà một đồng chí trong Xứ ủy đưa vào Thành ủy phụ trách liên lạc quốc tế! Tay này không bị bắt trong cuộc lại còn đi thăm anh em, rồi sau đó đã có lần toan đánh lừa chị Bảy Huệ[13] nữa, may chị Huệ sanh nghi nên thoát khỏi. Ta bị địch vào cấp ủy. Mà ta cứ đổ cho nhau, đáng tiếc thay! (chánh thằng thợ Sáu đó đón tôi ở Hồng Kông về, gởi ở nhà một sốp-phơ, hai ngày sau, tôi bị bắt, cả sốp-phơ kia và Sáu an toàn). Tôi làm việc liên lạc quốc tế từ 1933 đến cuối 1934, với Ba Nhâm (thành ủy viên thời Minh Khai). Nhâm[14] nay còn sống, gần 80 tuổi. An toàn tuyệt đối. Tôi đã giao việc cho anh khác từ tháng 12/1934.
4) Điểm 5 của Kết luận nói tôi làm sai đường lối Trung ương. Sai với đường lối, thì sai thật. Nhưng mà tôi có biết đường lối của Trung ương là thế nào đâu? Trung ương có gửi ai vào trực tiếp với tôi đâu?
Chú thích (của biên tập viên)
[1] Lúc này, hơn một năm sau Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam, ông Lê Đức Thọ không còn ở trong Bộ chính trị Trung ương nữa. Trong những ngày trước Đại hội, ông đã lèo lái mọi cách để ông Trường Chinh không ở lại tiếp tục làm tổng bí thư, tạo thêm đà cho cuộc đổi mới (ông Phạm Văn Đồng bị lung lạc, đã dùng nước mắt để thuyết phục ông Trường Chinh, nhân danh sự “đoàn kết nội bộ”). Ba người rút ra làm cố vấn Ban chấp hành Trung ương khóa VI. Với thế lực của bộ máy tổ chức, an ninh, đối ngoại, quân đội, Lê Đức Thọ tiếp tục nắm giữ nhiều quyền hạn, cho đến ngày ông mất (tháng 10.1990).
[2] Khu trụ sở các ban trung ương của ĐCSVN ở thành phố Hồ Chí Minh (phường 7, quận 3) tiếp giáp các đường Trần Quốc Thảo và Lý Chính Thắng. T.78 là tên gọi của Cục quản trị, phụ trách các cơ ngơi của ĐCSVN. Nhà ở “phía nam” của các ủy viên Bộ chính trị nằm ở đây.
[3] Tức là bà Hồ Thị Bi (Hồ Thị Hoa). Thành lập và chỉ huy “Chi đội 12” (tiền thân của Trung đoàn 312) đã lập nên những chiến công hiển hách từ cuối năm 1945 ở vùng Hóc Môn. Lúc này bà mới tập đọc, tập viết, ký tên BI trong như ba con số 131, nên quân đội Pháp ở vùng này gọi bà là “Madame 131”. Có thể đọc thêm Nguyên Hùng: Nam Bộ - Những nhân vật một thời vang bóng.
[4] Nhà cách mạng lão thành, hoạt động cách mạng từ những năm 1930 ở Bạc Liêu. Làm nghề họa đồ, nên còn có tên là “Họa đồ Lý”. Có thể đọc tiểu truyện của ông trong Tuyển Tập Nguyên Hùng: Tà Lài tụ nghĩa (Hồi thứ nhất: Vì Việc Nghĩa Tào Tỵ Thọ Nạn Tới Gia Định Gặp Bạn Công Trung).
[5] Thiếu tướng Tô Ký sinh năm 1922 (Wikipédia viết 1919), tại làng Bình Lý, Hóc Môn (nay là xã anh hùng Bình Mỹ, huyện Củ Chi). Ông tham gia cách mạng từ năm 12 tuổi, năm 17 tuổi bị bắt giải đi căng Tà Lài (1940). Đầu năm 1942, ông cùng 7 đồng chí vượt ngục và bị bắt giải lên Bà Rá cho tới ngày Nhật đảo chính Pháp tháng 3. 1945. Ông là một trong những người lập Giải phóng quân liên quận Hóc Môn - Bà Điểm - Đức Hòa, sau là Chi đội 12. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, được thăng thiếu tướng, Chính ủy quân khu. Ông mất mùng 2 Tết năm Kỷ Mão (1999). Theo Nguyên Hùng: Nam Bộ - Những nhân vật một thời vang bóng (“TIỂU TƯỚNG” TÔ KÝ CHINH PHỤC “NGƯU MA VƯƠNG”)
[6] Banh (từ tiếng Pháp bagne): trại giam. Ở Côn Đảo, có nhiều banh, mỗi banh gồm nhiều khám. Thời Pháp, có 4 banh: banh 1 (trại Phú Hải), banh 2 (trại Phú Sơn), banh 3 (trại Phú Thọ), banh 3 phụ (trại Phú Tường), Chuồng Cọp, Chuồng Bò. Thời Mỹ, thêm trại 5 (Phú Phong), trại 6 (Phú An), trại 7 (Phú Bình, còn gọi là Chuồng Cọp Mĩ, phân biệt với Chuồng Cọp Pháp), trại 8 (Phú Hưng). Tổng cộng 127 phòng giam, 42 xà lim, 504 phòng biệt lập Chuồng Cọp. Các tên “Phú…” được đặt ra dưới thời Nguyễn Văn Thiệu sau Hiệp định Paris, khi quần đảo Côn Sơn được gọi tên là Phú Hải.
[7] Phan Đình Khải là tên thật của ông Lê Đức Thọ. Cả hai đều sinh năm 1911: Trần Văn Giàu ngày 6 tháng 9, Lê Đức Thọ ngày 14 tháng 10.
[8] Bảy Dự: bí danh của Nguyễn Võ Danh, từng giữ chức phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân TP HCM, phó bí thư Thành ủy Đảng bộ TP HCM của ĐCSVN.
[9] Tức Bảy Trân (đừng nhầm với Nguyễn Văn Trấn “ông già Chợ Đệm”), sinh năm 1908, sang Pháp (Marseille) năm 15 tuổi. 19 tuổi, sang Liên Xô học trường Stalin (1927-1930), cùng khóa Nguyễn Thế Rục, Ngô Đức Trì, Bùi Công Trừng, Trần Phú, Bùi Lâm, Nguyễn Khánh Toàn, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Trần Ngọc Danh, Dương Bạch Mai, Trần Đình Long, Bùi Ái. Bí mật về nước năm 1930. Một trong những đảng viên cộng sản hiếm hoi đã tranh thủ được cảm tình và sự ủng hộ của đạo Cao Đài và hàng ngũ Bình Xuyên. Cũng đã từng làm liên lạc giữa bí thư xứ ủy Trần Văn Giàu với những trí thức yêu nước như Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát, Phạm Thiều... Xem thêm: Nguyễn Văn Trân, người cảm hóa giang hồ Bình Xuyên trong Nguyên Hùng (sách đã dẫn).
[10] Bà Đỗ Thị Đạo. Khi Trần Văn Giàu bị trục xuất từ Pháp về (19 tuổi, năm 1930), cha mẹ ông buộc phải cưới vợ “cho tròn chữ hiếu”. Cuốn hổi ký này, ông đề “tặng vợ tôi, bà Đỗ Thị Đạo, người vợ trung thành, người đàn bà theo đúng truyền thống Việt Nam và truyền thống gia đình”.
[11] Năm Đông: tức Dương Quang Đông, tức Dương Văn Phúc (1902-2003). Ông Năm Đông là nhà cách mạng lão thành đã tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí hội của lãnh lụ Nguyễn Ái Quốc và sớm hoạt động trong Công hội Đỏ của cụ Tôn Đức Thắng. Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nam Kì. Trong thời kháng Pháp, ông là Phó phòng Hàng hải Nam Bộ, phụ trách văn phòng thường trực của ta ở thủ đô Xiêm quốc, Bangkok. Ông đóng vai doanh thương có cửa hàng xuất nhập cảng lớn tại thủ đô Bangkok, mua sắm tàu biển chở súng đạn, hóa chất, máy móc về nước đánh Tây. Trong cuộc sống đầy gian nguy giữa hàng ngũ mật vụ Pháp bố trí dày đặc ở Xiêm, dưới cái lên Xiêm là Nai Chran ông vẫn bình tĩnh làm tròn sứ mạng của mình cho tới ngày bị phe đảo chính bắt. Xem tiểu sử đầy đủ trong cuốn Dương Quang Đông xuyên Tây của Nguyên Hùng (sách đã dẫn). Những năm cuối đời, tuy tuổi cao, ông vẫn lên tiếng chống tiêu cực và sự lưu manh hóa hàng ngũ đảng (như tố cáo sự gian trá của tướng Lê Đức Anh).
[12] Deschamps là đảng viên Đảng cộng sản Pháp, làm thuyền trưởng. Trong cương vị này, ông làm giao liên giữa hai đảng, và cung cấp sách báo tài liệu cho ĐCSVN. Deschamps bị bắt năm 1935 cùng với Trần Văn Giàu. Các nhân chứng ông Giàu kể trong thư này, và nhiều người khác đều cho biết ai là người tố giác và khai báo về Deschamps và Trần Văn Giàu (xem Nguyên Hùng, sách đã dẫn).
[13] Bảy Huệ tức Ngô Thị Huệ hoạt động cách mạng từ những năm 1930, hai lần tù. Bà kết hôn với ông (Mười Cúc) Nguyễn Văn Linh (tổng bí thư tương lai) năm 1948. Hai người gặp nhau lần đầu trước đó ba năm, khi Bảy Huệ thay mặt tỉnh ủy Sóc Trăng ra đón đoàn tù trở về từ Côn Đảo.
[14] Ba Nhâm tức Trương Văn Nhâm hay Trương Quang Nhâm. Từng làm bí thư tỉnh ủy Trà Vinh. Một trong tám người vượt ngục Tà Lài (đợt 2) năm 1942, cũng với Trần Văn Giàu, Dương Văn Phúc (tức Dương Quang Đông), Châu Văn Giác, Trần Văn Kiết (Kiệt), Nguyễn Công Trung, Nguyễn Hoàng Sính (Đức), Tô Ký.
Thành phố của chúng ta mất đứt ba cái di tích lịch sử lớn: Thành Quy bị Minh Mạng triệt phá; Thành Phụng bị thực dân Pháp triệt phá; và tiếc quá, ở Sài Gòn, có lẽ không có gì tiêu biểu cho 80 năm chế độ thực dân bằng Khám Lớn, mà Khám Lớn thì bị họ Ngô triệt phá.
Tôi qua cửa Khám Lớn lần đầu tiên vào giữa năm 1930, sau khi trong số mấy trăm sinh viên và lao động Việt Nam biểu tình trước điện Elysée (dinh Tổng thống Pháp) đòi thả chiến sĩ khởi nghĩa Yên Bái, mười chín người bọn tôi bị bắt giam rồi bị trục xuất về nước. Lần thứ hai tôi vào Khám năm 1933 về tội “vô gia cư”. Tội “vô gia cư” là cái quái gì? (Ai đi làm “cách mạng chuyên nghiệp” cũng có những nơi tạm trú, hai, ba, năm, bảy nơi; nhưng lần đó Pháp nó khảo mãi, tôi khai là tôi ở trên xuồng ba lá rày đây mai đó trên sông rạch, không có nhà ở; trong mình tôi không có tài liệu cách mạng, chỉ có một cái giấy thuế thân của người khác, cho nên, lần này, theo pháp luật toà chỉ có thể kêu án tôi về tội “vô gia cư”). Và, lần thứ ba, tôi vào Khám Lớn năm 1935, lãnh án năm năm tù; lần này tôi ở đủ cho đến 1940.
Chú thích: Khám Lớn Sài Gòn
Khám lớn Sài Gòn nằm trong ô B2 của bản đồ, phía nam Tòa án (số 16) và phía tây Dinh Thống đốc (số 11), ba tòa nhà này họp thành “Tam giác Quỷ” nổi tiếng thời thực dân. Khu đất này hình thang, hai cạnh song song là Rue de la Grandière (nay là đường Lý Tự Trọng), Rue d’Espagne (Lê Thánh Tôn), hai cạnh kia là Rue Filippini (Nguyễn Trung Trực) và Rue Mac Mahon (Nam Kì Khởi Nghĩa). Nay là Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (69, Lý Tự Trọng, Quận 1).
1. “Biệt thự S”, khám nhỏ trong Khám Lớn
Khám Lớn nằm chình ình giữa Sài Gòn trên diện tích non mẫu, bên phải của Toà án, bên trái của dinh Thống đốc. Tường dày chừng bốn năm tấc, dưới đá trên gạch, cao chừng bảy, tám thước, chơm chởm miểng chai bên trên, bốn góc là bốn chòi canh luôn luôn có lính Âu Phi gác và giữ cổng một cửa duy nhất. Ở cổng, bất cứ ai vào đây cũng đụng một cái đầu chúa ngục đúc bằng xi măng, to tướng, miệng sơn đỏ lòm, răng lởm chởm thấy mà ghê: các tử tù thì bị hành hình dưới mắt của tử thần này… Cổng sắt hai lớp, có một đội cai ngục tây và mã tà nam túc trực. Chính giữa sân trong, một lầu chuông cao nhìn xuống toàn bộ các buồng có cửa song sắt chứa nổi một ngàn tù nhân. Suốt gần tám mươi năm chưa nghe nói có một người tù nào trốn khỏi Khám Lớn. Năm 1916, nghĩa quân Thiên địa hội của Nguyễn Hữu Trí (1) đông mấy trăm người vũ trang bằng gươm dao, búa tạ, chày vồ, không phá nổi cửa khám, tường khám nhằm giải thoát “hoàng đế” Phan Xích Long và chính trị phạm, rốt cuộc phải rút lui thất bại. Khám Lớn vững chắc lắm. Vậy mà từ năm 1937, chính quyền thực dân thấy cần phải xây thêm một cái khám nhỏ riêng biệt trong vòng thành của cái Khám Lớn; khám nhỏ đó, Tây gọi là Bâtiment S; S là “spécial”, đặc biệt, chúng tôi gọi là “biệt thự S”, để nhốt riêng vài ba bốn người tù chính trị mà chúng cho là nguy hiểm đặc biệt, trong số đó có tôi.
Tây sợ chúng tôi cưa song sắt, khoét vách tường, vượt ngục chăng? – Không phải! Có ai vượt nổi Khám Lớn bao giờ? Vậy mà phải xây riêng một khám nhỏ trong Khám Lớn vì lẽ gì? – Vì lẽ rất đơn giản là: từ ngày chính phủ Mặt trận bình dân lên cầm quyền ở Paris, toà án Sài Gòn nói chung không xử án chính trị nặng lắm như trước: thường nhất là ba tháng, sáu tháng, một, hai năm tù đối với những người biểu tình, bãi công, làm báo. Anh chị em ta vào Khám Lớn đông lắm, từng tốp, từng tốp, vào ít lâu lại ra, ra vào như đi chợ, như đi học. Trong Khám Lớn lúc này, tù “cố cựu” rất ít: hầu hết chính trị phạm của thời 1930-1935, đã được chính phủ Mặt trận bình dân “ân xá”; số được ân xá có hàng trăm, hàng ngàn, từng đợt, từng đợt. Tôi “lọt sổ” hoài; tôi được Tây xếp gọi lên cho hay “không được ân xá” đâu đến ba lần, không phải do tôi làm đơn mà do đoàn thể, do trạng sư. Nhưng tôi không thất vọng; không thất vọng vì chưa hề hy vọng được ân xá. Mình vào tù đến bốn lần thì Tây nó biết chắc mình sẽ có ngày vào tù lần thứ năm. Anh Tôn Đức Thắng lãnh án hai mươi năm khổ sai, bốn lần nặng hơn mình, vậy mà ai nghe nói anh ấy có hy vọng gì đâu để mà thất vọng? Vả lại tù Khám Lớn Sài Gòn được bạn bè, gia đình thăm viếng mỗi tuần một lần, quà bánh, báo chí có đủ; nhất là ở tù mà vẫn có công tác cách mạng sôi nổi thì an tâm quá đi chớ! Công tác của tôi là huấn luyện tù nhân mới vào và sắp ra, họ đông tới hàng trăm, thường xuyên là hàng mấy chục. Trường Khám Lớn có nhiều giảng viên kinh nghiệm, lý luận, trình độ khá cao. Tụi tôi tổ chức ba bậc huấn luyện lý luận cách mạng và kinh nghiệm hoạt động sơ, trung và cao. Vô tù thành ra đi vào trường học chính trị. Trường học được mở liên tục mà khỏi phải mướn nhà, khỏi phải nuôi cơm. “Kinh tế” biết mấy. Khám Lớn góp phần đào tạo hàng trăm cán bộ cho các đoàn thể cách mạng ở bên ngoài. Tôi lúc ấy là “Chủ tịch hội đồng giáo sư đỏ”. Tôi viết xong trên mười đầu sách; đều là “sách giáo khoa”; sách được giấu trong tường; đục tường lấy ra một cục gạch thì có một tủ sách. Cơm nước xong, cửa Khám đóng lại, thì lấy sách ra đọc. Sàn xi măng là bảng đen, gạch vụn là phấn; một số Thầy Chú dám bí mật đem giấy bút cho chúng tôi. Bài vở viết ra được đánh morse từ khám nam ở trên xuống khám nữ ngay ở dưới. Đánh morse thì nằm sấp để tai sát sàn, lấy một bù lon quấn vải gõ vào sàn, khám dưới nghe được, chép lại, “phát hành” đi các khám cũng bằng cách đó. Ngoài công tác liên lạc chính thức thì chuyên viên morse khám nam, anh Nguyễn Hữu Thế (2), và chuyên viên morse khám nữ, chị Đinh Thị Tiếu, nói gì với nhau, có trời mà biết, chỉ biết rằng, ra tù, hai cô cậu thành vợ, thành chồng với nhau.
Khám lớn (Maison Centrale de Saigon), những năm 1920
Mặt tiền trông ra đường Mac Mahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa)
Tây nó biết rõ thành công của công tác huấn luyện đào tạo cán bộ của chúng tôi, cho nên nó mới xây cái “biệt thự S” nhằm cô lập các ông thầy giáo đỏ chủ chốt. Thống đốc Nam Kỳ đưa ba chúng tôi Giàu, Thế, Vi xuống đó để tha hồ mà giảng bài cho thằn lằn và gián. Tôi ở “biệt thự S” trọn ba năm cho đến ngày mãn tù; giống như mấy ông thầy tu ép xác.“Biệt thự S” là một ngôi nhà nhỏ hoàn toàn không dính với bất kỳ một dãy nhà nào hết; nhà dài mười thước, ngang bốn thước, cao năm thước, chia ra ba buồng. Phía sau mỗi buồng có một cửa sổ gần sát trần nhà, chắn song sắt, bịt lại bằng một cái phễu sắt miệng ngảnh lên mái nhà và miệng sắt có bao lưới sắt; người ngoài không thể ném vào buồng bất cứ một vật gì dù là một hòn sỏi; người trong buồng không thể thấy bóng dáng bất cứ một ai đi ngoài sân dù là một mã tà. Phía trước của mỗi buồng có cửa sắt mở ra một sân chung, nơi ăn uống, đi lại; sân dài mười thước, rộng ba thước, được bao kín bằng vách bêtông cao bốn thước; sân này giống y như một cái giếng cạn; ở trong sân không trông thấy bất kỳ một sinh vật nào trừ một vài con chim se sẻ bay qua hay một con cò lạc lối. Những ngày trời nắng, tường bêtông giữ sức nóng tới nửa đêm; may mà trong mỗi buồng có một vòi nước để tụi tôi tự làm vệ sinh. Không biết Tôn Ngộ Không khi bị Thái Thượng Lão Quân bỏ vào lò Bát Quái thì Tôn Ngộ Không chịu đựng cách nào chớ tôi trong “biệt thự S” suốt hơn một ngàn ngày thì cũng phải quen dần với cái giếng nổi bêtông của mình. Mỗi ngày hai lần, “cóc vê” đem cơm nước vào; “cóc vê” được chọn trong số tù người dân tộc thiểu số ở rừng núi không biết nói tiếng Việt, khi qua hai lớp cửa thì đã phải tuột hết quần áo để lại bên ngoài. Phải thừa nhận rằng, ở “biệt thự S”, suất ăn của chúng tôi thịt cá nhiều hơn bình thường, mỗi bữa ăn đều có miếng cơm cháy vàng tươi, dòn rụm, chỉ những ai đã lãnh án tử hình mới được ăn. Ở “biệt thự S”, chúng tôi được mượn sách của thư viện Khám Lớn, cũng được đem một ít sách ở ngoài vào. Thêm vài chục quyển, thậm chí một trăm quyển nữa, ông Giàu có “đỏ” thêm đâu mà sợ? Tôn Ngộ Không chịu được lò Bát Quái nhờ đã ăn trộm trái đào tiên vườn Thượng uyển, còn tôi chịu đựng được giếng nổi bêtông nhờ sách các bạn mượn dùm: thời chính phủ Mặt trận bình dân, có phần dễ thở hơn trước, nhất là đối với mấy thầy giáo đỏ bị vô hiệu hoá. Không được dạy học, tôi quay ra tự học; tự học để giết thời giờ, tự học để lấp những chỗ trống về kiến thức, được bao nhiêu hay bấy nhiêu, thật sự là được nhiều.
Ba năm ở “biệt thự S”, tôi học chữ Hán bằng quyển từ điển Đào Duy Anh để đếm nét tra mặt chữ, tôi lấy một quyển sách Tàu dịch sách Tây để từ đó suy diễn ra mà biết văn phạm chữ Hán, lõm bõm đọc báo, đọc sách được rồi, số chữ đã đầy hơn một lá mít, nhưng vì ít khi dùng nên dễ quên. Còn được cái triết học Trung Quốc và triết học Ấn Độ mà các học giả Pháp, Anh, Đức nghiên cứu kỹ, thư viện của Nguyễn An Ninh và của sư Thiện Chiếu (3) có đủ loại sách này, có bao nhiêu tôi đọc hết bấy nhiêu, đọc rồi giảng lại chút đỉnh cho hai anh bạn tù, nhờ vậy mà tôi càng hiểu rõ. Thật ra thì hai ông “giáo đỏ” ở “biệt thự S” với tôi, họ chả thích triết học chút nào, giảng cho họ hoá ra tôi “trả bài” cho tôi. Một kỳ công là ba năm ở “biệt thự S”, tôi có thời giờ và can đảm để đọc bộ Tư Bản, mà khi ở trường Đại học Đông Phương, tôi chỉ thuộc mấy trích đoạn bắt buộc của giáo sư hướng dẫn. Khám Lớn Sài Gòn quả là một trường đại học chuyên tu của tôi. Khám Lớn Sài Gòn, cũng như banh một Côn Lôn là những nơi góp phần quyết định cho tôi sau này trở thành một giáo sư có kinh nghiệm. Nói rằng nhà tù là một cái lò rèn luyện, rất đúng; anh Ninh có lần bảo tôi: “en prison le coeur se brise ou se bronze” (4) là chí lý. Vấn đề là trong tù mình học cái gì; học tư tưởng Mác-Lênin, thì mười người mãn tù, chín người tiếp tục hoạt động cách mạng; không học gì, cứ nằm co chờ ngày về, để cho thời gian gặm nhấm lần ý chí, thì mãn tù, chỉ có thể trở thành con chim bị đạn sợ làn cây cong. Tôi đã ra sức tự rèn luyện, tôi được bạn tù rèn luyện, tôi cố giữ cho mình một ý chí sắt đá. Vậy mà, những ngày cuối cùng của một bản án chỉ năm năm cầm cố, tôi không khỏi trải qua một tâm trạng băn khoăn cực độ, nói ra đây tôi không thấy xấu hổ chút nào. Làm gì có nợ nước thoát ly khỏi tình nhà?
Trong thời gian hơn ngàn ngày bị cầm cố, biệt giam ở “biệt thự S”, tôi chứng kiến một chuyện mà tôi không bao giờ quên, chuyện “Mất ngủ” của Hà Huy Tập (5). Tập là một nhân vật mà tôi kính mến. Tập có “đá móc” tôi mấy đá, khi anh báo cáo với Đông phương bộ, và báo cáo đúng sự thật, là tôi đã phê phán một vài điểm trong “chương trình hành động 1932, của Quốc Tế Cộng Sản” làm giúp cho Đảng Cộng sản Đông Dương (với sự cộng tác của Tập, Toàn (6) và tôi; vừa được tôi dịch từ bản tiếng Pháp và tiếng Việt). Đá nhẹ mà đau dai!
Một buổi trưa không nhớ là vào ngày tháng nào đầu năm 1939, Hà Huy Tập bị Tây đưa vào Bâtiment S. khi Tập bị giam ở Bâtiment S, xảy ra một việc lạ kỳ liên quan đến câu tôi vừa nói: nợ nước, tình nhà.
Hà Huy Tập
Ở chung với chúng tôi được ít lâu, một hôm Tập nhận được một bức thư của vợ. Vợ chồng Tập sinh được một đứa con gái. Năm 1928, Tập đi học ở Nga; tới năm 1936, Tập về Sài Gòn, bí mật gặp lại vợ; vợ Tập là một cô giáo, tám, chín năm nay đã bền lòng đợi chồng. Vợ chồng Tập yêu nhau lắm. Trong lúc đó thì Tập cũng bí mật tiếp xúc với một người bạn học cũ hoạt động công khai, một người đồng hương là Đinh Nho Hàn. Hàn là một cộng tác viên của báo “Le Peuple”, một tờ báo cơ quan công khai hợp pháp của Đảng. Tự nhiên, Đinh Nho Hàn và cô vợ của Tập làm quen với nhau. Mọi việc đều trôi qua như bình thường cho đến khi Tập bị bắt. Tập bị bắt thì ai cũng đoán rằng anh sẽ bị xử tù nặng lắm vì anh hoạt động cách mạng từ thời Tân Việt cho đến nay, anh là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Chắc vợ Tập và Hàn đều nghĩ vậy. Nếu Tập được anh em ở Le Peuple trọng vọng là một lãnh tụ, thì anh em đó cũng biết Hàn là một “con dê xồm” lắm tiền, lẻo mép; nhưng thuở ấy chưa ai biết rằng Hàn là một tay giúp việc đắc lực cho sở mật thám Đông Dương cài vào nhóm Le Peuple. Một hôm, ở Bâtiment S, sau một buổi thăm viếng, Tập được một bức thư của vợ mình. Thư nói gì tụi tôi ở Bâtiment S không biết. Nhưng chúng tôi thấy Tập đột nhiên bị khủng hoảng tinh thần, mà cuộc khủng hoảng tinh thần mỗi ngày thêm tệ hại. Tập đi đi lại lại trên sân giếng, mười lần, một trăm lần, nện gót chân, thỉnh thoảng tay đấm vào không khí. Sớm chiều đều như vậy. Hôm nay, ngày mai đều như vậy. Hỏi Tập có vấn đề tư tưởng, tình cảm gì không, Tập trả lời: không. Đêm, Tập ngủ buồng sát buồng tôi. Nửa đêm, hay bất cứ lúc nào, Tập đều lấy gót chân mình nện vào vách tường đùng đùng và tôi lắng nghe Tập gọi theo lối kéo dài: “Giàu ơi, thức hay ngủ?”. Tôi trả lời rằng thức, cũng bằng cách nện gót chân vào tường. Cứ như vậy, suốt ba đêm. Sáng sớm, chúng tôi xin thuốc véronal cho Tập. Tập uống một viên, đêm ấy anh cũng ngủ không được. Sáng sau, xin hai viên, chiều tối uống; cũng không ngủ được! Có khủng hoảng gì đấy? Chắc không phải khủng hoảng tư tưởng. Tôi hỏi nhỏ nhiều lần, Tập mới nói riêng với tôi: “Vợ mình đã quyết định ly dị với mình để lấy Đinh Nho Hàn. Thôi rồi! Tám, chín năm trung thành chờ đợi nhau!”. Biết nguyên nhân bệnh: nhưng chữa bệnh bằng cách nào bây giờ? Tôi báo cáo bệnh tình với y tá Khám Lớn! Tập ăn ngủ không được, mắt thụt, má hóp, người đã gầy còm lại gầy còm thêm, trông thấy rất thảm! Phải đưa đi nhà thương Chợ Quán, không thì Tập chết mất. Tập đi Chợ Quán. Không quá một tuần sau, Tập trở về Bâtiment S, vui vẻ như thường. Ai chữa? Uống thuốc gì? - Chẳng có thuốc gì ráo! Chẳng có thuốc trị sao lại hết bệnh? - Số là lúc ấy, không chỉ có người cộng sản bị bắt vào Khám Lớn mà có cả một ít người đứng đầu của báo La Lutte, như Tạ Thu Thâu, Tạ Thu Thâu thuộc phe đệ tứ, công kích Mặt trận bình dân Pháp, công kích Mặt trận Dân chủ Đông Dương do Đảng Cộng sản đệ tam chủ trương. Bất ngờ hai lãnh tụ đệ tam và đệ tứ đụng đầu nhau tại bệnh viện Chợ Quán. Hai anh Thâu, Tập vốn quen biết nhau từ những năm 1926-1927, khi họ dạy học ở trường tư thục Nguyễn Xích Hồng tại Sài Gòn. Tất nhiên họ tranh luận hết sức sôi nổi giữa một số tù chính trị cũng nằm bệnh viện; cãi nhau rồi ăn cơm, ăn cơm rồi tiếp tục cãi nhau, sôi nổi, kịch liệt, bất phân thắng bại. Thâu lên án rằng phe Stalin - Tập là phe “phản động Thermidor (7) ”, Tập lên án rằng phe Trotsky - Thâu là “đội tiền phong tư sản phản cách mạng” chống Liên Xô. Cãi nhau đến tối vào giờ ngủ mới thôi. Đêm ấy sau trận khẩu chiến, Tập ngủ một giấc tới sáng trưa, ăn cơm rồi lại ngủ! Bệnh mất ngủ dứt hẳn, khỏi phải uống thuốc gì hết. Ít lâu sau, bệnh viện trả Tập về cho Khám Lớn. Tập trở lại Bâtiment S với tụi tôi, tường thuật chuyện “thiệt chiến” ở Chợ Quán. “Thiệt chiến” là đánh nhau bằng lưỡi, bằng miệng theo tích “thiệt chiến quần nho” (8) ở Tàu, thời Tam Quốc.2. Cực độ băn khoăn
Tôi vốn là một tâm hồn bình tĩnh, ít nhất là bình tĩnh hơn anh Hà Huy Tập của tôi. Tôi tự phụ như thế. Trước những khó khăn, những thất bại, rất ít khi tôi dao động tinh thần, trí óc băn khoăn, người mất ăn mất ngủ. Ấy vậy mà vào lúc gần mãn tù, tháng 4 năm 1940, cái đức bình tĩnh bẩm sinh đó nó biến đi đâu mất hồi nào không hay. Càng gần mãn án, tôi càng dao động, băn khoăn. Âu cũng là một nhân tính bình thường. Trầm tích của quả đất có lớp dưới lớp trên; tâm tình của con người có lớp sâu lớp cạn, dưới đáy là con người gia đình, bên trên hết là con người xã hội, xã hội phủ lên gia đình mà không chôn vùi nó cho dù mình đã nhất nguyện hy sinh gia đình cho Tổ quốc, cho đồng bào, cho lý tưởng.
Máy chém đặt trước cổng Khám Lớn
mỗi khi có cuộc hành quyết
(cuối thế kỷ XIX)
Những ngày cuối cùng của cái bản án tù năm năm sao mà dài thế! Dài vô tận. Nhớ hồi nào, khi lãnh án, tôi xem năm năm tù, mười năm biệt xứ như một thời gian tu dưỡng cho bản thân, tựa một phật tử theo định kỳ đi “tịnh” trong khuôn viên một ngôi chùa vậy thôi. Bây giờ, càng gần mãn án, tôi xem mỗi ngày là một chuỗi tràng hạt lần mãi không hết. Tản Đà chẳng đã viết: “Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê?”. Hay quá, hay ở chỗ chữ “ghê” đó!Té ra, cũng là thằng tôi mà lúc cực kỳ nguy hiểm, ngàn trùng gian khổ thì tôi xem gian nguy nhẹ như một chiếc lông chim. Bây giờ, đột nhiên nổi dậy cái ý thức gia đình, cái ý thức về nợ gia đình không làm sao trả nổi. Tôi nhớ mẹ, nhớ vợ quá, nhớ phần mộ cha tôi trên đám ruộng trước nhà, nhớ ngôi nhà cũ kỹ trong đó tôi sinh ra và lớn lên. Tôi tưởng tượng ngôi nhà và miếng vườn đều lạnh lẽo xơ xác vì, nếu trước đây gia đình tôi tứ đại đồng đường thì bây giờ chỉ có mẹ già tôi ngoài 70 tuổi và một cháu gái chết chồng hôm sớm cúng nước, đốt nhang, gõ chuông, giống như bà sư, cô vãi trong một ngôi nhà chùa vắng. Cái nhà này, khuôn vườn này theo Di chúc, là của tôi, con út; tôi có trách nhiệm nối dõi tông đường, nhưng tôi biền biệt từ hơn mười năm rồi; các anh chị tôi đều ra riêng hết, mỗi người “trấn” một giây ruộng, tía tôi qua đời khi tôi còn ở ngoài Côn Lôn; vợ tôi, sau khi con gái đầu lòng chết, đã về bên ấy để làm ruộng nhà, lâu lâu mới qua thăm mẹ chồng một lần, để mẹ chồng nàng dâu ôm nhau mà khóc.
Tôi nhớ nhà quá chừng! Văn xuôi không tả nổi nỗi nhớ, còn văn vần thì xa lạ với tôi.
Tôi quyết tâm làm chiến sĩ “cách mạng chuyên nghiệp” theo từ ngữ Lênin - Nguyễn Ái Quốc. Song, xét cho cùng, đó là quyết định của trí tuệ, của ý thức, của một ý định dầu tuyệt đối vẫn còn dành một phần sinh hoạt tâm hồn, cho những ai nặng nợ gia đình, tuy đã được mở trói mà vẫn còn khi lơi khi nhặt một sợi dây vô hình ràng buộc những người vì non sông chung với gia đình riêng để ngàn đời làm nền tảng cho gia đình ấy.
Chắc mẹ tôi, vợ tôi, lúc này cũng ngày trông đêm đợi như tôi. Tôi được tin mẹ nuôi mười con vịt tơ sà, mười con gà giò, hai con xiêm cồ, chờ con về bồi dưỡng; người ta bày lấy vài xăng-ti-lít tiết xiêm cồ pha vào một chung rượu nếp, uống mỗi buổi sáng, thì mau lại sức. Vợ tôi chắc đã sắm sửa chăn màn để trở về nhà chồng. Nhưng mẹ và vợ tôi đều ở thôn quê hẻo lánh, nào có biết gì về tình hình chiến tranh thế giới liên quan đến ngày mãn tù Khám Lớn của tôi. Tình hình đó, tôi càng theo sát thì càng lo lắng: chiến tranh thế giới lần thứ hai đã bùng nổ từ tháng 9 năm ngoái. Pháp, Anh đã tuyên chiến với Đức. Pháp đã ra lệnh tổng động viên ở Đông Dương, cấm báo tiến bộ, bắt giam những người chống đối. Vậy mà tôi còn ngồi tù Khám Lớn, chờ ngày về nhà! Về được không? Hay là chính quyền thực dân sẽ ra nghị định giữ tôi lại Khám Lớn hoặc đưa trở ra Côn Lôn, hoặc tống vào một trại tập trung nào đó ở núi cao rừng sâu. Tôi ước tính tất cả các khả năng xấu bao gồm cả việc đày qua Guyane tận nam Mỹ châu ở đó ông Giàu và các thầy giáo đỏ tha hồ mà diễn thuyết với thổ dân da đỏ và tù nhân thường phạm người Pháp bị phát lưu chung thân vì trọng tội. Nghĩ lắm sinh quẫn. Tôi bèn tập trung tinh lực làm phép tham thiền nhập định học ở Thiện Chiếu, cốt đạt tới trạng thái tư tưởng không tư tưởng, nhằm đánh đuổi các ý nghĩ xám xịt kia. Nhưng vô hiệu; chúng nó cứ “lẽo đẽo theo hoài mãi chẳng thôi”.
Vài cơn mưa giông đầu mùa chưa làm dịu không khí nóng bức trong “biệt thự S”. Nóng bức nên ngủ không được. Không ngủ được nên càng nghĩ bâng quơ. Một buổi sáng ra giếng, thầy giáo Nguyễn Hữu Thế hỏi tôi:
- Sao coi hốc hác vậy cậu? Ngủ không được hả?
- Ngủ mệt hết sức vì chiêm bao. Thức giấc, mồ hôi ướt đầm, không ngủ lại được.
- Chiêm bao thấy gì?
- Thấy ngày mãn tù, mình ra tới cửa Khám Lớn, vừa gặp mẹ và vợ đón ở đó, chưa kịp hỏi mừng gì hết thì cò, lính đã xốc nách giải mình lên xe bít bùng, trong khi đó thì mẹ té xỉu xuống đường, vợ ôm mặt khóc. Giật mình thức dậy rồi thức luôn tới sáng.
- Mộng là mị.
- Cũng có khả năng mộng hoá ra thật. Nhưng phải bị đày đi nữa thì mình vẫn có cách đối phó, sợ gì? Cho tới bây giờ Pháp, Đức chưa đánh trong lịch sử, các cuộc đại tiến công thường xảy ra đầu thu trời trong đất ráo. Pháp chưa lâm nguy thì nó còn có thể thả mình ra; khi sắp lâm nguy, thì nó sẽ đến nhà lượm mình, thì khi ấy mình còn ở nhà đâu mà nó lượm?
Lập luận của tôi mới nghe qua cũng có lý. Vậy mà bụng bảo dạ tôi vẫn băn khoăn, cực độ băn khoăn.
3. Chưa vui sum họp
Băn khoăn vì trong tình thế rối ren hết sức, lòng tôi hết sức muốn về nhà với mẹ, với vợ ít ra cũng một vài tháng, trong thời gian ngắn ngủi đó mình vừa tìm lại được sự đầm ấm đã mất từ hơn mười năm nay (1928-1940), vừa điều tra tình hình địch, ta, rồi sẽ quyết định cách đối phó trước mùa thu. Giờ phút nào tôi ít chủ quan, thì tôi nghĩ rằng, thời nay chiến tranh bằng máy bay, xe tăng, có thể người ta không chờ mùa thu như trước nữa, mới mở cuộc tấn công qui mô và Pháp nó sẽ quăng lưới trước khi các ông cộng sản cựu chính trị phạm kịp rút hết vào bí mật. Tôi nghĩ đúng mà tôi không tin rằng đúng hẳn.
Ngày về tới nơi rồi. Mà về được hay không?
Sáng hôm đó, giáo Thế, biện Vi và tôi vừa uống trà, vừa phập phồng chờ đợi.
- Tám giờ mà không có giấy gọi là có biến. Thế nói.
- Có giấy gọi mà không có câu “ra về” thì cũng chẳng xuôi chèo mát mái đâu, Vi tiếp.
Ở chung với nhau bốn, năm năm rồi, tụi tôi không còn cái gì để dặn dò nhau nữa. Và mỗi đứa đã hai, ba lần bị bắt, bị tù rồi. Mỗi chuyện đã nói đi nói lại cả chục lần rồi. Có gì mới nữa đâu? Chỉ mời trà với nhau. Bình trà vừa cạn thì cửa thứ nhất, rồi cửa thứ hai của Bâtiment S mở. Gác dan da đen xuất hiện, vui vẻ kêu:
- Ông Giàu chuẩn bị. Tám giờ ra về.
- Ăn tiền rồi, tụi bây ơi! Thế nói lớn.
- Còn qua lục hình (9) mới biết được trơn tru không, Vị bỏ nhỏ.
Nghe cũng ơn ớn. Ra tù hôm nay, biết hôm nào sẽ bị bắt lại? Còn ngồi tù trong thời chiến thì khi chiến tranh ác liệt, mãn tù cũng sẽ bị giữ lại, gởi lên “căng”. Viễn cảnh của cả ba đứa tôi, không chút nào sáng sủa. Không chừng chúng tôi sẽ sớm gặp lại nhau trên rừng. Tuy vậy, bạn là cố cựu, kẻ ở người đi, sắt đá cũng bùi ngùi.
Ra sân khám, ngó lên phòng năm, sáu, thấy anh em ngoắc ngoắc sau song sắt; họ chào từ biệt và gởi một chút lòng tin. Tụi xếp Tây ra vẻ mừng, có mấy đứa khuyên “đừng trở lại nữa”. Tôi cười trả lời cho thằng “Triệu tử” (17): “Ai mà muốn trở lại, nhưng nếu bất đắc dĩ phải trở lại thì chắc chắn cũng không hề chi, cả anh và tôi đều còn trẻ, e khi lại cũng còn duyên!”. Cả lũ đều cười nhạt.
Ra cửa Khám Lớn, đã thấy vợ tôi đứng chờ bên kia đường, không một ai khác đi đón như hồi chưa có chiến tranh.
Tôi ngoắc vợ sang bên này đường cùng đi lại bót Catinat (10) với một thầy đội. Mười năm rồi kể từ ngày cưới, vợ chồng tôi mới lại được tay trong tay đi trên đường phố Sài Gòn! Thầy đội có nhã ý dang hơi xa để tụi tôi trò chuyện với nhau.
Ai cắt nghĩa dùm tôi vì sao tôi không mất vợ? Đáng lẽ năm 1930, nhà bên vợ chưa cưới không cho tôi làm đám cưới mới phải, vì khi đi Pháp, tôi hẹn về nước với hai bằng tiến sĩ, nhưng tôi về tay không, bị trục xuất khỏi Paris. Đáng lẽ, cho dù làm đám cưới rồi, mà tháng sau tôi đi đâu biệt tích bốn năm lần, sống chết không biết, thì cha mẹ vợ có thể lại gả con gái cho mấy chỗ quyền quý đi hỏi. Nhưng không, và vợ tôi thà vô chùa học dệt chớ không chịu lấy chồng lần nữa. Và đáng lẽ sau khi tôi bị kêu án năm năm tù, bị đày ra Côn Lôn, thì theo lời khuyên của tôi, vợ tôi lấy lại tự do lập gia đình; nhưng cũng không; cô ấy chờ đến hôm nay, đi đón tôi ở Khám Lớn ra. Sao mà chung thuỷ đến thế! Tụi tôi chưa dứt lời thăm hỏi nhau thì đã đến bót Catinat rồi. Vợ tôi lại đứng chờ ở gốc cây, tôi một mình đi vào bót để “lục hình” và nhận giấy tờ phóng thích. Tưởng đâu việc này có lâu lắm cũng không hơn mười lăm phút; nào dè? Nào dè, nó kéo dài hơn một giờ, khiến vợ tôi vô cùng lo sợ: vào hang sói dễ, ra hang sói khó. Còn tôi thì quen tính “mê đấu”, quên mất vợ đang đứng sốt ruột chờ, không biết lành dữ ra sao?
Cũng mấy thằng cò mật thám tra tấn hỏi cung như xưa: Perroche mặt gà thiến, Bazin mặt gà chọi v.v… tiếp tôi hôm nay.
- Chào ông Giàu, ông mạnh khoẻ?
- Cám ơn. Vẫn còn sống.
- Năm năm, dài quá phải không ông?
- Dài nếu so với một năm, ngắn so với mười năm.
- Hôm nay, nhân ngày trả tự do cho ông, chúng tôi muốn hầu ông một số vấn đề, những vấn đề thuộc chiến tranh thế giới đó mà.
- Nếu các ông muốn tôi sẵn sàng.
Tôi đinh ninh rằng có thể tụi này bày trò khiêu khích gì đây, hoặc chúng nó tìm hiểu mình để có thái độ, hoặc chúng nó thật muốn mình giải đáp âu lo thắc mắc của chúng nó, không chừng.
- Ông Giàu ạ, ông cắt nghĩa tại sao Stalin cộng sản ký hiệp ước với Hitler phát xít? Tại sao Đức và Liên Xô cùng đánh Ba Lan, chia xẻ Ba Lan? Tình hình chiến tranh trên thế giới sẽ diễn ra như thế nào trong tương lai gần đây ở châu Âu?
- Tôi cho rằng hoặc các ông không đủ thông tin hoặc các ông được thông tin không chính xác, cho nên các ông hiểu sai sự diễn biến của tình hình châu Âu từ hơn một năm nay. Tôi hỏi vặn lại các ông vậy chớ ai ký hiệp định Munich với Đức, để Đức nuốt chửng nước Áo, nước Tiệp? Đâu phải Liên Xô mà chính là Pháp và Anh. Các ông thừa biết rằng khi Pháp, Anh yêu cầu Liên Xô bảo đảm cho các nước nhỏ đông bắc Pháp mà Pháp, Anh lại không chịu đảm bảo cho các nước nhỏ ở miền tây bắc, tây nam Liên Xô. Ý đó là gì nếu không phải là Pháp và Anh đã xui Đức tiến công về phía đông, phía Liên Xô để cho Pháp, Anh đứng ngoài trông hai con hổ đánh nhau mà trục lợi về phần mình. Nước cờ ấy như chỉ trắng may vải đen, trẻ con cũng thấy. Thì Liên Xô phải trả đũa một cách thích hợp với lợi ích của mình bằng việc ký hiệp ước bất tương xâm phạm với Đức. Hãy biết rằng, đó không phải là hiệp ước liên minh Xô-Đức mà là hiệp ước bất tương xâm phạm. Liên Xô trước muốn liên minh với Pháp, Anh mà không được thì nay định đứng ngoài cuộc chiến tranh giữa Đức và Pháp, Anh. Liên Xô có phản phúc ai đâu, có đành hy sinh Áo, Tiệp như hiệp ước Munich đâu? Còn như các ông kêu ca, phản đối việc Liên Xô đưa quân qua chiếm phần phía đông Ba Lan thì việc ấy đầu đuôi như thế này, nếu các ông chưa biết:
Đức tấn công vào Ba Lan. Anh, Pháp tuyên chiến với Đức mà không tiến công lớn vào Đức, để Đức tập trung đại lực vào Ba Lan, chỉ trong vài tuần quân Đức đã bao vây Varsovie, chính phủ Ba Lan chạy sang Rumani, khi ấy Hồng quân Liên Xô mới kéo vào đông Ba Lan, chiếm đóng nhanh vùng đất Nga mà hồi chiến tranh thế giới lần thứ nhất các nước đồng minh thắng trận đã cắt lấy của Nga để giao cho nước Ba Lan mới được lập lại cho nó đủ lớn đủ mạnh làm đồng minh chí cốt của Pháp, Anh. Đất của Nga, Nga lấy lại, Liên Xô không thể cho Đức chiếm khi Ba Lan đã bại trận rồi. Đó không phải là chia xẻ Ba Lan mà đó là một hành động chống Đức. Hồng quân Liên Xô vào Ba Lan, dừng lại đúng trên giới tuyến Curzon. Các ông biết giới tuyến Curzon là cái gì không? Nếu không thì tôi cắt nghĩa: đó là ranh giới đông Ba Lan mà chính khách tên Curzon đề nghị, sau khi chiến tranh thế giới kết thúc, ranh giới này hợp lý vì bên này không có người Nga và bên kia không có người Ba Lan. Nhưng thuở đó Anh, Pháp, Mỹ chiến thắng Đức, Áo, Thổ, quyết cắt một phần đất Nga biếu Ba Lan em út, nay của César trả về César, thì nói xâm lược, nói bất công là nói làm sao? Alsace Lorraine (11) trở lại với nước Pháp hồi 1918 thì bất công, xâm lược ở chỗ nào?
- Ông Giàu quả là một trạng sư hùng biện cho Liên Xô, cò Perroche nói.
Tôi tiếp tục trình bày góp ý kiến:
- Tôi muốn nói thêm rằng, bây giờ nước Đức hùng cường từ sông Vistule đến sông Rhin, từ sông Danube đến Biển Bắc, nước Đức đó có biên giới chung với Pháp ở tây, với Liên Xô ở đông. Rồi đây Đức sẽ đánh sang đông trước hay tây trước? Tôi chắc nó sẽ đánh nước nào yếu hơn trước để lấy sức đánh nước mạnh hơn. Nước yếu hơn chính là nước Pháp của các ông. Tôi tự hỏi như vậy, trong tình thế mới đó Pháp, Anh và Liên Xô có đủ khôn ngoan để hợp sức bẻ gãy xương sống của Hitler bằng hai gọn kềm thép hay không? Tôi đoán chắc rằng nếu ngày nay nhiều người trong các ông còn có ai coi Liên Xô là kẻ thù, thì ngày mai tất cả các ông sẽ coi Liên Xô là bạn, là cứu tinh. Tôi cảm ơn các ông tạo một dịp may để tôi vắn tắt nói lên một vài chính kiến về chiến tranh thế giới.
Bọn cò đều đứng dậy đưa tôi xuống lầu bằng cầu thang của các sếp, và chúc tôi “đừng trở lại”.
- Sao anh ở trỏng lâu vậy? Em sợ quá chừng. Vợ tôi hỏi.
- Xin lỗi mình, anh bị tụi cò chất vấn khiêu khích. Phải nói. Mà không hớ chút nào. Thôi ta cùng đi xuống đường Catinat, ngồi lại bờ sông như hồi chưa cưới, ăn trưa ở Chợ Cũ rồi về nhà dì Tám, không thăm ai hết ngoài trạng sư Loye và linh mục Tricoare để trả ơn họ nhiều lần đi thăm tôi trong Khám Lớn. Chiều và tối hôm đó, hai người một xe kéo, tay trên vai, tụi tôi dạo phố Sài Gòn, Chợ Lớn chuyện trò tâm tình nhiều hơn là xem cảnh vật. Sáng ngày tụi tôi cà rịch cà tang trên xe lửa về thị xã Tân An. Tôi đi thăm trường học xưa bên bờ sông Vàm Cỏ. Bao nhiêu là kỷ niệm sống lại trong lòng; nào thầy, nào bạn. Rồi phải trình diện với phó tham biện. Rồi về quê. Tụi tôi, hai người một cỗ xe ngựa, tiếp tục chuyện tâm tình, xa xa sau lưng, bao giờ cũng có vài chú kiếng râm theo “hộ vệ” không kín đáo chút nào.
Về đến chợ Tầm Vu, tôi liền mua một bó nhang, một hộp quẹt. Bà con ở chợ nhờ quen biết với vợ tôi mà nhận ra tôi, mấy phút sau kéo đến xem chú Mười Ký như xem một vật lạ: Thuở nhỏ, tôi học ở trường tiểu học Tầm Vu (12), rồi từ vài chục năm nay, ít ai biết tôi đi đâu, chỉ nghe tin tôi làm gì. Ở góc trời hẻo lánh này không mấy ai bảo con trai họ theo gương chú Mười Ký, cực khổ, nguy hiểm lắm, nhưng rất nhiều người dạy con gái theo gương cô Sáu Đạo (13) tiết hạnh, thuỷ chung, giỏi việc nhà, ăn ở thuận hoà với mọi người.
Tôi và vợ tôi đi về nhà bằng đường bờ vòng vèo. Còn vài trăm thước nữa mới tới vuông tre của nhà tôi. Tôi thấy một đám đông, chắc có má tôi ở đó; tôi băng ruộng còn khô nẻ. Đúng má đây rồi, khăn điều vắt vai. Mẹ con ôm nhau, khóc, chỉ biết khóc không nói được một lời nào ngoài hai chữ: má! con! Mọi người đều khóc. Má tôi già đi nhiều; tóc đã bạc phơ, răng cửa còn hai chiếc. Mặt, cổ, vai đều ướt vì nước mắt của mẹ. “Con về lần này, ở nhà với má, tía con chết rồi, má hiu quạnh quá con ơi!”. Nghe đứt ruột. Tôi và vợ tôi xuống ruộng, đi đến mộ cha, thắp hương quỳ lạy tạ tội bất hiếu. Nhớ ngày nào cha tôi có bảo: “Tận trung là chí hiếu rồi đó”; biết vậy nhưng vẫn thấy mình lỗi đạo làm con. Các anh chị tôi và bà con xóm giềng kể lại rằng, gần lâm chung, cha tôi góp tàn lực, ngồi dậy, đứng lên, tay vịn vách, lần đi mấy bước, vừa đi vừa kêu tên tôi: “Ký ơi, Ký, con ở đâu?”; ai nấy chạy lại dìu cha tôi về giường, một lát sau, cha tôi tắt thở. Vậy là hình ảnh cuối cùng trong tâm trí của cha tôi là đứa con bất hiếu này!
Mấy ngày liền, nhà tôi trở lại cảnh “tứ đại đồng đường” (14), vui vẻ hết sức. Trừ ra một ngày về thăm quê vợ, tôi ở luôn bên cạnh mẹ tôi, vợ tôi. Mẹ tôi, như năn nỉ: “ Má 75 tuổi rồi, cô đơn quá, con ở nhà với má cho đến khi má theo tía con, rồi con làm gì thì làm, đi đâu thì đi”. Vợ tôi biết tính chồng, không khuyên can gì hết, chỉ lo cơm nước thuốc thang. Cuộc sống ở gia đình sao mà đầm ấm quá! Người thì kể chuyện bên Tây, bên Tàu, ngoài Côn Lôn, trong Khám Lớn. Người thì kể chuyện cười rơi nước mắt, chuyện vợ tôi xuống chùa cô Ba Yến học dệt vải, học làm tương, đi tu mà không chịu xuống tóc, trong túi bao giờ cũng có quyển Lục Vân Tiên và hình Trần Văn Giàu. Chuyện xảy ra lúc tôi thoát ly gia đình đi làm cách mạng chuyên nghiệp, không ai biết tôi ở đâu, làm gì, sống hay chết; có một quan huyện chết vợ toan đi hỏi vợ tôi mà ông ấy tin rằng đã goá chồng, vừa đẹp, vừa giàu, lại nết na, chưa con. Vợ tôi xin phép cha mẹ tạm lánh ở chùa dưới chợ Tham Nhiên, để tránh người nói hỏi phiền phức.
Một hôm có người bạn tù cũ từ Mỹ Tho qua Tân An thăm tôi, khẽ bảo: Xứ uỷ dự tính anh sẽ trong Uỷ ban khởi nghĩa. Tôi hết sức dè dặt trả lời cho bạn:
- Chân ướt, chân ráo mới về, tôi biết gì mà vào Uỷ ban khởi nghĩa? Chuyện đó chưa nói được. Tôi dè dặt trả lời.
- Anh hãy kíp kíp vào bí mật trở lại đi. Tụi nó đến bắt, e khi anh trở tay không kịp, chớ chủ quan mà chết.
- Thong thả một chút. Chưa uống hết một góc tể thuốc. Tôi cần chữa bệnh.
- Nước tới trôn mới nhảy, nhảy sao được?
Tôi nghĩ rằng anh bạn cảnh cáo tôi như vậy là đúng quá, nhưng về phần mình, tôi phải dè dặt trong sự giao thiệp, vả lại tôi đã vốn lập luận chủ quan từ ngày còn ở “biệt thự S” rằng Pháp chưa bắt tôi từ trước đầu mùa thu, mà nay mới là đầu mùa hè.
4. Đã sầu chia ly
Sum họp gia đình được bảy ngày. Ngày thứ tám, vợ tôi xin phép về Bình Trị để bắt đầu chuẩn bị cho mùa lúa tới, hẹn hai hôm, phơi giống xong sẽ quay trở lại.
Nào dè, tối hôm đó, cửa ngõ vừa gài, đèn vừa lên, kế hoạch liên hoan ngày mai vừa đặt, thì ngoài cổng có tiếng gọi: chú Mười có nhà không? Chú Mười có nhà không? Có khách, có khách! Nghe lạ tai, tôi sanh nghi. Chắc có biến. Làm sao bây giờ? Có thể lẩn ra vườn sau, vườn rộng, trời tối, ai biết tôi ngồi ở đâu, đi ngả nào? Nhưng, nếu cò Tây, làng lính đến bắt tôi mà chúng nó biết rằng mới hồi chiều đây tôi còn ở nhà thì chúng nó có thể sẽ bắt mẹ tôi để tìm ra tôi, đó là điều tôi không muốn. Vả lại, mấy ngày rày, tôi chưa hoạt động chính trị gì hết thì dù tôi bị bắt, Tây chỉ có thể đưa tôi đi trại tập trung là cùng, bắt tôi đi trại tập trung ở núi cao rừng sâu thì cũng giống như “bắt cóc bỏ dĩa”, sợ gì? Tôi bèn ra mở cửa ngõ.
Hương chủ Mai ở Tầm Vu, Phủ Hoài và cò Tây ở Tân An, mấy tên làng lính theo sau, tụi nó đi bắt mình đây.
- Quan trên mời chú Mười lên Sài Gòn.
Tôi mời các ông vào nhà xơi nước đã.
Vào nhà, thằng cò đọc lệnh Thống đốc Nam Kỳ. Tôi dịch ra cho má, anh chị và cháu tôi nghe. Mọi người khóc ròng, trừ anh Năm tôi, ổng nắm tay trừng mắt, chòm râu cằm run run. Tôi sợ ổng vồ tới bóp cổ hương chủ Mai, và như vậy sẽ sinh ra đổ máu. Anh Năm tôi vốn là một chiến sĩ khởi nghĩa năm 1916 (16), đã tham dự trận phá Khám Lớn Sài Gòn. Tôi để tay lên vai anh và thưa với mẹ: “Má yên tâm, con sẽ về với má”. Thằng Tây bảo lính dẫn tôi đi, không còng trói gì hết. Má tôi té xỉu xuống đất. Ra tới cửa ngõ, tôi sực nhớ đến vợ: mai sáng, được tin không lành, chắc vợ tôi cũng té xỉu xuống đất như mẹ tôi.
Một trại tập trung được hối hả dựng lên ở Tà Lài, tỉnh Biên Hoà, dành cho cựu chính trị phạm và một số người “nguy hiểm” ở Nam Kỳ.
(Còn tiếp)
Chú thích (của người biên tập)
(1) Nguyễn Hữu Trí (?-1916) một trong những người cầm đầu Thiên Địa Hội năm 1916 tổ chức hàng trăm nghĩa sĩ giáo mác xông tới Khám Lớn phá ngục để giải cứu lãnh tụ Phan Xích Long. Phan Xích Long (1893-1916) tên thật là Phan Phát Sanh, tức Lạc, thủ lĩnh các hội kín mang màu sắc tôn giáo ở Nam Kì đầu thế kỉ XX trong phong trào Phản (chống) Pháp Phục Nam. Ông tự xưng là Đông Cung, con vua Hàm Nghi, rồi tự phong Hoàng Đế. Năm 1913, tổ chức đặt bom ở Sài Gòn, bị bắt. Trong cuộc “Cứu Đại Ca” năm 1916, Nguyễn Hữu Trí bị chết. Sau đó, Phan Xích Long và 56 nghĩa sĩ khác bị xử tử hình. Xem thêm Wikipedia ( http://vi.wikipedia.org/wiki/Phan_X%C3%ADch_Long ) và Văn nghệ Sông Cửu Long ( http://vannghesongcuulong.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?TPID=3831&LOAIID=3&TGID=868 ).
(2) Nguyễn Hữu Thế, giáo học, bị kết án 7 năm tù (1935-1942), 10 năm quản thúc (theo Nguyên Hùng: http://www.quansuvn.net/index.php?topic=17085.20)
(3) Nhà sư Thiện Chiếu (1898-1974) tên là Nguyễn Văn Giảng hay Nguyễn Văn Tài quê quán tại xã Vĩnh Hựu, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang. Ông xuất gia từ nhỏ, học vấn uyên thâm. Từ năm 1923, trụ trì ở chùa Linh Sơn, khởi xướng phong trào chấn hưng và canh tân Phật giáo ở Nam Kì, từng ra Hà Nội bàn bạc việc thống nhất Phật giáo. Ông là nhà sư đầu tiên tham gia Thanh niên cách mạng đồng chí hội và Đảng cộng sản Việt Nam. Xem tiểu sử http://www.tiengiang.gov.vn/xemtin.asp?idcha=3609&cap=2&id=5535
(4) Tiếng Pháp: trong tù, trái tim hoặc bị tan vỡ hoặc được tôi luyện thành đồng thau.
(5) Hà Huy Tập (1906-1941), tổng bí thư Đảng cộng sản Đông Dương (1936-1938) trước khi bị bắt giam Khám Lớn. Khi Nam Kì khởi nghĩa bùng nổ, ông ở trong tù (vì một án khác), nhưng vẫn bị quy “trách nhiệm tinh thần” và bị xử tử hình cũng như Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần. Được đào tạo ở Liên Xô, cũng như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, ông đi theo đường lối tả khuynh giáo điều của Stalin, từng phê phán nghiêm khắc đường lối “cải lương”, “hợp tác”, “tàn tích quốc gia chủ nghĩa”, “tàn tích tư sản” của Nguyễn Ái Quốc. Xem tiểu sử đầy đủ: Wikipedia ( http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0_Huy_T%E1%BA%Adp ), Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam ( http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30291&cn_id=159999 )
(6) tức Nguyễn Khánh Toàn (đừng nhầm với người trùng tên, hiện làm thứ trưởng Bộ công an, nổi tiếng qua vụ Cô gái Đồ Long bị bắt giam khẩn cấp). Nguyễn Khánh Toàn (1905-1993) sinh tại Vinh, quê quán ở Hương Trà, Thừa Thiên. Tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm năm 1926, tổ chức lễ truy điệu Phan Châu Trinh, nên bị thực dân đàn áp, không cho dạy học, cấm viết báo. Từ 1929 đến 1939 sang học ở Liên Xô, được giữ lại để đào tạo thanh niên Việt Nam sang học làm cách mạng. 1939-1945 ở Diên An (Trung Quốc). Sau Khởi nghĩa 1945, về nước, làm thứ trưởng Bộ giáo dục rồi phụ trách Ủy ban khoa học xã hội. Ủy viên trung ương ĐCS (1951-1976). Chủ trì nhiều bộ sách và công trình nghiên cứu chính thống, được nhiều giải thưởng và huân chương. Đọc lời mở đầu của ông cho bộ Lịch sử Việt Nam (1971-1989) mà ông đứng tên chủ biên thì thấy ít sử học và nhiều đao búa.
(7) Thermidor (Tháng nóng): nguyên thủy là một trong 12 tháng của Lịch cộng hòa, do Cách mạng Pháp lập ra để thay thế Lịch Gregor thông dụng (và ngày nay vẫn được sử dụng phổ biến). Tháng Thermidor là tháng thứ 11, khoảng từ 19 tháng 7 đến 17 tháng 8. Trong ngôn ngữ chính trị Pháp, Thermidor hay 9-Thermidor chỉ ngày 27 tháng bảy 1794, là ngày phe Robespierre (chủ xướng chính sách Khủng bố) bị lật đổ; “Thermidor” do đó được phe “tả” coi là một cuộc phản cách mạng, chuyển Cách mạng Pháp từ thời kì Jacobin sang chế độ độc tài của Napoléon Bonaparte (xem bài viết của Trostky: Thermidor and Bonapartism http://www.marxists.org/archive/trotsky/1931/xx/thermidor.htm )
(8) Điển tích trong truyện Tam Quốc, Khổng Minh sang Đông Ngô, tranh luận với các đám “quần nho” của Tôn Quyền, bác bỏ từng lí lẽ của họ, thuyết phục Đông Ngô liên minh với Lưu Bị chống Tào Tháo.
(9) Sở Lục hình: nơi lưu trữ hồ sơ lí lịch các tội phạm.
(17) “Triệu tử”: cả hai bản chúng tôi có trong tay (bản in và bản “số hóa”) đều viết như vậy. “Triệu tử” không có lẽ là Triệu Vân tức Triệu Tử Long, nhân vật Tam Quốc Chí. Xin đợi những độc giả cao minh chỉ giáo.
(10) Bót Catinat: Sở công an thực dân, ở góc đường Đồng Khởi (xưa là Catinat, rồi Tự do) và Nguyễn Du, nay là trụ sở Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
(11) Alsace Lorraine: vùng đất cực đông của nước Pháp, giáp ranh nước Đức, năm 1871, bị đế quốc Đức sáp nhập, sau Thế chiến lần thứ nhất (1914-18) nước Pháp mới khôi phục được. Từ năm 1871 trở đi, trong tâm tương của dân tộc Pháp, Alsace Lorraine trở thành biểu tượng của lòng yêu nước, thiết tha với sự toàn vẹn lãnh thổ (và cả biến tướng của nó là chủ nghĩa dân tộc, lòng căm thù “bọn Đức” (Boches)). Không phải ngẫu nhiên mà năm 1940, dựng cờ kháng chiến, tướng De Gaulle lấy “thập tự Lorraine” (chữ thập có hai gạch ngang) làm biểu tượng. Năm ấy, Hitler tái chiếm vùng này và sáp nhập nó vào đế chế quốc xã, thanh niên Pháp quê ở tỉnh này bị bắt lính, tham gia quân đội, SS… gây ra nhiều tội ác ở Pháp cũng như ở Ba Lan, Liên Xô (họ bị gọi là lính Đức malgré eux – dù muốn dù không).
(12) Tầm Vu, do đó, cũng là một bút hiệu của Trần Văn Giàu.
(13) Sáu Đạo tức là bà Đỗ Thị Đạo, vợ ông Trần Văn Giàu (tên quen thuộc là Mười Ký, sau này là Sáu Giàu).
(14) Tứ đại đồng đường: bốn đời (thế hệ) ở chung dưới cùng một mái nhà.
(16) xem chú thích (1) về Nguyễn Hữu Trí.
5. Căng Tà Lài: “Trại lao động đặc biệt”
Đường lên trại giam
Trên đường bờ quanh co từ nhà ra lộ đá, tôi tự hỏi không biết có người vợ trẻ nào gian truân như vợ tôi không? Sau đám cưới hơn một tháng, ông chồng đi đâu biệt tích, không biết sống chết, mãi đến ba năm sau, khi ông ấy bị bắt, bị đưa ra toà, mới biết chắc chắn rằng mình chưa phải đã goá chồng. May mà khi ấy tôi chỉ bị bắt có một mình, bị bắt lúc đang đi trên đường cái, có nhiều tiền trong túi mà không có địa chỉ cư trú, cho nên toà chỉ xử án năm tù treo vì cái tội nghe lạ tai là “vô gia cư chuyên môn” (vagabondage qualifié) tuy nó biết chán rằng tôi là “nhà cách mạng chuyên nghiệp”, chớ không phải là “ma cà bông”.[1] Lãnh án rồi, về nhà với vợ được hơn tháng tôi lại phải vào bí mật. Từ đó lúc tôi mãn án lần chót là bảy năm đằng đẵng. Kỳ này, ngỡ rằng có thể ở nhà vài tháng, cho đến đầu mùa thu, té ra cuộc vui sum họp chỉ được tám ngày thì ông chồng bị bắt đi trại giam thời chiến, mà chiến tranh thì biết khi nào dứt, chưa dứt thì mọi việc tàn bạo nhất đều có thể xảy ra ở trại giam trên rừng sâu nước độc. Thật khó mà tưởng tượng tâm trạng của một cô vợ ở trong tình cảm bi đát này. Càng khó tưởng tượng tâm trạng của mẹ tôi, vừa mới gặp lại thằng con yêu quý thì bị người ta cướp đi từ tay mình. Trời ơi là trời! Tai hoạ sao mà dồn dập trút xuống một bà già quạnh hiu gần đất xa trời như thế này?
Can đảm mấy cũng đứt ruột.
Đứt ruột mà vẫn phải can đảm; càng đứt ruột càng phải can đảm.
Hai chiếc xe hơi từ tỉnh lộ Tân An - Gò Công bật đèn lên, thấy Châu Văn Giác ngồi với vài tên tính mã tà.[2]
- Cậu Mười[3] đây rồi! Cậu cháu mình cùng đi trại giam cho có bạn.
Châu Văn Giác là một đứa con xứng đáng của đất Tầm Vu, cậu đã vào T.K. (Thanh niên Cộng sản) từ 1930, đã đạt kỷ lục bãi thực[4] dài mười hai ngày ở Khám Lớn, kỷ lục này bị phá bởi cuộc bãi thực ba mươi ngày của các anh Tạ, Thâu, Ninh, Hiển, Quảng[5] (cuộc này sở dĩ kéo dài đến thế là nhờ thủ thuật của nhà cầm quyền Pháp bơm sữa vào hậu môn tù nhân). Quảng là cháu ruột của tôi, cũng là người xứ Tầm Vu, hôm nay nó không bị bắt với Giác và tôi, bởi vì sau cuộc chiến tranh kia, nó ho lao nặng, chắc Pháp thấy rằng không cần bắt giam nó, nó cũng chết tới nơi rồi.
Một đêm, ở xà lim trại lính khố xanh[6] thị xã Tân An, Giác và tôi được đánh thức vào khoảng một giờ sáng và được lệnh đi ngay.
Đi đâu chừng này? Chừng này mà bị dẫn đi thì rất có thể là đi “thủ tiêu” êm. Tôi sinh nghi. Hỏi mã tà. Hỏi đội sếp. Nếu tụi này ú ớ thì chúng tôi sẽ chống lệnh, chúng tôi sẽ la ó để báo động cho nhân dân.
- Đi đâu giờ này? Ai ra lệnh? Đưa lệnh coi nào?
- Lệnh đây. Đi Sài Gòn. Phải có mặt ở Bà Chiểu trước hửng sáng, để đi đâu nữa thì chúng tôi không biết.
Thế là không phải đi thủ tiêu êm. Tôi lên tới trại của Binh đoàn lưu động Gia Định lúc bốn giờ sáng. Vào sân thấy ngồi ủ rũ trên ghế đá mấy anh chàng quần áo tử tế, trong số đó có một cậu to béo, mặc quần soóc, xách cặp da bóng loáng. Họ đang ủ rũ, hỏi ra mới biết, bởi vì họ cũng ngờ rằng Tây nó sắp đem đi thủ tiêu trước khi trời sáng. Thời kỳ chiến tranh mà! Còn đâu nữa chính phủ Mặt trận bình dân[7] mà hòng nói luật với pháp? Trên sân, qua lại mấy toán lính khố xanh, mấy thằng cò Tây nai nịt súng đạn, chờ lệnh, mặt sát khí đằng đằng.
- Chào các anh, từ đâu đến mà dám đến sớm hơn tụi này? (Tôi cà rỡn hỏi).
- Bạc Liêu, Cần Thơ lên.
- Còn hai anh, từ đâu đến mà coi bộ tươi cười như vậy?
- Từ Tân An. Giác trả lời và giới thiệu luôn.
- Ông này là Giàu, tôi là Giác.
- Giàu nào? Có phải Trần Văn Giàu không?
- Mình là Tào Tỵ, hoạ đồ Tỵ Bạc Liêu, còn chú da bánh ít ngọt này là Nguyễn Công Trung, công tử Cần Thơ.
Bây giờ tan biến cái lý nghĩa bị đem đi thủ tiêu trước trời sáng. Ai nấy đều chắc rằng sắp phải bị đưa đi xa Sài Gòn nhưng chưa biết đi đâu. Đi ra biển? Hay đi lên rừng? Hay đi xa hơn nữa tận Ấn Độ Dương, tận châu Nam Mỹ? Lát nữa sẽ rõ.
Chờ xem.
Đúng năm giờ, một đoàn xe quân dụng bốn chiếc bắt đầu nổ máy trong sân trại Binh đoàn lưu động. Chiếc đầu chở một thằng quan hai non choẹt, cao nhồng, vẻ kiêu ngạo, vài thằng Tây nữa là ách đội.[8] Chiếc sau chở khoảng một tiểu đội khố xanh. Hai chiếc giữa chở bọn tôi, chừng vài mươi đứa. Xe ra cổng, không quẹo tay phải ra phía Sài Gòn, mà quẹo tay trái về phía Gia Định. Tôi hơi mừng trong bụng. Rồi đoàn xe trực chỉ Biên Hoà, không phải xuống bến tàu. Tôi nói nhỏ với Giác:
- Thôi, yên trí; không phải ra biển mà đi lên rừng, ra biển khó về, còn lên rừng thì như đi píc-níc thôi!
Trưa, đoàn xe đậu lại ở cây số 125 đường Biên Hoà - Đà Lạt. Không có nhà dân, không có đồn bót, không một bóng người qua lại; chỉ nghe tiếng vượn hú. Nhưng một trại bỏ trống với mấy bãi cứt bò đã khô quéo, chứng tỏ rằng đây là một cửa rừng, chỗ thợ rừng kéo súc ra chờ xe chở về dưới xuôi. Một đường đá nhỏ hẹp dắt đi đâu không biết, cỏ cây mọc tùm lum. Một thầy đội bảo:
- Đường vào căng[9] đó, chúng ta nghỉ ăn sáng cái đã.
Lính trải vài tờ nhật trình xuống cỏ, bày bánh mì, đồ hộp, bình toong nước, ai có phần nấy.
- Y như hướng đạo sinh đi cắm trại mùa hè!
- Cứ quất no một bụng rồi sẽ xem ra sao.
Anh em bàn luận vui vẻ giống như đi cắm trại thật. Trừ tôi ra, tôi quan sát đường đi nước bước từ hồi sáng đến giờ.
Từ đường 20 vô tới căng Tà Lài, chỉ mười bảy cây số, vậy mà chạy xe mất quá một giờ. Càng vào sâu, cây cỏ càng lấp mặt đường, đá tảng gập ghềnh. Không một ai lai vãng. Không một nhà, một chòi. Nhưng thú rừng thì vô kể, nhiều nhất là các loài khỉ; khỉ trên cành cây cao vút, khỉ dưới đất chạy qua đường, nhăn mặt như trêu người, la hét như chào mừng bà con quá bộ đến thăm. Từng đàn công bay ào ào, kêu chan chát, thằng quan hai nổ một phát súng hạ được một con công đuôi dài rất đẹp. Thỏ lấp ló ở bụi gần, nai téc ở trảng[10] xa. Thỉnh thoảng heo rừng nghênh mỏ, khoe nanh rồi vụt nhảy. Tôi chợt nghĩ: thú nhỏ nhiều như vậy, chắc cọp ở đây không ít, cọp ở đây góp phần quan trọng cho việc canh giữ chúng tôi trong trại.
Khu Tà Lài chụp từ vệ tinh: vùng đất màu nậu nhạt ở phía trên ảnh, gần giữa, có dòng sông Đồng Nai chảy qua. Góc trái phía dưới: hồ Trị An. Góc phải, phía dưới: đương trắng chạy ngang
Cuối đường là trại giam Tà Lài.Tà Lài nguyên là trụ sở đặc biệt của thực dân Pháp tại vùng người Thượng ở đông và đông bắc Biên Hoà. Xem như một quận lỵ, từ lâu bỏ hoang. Nói là trụ sở, là quận lỵ, chớ thật ra không còn có đâu! Cư dân? – Vẻn vẹn chỉ có một nhà dân núp trong vườn chuối sum sê bên cạnh một bến phà. Công thự? Chẳng có gì cả ngoài ba cái nhà trệt bằng gỗ lợp ngói có thể chứa một vài ông quan và một vài trung đội lính khố xanh nhưng đã bỏ hoang, không biết từ hồi nào. Ba cái nhà đó ở giữa một khu đất rộng chừng bảy, tám mẫu, cây to cao đã bị đốn sạch, nhưng cây nhỏ và cỏ tranh mọc lên rậm rì, có nơi lút đầu. Ngày chúng tôi lên tới đó thì Tây mới vừa làm xong một cái trại dài bằng tranh tre nứa chứa được khoảng năm, bảy mươi người, một cái nhà bếp, một trạm y tế cũng bằng tranh tre. Từ nay về sau mọi sự xây dựng ở trại giam này đều sẽ do bàn tay của anh em chúng tôi.
Ảnh căn cước ở trại Tà Lài
(Nguồn: Tư liệu gia đình)
“Cầu thủ dự bị”
Ở Tà Lài được vài tuần, số anh em lên đến hơn trăm, mỗi tuần lại thêm đông, tổ chức sinh hoạt, tổ chức lao động bắt đầu thành nề nếp. Tôi bàn với vài đồng chí tin cẩn nhất trong Đảng uỷ căng như Văn, Phúc, Giác, Đức về nhiệm vụ chính trị của những đảng viên cộng sản ở cái trại giam lớn này.
Rõ ràng là bọn thực dân quyết định gấp rút bắt tập trung lại một chỗ cho kỳ hết những ai mà chúng cho là nguy hiểm đối với quyền thống trị của Pháp trong cuộc chiến tranh thế giới này, trước hết là những người cộng sản, nhưng không chỉ có cộng sản mà thôi. Hễ còn trại tập trung thì còn thực dân Pháp và chiến tranh. Trại tập trung là nhà tù không án, không thời hạn. Giam giữ là chính. Cái chính không phải là đày ải, bắt lao động. Tách rời cá với nước, chiến sĩ với nhân dân mới là mục đích lớn; mục đích lớn chắc không phải là dùng nhân công này làm đường sá, xây đồn luỹ. Tất nhiên là vì nếu ở trại giam mà các nhà cách mạng chết lần, chết hồi đi thì thực dân Pháp càng bằng lòng. Về phần của ta thì ta phải xem việc tập trung ở trại giam này như là một cơ hội để huấn luyện chiến sĩ, đào tạo thêm cán bộ cho cuộc cách mạng nhất thiết phải nổ ra và thành công ngay trong cuộc chiến tranh thế giới này. Các đồng chí đang hoạt động bí mật hiện nay có khá đông, đủ năng lực, đủ tinh thần, nhưng tránh sao khỏi bị bắt, bị giết. Chúng tôi ở trại giam phải tự xem như “cầu thủ dự bị” để thay thế những người bị bắt, bị giết đó, để bổ sung cho lực lượng cách mạng chỗ nào và khi nào cần. Tà Lài phải đóng vai một “trường học nội trú” của Đảng. Việc chính của chúng tôi ở đây chưa chắc phải là đấu tranh để cải thiện điều kiện ăn, ở, y tế, lao động, cái đó tất nhiên là cần thiết mà không phải là chính yếu; cái chính yếu là học, là huấn luyện.
Ban lãnh đạo căng, công khai, được toàn thể trại viên bầu cử, được xếp căng công nhân, lo việc tổ chức ăn, ở, lao động. Ban này đa số là đảng viên, mỗi trại hai người, trên hết là đại diện của toàn thể trại viên đối với xếp căng: đồng chí Giàu. Đảng uỷ viên chuyên lo việc huấn luyện chính trị tư tưởng, tổ chức lực lượng nòng cốt, liên lạc với bên ngoài, công tác binh vận đối với lính khố xanh, công tác dân vận đối với đồng bào Mạ[11] trong vùng. Mọi khả năng đều được tính trước, bàn luận kỹ, phải biết rằng thời này là thời chiến, không còn là thời bình nữa rồi.
Đồng chí Văn báo cáo nội bộ hẹp về nghị quyết Trung ương tháng 11 năm 1939 (họp ở ngoại ô Sài Gòn), về nhiệm vụ cách mạng Đông Dương trong tình hình chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Nghị quyết này, mãi cho đến tháng 5 năm 1940, tôi chưa được biết, tôi cũng không biết rằng, cuối 1939, sau hội nghị Trung ương thì Ban Thường vụ Trung ương đã bị bắt ở đường Nguyễn Tấn Nghiêm. Phúc nói riêng với tôi là Xứ uỷ Nam Kỳ đã tính đến việc khởi nghĩa, phải bắt đầu chuẩn bị để đón thời cơ, tin ấy phù hợp với việc cán bộ Mỹ Tho đến nhà tôi báo cho tôi biết là tôi có thể được chỉ định vào Uỷ ban khởi nghĩa khi tôi vừa ở Khám Lớn về nhà.
Trong trại giam Tà Lài, đảng viên cộng sản và hội viên các đoàn thể do Đảng lãnh đạo chiếm đại đa số. Song, những người không cộng sản cũng không ít, còn có tín đồ Cao Đài, nổi tiếng nhất là “Thiên Bồng đại nguyên soái” Lê Kim Tỵ; lại có Tờ-rốt-kít như nhà báo ít tiếng tăm Lê Văn Thử từ đệ tam sang đệ tứ, tiến lên đệ tứ rưỡi, cũng có một tay nguyên thuộc công đoàn vô chính phủ ở Paris như Trịnh Hung Ngẩu - nay là công thương gia. Lác đác vào trại có một ít cụ thuộc các “hội kín” ngày xưa. Và, sao cho khỏi mấy tay trà trộn vào đây để do thám.
Văn và tôi tổ chức nhiều tổ học tập lý luận. Vấn đề chính, nhiệm vụ lớn là xây dựng, củng cố lòng tin vào một cuộc cách mạng nhất định sẽ nổ ra thành công ngay trong thời gian chiến tranh thế giới này. Văn là cựu sinh viên trường Đại học Đông Phương, khoá sau tôi, người Vĩnh Long, nhỏ con mà râu xồm, tóc quăn, có lẽ gốc người Phù Nam gì đó chăng? Văn ít nói mà làm việc nội bộ giỏi. Tôi thì thường xuyên nói chuyện về thời sự, về các vấn đề chiến tranh và cách mạng thế giới, trả lời cho các câu hỏi chính trị bất luận là của ai, Cao Đài hay Trốt-kýt. Sinh hoạt tư tưởng xem như là thường xuyên, lính gác cũng được dự, có khi cả sếp Tây nữa. Nhớ ngày Đức mở cuộc tấn công chọc thủng chiến tuyến Maginot, tràn qua Bỉ và miền bắc Pháp, nhắm Paris trực chỉ, một thằng sếp Tây xuống trại 1, tìm hỏi tôi: “Liệu Paris có thất thủ hay không?”. Đông đảo anh em xúm nghe tôi và ông sếp Tây tranh luận. Sếp Tây thì đoán rằng sau chiến luỹ Maginot thì Pháp chỉ có thể lấy sông Loire làm phòng tuyến tự nhiên, chặn đứng quân Đức ở đó; nghĩa là Paris chắc mất thôi. Còn tôi thì cho rằng Paris có truyền thống cách mạng, sẽ không để cho quân phát xít chiếm đóng cho dù quân của chính phủ bỏ ngỏ kinh thành. Đánh cá nhau: ăn thua một chai champagne, có hàng trăm trại viên Tà Lài làm chứng. Ít hôm sau, chỉ ít hôm sau thôi, tin tới tấp, chẳng những Paris thất thủ mà nước Pháp cũng sớm đầu hàng nhục nhã! Tôi không dè rằng Pháp yếu hèn đến thế. Ai, ngoài Hitler, tin rằng một đế quốc Pháp cường quốc có hạng, mà bị bẻ gãy xương sống chỉ trong vòng hai ba tuần, quân Pháp chạy chết như một đàn trừu non trước bầy sói dữ? Không phải là tôi buồn bực gì về cái việc Pháp thua Đức. Pháp thua Đức có thể thấy trước; nhưng tôi không thể đoán được là Pháp đo ván mau đến thế. Tôi tính rằng Pháp cầm cự được ít ra cũng cả năm, Đức sẽ yếu đi bớt, Liên Xô sẽ có thời giờ chuẩn bị thêm. Nay, ở mặt trận Tây Âu như vậy là Đức gần như rảnh tay, nó có thể sớm đem phần lớn lực lượng sang đông, đánh Liên Xô là kẻ thù chính của nó. Nước Đức làm chủ thực tế của toàn thể lục địa châu Âu, đem toàn lực lục địa châu Âu sang đánh Liên Xô thì mệt cho Liên Xô lắm, mà hễ mệt cho Liên Xô thì cũng rất khó cho cách mạng thế giới.
Quả thật như vậy. Sinh hoạt tư tưởng của căng Tà Lài từ nay tập trung vào vấn đề mặt trận Đức - Liên Xô. Hơn ai hết tôi khẳng định rằng, tiến công Liên Xô thì Hitler đến ngày tận số. Nhưng rồi cũng không hẳn như thế, ít nhất là ở những giai đoạn đầu. Phòng tuyến Stalin chẳng hơn gì phòng tuyến Maginot. Quân Đức thắng trận này đến trận khác; Hồng quân mất thành này đến thành khác, có khi một ngày lui hàng mấy chục cây số; quân Đức vào tới ngoại ô Leningrad; Hitler tuyên bố sẽ nghỉ đông trong Moscou! Các đồng chí cộng sản buồn hiu; bọn đệ tứ, bọn thân Nhật lên chân; tụi nó lấy báo ghép lại thành như một chiếc chiếu vẽ địa đồ chiến sự Đức - Liên Xô, tuỳ tin chiến sự mà cắm cờ chữ vạn và cờ búa liềm, chữ vạn tiến mãi, búa liềm lui hoài; họ uống trà, bình luận, nói móc họng. Cho đến một hôm Tào Tỵ đi qua chỗ tụ họp ấy, nghe tụi kia chế nhạo nào là “Hồng quân vô địch”, nào là “Liên Xô hùng cường”, nào là… Tỵ nổi nóng cho mỗi đứa một đá, một thoi trời giáng, cả bọn tan như ruồi; anh em cản Tỵ lại, không thì tay võ sĩ Tiều này còn đại náo thiên cung dài dài và được nhiều người ủng hộ. Song vấn đề tư tưởng thì phải giải quyết bằng tư tưởng, không giải quyết được bằng cùi tay gót chân. Văn và tôi bắt đầu tìm cách giải thích sự cố Đông Âu trong nội bộ các đồng chí; rồi sau đó tranh luận công khai cho mọi người phát biểu ý kiến: Đức Liên Xô, ai sẽ thắng? Trở lại trước:
– Chủ nghĩa phát xít là gì? Do đâu ra?
– Nguyên nhân của chiến tranh thế giới lần thứ hai? Trong đó có những vấn đề mà tôi đã nói với tụi cò Catinat hồi tháng Tư!
– Chiến tranh và cách mạng.
Trước mắt, thiết thực là vấn đề Liên Xô có đứng vững được không trước sức tiến công vũ bão của Đức Hitler. Đảng uỷ, Văn và tôi cố giữ cho được lòng tin Liên Xô sẽ chiến thắng. Trên lý luận thì như vậy, nhưng thực tế chiến trường thì khác xa, rất khó giải thích, không dễ giữ được một lòng tin tuyệt đối như trước.
Chuẩn bị khởi nghĩa
Từ khi đặt chân lên Tà Lài, Văn, Phúc đã cho tôi biết chủ trương đường lối của Trung ương Đảng và của Xứ uỷ Nam Kỳ về vấn đề khởi nghĩa.
Trung ương hội nghị lần thứ VI họp ở Bà Điểm quyết định chiến lược mới của cách mạng giải phóng dân tộc, quyết định rằng ta có nhiệm vụ làm cách mạng thành công trong cơ hội “trăm năm có một”, nghĩa là trong chiến tranh thế giới lần thứ hai này. Nhưng, rủi quá, Trung ương Thường vụ bị bắt sau đó ít lâu tại đường Nguyễn Tấn Nghiêm, Sài Gòn. Xứ uỷ Nam Kỳ, căn cứ vào nghị quyết của hội nghị Trung ương lần thứ VI, đã bắt đầu chuẩn bị khởi nghĩa. Kế đó, Pháp đại bại, đầu hàng Đức, các cuộc xung đột biên giới giữa Đông Dương thuộc Pháp và Thái Lan thân Nhật càng thúc giục cuộc chuẩn bị khởi nghĩa. Chúng tôi ở Tà Lài được tin là Xứ uỷ không yêu cầu chúng tôi cùng hành động, chỉ yêu cầu chúng tôi bảo toàn lực lượng, chờ ngày được giải phóng. Nhưng về phần mình, chúng tôi không thể ngồi chờ mà phải sẵn sàng hưởng ứng khi cần. Chúng tôi cũng chuẩn bị khởi nghĩa và chuẩn bị bằng những cách sau đây:
Một là, tuyên truyền vận động ráo riết cho mã tà đứng về phe cách mạng, đánh Pháp, giành độc lập. Pháp mắc kẹt ở châu Âu, bị Đức đánh bại, thì lính khố xanh, khố đỏ gì cũng dễ thấy được rằng Pháp hết thời rồi, chỉ còn chờ ngày cút khỏi Đông Dương mà thôi. Ở trại Tà Lài mỗi tuần thay phiên một tiểu đội hay là hơn nữa, ý định của Pháp là ngăn ngừa lính bị chúng tôi tuyên truyền, thực ra, có thể xem như Tây nó thường kỳ đem nộp thêm người để cho chúng tôi tuyên truyền cách mạng. Các toán lao động ngoài rừng, ngoài đường đều có vài lính đi theo, chúng tôi tuyên truyền vận động đến mức họ đồng ý tập cho chúng tôi mở ráp súng và thỉnh thoảng bắn đạn thật, lính về báo cáo với sếp Tây là đã bắn “đuổi cọp”. Đa số lính của “Binh đoàn lưu động” vì vậy mà hiểu cách mạng, cảm tình với Đảng. Nếu ngày nào ta quyết định khởi nghĩa lấy đồn Tà Lài, thì việc đó sẽ dễ như móc thuốc lá trong túi áo.
Hai là, tuyên truyền vận động cho đồng bào thiểu số địa phương thương và phục những người bị giam ở trại. Việc này khó lắm. Vì đồng bào rất ít biết tiếng Việt, còn anh em tụi tôi thì không biết tiếng Mạ chút nào. Bà con lại ở cách trại giam tới năm, ba cây số hay xa hơn nữa, chỉ có Phúc, sếp ê kíp đốn tre bứt mây, mới có dịp vào làng Mạ. Song đồng bào thường qua lại Tà Lài. Chúng tôi tìm cách thỉnh thoảng tổ chức những cuộc vui chơi ở trại thì đồng bào rủ nhau đến xem. Tụi tôi sẽ có cách “tương kế tựu kế” gây cảm tình.
Ba là, tổ chức một đội võ thuật, nói cho đúng một đội du kích hay tự vệ, không mang hẳn tên gì mà thực chất là đội vũ trang, xung kích. Đội gồm những tay “hào kiệt” được chọn kỹ: Tô Ký, Nguyễn Công Trung, Tào Tỵ v.v… Trong rừng sâu thiếu gì chỗ tập luyện.
Bốn là rèn vũ khí thô sơ. Anh thợ Ba Son[12], Nguyễn Văn Khung, phụ trách công việc này, dao mác, xà beng của trại thỉnh thoảng được báo cáo mất, hỏng, thật ra là đưa vào “binh công xưởng” của Khung để rèn dao găm, mã tấu.
Và năm là làm lương khô và tích trữ thuốc men, việc này do “Tiển cụt” sếp bếp của căng, phụ trách: mỗi ngày để dành cơm cháy và phơi một số cơm khô đựng trong bao bố tời treo ở bếp.
Đã có kế hoạch chiếm gọn đồn Tà Lài, ra lấy Xuân Lộc, thắng thì đánh rốc về Biên Hoà, thất thì vào rừng núi làm du kích chiến tranh; Tà Lài nổi dậy là phải tuỳ theo lệnh của Xứ ủy, không được tự động.
Sau đây là vài chuyện thuộc mưu đồ khởi nghĩa ở Tà Lài, chuyện xảy ra vào cuối năm 1940. Chuyện “thi lội” là kế “điệu hổ ly sơn”, tạo khả năng điều phần lớn Tây và lính đồn ra khỏi trại mà thường xuyên chúng phải túc trực. Chuyện “xỏ vàm trâu cổ” là chuyện cốt làm cho đồng bào người Mạ phục anh em bị giam cầm, tạo điều kiện quan hệ thân ái giữa người Kinh và người Thượng mà Pháp cố tình chia rẽ; nhà cầm quyền thực dân cho rằng Tà Lài không có tường cao cửa sắt như Khám Lớn nhưng lại có rừng già nhiều cọp và có xóm làng người thiểu số mà chúng tin là trung thành với Pháp cho nên chúng tin chắc rằng tù nhân không thể nào vượt ngục mà không bị dân bản địa bắt nộp cho chúng.
Tháng 7-1989 (kỉ niệm 200 năm cách mạng Pháp), Trần Văn Giàu được mời sang Pháp. Ảnh chụp trước cổng nhà tù La Roquette, nơi cậu học sinh Giàu bị giam năm 1930 trước khi bị trục xuất về nước (Ảnh N.N. Giao)
Thi lội
Phong cảnh Tà Lài khá hữu tình. Đồn ngói của Tây, trại tranh của tù như giấu mình trong khu rừng mênh mông đầy muông thú, bên cạnh một con sông lớn nước bao giờ cũng trong và đầy, sông Đồng Nai. Bên kia sông về hướng Tây, một dãy núi xanh biếc. Bên dưới sông, một cái thác tuyện đẹp, được tù nhân đặt tên là thác “Cồn Mai”, đá dưới nước trồi lên, mai trên đá soi gương dưới nước. Khoảng trên của con sông, dài không biết bao nhiêu kilômét, nước đầy, chảy nhẹ, nhiều cá tôm, có cả sấu; chiều chiều đội đốn tre của anh Phúc thả bè về, quần áo quấn trên cổ, hát giọng chèo đò. Một hôm chủ nhật, tốt trời, chúng tôi xin phép tổ chức “thi lội” ở khoảng sông này. Sếp Tây đồng ý.
Trong một số anh em bị đưa đi lên trại giam Tà Lài, có Nguyễn Văn Minh, biệt danh là “Minh lội”, người dong dỏng, khoẻ, vui tính, nổi tiếng vô địch bơi lội Đông Dương. (Năm rồi trong cuộc thi bơi lội toàn Đông Dương thì Minh đoạt giải nhất). Bị đưa lên Tà Lài về cái “tội” không ra tội là “thuộc nhóm La Lutte[13]”, chỉ có vậy thôi. Lên đây, Minh có một hồ bơi lý tưởng là khúc sông Đồng Nai dài, rộng, sâu, nước chảy không mạnh. Những buổi chiều biểu diễn của Minh được toàn căng tán thưởng, nhiều thầy chú[14] ra xem, đôi khi sếp Tây cũng ra xem. Minh lội nhanh như cá và đẹp như khiêu vũ ba lê.
Trong số thanh niên bị bắt lên trại giam Tà Lài, có Nguyễn Thanh Liêm, con đỡ đầu của nghệ sĩ Văn Cừ, Cần Thơ. Liêm trẻ hơn Minh, cũng dong dỏng, vui tính, đẹp trai, có tiếng bơi lội giỏi mà không đi tranh giải vô địch bao giờ. Trên khúc sông Tà Lài, Minh và Liêm đôi khi cũng tranh tài với nhau và mỗi lần như vậy cả hai đều được trại viên, lính tráng cỗ vũ, đánh cá với nhau.
Tôi, Văn và Phúc nảy ra cái ý là, nếu một ngày nào đó ta phải chiếm đồn Tà Lài để rồi ra đánh Xuân Lộc, thì khi ấy ta phải tạo ra một tình hình thuận tiện cho cú đánh bất ngờ, là kéo sếp Tây và phần lớn lính mã tà ra khỏi trại. Trong lúc đó một số ít người của ta ập vô trại lấy hết súng đạn mà không phải đánh chác gì. Trước mắt ta hãy thử tổ chức một cuộc đua tài bơi lội giữa vô địch Minh và những ai muốn thử sức mình, nói cho đúng, giữa Minh và Liêm. Có giải thưởng. Có cá độ. Sếp bắt Liêm, tôi bắt Minh.
Hội thi hôm ấy rất náo nhiệt.
Mấy trăm anh em ra mé sông, có cả mấy chục đồng bào Mạ qua đường dừng chân xem đấu. Tiếng reo hò vang dội, càng vang dội khi Minh, Liêm về gần mức ngang ngửa.
Tôi, sếp cùng hàng chục anh em và binh lính đứng trên chiếc phà cột ở bến. Vui quá là vui! Hai thằng sếp Tây, ở trần trùng trục, tay chống đầu gối cũng hét lên với mọi người. Tôi và Tào Tỵ đứng bên hông hai sếp, cũng hét hò. Tôi thua – sếp thắng. Liêm vượt Minh tới một thước.
Người thắng thực sự là Văn, Phúc và tôi, vì hội đua đã kéo được hầu hết Tây tà ra khỏi đồn trại.
Khi cần sẽ có nhiều cách khác mà Tào Tỵ gọi là “dụ khị”, binh thơ xưa gọi là “điệu hổ ly sơn”.
Xỏ vàm trâu cổ
Trâu có vàm mới kéo cày, kéo cộ, kéo súc được. Trâu không vàm như xe cam-nhông máy tốt, xăng đủ mà không có tay lái; vô dụng. Cho nên chủ trâu ai cũng sớm lo xỏ vàm trâu. Người ta xỏ vàm trâu khi trâu còn tơ. Không ai đợi tới trâu dậy cổ mới xỏ vàm bao giờ. Trâu đực bốn tuổi thì cổ nó đã lớn cả ôm; lúc đó nó dữ lắm, sờ tới mũi nó thì liệu hồn! Nó húc chết. Khép nó vào chuồng để xỏ vàm? Nó phá gãy bất kỳ thứ cổng nào.
Vậy mà tôi đã mắt thấy một vụ xỏ vàm trâu cổ.
Người đã làm cái việc không ai dám làm đó là Tô Ký. Khi ấy Tô Ký mới mười chín tuổi.
“Chủ mưu” là tôi. Bộ muốn hại thằng trẻ sao mà xui nó xỏ vàm trâu cổ? – Không! Hay là sai tướng lên đánh Ma Thiên Lãnh? – Có mưu đồ tựa như vậy; có mục đích chính trị chính đáng. Ai tinh lắm mới hé thấy. Con mắt bình thường kể cả con mắt hay ngờ vực, cảnh giác của bọn sếp Tây cũng không hơn mắt bịt bạc. Thôi thì hãy nói ngay rằng việc xỏ vàm trâu cổ nằm trong kế hoạch của Đảng ủy trại tập trung Tà Lài nhằm vận động đồng bào Mạ, tạo điều kiện cho một cuộc khởi nghĩa hoặc một cuộc vượt ngục: phải có cách làm cho đồng bào (bản địa) kính phục và thương yêu mình bằng một số hành động nổi bật nào đó, chớ tuyên truyền miệng thì đồng bào có hiểu tiếng Việt đâu!
Tháng 10 năm 1940, bọn tôi, có mấy trăm người bị giam ở trại tập trung Tà Lài. Trại nằm sát mé sông Đồng Nai. Tại đây có một bến phà. Ở phía đông của bến phà có một ngôi nhà lụp xụp nuôi tới chừng ba chục con trâu. Ngoài ngôi nhà này không hề có căn nhà nào khác. Ở đây, bản làng đồng bào Mạ cách xa Tà Lài nhiều cây số, nhưng ngày ngày vẫn có người mang nỏ, mang gùi, xách chà gạc,[15] xách thịt rừng đi qua đây, có khi một vài lít rượu. Đỡ buồn cho tụi tôi biết mấy!
Trong bầy trâu của chủ nhân ngôi nhà ở sát bến phà, có một con trâu duy nhất không vàm. Đó là anh trâu cổ, cổ lớn như thùng bia. Sừng dài mới chừng hai gang, nhọn hoắt. Cao lớn và gọn gàng. Da nó bóng láng đen thùi lũi. Nó nghinh lên thì mắt nó như hai cục lửa, mũi phì ra hai luồng khói. Thấy mà ghê. Thế mà chẳng lợi gì ráo cho chủ nhà ngoài hai việc: nhảy cái và giữ cọp. Bảy, tám chú nghé đều là con của anh trâu cổ này. Bầy trâu sáng đi ăn cỏ ở trảng thì anh trâu cổ gom tất cả vào một cụm rồi nó đi rảo xung quanh, nhìn vào mé rừng. Bầy trâu, chiều về nhà, nằm ở sân, nghé chính giữa, lớn xung quanh, đưa đầu ra ngoài, còn anh trâu cổ ta thì tự cho phép mình đi đi lại lại như một “chú cai”, hình như nó có ý thức cảnh giác: ở đây cọp rình luôn. Người ta kể rằng, mới mấy tháng trước thôi, anh trâu cổ húc xẹp lép một ông cọp già vào gốc cây bằng lăng!
– Anh trâu cổ này nếu có vàm thì tui cho người ta mướn kéo súc, được nhiều tiền lắm: đổi lấy muối cũng được mấy chục giạ! Chủ nhà nói bập bẹ với tôi như vậy.
– Sao không liệu xỏ mũi cho nó?
– Làm sao được? Nó chém chết. Sức trai, mưu già, ở mấy bản làng xung quanh đây, không làm gì được; không ai dám làm. Có lẽ rồi phải để người ta bắn nó, làm thịt bán thôi.
– Nếu có ai xỏ mũi con trâu cổ đó thì anh tính sao?
– Thưởng cho một đùi heo rừng và một vò rượu cần.
Tôi hẹn với chủ nhà, để tôi hỏi anh em tôi có ai biết xỏ mũi trâu không rồi sẽ báo lại.
* * *
– Ê, Ba Ký ơi! Chú mày nói là lớn lên từ cái nghề làm ruộng chăn trâu, vậy có biết xỏ mũi trâu không? Tôi hỏi.
– Dễ như quấn thuốc rê.
– Đừng chủ quan: không phải trâu tơ mà trâu cổ. Dám không? Được không?
Tô Ký suy nghĩ một phút, chỉ một phút thôi, rồi trả lời:
– Lấy thế thì làm được liền.
– Thế là thế nào?
– Như vầy, như vầy…
– Uất Trì Cung tắm ngựa được thì chú mày xỏ vàm trâu cổ được chứ gì. Có biết Uất Trì là ai không?
– Truyện Thuyết Đường Chinh Đông, nhiều truyện Tàu khác nữa trong lịch sử bắc phương tôi thuộc làu làu. Tôi cũng sẽ làm việc “tắm ngựa” cho các anh xem.
– Cố gắng nghen! Tôi sẽ bảo chủ trâu kêu đồng bào Mạ mấy bản xa gần đến xem. Hễ đồng bào họ khen, họ phục thì tụi mình dễ vào bản làng, vào làm gì chú Ba mày biết rồi, không phải chỉ có việc mua gà và mua rượu.
Ngày giờ xỏ vàm trâu cổ đã tới.
Trên bãi cỏ bờ sông sau trạm y tế, bầy trâu non già ba chục con họp đông đủ. Cũng đông đủ sếp Tây hai thằng, vài chục chú mã tà, mấy trăm anh em tù nhân đều tề tựu, như để xem xiếc.
Tôi hồi hộp, dẫu rằng tin chắc ăn.
Tô Ký đầu trần, lưng trần, bận xà lỏn, tay cầm một sợi dây mây vót nhọn. Coi như một võ sĩ sắp lên võ đài.
– Chắc ăn không mậy, Ba Ký? Văn hỏi.
– Như ba bó một giạ – Tô Ký đáp và cười có duyên.
Bỗng Tô Ký dõng dạc ra lệnh:
– Lùa hết trâu xuống sông một lượt!
Trót, trót, trót, roi quất đít trâu!
Trâu ùa xuống sông, con này trước con kia, con này sát con kia.
Nước Đồng Nai chảy không lấy gì làm mạnh.
Tô Ký cầm dây mây, nhảy trên lưng trâu, một con, hai con, ba con, rồi nhảy lên lưng anh trâu cổ. Gã trâu cổ lúc này ở gần giữa bầy trâu ba mươi con chen nhau như nêm. Đoạn Tô Ký hai chân kẹp cổ trâu ngạnh, mình trườn dài ra trên đầu trâu, nằm giữa cặp sừng của nó, với tay ra trước nắm mũi trâu, lấy dây mây đã vót nhọn, đâm một cái sựt, kéo nhanh dây mây buộc chặt vào mang tai trâu. Tất cả làm xong chừng một vài phút. Anh trâu cổ bị người ngồi trên cổ, nằm sấp trên đầu, sờ mũi, đâm mũi; nó lồng lộn nhưng không cách nào được vì chân không chấm đất, nó quơ sừng mà người ta nằm giữa hai cái sừng, nó chém sao được, nó muốn hất mà hất sao được vì người ở cổ nó chớ có ở trước mặt nó đâu; nó lồng phải, lồng trái đều đụng trâu khác; trước nó, sau nó đều có trâu. Rốt cuộc, hình như nó bực lắm, mà phải chịu thôi!
Cột dây vàm rồi, Tô Ký đứng phắt dậy trên lưng trâu ngạnh, nhảy qua lưng trâu khác, một con, hai con, ba con, bốn con, rồi nhảy lên bờ, hô: Xong!
Mấy trăm người hoan hô nhiệt liệt.
Sếp Tây Ménétrie nói:
– Vous êtes formidable! (Anh cừ thật)
Đội, cai, lính hết lời khen:
– Gan hết cỡ, mưu rất cao!
Đồng bào Mạ tỏ ý khâm phục, chỉ tay về phía mặt trời lặn, bảo: “Làng tôi ở bên kia” như tỏ ý mời.
Bầy trâu xuôi dòng, tới Cồn Mai thì lên bờ, lại gặm cỏ. Riêng anh trâu cổ rày đã có vàm, lồng lộn dữ dội: chạy tới, chạy lui, cụng vào gốc cây, lăn trên bụi rậm, rống lên. Cuối cùng mệt lừ, nó nằm sấp xuống bãi cỏ.
Mấy tháng sau, chúng tôi, trong đó có Tô Ký, vượt ngục Tà Lài. Địch ra lệnh cho đồng bào xuống núi, xé rừng tìm bắt bọn tôi; chúng treo giải thưởng cho đồng bào, hứa nào muối nào gạo, nào tiền nếu bắt sống hay đem đầu về được. Nhưng chúng tôi vẫn an toàn ẩn náu trong rừng núi Tà Lài để rồi an toàn về thành thị, về đồng bằng, tiếp tục hoạt động cách mạng.
Không để bị khiêu khích
Tháng 12, được tin chính xác rằng khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra ngày 23 tháng 11, đã hoàn toàn thất bại, nên chúng tôi bãi bỏ sự chuẩn bị khởi nghĩa ở Tà Lài. Dĩ nhiên là công tác binh vận, tuyên truyền trong đồng bào Mạ thì vẫn tiếp tục. Hàng trăm anh em ở các tỉnh mới bị bắt đưa lên trại giam cho chúng tôi biết do khởi nghĩa đã nổ ra cuối tháng 11 thất bại; thực dân Pháp đàn áp rất dữ dội, tàn sát dã man hơn cả những năm 1930-1931. Chúng tôi không biết tình hình căng Tà Lài sẽ ra sao để mà đối phó. Địch sẽ khủng bố tới mức nào ở trại giam? Dù sao đi nữa thì mình cũng phải bình tĩnh, đề phòng, dự tính các khả năng.
Một hôm, chủ tỉnh Biên Hoà La Rivière lên Tà Lài với một tiểu đội lính khố xanh hộ vệ. Hôm đó, cũng như mấy hôm trước, từ sau khi nổ ra khởi nghĩa tháng 11, trại viên không toán nào đi làm ngoài xa cả; tuyệt đại đa số đều tập trung, già cả thì chẻ tre đan ky trong nhà, trai trẻ thì xeo đá gánh đất làm con đường lớn gần sát trại đi lên hướng đông bắc dọc theo sông Đồng Nai. Bỗng sếp căng dẫn chủ tỉnh[16] đến chỗ tù nhân đang xeo[17] đá đắp đường:
- Tất cả, tập hợp lại! Cuốc xẻng bỏ hết xuống đất! Sếp căng ra lệnh.
Anh em mới cũ, già trẻ non năm trăm người tập hợp lại dưới dốc. Sau lưng y là toán lính lên cò súng trường nghe rôm rốp.
- Có biến rồi; chắc khủng bố; anh em nói với nhau.
- Bình tĩnh, bình tĩnh! Đứng thưa ra, thưa ra! Tôi bảo anh em.
Chủ tỉnh nói: Hãy nghe ta đây! Vừa qua, thừa lúc nước Pháp bại trận ở châu Âu và bị rối ở biên giới Thái Lan, Đảng Cộng sản các nước đã cầm vũ khí nổi lên toan đánh đổ chính quyền Pháp ở Nam Kỳ. Đảng của các người đã hoàn toàn thất bại. Chính phủ đã và đang thẳng tay đàn áp và đàn áp không thương tiếc. May lắm mươi, mười lăm năm nữa, đảng của các người mới có thể ngóc đầu dậy. Ta báo tin cho các người biết. Bây giờ các người hãy trả lời cho ta câu hỏi sau đây:
Hỡi các người ở căng Tà Lài này, tán thành hay phản đối cuộc bạo động vừa qua ở Nam Kỳ?
Như thường lệ, là đại biểu được toàn thể anh em bầu cử, tôi dịch cho anh em nghe. Tôi thấy anh em lo ngại lắm. Rõ ràng quá, thằng chủ tỉnh cố khiêu khích. Mấy trăm cặp mắt ngó vào tôi như bảo phải trả lời sao cho vừa giữ thanh danh của đoàn thể, vừa tránh khủng bố đẫm máu cho anh em. Tôi yêu cầu các anh em ủng hộ tôi. Khó trả lời quá. Nói tán thành khởi nghĩa thì thằng chủ tỉnh có thể sẽ ra lệnh bắn. Lúc này, bắn chết năm, bảy chục, một hai trăm người, tụi Tây ở đâu cũng dám làm, bọn tề xã còn dám tự tiện giết người kia mà. Còn nói không tán thành hay phản đối khởi nghĩa mặc dầu khởi nghĩa đã nổ ra rồi, đã thất bại rồi, thì hoá ra mình hèn quá, Tây nó khinh mình, mình cũng xấu hổ với anh em. Tôi xoè tay làm dấu hiệu bảo anh em đứng thưa ra hơn nữa. Rồi tôi bước tới mấy bước, đứng lên một tảng đá lớn, khá cao, với ngụ ý là, nếu tôi bị bắn, tôi sẽ đổ từ trên xuống, chớ không phải ngã bẹp. Tất cả diễn ra hết sức nhanh. Tôi trả lời bằng tiếng Pháp, sau lưng tôi có Văn dịch lại cho tất cả anh em nghe.
“Này ông chủ tỉnh! Ông hỏi vậy chúng tôi ở Tà Lài tán thành hay không tán thành cuộc khởi nghĩa vừa mới xảy ra ở đồng bằng? Tôi xin trả lời cho ông và tôi chắc ông đủ bình tĩnh để nghe. Ông ơi! Nước Việt Nam (lúc ấy tôi nói là Đông Dương) của chúng tôi từ mấy chục năm nay ở dưới quyền thống trị của nước Pháp, cũng như mấy tháng nay nước Pháp yêu dấu của các ông bị quân Đức Hitler xâm chiếm, dày xéo, thống trị. Chúng ta, ông cũng như tôi, đều là đồng cảnh ngộ mất nước. Tôi được biết, và ông thừa biết hơn tôi, rằng hàng chục vạn người Pháp thường dân và binh lính đang nổi lên cầm vũ khí tiếp tục đánh Đức để giải phóng quê hương. Tôi tin chắc rằng trong thâm tâm của ông chủ tỉnh, ông rất đồng ý với những người Pháp kháng chiến rằng không thể van xin quân Đức rút lui mà nhất thiết phải đánh đuổi chúng bằng vũ lực, bằng súng đạn. Ở góc trời Đông Dương xa xăm này, vì tấm lòng yêu nước Pháp, vì ý thức bảo vệ danh dự người Pháp, ông tuy không nói ra, ông không thể nói ra, mà ông thực sự một lòng với những người Pháp kháng chiến trong lòng nước Pháp. Chẳng nói giấu chi ông, ở cái xó rừng núi Tà Lài này, tôi sao lại không thông cảm với đồng bào của tôi trong biến cố tháng 11 vừa qua ở Nam Kỳ?
Đó, tôi đã trả lời cho câu hỏi của ông chủ tỉnh”.
Thằng Rivière nãy giờ nín thinh, bây giờ tay không chống nạnh nữa; nó nhìn xuống đất, rồi nhìn lên khi tôi nói tiếp:
“Còn như ông bảo rằng may ra mười, mười lăm năm nữa Đảng chúng tôi mới sống lại được. Thì, ông ơi, làm sao biết được mười lăm năm hay năm năm nữa, cục diện thế giới và cục diện Đông Dương sẽ biến đổi hoàn toàn. Ông còn sống, tôi chắc cũng còn sống, mọi người ở đây cũng còn sống, chúng ta tất cả là chứng nhân của lịch sử, chúng ta nhất định sẽ vui mừng thấy được nước Đức của Hitler bị bẻ gãy xương sống, nước Pháp của các ông và nước Việt Nam của chúng tôi đều được tự do”.
Thằng Tây xem chừng mất hết cái hùng hổ ban đầu. Nó không nói năng gì hết. Nó quay lưng đi; sếp căng và toán lính khố xanh mang súng trên vai, theo sau, êm ru. Mấy trăm anh em chúng tôi cười thầm, bàn bàn luận luận.
Thắng một trận!
Thoát nạn; khi nãy tưởng đâu đại biến tới nơi!
Ông Trần Hữu Độ[18], tục gọi là ông “Hồi trống tự do” hay là ông “Biện chứng pháp”, vỗ vai tôi, nói: “Thiệt chiến[19] Tà Lài, nghe khoái thật”. Ở sở đan ky[20], trong số người có tuổi, ông Trần Hữu Độ nổi tiếng là một kho truyện Tàu và một kho tiếu lâm.
Vượt ngục
Ở căng Tà Lài cuộc sống không đến nỗi cực khổ quá, có thể nói thảnh thơi là khác, được như vậy không phải do chế độ của trại giam mà do tổ chức tù nhân của chúng tôi; công việc khoán phần lớn ở trong rừng, chỉ có mã tà đi theo cốt để giữ không cho chúng tôi trốn hơn là để thúc bách tù làm. Chỉ một lần sếp Tây đánh một đồng chí một gậy, đồng chí ấy quơ xà beng lên đỡ, tất cả anh em đều đứng lên, xẻng, cuốc dao, mác trong tay, mắt đổ dồn vào tên sếp Tây, nó khiếp quá, bỏ đi luôn. Từ đó trở đi không có vụ đánh đập nào nữa. Ăn, thì gạo thừa, cá khô đủ; chúng tôi còn đánh cá trên sông, mua thịt rừng, rượu cần ở đồng bào thiểu số. Rau thì thiếu gì trong rừng. Thuốc men không biết đâu là đủ, nhưng sốt rét thì có ký ninh, uống nước thì có nước sông lọc bằng thuốc tím. Ở, thì nhà tranh vách nứa, tự làm, nhưng được phát mùng, phát chiếu. Tây nó cốt được yên bằng việc tách tụi tôi khỏi nhân dân, không cốt được kết quả lao động khổ sai. Chúng tôi, cốt học tập dạy nhau để làm “cầu thủ dự bị” lúc cần, không cốt đấu tranh vì lợi ích hàng ngày. Sếp, mã tà đều nể chúng tôi, vì chúng tôi bao giờ cũng giữ nhân cách người yêu nước, người cán bộ cách mạng, cộng sản.
Thế nhưng, chẳng những riêng mình tôi, rất nhiều anh em nuôi chí vượt ngục ngay từ đầu. Có người muốn vượt ngục vì không muốn bị giam giữ vô thời hạn. Có người cho rằng, ngày nào đó, Tây bị cách mạng nổi lên đánh đổ hoặc bị một đế quốc khác giành lấy thuộc địa thì chúng sẽ tàn sát mình trước khi tháo chạy, cho nên mình phải liệu trước, thoát khỏi trại là hơn. Riêng tôi và một số cán bộ nòng cốt xác định rằng thời kỳ chiến tranh đế quốc chính là thời kỳ cách mạng giải phóng. Cơ hội trăm năm có một. Cha anh đã thất bại hồi chiến tranh 1914-1918; bây giờ chúng ta nhất thiết phải thành công. Cho nên chúng tôi đã tính đến vượt ngục từ những ngày mới đến Tà Lài; còn tính đến khởi nghĩa ở Tà Lài nữa.
Vào thời điểm cuối 1940, khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, rất nhiều đồng chí bị giết, bị bắt, kể đến hàng ngàn, nhiều hơn bất cứ lúc nào. Cả Trung ương, Thường vụ đều bị bắt, chưa kịp phục hồi tổ chức thì tới phiên Xứ ủy Nam Kỳ hai lần bị bắt, rồi lần lượt các tỉnh ủy viên bị bắt, cơ sở Đảng và quần chúng bị đánh tan tác. Các bạn mới lên căng sau này báo cáo tình hình bi đát ấy. Và hôm rồi tên tỉnh trưởng La Rivière quả quyết rằng: “Hoạ may, mười, mười lăm năm nữa, đảng của các anh mới có thể ngóc đầu dậy”.
Vậy thì đến lúc “cầu thủ dự bị” phải vào sân kẻo trễ. Đã đến lúc các đồng chí bị giam ở Tà Lài, ai có nhiệt huyết, ai có tinh thần, phải vượt ngục trở về với dân, hoặc để bổ sung cho phong trào bị tổn thất quá nặng nề, hoặc gây dựng lại hệ thống cơ sở bị tàn phá tan hoang. Các bạn mới lên căng Tà Lài kể lại một phần tình hình địch khủng bố: nhà tù đầy nhóc, địch phải dùng các sân banh rào kẽm gai để nhốt người dưới nắng, dưới mưa; chúng xỏ dây xâu chuỗi người bị bắt để dẫn về trại giam, xỏ dây kẽm ngang bàn tay như ta lấy nhánh trâm bầu xỏ vào mang con cá, địch phải dùng tới xà lan ghe chài để giam chính trị phạm; chiến sĩ bị giam đông đến mức chỉ có chỗ đứng, không có chỗ ngồi, nói chi chỗ nằm; bọn thực dân cho tù uống nước bằng vòi rồng, cho ăn bằng cách rải cơm xuống xà lan, ghe chài nêm đầy người như người ta rải lúa cho gà trên sân; đến một lúc nào đó thì đám thực dân ra lệnh cho ca nô dắt những xà lan ghe chài đầy người kia ra cửa biển rồi lạnh lùng đánh chìm! Nghe đau thương hết sức! Pháp cố làm sao cho trong lúc chiến tranh này, không còn một tổ chức cách mạng nào, nhất là không còn có Đảng Cộng sản, thì mới giữ được Đông Dương trong tay Pháp. Toàn quyền Catroux đã công khai tuyên bố như vậy ngay từ khi hắn chân ướt chân ráo mới đến trấn nhiệm xứ này.
Phải vượt ngục thôi! Để góp phần xây dựng lại Đảng bộ mạnh. Không có một Đảng bộ mạnh thì không có giải phóng.
Phải vượt ngục sớm; nếu chậm trễ thì có thể sẽ không còn cơ hội vượt ngục nữa. Mấy hôm nay, ê kíp đan ky của Trần Hữu Độ được lệnh sản xuất thật nhiều, đan bao nhiêu, xe cam-nhông chở đi hết bấy nhiêu. Chở đi đâu? Để làm gì? Tụi Pháp chuẩn bị một “căng” nào ở núi cao rừng sâu hơn Tà Lài? Và biết đâu chúng nó không thực hiện kế hoạch đưa những người đặc biệt “nguy hiểm” đi xa hơn, đi các đảo thuộc địa Pháp trên Ấn Độ Dương? Có thể lắm; và khi ấy thì không còn vượt ngục được nữa. (Sau mới biết rằng dự đoán của chúng tôi là đúng: anh em Tà Lài bị dời qua trại giam Bá Rá, và một số đồng chí như Phan Vân, Minh, cả giáo chủ Cao Đài Phạm Công Tắc cũng bị đưa sang tận Madagascar).
Trong lúc chuẩn bị vượt ngục, Đảng ủy căng Tà Lài đặc biệt chú trọng đến việc tập hợp tư liệu, thông tin về cuộc khởi nghĩa thông qua các đồng chí mới bị đưa lên căng Tà Lài sau ngày 23 tháng 11 năm 1940, nghiên cứu, sơ kết kinh nghiệm, rút ra một số bài học cần thiết để trang bị cho anh em sắp về công tác.
Việc chuẩn bị vượt ngục được bắt đầu ngay sau Tết Tân Tỵ 1941: chọn người, điều tra đường đi nước bước, phơi cơm khô, trữ thuốc men, tạo một thiểu giấy tờ hợp pháp, kiếm tiền, bắt liên lạc với các đồng chí bên ngoài còn sống sót. Ba anh được lệnh đi trước để sắp xếp thực hiện một kế hoạch vượt ngục có quy mô; đó là Khước (người Mỏ Cày có bộ râu Quan Công), “Minh Thẹo” (người Long Hồ, tháo vát) và Khuy (được gọi là “con chim ngủ ngày”, lầm lì ít nói). Ba anh đi trót lọt. Nhưng ở Tà Lài chúng tôi chờ mãi, không nhận được tin gì của họ. Như vậy là phải thực hiện kế hoạch vượt ngục cho một số ít người có năng lực đã được thử thách về các mặt lý luận, tổ chức, đấu tranh. Phải từng toán nhỏ mới dễ đi trót lọt được. Tôi khá lúng túng trong việc chọn người. Số anh em có tinh thần, có năng lực thì nhiều; lựa ai, không lựa ai? Lấy nhiều thì khó đi trót lọt, lấy ít thì hàng chục đồng chí tốt sẽ thắc mắc, phiền trách. Cuối cùng Đảng ủy đồng ý tám người cùng đi. Ngoài tôi ra, còn có các anh:
- Văn, tức Kiệt, kỹ sư, nguyên là sinh viên trường Đại học Cộng sản Đông Phương.
- Phúc (Dương Quang Đông), dân cựu trào, đã vào tổ chức từ năm 1927.
- Nhâm, công nhân, đã là thành ủy viên thành phố Sài Gòn cùng thời với chị Minh Khai; lái xe, lái tàu đều giỏi.
- Giác, một cán bộ cựu trào từ năm 1930, đã từng hoạt động ở Cao Miên.
- Đức, một cựu tỉnh ủy viên Bến Tre, giỏi nông vận.
- Trung, một cán bộ hoạt động công đoàn trong nhóm Dân chúng[21] thời Mặt trận dân chủ.
- Phúc (Dương Quang Đông), dân cựu trào, đã vào tổ chức từ năm 1927.
- Nhâm, công nhân, đã là thành ủy viên thành phố Sài Gòn cùng thời với chị Minh Khai; lái xe, lái tàu đều giỏi.
- Giác, một cán bộ cựu trào từ năm 1930, đã từng hoạt động ở Cao Miên.
- Đức, một cựu tỉnh ủy viên Bến Tre, giỏi nông vận.
- Trung, một cán bộ hoạt động công đoàn trong nhóm Dân chúng[21] thời Mặt trận dân chủ.
- Tô Ký, một thanh niên Hóc Môn, võ giỏi, mưu trí, thuộc làu các truyện Tàu như Tam Quốc, Đông Chu liệt quốc; tôi nhằm rằng tay này có thể trở thành một cán bộ quân sự đắc lực; trong vụ “Xỏ vàm trâu cổ” vừa qua, Tô Ký tỏ ra rất can đảm, mưu trí.
Tôi tính rằng với số tám người này cộng với ba anh đã đi trước, nếu không bị mất mát hay ít bị mất mát, thì có thể thực hiện được nhanh chóng kế hoạch gây dựng lại cơ sở và hệ thống tổ chức Đảng bộ Nam Kỳ, tạo điều kiện tổ chức vượt ngục quy mô lớn cho anh em trại giam. Vấn đề trước mắt là phải làm sao cho chúng tôi nhờ ít người mà vượt ngục trót lọt.
Muốn đi trót lọt, phải quyết định đúng hướng đi. Chắc chắn là một khi sếp căng và chủ tỉnh hay rằng tụi tôi đã thoát khỏi căng thì lập tức chúng ra lệnh truy nã, cho cả bộ máy cai trị trong tỉnh Biên Hoà, trong xứ Nam Kỳ, từ trên xuống đến xã, khắp các làng thiểu số, ra sức săn lùng. Nhóm tụi tôi, gạo cội của cộng sản, mà tuột khỏi tay chúng nó thì sẽ gây ra vô vàn khó khăn cho nhà cầm quyền. Vậy chắc chắn là Pháp sẽ phải tức tốc, trong ngày, giăng một lưới dầy đặc xung quanh Tà Lài trước hết chặn tất cả các ngõ ra. Chúng tôi đoán bọn Tây sẽ chặn hướng đông là hướng ra đường 20, cách Tà Lài mười bảy cây số; đồng thời chúng sẽ chặn hướng tây là hướng về Thủ Dầu Một, và nhất là chặn hướng nam là hướng về Biên Hoà dọc sông Đồng Nai. Tôi cho rằng Pháp không quan tâm mấy đến hướng bắc đông bắc là hướng càng đi càng vào rừng sâu, lên núi cao, dân cư toàn là người thiểu số, hướng ngược dòng sông Đồng Nai đầy gành thác. Cho nên tôi đề nghị với anh em là ta nên đi theo hướng ngược sông, hướng vào rừng sâu, núi cao, tuy dễ bị sốt rét rừng, nhiều cọp beo, nhưng là hướng mà địch ít ngờ nhất, còn ta thì đã chuẩn bị lương thực, thuốc men khá đầy đủ rồi, có thể chịu đựng một tháng hoặc hơn thế.
Vào một đêm tối trời đầu tháng ba năm 1941, thời giờ vượt ngục đến. Tôi tiếp mấy người cai đội mới lên đổi gác, những cuộc tiếp ấy đã thành lệ, cùng họ uống trà, đàm đạo, trong một cái chòi tứ giác ở gần nhà y tế, còn bảy đồng chí khác đã bí mật tập kết tại một địa điểm bờ sông. Buổi tiếp xong, tôi gọi Tào Tỵ lại, báo cho Tỵ biết rằng đêm nay tụi tôi ra đi, Tỵ ở lại để giữ vững tinh thần của anh em, và để lập kế sao cho Tây tà không thể sao biết sớm là ông Giàu đã đi khỏi trại. Tỵ được lệnh phải ở lại. Ông Trương Phi ấy nổi nóng, phản ứng dữ, nhưng mau chóng tuân theo quyết định của Đảng ủy. Tỵ phải vào mùng của Giàu, đắp mền, nằm im cho đến gần sáng, đề phòng khi lính đi rỏn nửa đêm thấy vắng ông Giàu, Giàu nằm đầu sập tre trại một, lính tuần tra đêm đêm vẫn ghé coi ông Giàu còn đó hay không. Gần sáng Tỵ sẽ báo lại với anh em rằng hồi hôm Giàu, Văn, Phúc,… đã đi rồi. Đến lúc đó đoàn vượt ngục đã đi cách xa trại giam mấy chục cây số bằng đường sông ngược lên phía đông bắc, hướng an toàn nhất. Sáng ra, thay mặt cho các trại viên còn lại, Tỵ sẽ đem bức thư của tôi gởi cho sếp căng. Thư ấy, Tô Ký còn thuộc lòng dù đã mấy mươi năm sau. Trong đó tôi viết:
“Ông sếp căng:
Hôm nay chúng tôi ra đi, xin để lại mấy dòng từ biệt.
Hôm nay chúng tôi ra đi, xin để lại mấy dòng từ biệt.
Chúng tôi ra đi không phải trước hết vì muốn gặp cha mẹ, vợ con.
Gặp lại sao được trong tình cảnh tù vượt ngục?
Chúng tôi ra đi, nói thật, không phải vì chế độ căng quá khắc nghiệt. Ở căng tuy khổ – mà ở nhà tù nào lại không khổ – nhưng ông sếp không ác. Vả lại ông và tôi đã nhiều lần tâm sự với nhau, thông cảm với nhau về cái nhục mất nước, nước ông và nước tôi.
Chúng tôi ra đi vì mục đích giải phóng dân tộc chúng tôi, giành lại độc lập tự do cho đất nước chúng tôi.
Chắc những người Pháp ở Pháp hiện giờ cũng đang chiến đấu chống lại sự chiếm đóng của quân Đức Hitler, nhằm giành lại độc lập tự do cho nước Pháp. Hẳn rằng ông sếp đồng tình với những người Pháp yêu nước đó. Việc làm của họ và việc làm của chúng tôi giống nhau.
Mong rằng, chúng tôi ra đi rồi, ông sếp và những người cộng sự của ông sẽ tiếp tục đối xử ôn hoà, phải lý với anh em chúng tôi còn ở lại.
Xin chào từ biệt ông.
Thay mặt các bạn của tôi
Trần Văn Giàu”
Tào Tỵ kể lại: hửng sáng ngày hôm sau, khi anh lên văn phòng sếp căng báo cáo lại rằng: Trần Văn Giàu và bảy người đã trốn đi từ bao giờ không biết mà có để lại cho sếp một bức thơ, thơ đây. Ménétrier bình tĩnh báo cáo ngay cho La Rivière, chủ tỉnh Biên Hoà, đồng thời ra lệnh giới nghiêm ở trại giam: không một ai được ra ngoài hàng rào dây kẽm gai. Chín giờ, La Rivière lên tới Tà Lài, liền tập hợp tù nhân, la hét, đe doạ và tuyên bố: “Trong vài ngày, lâu nhất là một tuần, các ngươi sẽ thấy người Mọi đem đầu của Trần Văn Giàu và đồng bọn treo ở trước cửa trại giam”.
Hết Phần Thứ Nhất
Chú thích của người biên tập
1 Ma ca bông: biến âm từ danh từ tiếng Pháp vagabond, người vô gia cư, lưu lãng, thường có ý xấu (ma cà bông, mà cà cúi, lúi húi đi tìm).
2 Mã tà: hay ma tà, gốc từ tiếng Mã Lai mata mata, chỉ chung lính cảnh sát, công an. Giữa thế kỉ XIX, mã tà chỉ một loại lính trong quân đội thực dân, cũng như ma ní (người gốc Phi luật tân). Trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (1861), Nguyễn Đình Chiểu viết: “Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.” và “Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.”
3 Tức Mười Ký, tên trong nhà của Trần Văn Giàu.
4 Bãi thực: tức tuyệt thực, nhịn ăn để phản đối hay đòi hỏi điều gì.
5 Có lẽ đây là cuộc tuyệt thực nổi tiếng tháng mười năm 1936 ở Khám Lớn của Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Tạo (bản đánh máy viết nhầm là Tạ chăng?), Tạ Thu Thâu.
6 Lính khố xanh: cùng với Lính khố đỏ, là những người Đông Dương ở trong các đơn vị “bản xứ” của quân đội Pháp. Quân phục của họ là quần áo chẽn, nón dẹp (sau đổi nón chóp), và giải thắt lưng (quần) màu đỏ (xanh) buộc ở bụng, đầu giải buông thõng ở bẹn giống như cái khố nên người dân Việt mới gọi là "khố đỏ/xanh". Khố đỏ là lính chính quy (tirailleurs), khố xanh (miliciens) là địa phương quân (cấp tỉnh).
7 Mặt trận bình dân (Front Populaire): Liên minh phái tả nghị trường Pháp (1936-1937) gồm Đảng xã hội SFIO, Đảng cấp tiến (Radical), có sự ủng hộ của Đảng cộng sản (không tham gia nội các), mang lại nhiều quyền lợi vật chất và tinh thần cho các thành phần lao động Pháp. Về đối ngoại, chính quyền Léon Blum không dám ủng hộ chính quyền cộng hòa Tây Ban Nha chống lại cuộc phản loạn của Franco. Đối với các chính sách thuộc địa, chính quyền Léon Blum đề ra một vài cải cách nửa chừng, song đã bị các thế lực thực dân vô hiệu hóa. Tuy nhiên, thời kì này đã có tác dụng rất tích cực đối với phong trào đấu tranh dân chủ, hợp pháp và bán hợp pháp ở Việt Nam. Đảng Cộng sản đã vực dậy sau cuộc đàn áp 1931-32. Tự do báo chí được mở rộng hơn (hẳn bây giờ). Dòng văn học hiện thực nảy nở.
8 Ách: adjudant (thượng sĩ); đội: sergent (trung sĩ); cai: caporal (hạ sĩ).
9 Căng: camp (trại).
10 Trảng: vùng đất trống, không/thưa cây, ở giữa rừng (clairière/glade)
11 Mạ hay Châu Mạ: dân tộc Tây Nguyên, ngữ hệ Môn Khmer, hiện nay khoảng 33 000 người, sống ở các tỉnh Lâm Đồng, Bình Phước, Đồng Nai (Tà Lài thuộc huyện Tân Phú của Đồng Nai). Theo Bình Nguyên Lộc, tiếng Việt đã tiếp thu khá nhiều từ của tiếng Mạ: sét (han rỉ), cẩm lai (gỗ), cá long tong, chết giấc (ngất đi), ngầy ngà (hay rầy mắng), thét rồi (mãi rồi), bậu (dùng để gọi vợ), qua (dùng để tự xưng với người yêu hay em út), lung (nhiều lắm). BNL: http://www.binhnguyenloc.de/pages/NghienCuu/LotTranVietNgu/LotTranVietNgu_20.html
12 Ba Son: từ tên gọi tiếng Pháp Arsenal de réparation (Công xưởng sửa chữa tàu chiến), xưởng sửa chữa tàu của Hải quân Pháp mở ra từ 1863 ở ngã ba sông Sài Gòn và rạch Thị Nghè. Nơi đây Nguyễn Ánh đã từng lập xưởng đóng chiến thuyền. Nửa đầu thế kỉ XX, Ba Son là nơi tập trung một đội ngũ công nhân cơ khí (trong đó có người thợ Tôn Đức Thắng).
13 La Lutte: tờ báo tiếng Pháp, xuất bản tại Sài Gòn. Chỉ tồn tại từ 1933 đến 1937, tờ báo này có tiếng vang và ảnh hưởng sâu rộng trong cuộc đấu tranh chính trị ở Nam Bộ thời kì Mặt trận Bình dân. Dưới sự chủ trì của Nguyễn An Ninh, La Lutte (Tranh đấu) tập hợp cả hai xu hướng cộng sản (đệ tam và đệ tứ) và những người tiến bộ khác. Có thể đọc thêm bài của sử gia Daniel Hémery “Sài Gòn thập niên 1930: LA LUTTE tờ báo chiến đấu” (http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/bao-la-lutte/)
14 Thầy chú: giám thị (nhà tù).
15 Chà gạc: dao rừng cán cong, phổ biến trong các dân tộc vùng Tây Nguyên và miền núi Đông Nam Bộ.
16 Chủ tỉnh: administrateur, viên chức Pháp, cai quản một tỉnh ở Nam Kì dưới thời thực đan (Nam Kì là thuộc địa, nằm dưới chế độ trực trị). Ở Trung Kì và Bắc Kì, bộ máy chính quyền vẫn là bộ máy của triều đình Huế, nhưng tại mỗi tỉnh, các quan phủ, quan huyện chịu lênh của viên công sứ (résident) người Pháp.
18 Trần Hữu Độ: nhà văn, bút hiệu Quân Hiến (1887-1945), quê quán trà Vinh. Chịu ảnh hưởng của phong trào Duy Tân, dịch sách Tân Thư của Lương Khải Siêu, viết Tiếng chuông truy hồn (1925), Hồi trống tự do (1926); năm 1928 bị tù vì tội « xúi dân làm loạn » (tương đương với điều 88 của Luật hình sự ngày nay). Ra tù, tham gia phong trào Đông dương Đại hội, thành lập Tân Văn Hóa Tùng Thư, chịu ảnh hưởng mác-xít, viết - Biện chứng pháp (1936), Mười một công thức của Karl Marx làm cơ sở Duy vật sử quan (1936), Đế quốc chủ nghĩa (1937). Bị giam lần thứ nhì năm 1941.
19 Thiệt chiến: giao tranh bằng lưỡi (thiệt), tranh luận. Ý nói tới cuộc “thiệt chiến quần nho” giữa Khổng Minh và bọn nho sĩ Đông Ngô thời Tam Quốc.
21 Dân chúng: tờ báo (tiếng Việt) công khai của Đảng cộng sản, xuất bản tại Sài Gòn trong thời gian 1938-1939, cùng trụ sở với tờ báo tiếng Pháp Le Peuple, ở số 43 đường Hamelin (nay là Lê Thị Hồng Gấm).
Suốt đêm đầu tiên vượt ngục, chúng tôi thay phiên nhau bơi chiếc ghe lường (xuồng lớn làm bằng cả một thân cây bị khoét ruột banh bìa), chúng tôi khiêng qua mấy cái thác; đến gần sáng, ước chừng đã xa trại giam ít nhất cũng mười lăm cây số đường chim bay, chúng tôi kiếm chỗ nước sâu để nhận chìm ghe; rồi, hành lý trên vai, anh em đi tìm nơi ẩn nấp sao cho có thể quan sát được xung quanh mà người khác thì khó trông thấy mình; đường đi không để dấu chân, không gãy cành khô, không bẻ cành non, không rơi vãi một chút giấy lộn; nơi ẩn đó phải có nước uống; tránh mưa không phải là vấn đề quan trọng, độ này là mùa nắng, điều quan trọng là phải xa xóm làng mà không xa đường 20. Chúng tôi ăn cơm khô, khỏi phải nấu cơm, khỏi sợ lộ vì khói. Nếu rủi bị dân làng trông thấy, thì họ cũng chỉ trông thấy vài người thôi; tụi tôi chia ra từng nhóm nhỏ vài người, nếu gặp rủi ro không bị tóm cả lũ. Chúng tôi có thừa thời giờ để bàn mọi kế hoạch hành động, trước tiên là kế hoạch an toàn về các tỉnh đồng bằng.
Mấy ngọn núi chúng tôi ẩn náu chắc là thuộc vùng Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng, không xa ranh giới Biên Hoà là mấy. Từ đó ra đường 20 chỉ một khoảng không xa; có thể về Sài Gòn, lên Đà Lạt, qua Phan Thiết, xuống Bà Rịa, rồi từ Bà Rịa qua Cần Thơ đến Chợ Lớn, Gò Công, rộng đường lắm. Nhóm của Nhâm về Sài Gòn, có cách lấy ôtô rước nhóm của Phúc. Nhóm của tôi ngược lên Đà Lạt, tính rằng từ Đà Lạt có thể về Nam Kỳ bằng ôtô, bằng xe lửa, bằng ghe bầu, thuyền đánh cá, vòng co tam quốc một chút, chẳng sao, miễn là an toàn.
Trần Văn Giàu, thập niên 1940 (ảnh : Trung tâm lưu trữ Aix-en-Provence).
Lên Đà Lạt
Tôi cho rằng, bởi vì từ 1930 đến 1935 tôi hoạt động ở Sài Gòn và Nam Kỳ lục tỉnh, chưa hề hoạt động ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ, và hoạt động toàn trong bí mật, nên quen biết không rộng; nhưng bởi vì tôi đã ở tù mấy lượt, đã dạy chính trị cho mấy trăm cán bộ và hội viên, nên tôi vẫn có thể bị nhận diện nơi này nơi khác. Địch truy tìm tôi thì chắc chủ yếu truy tìm ở Sài Gòn, ở Nam Kỳ. Vì vậy, tôi không về ngay Sài Gòn và lục tỉnh, mà đi ngược lên Đà Lạt, nhằm tìm nơi ẩn náu an toàn một thời gian bao lâu chưa định trước. Tôi chưa hề đi Đà Lạt, ở nơi “đất khách quê người” đó ít có khả năng tôi bị phát hiện dù là tình cờ; càng ít khả năng bị phát hiện nếu tôi không lui tới những nơi tụ họp của các tầng lớp trung lưu trong xã hội và nếu tôi thường ngày sinh sống trong các tầng lớp nhân dân lao động như trồng rau quả, làm thợ hồ, làm công nhân bắn đá, chở đá. Mật thám nào lại đi tìm ông Giàu ở những chỗ lam lũ cơ hàn đó? Trong lúc số đông đồng chí được tổ chức rước về Sài Gòn, lục tỉnh, thì tôi đi bộ và theo xe chở hàng ngược đường 20. Nhóm tôi gồm có Tô Ký, Châu Văn Giác và tôi. Lên Đà Lạt thì tiền mấy đồng chí còn lại chia ba, ba người mỗi người một nẻo, cốt tìm chỗ ở, chỗ làm, hẹn gặp nhau sau. Lạ nước lạ cái, Tô Ký bị bắt ngay, may quá, Tô Ký không khai là tôi ở đâu đó tại Đà Lạt, nếu chú ấy phản thì tôi khó bề thoát. Giác có bà con ở Đà Lạt sớm nhờ xe về lục tỉnh. Còn tôi thì lo chỗ làm, chỗ ở. Chỉ vài hôm sau khi lên tới Đà Lạt, tôi đi làm ở một hầm bắn đá, rồi từ đó tôi chuyển sang ngành thợ xây nhà, xây cống, suốt ngày ở trên sườn núi, ven rừng, dưới hố, tới chiều tối về ở đậu với thợ cả tại xóm Suối Cát, một xóm công giáo bên cạnh nhà thờ, hoặc tại ấp Hà Đông, hơi xa chợ một chút. Trong túi tôi ban đầu chỉ có mấy đồng bạc, nhưng dần dà tiền công ngày của tôi lên tới một đồng tư, khổ một tí mà sống được. Khổ một tí nhưng tương đối an toàn. Hồi 1929, 1930, cán bộ đi “vô sản hoá” có ai kêu khổ đâu? Ngày tháng trôi qua chậm chạp, không hoạt động chính trị thì ngày tháng trôi qua mau sao được? Trong khoảng không đầy nửa năm ở Đà Lạt, ba chuyện tình cờ xảy ra với tôi, đáng nhớ nhất.
Đó là gặp chú Năm Luông, một cán bộ cũ.
Việc thứ hai: nằm bệnh viện Đà Lạt.
Việc thứ ba: bị kiến trúc sư Phan Hiếu Kinh “phát hiện”.
Làm việc xây nhà trên sườn núi cho hãng SIDEC và cho hãng Võ Đình Dung, từ hừng sáng đến chiều sẩm tối mới về nhà của bạn để yên giấc, ít khi đi qua chợ Đà Lạt, tôi tưởng chừng đâu là, như thế, tôi tránh mọi khả năng gặp người quen. Nào dè, một hôm, tạt qua nơi buôn bán rau quả, tôi bị một người đi bộ lẽo đẽo sau lưng, quẹo đến mấy cái ngã ba vẫn thấy người ấy theo. Người ấy mặc đồ Tây tử tế. Chết rồi! Có lính kín theo! Tôi nhanh chân đi về hướng suối Cam Ly ít người, tính trong bụng rằng nếu người ấy cứ theo mãi thì tôi sẽ “demi tour” quay lại để hỏi thăm y vài câu, nếu có triệu chứng là lính kín thì tôi giở võ ra điểm huyệt cho nó nằm bên đường vắng đặng tôi có thời giờ tẩu thoát. Nếu không phải là lính kín thì nó là ai? Té ra là một đồng chí rất quen thuộc đã hoạt động với tôi những năm 1933, 1934 và đầu 1935, khi từng thời gian tôi đặt căn cứ ở vùng Phú Lạc, ngoại ô Chợ Lớn: chú Năm Luông, anh em cô cậu với đồng chí Bảy Trân; bây giờ Năm Luông là chủ một tiệm cầm đồ ở thị xã Đà Lạt.
– Anh Ba đi đâu đó? Làm gì trên Đà Lạt này? Vượt ngục được rồi, sao không giấu mình ở U Minh hay Đồng Tháp Mười mà lên chỗ nghỉ mát của nhà giàu? Năm Luông mừng, hỏi.
– Chú Năm đó à. Sao đi theo cả mười phút làm tôi phát lo rằng mình đã bị lộ.
Hết hồn, hết vía, bình tĩnh lại; ngó trước trông sau, hai anh em hỏi thăm nhau đủ chuyện. Chuyện tôi hỏi trước hết là tình hình ở Phú Lạc mà, trong kế hoạch, tôi sẽ phải đi qua hoặc ở lại ít hôm khi trở về Sài Gòn, lục tỉnh. Cái rủi hoá cái may. Tôi dặn dò Luông nếu muốn hoạt động thì phải làm như vầy… như vầy… Còn Luông thì thọc vào túi tôi mười mấy con công[1] để tôi phòng bất trắc. (Về sau Năm Luông thuộc ban cán sự của tỉnh Lâm Đồng và hy sinh ở chiến trường).
Giấy bạc con công (tiền Đông Dương)
Sự việc thứ hai là: mấy tuần làm việc và nghỉ trưa, có khi ngủ đêm trên sườn núi, đem lại cho tôi một cái bệnh hiểm nghèo: bệnh thương hàn. Sốt rét. Tiểu máu. Chủ nhà tôi ở đưa tôi đi bệnh viện. Đi bệnh viện là một mối nguy mặc dầu tôi có giấy thuế thân (giả). Không đi bệnh viện thì Diêm vương sẽ có trát đòi bữa nào đó thôi, khó tránh. Vào bệnh viện ở gần Couvent des oiseaux[2], tôi nằm một phòng với ba người khác, cùng sốt rét ác tính như tôi. Mỗi ngày “đi” một anh. Rồi cuối tuần, anh thứ ba. Tôi là tên thứ tư, không biết bao giờ đi. Thấy người cùng bệnh rủ nhau chết, mình cũng nao núng, nao núng nhất là vì lẩn quẩn mãi trong óc tôi cái câu hỏi: nên hay không nên viết thư gởi đúng địa chỉ, để sẵn đầu giường, báo tin cho mẹ, cho vợ, cho chị ở nhà là khi đọc được thì tôi đã chết tại bệnh viện Đà Lạt. Viết thư thì sợ lộ bí mật; sợ rằng ông bạn đã cho tôi ở nhờ, đã đem tôi đi bệnh viện, sẽ bị địch bắt để điều tra xem còn có tù vượt ngục nào bên cạnh tôi không. Nghĩ đến khả năng mình chết rồi mà còn làm hại cho người khác, tôi ngập ngừng không viết thư nữa. May quá, bệnh thuyên giảm; rồi tôi khỏi bệnh. Tôi nằm nhà thương gần ba tuần. Trong thời gian đó tôi được săn sóc tận tình bởi một dì phước trẻ, đẹp, đầy lòng nhân ái. Tôi đại tiện toàn máu; mỗi khi như vậy, hai tay tôi bám vào chân giường, mày mặt tối tăm cả năm, bảy phút; mình trông mình đã tởm, mà dì phước đổ bô nét mặt như thường không khi nào tỏ vẻ gớm ghiếc. Ngày đổ bô hai ba lần. Không biết nếu tôi đổ bô cho một đồng chí thì tôi được thản nhiên như dì phước ấy không? Bệnh tôi nếu ăn cháo có gạo, cá, rau, dầu ít cũng bị lủng ruột, chết. Tôi thấy dì phước mỗi lần đem thức ăn cho tôi thì dùng vải thưa trắng tinh lọc súp chỉ còn có nước. Khi bệnh tôi thuyên giảm nhiều thì dì phước mới cho ăn súp gạo rang, có rau. Tôi thoát chết. Hôm ra bệnh viện tôi chỉ có một chữ “rất cám ơn” với dì phước mà tôi không biết tên. Cuộc đời bôn ba của tôi không cho phép tôi trở lại một lần nữa để cám ơn dì phước mà chị ruột, em ruột, vợ nhà chưa chắc đã tận tuỵ săn sóc chu đáo hơn. Sau cách mạng và kháng chiến, tôi có dịp lên Đà Lạt, tôi có đến bệnh viện Couvent des oiseaux, hỏi thăm các dì phước, cố gặp ân nhân cũ; nhưng Couvent còn đó mà người thì biệt tăm.
Sự việc thứ ba xảy ra lúc gần Tết, mấy tháng sau khi chúng tôi vượt ngục Tà Lài. Một hôm tốt trời, tôi đang xây tường, cuốn cửa ở một cái villa vùng thác Cam Ly, gần một làng người Thượng, đoàn chủ nhà và thầu khoán đến xem công việc tới đâu. Họ cứ đi xem. Tôi cứ làm việc. Họ đi sau lưng tôi. Tôi không ngó họ. Rồi họ qua hết. Nhưng tôi thấy một anh trong đoàn trở lại nơi tôi đang làm, anh ấy đứng bên tôi, khẽ hỏi: “Ở đây à?”. Tôi thót ruột! Vậy là có người quen nhận ra mình rồi. Nguy quá! Tôi ngó lên. Té ra là kiến trúc sư Phan Hiếu Kinh, bạn học của tôi bên Pháp từ những năm 1928, 1929, 1930. Tôi làm ra vẻ bình tĩnh, để ngón tay lên môi. Kinh biết tôi muốn nói gì; anh quay đi, không quên một câu khen ngợi anh thợ hồ xây gạch, xây đá rất khéo. Té ra vụ tôi vượt ngục Tà Lài, có báo đăng tin; Kinh biết. Tôi chắc Kinh sẽ giữ bí mật cho tôi. Nhưng, nếu một hôm nào vui miệng anh nói với vợ hay với một bạn thân rằng anh Giàu vẫn còn sống, ở Đà Lạt, thì sao? Phải đề phòng. Không thể dây dưa ở Đà Lạt nữa; phải “thiên đô” thôi; vả lại cái đó đã ở trong kế hoạch, phải thừa dịp gần cuối năm rộn rịp để về Sài Gòn, về Nam Kỳ. Chắc là lúc này, việc Pháp truy nã số tù vượt ngục Tà Lài không còn ráo riết như mấy tháng trước nữa. Tuy vậy tôi cứ dặn mình là không được chủ quan khinh địch.
Tự kiểm điểm lại thì trong đời làm “cách mạng chuyên nghiệp” của tôi, nửa năm tôi ở ẩn là thời gian duy nhất mà tôi không có hoạt động, không tuyên truyền, không tổ chức, không đấu tranh, chỉ lo giữ gìn cho khỏi bị bắt lại. Nửa năm đó tôi xem là dài quá dài. Nằm không, không công tác, còn mỏi mệt hơn là hoạt động; chẳng những mệt mỏi mà còn buồn, rất buồn, có cảm giác như là một con chim mất đàn, như là một con người giữa sa mạc tuy rằng mình vẫn ở trong dân, trong cuộc đời nhộn nhịp. Hoạt động đã trở thành bản năng rồi, không hoạt động không chịu được. Sài Gòn, lục tỉnh kêu gọi, công tác kêu gọi, thúc giục.
Về Phú Lạc
Đường về Sài Gòn không trắc trở gì lắm. Tuy rằng từ Trung vào Nam, bộ hành phải có “giấy thông hành”. Tôi có giấy thuế thân giả của Trung Kỳ; thuế thân không phải giấy thông hành cho nên dễ làm giả. Giấy thông hành phải có hình đóng con dấu nổi; không làm giả giấy thông hành được; mà trên đoạn đường từ Xuân Lộc đến Biên Hoà, người đi xe lửa không biết lúc nào phải trình thứ giấy đó cho nhà chức trách, nếu không có thì bị bắt giam rồi bị “trục xuất”. Song dân Trung Kỳ đi lậu vào Nam Kỳ để kiếm sống thì luôn luôn đông, mỗi chuyến xe có hàng chục, họ cảnh giác lắm, hễ cảnh sát bắt đầu việc xét giấy thông hành thì họ hè nhau nhảy xuống xe, mặc dầu là xe đang chạy; nhảy xe lửa ba người thì té cả ba nhưng không sao, lỗ đầu, rồi lẩn vào các vườn cao su, ban đêm ai dễ biết ai?
Cái khó còn lại là cầu Biên Hoà, luôn luôn bị cảnh sát canh gác chặt chẽ ở cả hai đầu. Tôi phải nhờ đò ngang để sang sông rồi thì có vô số phương tiện để về Sài Gòn.
Tôi vào Sài Gòn một buổi tối, đèn điện vừa lên. Một chiếc xe thổ mộ đầy nhóc đưa tôi thằng vào Chợ Lớn. Tôi về căn cứ cũ là Phú Lạc[3] cách Chợ Lớn không đầy năm cây số trên con lộ đi Gò Công.
Qua Năm Luông, tôi đã nắm được tình hình an ninh ở Phú Lạc từ sau khởi nghĩa tháng 11 năm 1940; tôi lại được biết rằng ngày nổ ra khởi nghĩa Nam Kỳ, nhân dân và các đồng chí ở Phú Lạc đã sẵn sàng chiến đấu; đúng ngày giờ định trước, lực lượng cách mạng từ cầu Ông Thìn, Phú Lạc, Đa Phước, theo kế hoạch, bí mật kéo lên ém trong Chợ Lớn, sẵn sàng tiến công địch đúng mười hai giờ đêm, khi nhà đèn Chợ Quán bị đánh sập, đèn đường tắt, và tiếng súng lớn nổ làm hiệu ở trại lính Ô Ma[4]. Chờ mãi quá nửa đêm, không thấy đèn điện tắt, không nghe tiếng súng lớn nổ, quân phục kích đoán là có biến nên không đánh đồn bót thị xã mà lặng lẽ kéo về như đã lặng lẽ kéo lên. Trái lại, quân du kích ở Cần Giuộc cứ theo kế hoạch đã định, nổi lên đánh các đồn địch, mà thất bại. Kết quả là Phú Lạc, sau ngày khởi nghĩa, được tương đối an toàn còn Cần Giuộc thì bị địch khủng bố dữ dội. Vậy sự yên ổn của Phú Lạc sau tháng 11 năm 1940 không phải do Phú Lạc trốn tránh khởi nghĩa; điều ấy là điều tôi muốn biết rõ và đã biết rõ nhờ gặp Năm Luông ở Đà Lạt nên tôi mới về đây. Vậy, vẫn có thể tin cậy vào lòng trung thành đối với cách mạng của Đảng bộ vùng Phú Lạc do Bảy Trân[5] lãnh đạo. Bảy Trân nguyên là một sinh viên trường Đông Phương Cộng sản đại học như tôi, trước một khoá. Hồi năm 1933, khi Xứ ủy Nam Kỳ được chúng tôi xây dựng lại thì tôi đã lấy vùng Phú Lạc này làm một căn cứ an toàn của lãnh đạo. Ở đây nhân dân rất tốt, bọn xấu rất ít, hội tề được Bảy Trân và các đồng chí đánh giá là gần như “trung lập” không sốt sắng gì trong việc “giữ trị an”, viên cai tổng lại là người bà con gần của Bảy Trân, là người nhà của Năm Luông. Từ Chợ Lớn đi về hướng Gò Công thì, đến Phú Lạc, bên tay trái là khu Rạch Cây Khô ở đó cảnh sát rất ít khi đến vì sợ các tay anh chị Bình Xuyên trừng trị, mà các tay anh chị Bình Xuyên thì phục Bảy Trân cộng sản. Bên tay phải chằng chịt sông rạch của vùng Rạch Cát, ở đây, nếu cò bót đến thì ta chỉ cần bước xuống xuồng, đẩy vài mái dầm, vào từng lá dừa nước, thì có trời mà kiếm được. Tôi ở Phú Lạc lâu và nhiều đợt. Hai lần tôi bị bắt ở Sài Gòn, lần nào tôi cũng giữ an toàn cho Phú Lạc; đồng bào ở đây tin tôi, thương tôi. Nay tôi về đây, cái mối lo duy nhất của tôi là bị một vài người dân Phú Lạc nhận ra là “anh hai Trắng” rồi đồn đại ra nhiều người biết.
Tác giả trước mộ Huỳnh Khương An, Guy Moquet, Jean Pierre Timbaud và những liệt sĩ bị bọn Nazi xử bắn ngày 22.10.1941 ở Chateaubriand. Ảnh chụp tháng 7.1989 tại nghĩa trang Père Lachaise, Paris (NNG).
Đêm ấy tôi được chủ nhà tiếp đón rất ân cần, trộn lẫn với lo ngại và sợ sệt nữa. Nhưng Bảy Trân và người nhà tín nhiệm tôi, thương tôi, hết sức lo cho tôi. Về Phú Lạc tôi có cảm giác là cá về nước, chim về rừng.
Trò chuyện thâu đêm với Bảy Trân, Sáu Thuần, Chín Báu; Báu cùng tuổi với tôi, đồng chí rất tốt như Trân là anh ruột. Chuyện dài kể làm gì. Mấu chốt cuộc trò chuyện đêm ấy là lời tâm huyết của Bảy Trân và anh em đồng chí ở Phú Lạc.
– Giàu ơi, mày về đây có nghĩa là mày tin tụi tao; và tụi tao tin mày. Tụi tao hết sức bảo vệ mày. Nhưng bây giờ mày ở đây không được, không nên ở; tụi tao sẽ đưa mày tới một vùng gần như tuyệt đối an toàn để mày tiếp tục ẩn lánh một thời gian nữa; sau sẽ tính; chớ bây giờ tụi tao không sẵn sàng làm việc cách mạng với bất cứ ai. Bây giờ tin ai? Ai tin? Đảng viên cộng sản không phải đã bị bắt, bị giết hết; hãy còn khá nhiều, nhưng tụi nó đều “lặn” hết, “ẩn” hết trong rừng, trong núi, trong xóm dân nghèo, ở đâu không biết; thằng nào xớ rớ đi đi lại lại với cơ sở cũ còn sót thì mắc “bẫy chuột” của Tây nó giăng sẵn, như thằng Văn, thằng Trung chẳng hạn, sau khi chia tay với mày, chúng nó tìm về Sài Gòn ngay, tìm cơ sở cũ ngay, nên bị bắt ngay. Bây giờ không tin được ai cả, không tin cả cách mạng có thể thành công, không tin sự lãnh đạo của Đảng, ít nhất là của Đảng ở Nam Kỳ này, không tin Hồng quân Liên Xô có thể đương đầu thắng lợi với quân phát xít Hítler… Tư tưởng hoài nghi bao trùm tất cả. Sau đại bại 1940, lòng tin xuống thấp nhất từ mười năm nay. Đó là sự thật; mày, Giàu, mày phải hiểu rõ; đừng chủ quan, nóng vội mà chết sớm. Nếu mày muốn, một ngày nào đó chớ không phải bây giờ, tụi tao lại hoạt động với mày thì điều kiện thứ nhất là mày phải giải quyết tư tưởng cho tụi tao ở Phú Lạc này ba vấn đề mấu chốt sau đây:
“Thứ nhất là:
Vì sao Đảng nói là mình sáng suốt mà lại chủ trương khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11 năm 1940, để đi đến một thất bại hết sức đau đớn như thế? Thất bại đến mức đó thì còn có thể nào khôi phục nổi trong thời thế chiến tranh này? Liệu sau này còn chủ trương như vậy, lãnh đạo như vậy, đưa toàn bộ Đảng, đa số đồng chí, đông đảo quần chúng vào chỗ chết nữa không? Lấy gì bảo đảm rằng không? Nói vắn tắt, mày phải cho tụi tao biết rõ ý kiến của mày về khởi nghĩa 1940, để tụi tao xem mày có dắt tụi tao vào một cái khởi nghĩa tương tự không? Rồi chúng ta sẽ tính sau sự hợp tác với mày; bây giờ thì chưa; để xem đã; chỉ lo bảo vệ tính mạng của mày thôi. Tụi tao đoán trước rằng mày muốn tổ chức lại Xứ uỷ Nam Kỳ như hồi năm 1933. Nhưng tình hình bây giờ khó khăn hơn biết mấy lần hồi đó; hồi 1931 thất bại đã nặng, bây giờ nặng hơn mấy lần; hồi đó là thời bình, thời nay là thời chiến; thời đó bị bắt làm tù, thời này bị bắt làm ma. Khó hoạt động cho thành công lắm, nếu trước mắt không giải đáp nổi cho đồng chí cũ một số vấn đề chính trị tư tưởng, vấn đề tụi tao vừa đưa ra cho mày là cần kíp nhất.
“Thứ hai:
Tụi tao ở đây bi quan về tình hình thế giới. Nếu tình hình thế giới bi đát thì triển vọng Đông Dương, Việt Nam không thể sáng sủa được. Hơn nữa năm nay chiến tranh Nga-Đức đã bùng nổ kịch liệt. Ban đầu tụi tao ở đây tin rằng Đức hạ Pháp mau lẹ hết sức vì Pháp yếu, Anh tồi, chớ đụng vào Liên Xô hùng cường thì nó bị đánh bại chắc chắn. Ai ngờ rằng, chiến luỹ Stalin chẳng hơn gì chiến lũy Maginot, Hồng quân chạy dài, thua hết trận này đến trận khác, quân Hitler tuy không được vào ăn Tết trong điện Kremlin, nhưng mới ít tháng chúng đã đến sát ngoại ô Leningrad, đi gần tới Moscou, chiếm đóng cả miền tây Liên Xô rộng lớn và giàu có; sang năm nay, 1942, triển vọng kháng Đức của Hồng quân Liên Xô chưa có gì là sáng sủa cả. Vậy tụi tao hỏi mày vậy chớ có hy vọng gì Liên Xô chống đỡ nổi, chiến thắng được? Chớ dư luận khắp nơi đều thấy rằng quân phát xít Hitler còn tiến vào Liên Xô sâu hơn, xa hơn, hy vọng thắng trận của Liên Xô rất mỏng manh, viễn cảnh chiến bại thì chắc hơn, trong lúc đó đồng minh của Đức là Nhật ở Viễn Đông đánh bại Mỹ, Anh, Hà Lan như chẻ tre! Nếu Liên Xô thua trận, nếu cái thành trì cách mạng thế giới lâu nay ta đề cao sức mạnh lớn và lý tưởng cao, mà thua phát xít thì cách mạng thế giới còn gì, thì cách mạng Đông Dương còn gì? Triển vọng đen tối quá, làm lung lay, sụp đổ lòng tin. Lâu nay, ở xứ ta, việc tuyên truyền cách mạng Đông Dương một phần quan trọng dựa vào sự tuyên truyền cho Liên bang Xô Viết, nay Liên bang Xô Viết bị đánh lui mãi như thế thì lòng tin còn dựa vào đâu?”
“Thứ ba:
Năm 1940, ta chỉ mang một cái ách trên cổ. Pháp bị Đức đánh bại; nó đầu hàng Đức; nó lại bị Thái Lan tấn công trên biên giới Cao Miên. Vậy mà ta nổi lên đánh đổ nó không nổi. Bây giờ nước ta không phải mang chỉ một ách mà mang tới hai ách, ách Nhật chồng lên ách Pháp, hai thằng đế quốc thực dân và quân phiệt cùng thống trị nước ta thì liệu ta có hy vọng gì làm cách mạng giải phóng thành công không? Ngày mai đen tối quá! Nói cách mạng, nói giải phóng còn ai nghe, còn ai tin?
Làm sao giải đáp? Mở lối bí cách nào? tụi tao bí lắm!”.
Bảy Trân, các đồng chí ở Phú Lạc trông chờ tôi trả lời. Họ tưởng rằng khó bề mà tôi giải đáp nỗi băn khoăn cực kỳ sâu sắc của họ. Những nỗi âu lo của các đồng chí ở Phú Lạc cũng là những nỗi lo âu của tất cả các đồng chí còn sống sót sau khởi nghĩa 1940. Không chừa một ai. Không trả lời cho thông các câu hỏi đó thì không ai cùng mình xây dựng lại hệ thống và cơ sở Đảng ở Nam Kỳ. Cái nguy nhất chưa phải là sự tan tác của tổ chức, cái nguy nhất là sự tan tác của tinh thần.
Tôi làm xong giải đáp trong ba buổi tối họp mặt của một nhóm đồng chí tại nhà của Bảy Trân. Tôi lấy làm thích thú vì, như thế, tôi đã đồng thời làm cái việc phác hoạ đường lối của cách mạng Việt Nam ở miền Nam, trên cơ sở lý luận đó các bạn tôi sẽ gây dựng lại hệ thống Đảng ở Nam Bộ, khôi phục phong trào nhân dân và đi đến chỗ cùng toàn quốc làm cách mạng thành công ngay trong thời kỳ chiến tranh thế giới đang diễn. Các đồng chí ở Phú Lạc tán thành hầu hết các ý kiến của tôi trình bày. Nhưng họ bảo rằng cần phải có thời giờ cho sự suy nghĩ thêm, và cần phải có thời giờ để xem thời cuộc có chuyển biến theo hướng như lời dự đoán hay không, đặc biệt là dự đoán về cuộc chiến tranh Nga-Đức. Các đồng chí ủng hộ tôi nhưng chưa hứa hẹn bắt tay hoạt động với tôi, mà còn “chờ xem thời cuộc”.
Tôi có ý thức rằng những giải đáp của tôi cho các đồng chí Phú Lạc sẽ là sự giải đáp cho nhiều cán bộ ở Chợ Lớn, Sài Gòn, Gia Định vốn quen biết với các đồng chí anh em nhà Bảy Trân.
Về cuộc khởi nghĩa tháng 11 năm 1940 ở Nam Kỳ:
Tôi đã biết đại khái diễn biến của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ từ hồi ở Tà Lài, nhờ tổng hợp báo cáo lẻ tẻ của mấy chục anh em cốt cán bị bắt giam sau khởi nghĩa thất bại. Ở Tà Lài, Đảng uỷ cũng đã phân tích sự kiện lớn này và rút ra những bài học kinh nghiệm xương máu. Về Phú Lạc tôi hỏi thêm Bảy Trân và các đồng chí ở đó. Như vậy tôi đã có thể đi đến một số kết luận tạm thời:
1. Khởi nghĩa vũ trang là tất yếu. Nhất thiết phải giành chính quyền, giành độc lập bằng khởi nghĩa vũ trang; không có cách mạng hoà bình, không có độc lập bằng xin xỏ, bằng sự ban cho của nước ngoài.
2. Khởi nghĩa muốn được thành công thì phải là một cuộc khởi nghĩa của quảng đại quần chúng chớ không phải của một nhóm người, của một chính đảng, dù đó là nhóm người có tập luỵên và có vũ khí, dù đó là một đảng lớn có quyết tâm, có kỷ luật.
3. Khởi nghĩa muốn thành công thì phải vừa có lực lượng, vừa đúng thời cơ. Thiếu lực lượng, thiếu thời cơ thì khởi nghĩa dù oanh liệt anh hùng mấy cũng thất bại. Khởi nghĩa thiếu lực lượng và thời cơ cũng gọi là khởi nghĩa non hay là “manh động”.
4. Phải quan niệm khởi nghĩa giành chính quyền là một cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng, nổ ra trên toàn quốc, không phải chỉ nổ ra ở một vài địa phương. Khởi nghĩa địa phương cô độc sẽ bị địch tập trung sức dập tắt.
5. Đảng chỉ đạo khởi nghĩa phải theo đúng những nguyên tắc chiến lược chiến thuật mà Mác-Lênin đã đề ra hết sức đầy đủ và rõ ràng. Chỉ đạo khởi nghĩa là cả một nghệ thuật.
Khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11 năm 1940, thất bại và thất bại nặng vì không theo đúng những nguyên tắc đã nói mà mỗi ai đi vào khởi nghĩa cũng phải nắm vững. Lênin bảo: “Không đùa với khởi nghĩa được”. Tháng 11 năm 1940, các đồng chí lãnh đạo ở Nam Kỳ thực tế không theo khoa học và nghệ thuật Mác- Lênin về khởi nghĩa. Nguyên nhân chính của thất bại của cuộc khởi nghĩa năm 1940 ở Nam kỳ là:
1. Cuối năm 1940, ở Đông Dương chưa có thời cơ, hoặc có thời cơ mà không đủ, không chín cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Pháp đầu hàng Đức hồi giữa năm, quả có làm cho lũ thực dân ở đây hoang mang, nhưng dần dần chúng nó đã hoàn hồn khi bên Pháp dựng lên chính phủ của thống chế Pétain dưới sự bảo hộ của Đức. Và lực lượng quân sự, cảnh sát của Pháp ở Đông Dương đã được tăng cường bằng hai, bằng ba từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Thực dân hy vọng rằng được sự bảo trợ của Đức, chúng có thể giữ được thuộc địa, Pháp thua Đức mà Đức cho phép Pháp giữ thuộc địa. Quân Pháp bớt hoang mang, nhưng chúng chưa tan rã. Nổi lên đánh đổ Pháp trong lúc này là chưa phải lúc. Phải đợi một thời cơ thuận lợi hơn. Không vội được. Không phải Pháp bị đánh bại ở Pháp mà ta liền có thể đánh đổ chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương được ngay.
2. Lực lượng của ta, lực lượng khởi nghĩa hồi cuối 1940, tuy khá mạnh ở Nam Kỳ, cũng chưa gọi là đủ để nổi lên làm khởi nghĩa. Bằng chứng quá rõ là ngày khởi nghĩa, không có một đơn vị quân đội người Việt nào của Pháp quay súng bắn vào thực dân, khi chúng đã thua trận ở Tây Âu và đang mắc kẹt ở biên giới và Thái Lan. Tuy có đấu tranh ở nhiều nơi, mà không có khởi nghĩa đều ngay ở các quận trong những tỉnh mạnh nhất như Gia Định, Chợ Lớn, Mỹ Tho, mà chỉ có nổi lên ở một số ít quận thôi, mà quận lỵ vẫn yên; không có nổi lên đánh đồn diệt địch ở phần lớn các tỉnh mà chỉ có lẻ tẻ nổi lên ở vài quận trong mỗi tỉnh; ở phần lớn các quận, các tỉnh Nam Kỳ chỉ có khởi nghĩa thật sự ở một số xã. Quân khởi nghĩa chỉ chiếm được một quận ở Nam Kỳ mà thôi, quận Vũng Liêm. Quận lỵ Hóc Môn nằm trong vùng ta mạnh nhất nhì so với cả Nam kỳ mà ta không đánh chiếm được trọn dù là một ngày. Ở Sài Gòn, đầu não của địch, cũng không có khởi nghĩa ở bất cứ một tỉnh lỵ thị xã nào. đánh địch mà không đánh ở đầu não chúng thì làm sao diệt nó được. Như vậy, lực lượng khởi nghĩa còn xa, rất xa mới gọi là đầy đủ để phát động khởi nghĩa vũ trang ở Nam Kỳ tháng 11 năm 1940.
3. Trong toàn quốc tháng 11 năm 1940, chỉ có khởi nghĩa ở Nam Kỳ. Còn ở Trung, Bắc khi ấy không có khởi nghĩa. Sau này tôi mới biết có khởi nghĩa Bắc Sơn mà đó cũng chỉ mới là một địa phương nhỏ. Khởi nghĩa tháng 11 năm 1940, là do Xứ uỷ Nam Kỳ đơn độc chủ trương. Địch không bị phân tán lực lượng. Không lạ gì mà thấy rằng địch có điều kiện tập trung lực lượng, diệt quân khởi nghĩa một cách mau chóng. Những đồng chí chủ trương khởi nghĩa 1940, không quan niệm được rằng khởi nghĩa muốn thành công thì phải làm một cuộc tổng khởi nghĩa, khởi nghĩa trên toàn quốc, không nhất thiết phải cùng ngày, mà nhất thiết phải cùng lúc, nơi này nơi kia không cách nhau bao lâu. Khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11 năm 1940, là khởi nghĩa địa phương, tự ý một Xứ uỷ quyết định. Tai hại ở chỗ đó. Sai lầm rất lớn mà không thấy được. Trước khi Công xã Paris nổi lên, Marx không tán thành khởi nghĩa bởi vì Marx cho rằng khởi nghĩa như vậy là non, là địa phương, là thua chắc; nhưng khi khởi nghĩa nổ ra rồi, Marx hết lòng ủng hộ Paris công xã cho dù biết chắc là nó sẽ thua. Ta cũng như Marx; ta hết sức khâm phục tinh thần chiến đấu của Nam Kỳ 1940, mà ta sau này phải tránh khởi nghĩa non, ta phải rút kinh nghiệm xương máu.
4. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, là một cuộc khởi nghĩa chỉ một số quận tiền phong nổi lên một cách “bất ngờ” (đối với địch), về cơ bản chưa phải là một cuộc nổi dậy của đa số nhân dân, nó không ra khỏi phạm trù Blanquisme 6 mà Marx và Lênin phê phán, chính vì thế mà nó thất bại. Đáng lẽ một cuộc khởi nghĩa nổ ra ở đỉnh cao nhất của một phong trào quần chúng nhân dân, dù cho kẻ địch có đề phòng mấy cũng trở tay không kịp.
Cuối năm 1940, ở Việt Nam nói chung, ở Nam Kỳ nói riêng, không thể nói rằng phong trào quần chúng đã lên tới đỉnh cao nhất. Khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, tuy rộng lớn hơn nhiều nhưng vẫn có nhiều chỗ giống khởi nghĩa Yên Bái 1930, mà Đảng Cộng sản chúng ta đã phân tích, phê phán nhiều lần. Một cuộc khởi nghĩa muốn thành công là phải tổng khởi nghĩa của vạn, ức nhân dân toàn quốc dưới hiệu lệnh của một Đảng lãnh đạo thống nhất quyết tâm chiến thắng ở một thời cơ thuận lợi nhất.
5. Từ hơn mười năm nay các đồng chí lãnh đạo các cấp của Đảng ta đã được huấn luyện về khoa học và nghệ thuật khởi nghĩa của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chuẩn bị lực lượng như thế nào, nhận định một thời cơ chín và chín muồi là thế nào, khi nào phát động khởi nghĩa, đã khởi nghĩa thì phải ứng dụng những chiến lược chiến thuật như thế nào? Cái khoa học và nghệ thuật đó, các đồng chí lãnh đạo khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, có lẽ không biết rõ và các anh ấy làm khác, làm trái cả! Cho nên thất bại. Thất bại rồi các đồng chí không biết cách rút lui để duy trì lực lượng, bảo toàn tổ chức cho nên bị thất bại hoàn toàn, một cuộc thất bại lớn nhất ở miền Nam từ mười mấy năm nay. Đáng lẽ trước khi tiến thì đã phải đề phòng khi thoái. Đồng chí Tạ Uyên và một số đồng chí bốn mươi nói là theo sách lược Mao Trạch Đông, kỳ thật đó là sách lược Mao Trạch Đông bị méo mó, bị hiểu sai rất tai hại. Tôi không chống sách lược Mao Trạch Đông, sách lược Mao có nhiều chỗ hay, tôi chỉ nghĩ rằng ở Đông Dương, ở Việt Nam, nước hẹp người ít, thực dân thống trị tập trung thì Đảng cách mạng muốn chiến thắng phải làm một cách khác, cách khác nào cũng dựa vào cơ bản tư tưởng Mác- Lênin về khởi nghĩa cách mạng. Khởi nghĩa 1940 thất bại, nhưng ta rút từ bài học thất bại để thành công sau này, chắc không lâu nữa đâu. Tôi đã trình bày tỉ mỉ những bài học của 1940 mà chúng tôi đã rút ra từ hồi ở Tà Lài, trước khi vượt ngục. Trong lúc tôi trình bày thì nhóm Bảy Trân đặt ra nhiều câu hỏi cụ thể cho tôi. Có thể nói rằng tôi đã không vấp váp gì cả. Ý kiến lớn đã nắm vững rồi. Tôi nhờ cuộc họp này mà biết thêm khởi nghĩa Nam Kỳ.
Những ý kiến tôi trình bày ở nhà Bảy Trân, tôi có dịp trình bày tại nhiều nơi khác như Vàm Cỏ, Tiền Giang, Hậu Giang, miền Đông, Sài Gòn suốt những năm 1942, 1943. Ở đâu tôi cũng nhằm mục đích thiết thực là yêu cầu các đồng chí hãy tin tưởng rằng cuộc khởi nghĩa mà chúng ta nhất thiết phải làm, sẽ được tổ chức và chỉ đạo “đúng khoa học”, “có nghệ thuật” và nhất định sẽ thắng lợi.
Tôi nhớ rõ trong đêm nói về khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, tôi một mặt tỏ lòng khâm phục các chiến sĩ đã đấu tranh và hy sinh, nhưng mặt khác tôi cũng phê bình nghiêm khắc chủ trương phiêu lưu cực kỳ tai hại của đồng chí bí thư Tạ Uyên; tôi biết rằng, tháng 11 năm ấy ở Sài Gòn, ở Nam Kỳ, không còn Thường vụ Trung ương, nhưng tôi được biết trước đó khi quyết định khởi nghĩa thì còn hai uỷ viên Trung ương (sau vụ bị bắt ở đường Nguyễn Tấn Nghiêm) là Phan Đăng Lưu và Võ Văn Tần; hai đồng chí ấy có dự cuộc họp giữa năm quyết định khởi nghĩa thì cớ sao hai đồng chí ấy lại không ngăn cản một quyết định vội vàng như thế để đến nỗi xảy ra khởi nghĩa non thất bại? Âu đó cũng là kết quả khó tránh của một trình độ hiểu biết chưa thấu đáo chủ nghĩa Mác-Lênin. Thiếu lý luận, tai hại quá! Tôi cũng được biết trước khởi nghĩa 1940, Xứ uỷ đã phát hành quyển sách “chiến tranh du kích”, vậy phải chăng là anh Tạ Uyên và Xứ uỷ muốn lấy chiến thuật du kích Trung Quốc thay cho lý luận khởi nghĩa của Lênin và bài học khởi nghĩa tháng 10 năm 1917 ở Nga? Bổ sung thì chắc là cần, thay thế thì làm sao được? Tôi khẳng định với các đồng chí Phú Lạc rằng phải tham khảo kinh nghiệm Trung Quốc nhưng mà phải đi theo con đường Tháng Mười là chính thì khởi nghĩa ở nước ta mới thành công được.
Nhóm Bảy Trân gần như không có ý nào khác ý tôi, chỉ có cải chính rằng Võ Văn Tần đã bị bắt trước rồi. Nhóm Bảy Trân còn đặt câu hỏi về tương lai tổng khởi nghĩa ở Việt Nam; lúc ấy tôi chỉ có thể trả lời một cách chung chung rằng: tất cả còn tuỳ thuộc vào thắng lợi hay thất bại của Liên Xô; nếu Liên Xô thua Đức thì cách mạng thế giới, kể cả nước ta, sẽ bị lùi lại không biết đến bao giờ. “Nói thật với tụi bây là Hồng quân thua, Liên Xô bị đánh tan, phát xít Đức toàn thắng, thì tao cũng sẽ “giải nghệ”, thôi làm cách mạng, lui về điền viên, nếu không bị vào tù nữa thì vào hàng ngũ của một thứ “Cư sĩ tịnh độ”. Nhưng tao có đủ lý do để tin rằng Liên Xô, Trung Quốc, Đồng minh, Anh, Mỹ sẽ thắng, Đức-Ý-Nhật sẽ thua và đến cuối chiến tranh thế giới, chúng ta sẽ có đủ lực lượng và thời cơ chín muồi để tổng khởi nghĩa thành công. Bây giờ, vấn đề cần kíp là xây dựng lại đảng bộ, tập hợp lực lượng đón thời cơ nhất định sẽ đến. Các đồng chí hãy giúp tôi, mong rằng sớm thấy các đồng chí trở lại công tác”.
Đêm sau, tôi phải giải đáp vấn đề triển vọng của chiến tranh Nga-Đức; liệu Đức sẽ đánh bại Nga chăng?
Trước nay, người cộng sản Việt Nam ai cũng quan niệm rằng Liên Xô là thành trì của cách mạng thế giới, sức mạnh của cách mạng thế giới một phần quan trọng đặc biệt là ở sức mạnh của Liên Xô và uy tín hết sức lớn của cách mạng tháng 10 năm 1917. Khi Pháp bị Đức đánh bại chỉ trong mấy tuần lễ thì người cộng sản Việt Nam bảo rằng ấy là vì đế quốc Pháp bạc nhược chớ nếu quân phát xít Đức mà đụng tới Hồng quân Liên Xô thì chúng sẽ bị đánh bại nhục nhã. Bây giờ Nga- Đức chiến tranh đã nổ ra rồi. Trái với dự đoán, Nga lui, lui mãi, lui sâu vào nội địa mình; Đức tiến, tiến nhanh, hạ phòng tuyến Stalin một cách dễ dàng như hạ phòng tuyến Maginot, tiến thắng một mạch đến ngoại ô Leningrad, đến gần Moscou cách chỉ ba, bốn mươi cây số, lấy hết vựa lúa Ukraine, chỉ cần một thời gian ngắn mấy tháng! Thế là thế nào? thế thì sẽ ra sao? Ai nấy ngơ ngác!
Nga đang ở thế yếu, thế thua. Có thể Nga gượng lại không? Nếu Nga thua, nếu Hồng quân ta cho là vô địch mà bị quân Hitler đánh bại, nếu Liên bang Xô Viết bị đánh sụm, thành trì cách mạng thế giới bị tan thành thì còn gì cách mạng thế giới nữa, và cũng theo đó, còn gì là cách mạng Đông Dương, cách mạng Việt Nam nữa?
Bảy Trân nói: “Bọn tao ở đây không còn lạc quan chút nào. Bi quan choán hết tâm hồn bọn tao, thêm vào cái bi quan do thất bại của khởi nghĩa 1940”. Mấy ngày nay, Bảy Trân đã có lần thủ thỉ với tôi rằng ít ai cho rằng Liên Xô chịu đựng nổi; phần lớn đều nghĩ rằng Liên Xô cuối cùng sẽ bại trận, nhất là khi đồng minh của Đức là Nhật sẽ vì Trục chung hay vì lợi ích riêng mà tiến công Liên Xô ở Viễn Đông cốt chia xẻ đất Sibêri.
Về cuộc chiến Nga-Đức, tôi đã có dịp trình bày hồi đầu năm 1941 ở Tà Lài, khi cuộc chiến tranh mới bắt đầu với những thất bại liên tiếp của Hồng quân. Đức thắng là tạm thời và trước mắt còn có thể thắng nhiều hơn nữa, nhưng chung cuộc rồi Đức sẽ thua. Nga thua là tạm thời và có thể thua đậm hơn nữa, nhưng chung cuộc rồi Nga sẽ thắng, thành trì cách mạng thế giới vẫn đứng vững. Những lý lẽ của tôi, đều đã được trình bày trước hàng trăm người, cộng sản có, không cộng sản có, Cao Đài, Trốt-kýt, quốc gia đơn thuần có, cả lính canh gác cũng nghe (nghe để hiểu và nghe để báo cáo cho sếp căng) chớ không phải là tôi chỉ nói với năm ba anh em nòng cốt mà thôi. Những ý kiến căn bản của tôi về chiến tranh Nga-Đức, hôm nay, ở nhà Bảy Trân, vẫn không thay đổi, cho dù lúc này quân Đức phát xít đánh thẳng qua tới “quả tim” của Liên Xô là lưu vực sông Volga, hướng về vùng Caucase. Đúng vào thời điểm đầu năm 1942, trong lúc Hồng quân Liên Xô còn đang thua liểng xiểng, trừ một số trận đại thắng trước cửa ngõ thủ đô Moscou, trong lúc quân Đức còn tiến mạnh khắp nơi nhất là ở phía Nam, thì tôi vẫn nhìn chiến cuộc với một cặp mắt lạc quan và tôi cố truyền cái lạc quan đó cho các đồng chí tin rằng nếu bi quan về chiến trường Liên Xô thì càng bi quan về tình hình cách mạng Việt Nam, mà nếu bi quan thì đừng mong gì vực dậy các đồng chí còn sống sót sau năm 1940, để họ hợp tác với mình xây dựng lại đảng bộ Nam Kỳ.
Tôi tin chắc rằng Liên Xô sẽ thắng, Đức Hitler sẽ thua, những cuộc bại trận cho tới nay, dù nặng nề lắm, cũng là tạm thời mà thôi. Tôi có mê tín chăng? Không! Tôi tin tưởng có căn cứ, có lập luận. Tôi không “lạc quan tếu” như có người bảo.
Vì lẽ gì mà chắc Liên Xô sẽ thắng? Sự giải thích của tôi, ở Phú Lạc cũng như ở Tà Lài, dựa vào các yếu tố vững vàng sau đây:
Thứ nhất
Đất Liên Xô rất rộng cho phép Hồng quân, khi núng thế ở biên giới và ở những trận đầu, có thể rút lui chiến lược, bảo toàn lực lượng chủ chốt, vừa rút lui vừa tiêu diệt sinh lực địch ở tiền tuyến và ở sau lưng địch. Quân Đức vào đất Liên Xô càng sâu thì sức mạnh dù đông vẫn sẽ bị dàn mỏng, tiếp tế liên lạc càng khó tuy rằng ngày nay địch có xe tăng và máy bay chớ không phải đi bộ, đi ngựa như thời Napoléon nữa. Đến lúc nào đó, khi quân Đức tổn thất nhiều và mệt mỏi lắm thì Hồng quân Liên Xô sẽ phản công và sẽ đẩy quân Đức trở lại biên giới và xa hơn nữa. Naponéon đã thua là vì thế, Hitler sẽ thua cũng vì thế. Rút lui chiến lược không phải là thua trọn, mà để chuẩn bị tổng phản công vào lúc thuận tiện. Tiềm lực của Liên Xô rất lớn đã được xây dựng ở vùng Oural và sau Oural, Liên Xô có sức đánh lâu dài. Đức Hitler không có sức đánh lâu dài. Đánh lâu dài thì Đức chắc thua. Chưa kể rằng thời tiết lạnh lẽo của Liên Xô xưa đã là một kẻ thù lớn của quân Naponéon, nay cũng còn là kẻ thù không nhỏ của quân Hitler.
Thứ hai
Từ khi quân Đức đánh Liên Xô thì Anh, Mỹ trở thành đồng minh của Liên Xô. Anh, Mỹ quả có bị Nhật đánh cho những đòn trời giáng, nhưng Anh, Mỹ vẫn là bá chủ trên mặt biển; Anh, Mỹ tuy chậm trễ một cách có ý thức (để cho Liên Xô bị thiệt hại càng nhiều càng hay) nhưng cuối cùng thế nào Anh, Mỹ cũng phải mở mặt trận ở Tây Âu, ví dụ như ở Pháp. Nhật đã dồn hết sức đánh Mỹ, Anh ở Thái Bình Dương và Đông Nam châu Á, bị mắc kẹt cứng ở Trung Quốc, Nhật không còn sức để tiến công Liên Xô ở Viễn Đông; vả lại nghe nói lực lượng Liên Xô ở Viễn Đông đủ mạnh. Vậy về lâu, chưa về dài chính là Đức chịu đựng không nổi, nhất định sẽ thua.
Các đồng chí Phú Lạc trông mong được như vậy, trông mong Liên Xô thắng, mà họ chưa tin hẳn; họ chờ xem. Sự thắng thua giữa Đức và Liên Xô nếu không được quyết định ở Moscou thì sẽ quyết định ở sông Volga… Ở một xóm làng Nam Kỳ làm sao mà chắc chắn được? Bảy Trân nói rằng nếu Liên Xô thua trận, Hitler thắng, thì Trân khuyên tôi sẽ về làng quê cày ruộng như anh ấy đang làm.
Vấn đề thứ ba là một vấn đề tuy lớn mà dễ giải quyết. Vấn đề gì? Một ách thực dân Pháp, ta còn không đánh đổ nổi. Bây giờ tới hai ách Pháp và Nhật, Nhật dung dưỡng Pháp, Pháp làm hậu cần đắc lực cho Nhật, cả hai Pháp và Nhật thống trị Việt Nam thì ta có sức nào đánh đổ nổi Pháp và Nhật? Chế độ thực dân, cuộc đời nô lệ kéo dài tới chừng nào? hay là số kiếp của nước ta, dân ta phải như thế? Cách mạng làm sao mà thành công được? Một thứ tư tưởng “số mạng” tràn ngập! Khá bi đát. Cả trong đồng chí chớ không chỉ trong dân Nam Kỳ mà thôi.
Hồi tôi ở Tà Lài, vấn đề này chưa được đặt ra; bây giờ (1942) Pháp ở Đông Dương đã thuận cho quân Nhật vào đóng ở khắp những nơi nào Nhật thấy cần. Vào Đông Dương, Nhật cốt để một mặt tiến công tây nam Trung Quốc, một mặt tiến đánh Anh, Hà Lan ở Nam Hải.
Ban đầu thực dân Pháp ở Đông Dương không chấp nhận để quân đội Nhật vào Đông Dương, bắt đầu là vào Bắc Kỳ để ngăn chặn việc tiếp tế của Trung Quốc bằng con đường xe lửa Hải Phòng - Vân Nam như bấy lâu nay. Xung đột Pháp- Nhật nổ ra ở Lạng Sơn, quân Pháp thua chạy cong đuôi. Pháp thấy không đủ sức chống cự với Nhật mạnh hơn gấp mấy lần, nên chúng phải nhượng bộ với Nhật, để quân Nhật vào đóng trên toàn cõi Đông Dương. Còn Nhật thì thấy rằng nếu duy trì chính quyền thực dân Pháp thì lợi cho chúng hơn là loại trừ Pháp; Pháp sẽ đóng vai bảo đảm an ninh và bảo đảm hậu cần, cung cấp lương thực, tiền bạc, nguyên liệu, nhân công, trong lúc đó Nhật Bản dành toàn lực để tiến hành chiến tranh, mà trong một thời gian không ngắn Pháp đâu dám chống lại Nhật, nếu chống lại thì sẽ bị diệt ngay. Pháp lại muốn nhẫn nhịn, nghe nói có “thầy dùi” Việt Nam khuyên Pháp bắt chước Câu Tiễn nhằm duy trì chế độ thực dân Pháp cho đến ngày kết thúc chiến tranh. Cả Nhật lẫn Pháp đều cho rằng chế độ hai ông chủ (thực dân và quân phiệt) đó có thể làm cho cách mạng Đông Dương không bùng lên được.
Nhưng hai con chó ăn một miếng mồi, có ngày cắn nhau. Lại là chó đói nữa. Sự hợp tác Pháp-Nhật chỉ có thể là tạm thời. Giữa Pháp và Nhật, càng ngày càng nhiều mâu thuẫn. Chúng tất yếu sẽ đi đến xung đột nhau. Pháp trước sau gì cũng sẽ làm tay sai cho đồng minh Anh, Mỹ, chống Nhật. Nhật trước sau gì cũng phải gỡ cái gai dưới bàn chân, gạt lưỡi dao găm kề sau lưng trong lúc đương đầu với Anh, Mỹ. Có thể thấy trước rằng sớm muộn sẽ có ngày Nhật lật đổ Pháp, và Pháp nhất định bị tiêu diệt nhanh. Khi ấy chỉ còn có một ách ngoại bang, ách của Nhật, mà Nhật thì không quen thuộc Đông Dương bằng Pháp. Trong trường hợp Đồng minh Nga, Anh, Mỹ thắng trục Đức, Ý, Nhật thì điều kiện sẽ trở nên thuận lợi cho cách mạng Đông Dương. Các đồng chí Phú Lạc dường như dễ dàng chấp nhận lập luận của tôi. Về sau nghĩ lại tôi cho rằng sau khi vượt ngục Tà Lài, với lần ra quân đầu tiên, đã có chính kiến xác đáng nên đã phá tan những nghi ngờ, thất vọng đối với tiền đồ của cách mạng. Ít nhất là về mặt lý thuyết, tư tưởng. Tôi biết rằng ở Chợ Lớn, Sài Gòn, Gia Định, Bảy Trân quen biết nhiều đồng chí. Nội bà con xa của Bảy Trân đã có trên một chục đảng viên rồi. Trước kia Bảy Trân đi bán dầu cù là với Nguyễn An Ninh, quen biết rộng ở lục tỉnh, cho nên, các ý kiến của tôi chắc chắn sẽ được lan truyền ra rộng; lần sau tôi về Phú Lạc thì miếng đất như đã cày sẵn.
Đi Xảo Bần, U Minh
Ung Văn Khiêm (người thứ nhì từ bên trái) trong Trung ương cục miền Nam thời kháng chiến chống Pháp. Những người khác, từ trái sang phải : Lê Duẩn, UVK, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Kỉnh, Hà Huy Giáp (nguồn : Tuổi Trẻ).
Lên Đà Lạt, được mấy tháng cuối năm 1941, và gần như hoàn toàn không có ý định công tác gì hết, chỉ lo ẩn náu, tuy tôi có gặp gỡ Năm Luông và Năm Luông sẽ sớm hoạt động trở lại, nhưng đó chỉ là gặp gỡ tình cờ thôi. Bảo toàn tính mạng, cho khỏi bị bắt lại, nếu được, là thành công, là gìn giữ được một chút vốn cho Đảng cho dân. Tôi thuộc vào số người không đánh giá thấp, không trách móc những đồng chí, những người trước lãnh đạo, như anh Khiêm, anh Tây các anh ấy sớm “ẩn náu” từ chiến tranh thế giới mới nổ ra (1939) cho đến Nhật đảo chánh Pháp (1945). Những anh em đó giữ được tính mạng của mình, là giữ được một món của quý của cách mạng, miễn là đến thời kỳ cách mạng nổi lên, những anh em đó có mặt thì được rồi. Có lúc đơn độc quá tôi cũng trách, nhưng lúc nào tôi cũng quý những chiến binh đã được rèn luyện trong mười năm đấu tranh (1930-1940). Mấy tháng ở Đà Lạt, tôi ẩn náu để rồi lại xuất hiện, chưa hoạt động để rồi hoạt động có hiệu quả.
Trân thu xếp cho tôi về U Minh, Xẻo Bần ở Rạch Giá.
Lần này tôi đi Xẻo Bần là cốt, trong khi còn ẩn náu, đặt một số liên hệ công tác, tiếp tục cái việc đã làm ở Phú Lạc mà tôi gọi là “sạ lúa”, là “gieo khô”, nghĩa là rải giống xuống ruộng đã cày mà chưa có nước, tức là tuyên truyền giáo dục, xung quanh mình và trong một số tỉnh xa gần, tìm bắt liên lạc mà tạm thời chưa lập thành tổ chức.
Tôi muốn ẩn náu ở Đồng Tháp Mười quê hương tôi (Tân An) để gần với Sài Gòn. Nhưng Bảy Trân cho rằng U Minh (Rạch Giá) là nơi ẩn náu kín đáo hơn. Anh ấy đang “giấu” ở U Minh một số đồng chí đã từng cầm vũ khí hồi năm 1940, cho tới nay được an toàn. U Minh xa Sài Gòn hơn là Đồng Tháp Mười. Địch biết rằng sau năm 1940, nhiều chiến sĩ khởi nghĩa ở Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho rút vào Đồng Tháp Mười, nó lùng sục vùng này dữ lắm. Nghe nói ở Thủ Thừa, Mộc Hoá, còn một toán du kích võ trang hoạt động nên địch lùng sục dữ lắm. Còn ở Hậu Giang gần như không có khởi nghĩa hay chỉ khởi nghĩa Hòn Khoai, nên việc lùng sục của địch không khẩn trương, không liên tục bằng ở Tiền Giang. Các đồng chí Phú Lạc đề nghị tôi đi Xẻo Bần, ở đó có mặt năm, bảy anh em hết sức tin cậy, có thể cùng nhau tự vệ và có thể đào tạo lý luận thành cán bộ giỏi. Tôi bằng lòng ngay. Đi U Minh có thể, bắt liên lạc với Tây (Nguyễn Văn Tây tức Thanh Sơn), Khiêm (Ung Văn Khiêm), Bí thư Xứ uỷ những năm 1930-1931, để sau này tổ chức lại một Xứ uỷ có uy tín cao; Tây, Khiêm đã “ẩn” ngay từ khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, lúc Pháp bắt đi trại tập trung rất nhiều người mà nó đánh giá là nguy hiểm. Các anh “biến” trước khi Pháp hạ thủ. Kịp thời hơn tôi.
Tôi đi theo ghe mắm của cô Tám Tý là bà con cô cậu với Bảy Trân. Cô Tám Tý đáp ô tô đi Rạch Giá. Tôi ngồi trên một chiếc ghe rổi đầy lu mái trống, có bốn người chèo mà hai anh là chiến sĩ khởi nghĩa năm 1940; trong túi tôi bây giờ có nhiều tiền; các bạn chèo đều có đầy đủ giấy tờ hợp lệ. Chuyến đi năm ngày yên ổn, cứ theo nước ròng, nước lớn và gió chướng mà tiến tới.
Xẻo là một cái rạch nhỏ. Xẻo Bần là một cái rạch có nhiều cây bần mọc hai bên; Xẻo Rô là một cái rạch có rất nhiều cây ô rô ở hai bên mé. Muốn đi tới Xẻo Bần thì phải qua thị trấn Rạch Giá rồi qua Xẻo Rô. Rạch Bần thuộc U Minh thượng. Xẻo Bần là một vùng mới khai phá, trên là rừng U Minh mênh mông, dưới là biển cả hiền hoà, giữa là ruộng và đồng cỏ ngút tầm mắt. Ruộng đồng không có bờ mẫu, làng xóm không có đường đá, đường đất gì hết, người ta đi lại bằng xuồng ba lá mà gần như nhà nào cũng có. Rừng đầy chim, nhất là cò vạc; nhiều đến nỗi có tới hàng trăm con một bầy; Xẻo Bần có hàng chục bầy cò vạc. Đồng ruộng cũng nhiều cá tôm, bơi xuồng dưới Xẻo Bần thấy như là cá nuôi ở trong ao cá. Rắn cũng thật nhiều và thật rẻ, bốn năm hào một con rắn hổ mang đen xì bốn năm người ăn không hết. Xẻo Bần chỉ có một địa chủ, kỳ dư, gần hết nhân dân là nông dân tá điền hay làm ăn tự do, từ tứ phương đến, mà phân nửa là “dân lậu”, trốn thuế, trốn nợ, không giấy tờ hợp pháp (giống như bọn tôi). Họ nghèo lắm. Xẻo Bần chỉ có hai ba nhà ngói. Còn phần lớn toàn là chòi tranh nhà lá, cũng gọi là “nhà đạp”. Nhà đạp là chòi tranh vách lá không có vườn tược xung quanh, gia đình sống về nghề cá mắm, cấy thuê gặt mướn; đủ ăn thì ở, thiếu ăn hay mắc nợ trả không nổi thì “đạp” cái chòi tranh vách lá kia, rồi vợ, chồng, con cái, gà, vịt, nồi niêu, hũ gạo, xuống xuồng, xuống tam bản, chống chèo đi nơi khác, không biết trước là nơi nào. Một phần khá đông dân Xẻo Bần là như vậy, nên tôi khá yên tâm; có ai biết rằng mình cũng là một thứ “dân lậu” đâu? Lính quận lại ít khi đến Xẻo Bần, và nếu chúng có đến thì từ đầu xẻo đến cuối xẻo, người ta biết ngay để đề phòng. Vả lại, lính quận về làng để kiếm vài con gà, lít rượu, chớ cần gì kiểm tra giấy tờ, kiểm tra sao xuể, kiểm tra để làm gì?
Mua góp đầy ghe mắm rồi, Tám Tý về Sài Gòn bán mắm. Tụi tôi năm đứa, “dân lậu”, xoay qua mướn một trăm công 7 ruộng của ông Cả, cha chồng Tám Tý, để cầy cày cho qua ngày. Tôi cất hai cái chòi, một cái ở ngoài ruộng bên cạnh rừng tràm. Một cái trong rừng tràm. Ổn thì ở ruộng, động thì vào rừng. Tôi và ba đồng chí vừa làm ruộng, vừa mở lớp huấn luyện, còn Châu Văn Giác thì tôi phái đi các tỉnh Hậu Giang để gặp một số đồng chí trước đây đã rừng là cán bộ lãnh đạo, để nắm tình hình tư tưởng của họ ra sao, rồi cùng họ giải đáp ba vấn đề mà tôi đã trình bày ở Phú Lạc. Trước khi lâm bệnh, Giác đã đi Long Xuyên, Sa Đéc, Cần Thơ, Vĩnh Long và dự định đi Nam Vang nữa. Giác rất chú ý nghiên cứu vấn đề đạo Hoà Hảo, bắt liên lạc với Nhung (Long Xuyên), Cử (Sa Đéc), Minh Thẹo (Vĩnh Long), tính đi gặp Tây, Khiêm ở đâu chưa rõ.
Làm tá điền cho ông cả thì mình xem như được bảo vệ một phần, vì lính quận nào dám vào quấy nhiễu đồn điền của ông ấy? Vả lại mình ở bìa rừng, chống sào nhảy qua một con kinh hẹp thì an toàn rồi. Bài vở huấn luyện giống gần y như bài vở ở Khám Lớn: tôi thuộc lòng hơn dân nhà quê thuộc Lục Vân Tiên; nay được nâng lên, và khác ở tình hình hiện tại và nhiệm vụ cần kíp. Ăn uống thì gạo sẵn, muối sẵn, chỉ phiền một cái là nấu bằng nước phèn sông rạch lắng trong lu nhỏ; còn thịt cá tôm thì hết sức dễ kiếm: đặt năm ba cái “vó”, cái “lọp” nho nhỏ xuống ruộng, xuống kênh có thể bắt cả ký lô cá tôm; thiếu thịt thì vào rừng tràm nửa giờ đã có thể lượm về mấy chục trứng, có khi hàng chục cò con chưa lông cánh, tha hồ mà nhâm nhi. Mấy tháng làm tá điền ở Xẻo Bần, Rạch Giá cũng tựa như mấy tháng làm thợ hồ ở Đà Lạt, tôi có dịp sống đời sống của người dân lao động trong thời chiến tranh. Nông dân khổ hơn công nhân nhiều. Bà con nghèo quá. Người đi làm ngày thì tiền công mỗi ngày cao lắm là một cắc bạc; tiền công cấy lúa còn rẻ hơn là phát cỏ. Quần áo rách rưới. Có quần áo rách đã là may; phân nửa người đi làm mướn mặc bao bố tời hay mặc bao bàng; bao bàng, bao bố tời thay cho quần áo vải. Kiếm gạo ăn đủ no thì dễ, kiếm được manh áo lành thì rất khó. Trong khắp đồn điền ông Cả tôi thấy tá điền, số người làm mướn ít ai đóng nổi cái giấy thuế thân. Hầu hết những bà con làm thuê, làm tá điền đều bán “lúa non” nghĩa là chưa tới mùa gặt, lúa còn xanh thì đã bán lúa mình sắp gặt để đong gạo. Cho nên, lúa chín, gặt xong, ít ai còn lúa để làm mùa tới. Gặt xong thì xoay ra bắt cá, làm mắm. Nghèo thì nghèo vậy chớ trong xóm thì cờ bạc lu bù, cuối cùng chỉ có chủ chứa gom tiền, còn người cờ bạc thì rốt cùng ai cũng cháy túi cả.
Chúng tôi tính rằng ở Xẻo Bần lâu (hay bất cứ ở nơi nào) thì dễ bị lộ. Cho nên lúa ba trăng chín, gặt hái xong, bọn tôi dời đô xuống vùng rừng “thứ mười một”, tôi bỏ tiền mặt của vợ tôi cho sang tên mười mẫu trong một cái đồn điền thơm rộng mấy trăm mẫu, sang rẻ lắm, vì lúc ấy trồng thơm không lời; giá thơm hạng nhất chỉ một đồng một chục có đầu. Thì hoà vốn là may. Mà tụi tôi đâu có tính lỗ lãi gì, chỉ muốn được an toàn. Tôi chọn mười mẫu ở trong sâu nhất, sát bìa rừng để phòng bất trắc thì rút lui có trật tự. Rừng ở Xẻo Bần là rừng nước, rừng ở thứ mười một, vùng đồn điền dứa, là rừng khô. Anh Mười Nhung, người Chợ Lớn làng Bình Trị (Bà Hom) bị xử tử vắng mặt, lo việc cắt thơm, bán thơm. Sớm mai tụi tôi mang gùi sau lưng, tay cầm lưỡi mai cán dài để thu hoạch thơm chín, trái nào bị chuột khoét hay chim mổ thì trái đó ngon, để dành ăn. Sáng, làm việc tới độ chín giờ thì rút vào rừng tràm, rừng choạy mà học tập huấn luyện. Lẩn quẩn hết mùa khô. Đã cuối năm 1942, sắp sang năm 1943. Báo từ Sài Gòn xuống tới chậm. Dù sao tôi không đói tin. Trên thế giới chiến tranh đổi chiều hướng. Quân đội phát xít Hitler tổn thất rất lớn ở Stalingrad, Hồng quân Liên Xô sẽ tổng phản công trên các mặt trận. Bên Viễn Đông - Thái Bình Dương, quân đội Nhật khựng lại và bắt đầu thua ở tây nam Thái Bình Dương, ở Miến Điện.
Thế là sự đoán trước của tôi bắt đầu thành sự thật.
Chắc chắn tình hình này sẽ càng ngày càng thuận lợi cho việc tập hợp lại lực lượng, gây dựng lại hệ thống cơ sở của Đảng. Sắp hết cơn bĩ cực; đang tới kỳ thới lai. Tôi quyết định về Sài Gòn, để mười mẫu dứa lại cho Mười Nhung săn sóc, muốn sang nhượng cho ai tuỳ ý. Trời đã rót hạt sương xuân. “Lúa sạ” sắp mọc xanh đồng.
Chú thích của người biên tập:
1 Con công: Giấy bạc của Ngân hàng Đông Dương, một mặt có vẽ hình con công.
2 Couvent des Oiseaux: Trường nữ học của các nữ du Dòng Đức Bà, dành cho con cái các gia đình Pháp và thượng lưu bản xứ thuộc địa. Cô Marie Thérèse Lan đã học Couvent des Oiseaux ở Neuilly sur Seine (Pháp) trước khi trở thành Nam Phương hoàng hậu. Theo nhiều tài liệu, chính và Nam Phương đã thúc đẩy việc mở trường nữ học nay ở Đà Lạt, Sài Gòn…
3 Phú Lạc: Theo mạng vietgle (http://www.vietgle.vn/trithucviet/detail.aspx?key=Ph%C3%BA+L%E1%BA%A1c&type=A0 ) đây là một thôn thuộc tổng Tân Phong Hạ, nay là xã Phong Phú, quận Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
4 Ô Ma: Phiên âm từ tiếng Pháp “aux Mares” (ao hồ). Thành Ô Ma (Camp des Mares) là nơi đồn trú của quân Pháp từ khi đánh chiếm thành Gia Định. Lúc đó quân Pháp đóng tại đền Hiển Trung, chung quanh có nhiều ao, nên họ gọi là Pagode aux Mares. Sau đó nơi này biến thành trại lính (Camp des Mares), nằm ở đường Galliéni (nay là Trần Hưng Đạo).
5 Bảy Trân: Nguyễn Văn Trân (đừng nhầm với Nguyễn Văn Trấn « ông già Chợ Đệm »), sinh năm 1908, sang Pháp (Marseille) năm 15 tuổi. 19 tuổi, sang Liên Xô học trường Stalin (1927-1930), cùng khóa Nguyễn Thế Rục, Ngô Đức Trì, Bùi Công Trừng, Trần Phú, Bùi Lâm, Nguyễn Khánh Toàn, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Trần Ngọc Danh, Dương Bạch Mai, Trần Đình Long, Bùi Ái. Bí mật về nước năm 1930. Một trong những đảng viên cộng sản hiếm hoi đã tranh thủ được cảm tình và sự ủng hộ của đạo Cao Đài và hàng ngũ Bình Xuyên. Cũng đã từng làm liên lạc giữa bí thư xứ ủy Trần Văn Giàu với những trí thức yêu nước như Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát, Phạm Thiều... Xem thêm: Nguyễn Văn Trân, người cảm hóa giang hồ Bình Xuyên trong Nguyên Hùng (sách đã dẫn).
6 Blanquisme: xu hướng của nhà cách mạng Pháp thế kỉ XIX Auguste Blanqui, cho rằng muốn làm cách mạng xã hội, chỉ cần một thiểu số làm bạo động, rồi quần chúng sẽ tự động đi theo. Xu hướng này đã bị Engels phê bình nghiêm khắc. Trotsky tóm tắt phê phán này như sau: “Về mặt nguyên tắc, sai lầm của chủ nghĩa Blanqui là đồng hóa cách mạng và nổi dậy. Sai lầm sách lược của nó là đồng hóa nổi dậy với dựng chiến luỹ.”
7 Công: 1000 mét vuông, 100 công là 10 hecta (mẫu tây, Nam Bộ quen gọi là mẫu)
Dự kiến kế hoạch kỹ mấy rồi cuối cùng cũng thấy thiếu sót. Trong vụ vượt ngục Tà Lài của chúng tôi cũng vậy thôi. Khi vượt ngục chúng tôi đều nghĩ rằng và ít nhất là mong rằng, tuy thực dân khủng bố trước, trong và sau khởi nghĩa Nam Kỳ, là dữ dội nhất từ trước tới nay, nhưng, “cháy nhà cũng còn bờ tre”; thế nào rồi Xứ uỷ cũng được tổ chức lại sớm hay muộn, mạnh hay yếu. Cho nên bọn tôi dặn nhau là, trong hoạt động của mình, trước hết phải xem còn ban lãnh đạo nào không, xứ uỷ hay tỉnh uỷ, dù là lâm thời được tổ chức lại sau tháng 11 năm 1940. Nếu có thể, điều tra kỹ, rồi nhập vào đó hay liên lạc gắn bó, tránh mọi sự chia rẽ bao giờ cũng tổn hại (hồi 1933 khi tôi về tới Nam Kỳ thì trước đó vài tháng Xứ uỷ Nam Kỳ do đồng chí giáo Long làm bí thư, đã bị địch tóm gọn nên tôi với các đồng chí Nữ, Bang lập Xứ uỷ mới mà không lo sinh ra chia rẽ nghi ngờ nào). Bây giờ, sau một thời gian dài hoạt động, ở hầu khắp các tỉnh Nam Kỳ, cả đồng chí Phúc, tôi và các đồng chí Tà Lài về, như nhau, đều không thấy dấu hiệu sống còn của một xứ uỷ, một tỉnh uỷ nào hết. Cho nên, cuối cùng, do tình thế bức bách, Phúc phải họp hội nghị đại biểu các “tỉnh uỷ” lâm thời của anh lập ra rồi, để bầu một xứ uỷ. Và tôi, cũng tựa như thế phải họp hội nghị đại biểu các “ban cán sự” thành và tỉnh của tôi dựng lên, để chỉ định một “ban cán sự miền Đông” nhằm lãnh đạo chung. Khi ấy, vào năm 1943, Phúc và tôi chưa gặp lại nhau tuy đã có hẹn trước, khi cần thiết thì lấy nhà bác hương trưởng Hoài (quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho) làm địa điểm liên lạc, ở đây sẵn có Khuy trong toán ba anh em Tà Lài vượt ngục trước tiên.
Việc phải đến, đã đến. Tôi từ U Minh về, đầu năm 1943, đã ghé nhà bác hương trưởng Hoài. Ông này ở cách nhà cha mẹ tôi không đầy mười cây số. Nhắc chuyện cũ là năm 1926, cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc từ Sài Gòn xuống lục tỉnh thì cụ bắt đầu ghé nhà ông hương trưởng Ninh (là bố vợ, từ 1930) của tôi; ông hương trưởng Ninh đưa cụ Sắc qua bác Hoài, bác Hoài đưa cụ Sắc đi Bến Tre, v.v… Tôi đã qua nhà bác Hoài từ năm 1933. Lần này đầu 1943, ghé nhà bác Hoài, tôi được Khuy báo cáo hoạt động của anh ấy ở Mỹ Tho, Gò Công và một phần nào hoạt động của Phúc ở đồng bằng sông Cửu Long. Rồi, lên Sài Gòn, tôi bắt đầu theo dõi đồng chí Mười Thức, thợ giày thành phố, để giúp tôi hoạt động. Thức khi ấy là rể của ông Hoài, còn Khuy là con nuôi. Lên tới Sài Gòn, tôi lập ngay ban cán sự Thành, với ba đồng chí Oanh, Chí, Thức. Cả ba anh đều là công nhân lao động đã từng hoạt động cách mạng, suốt thời kỳ Mặt trận bình dân, quen biết rất nhiều; vài năm nay các anh nằm im vì không được ai dẫn dắt. Từ năm ngoái sau khi tôi ghé nhà Bảy Trấn, ở đó mấy ngày, thì nhóm Phú Lạc có đi bắt liên lạc với nhiều đồng chí ở hai tỉnh Chợ Lớn và Gia Định, cả Tân An nữa. Liên lạc thôi chớ không tổ chức và hoạt động gì, nhưng nhờ đó mà, đầu 1943, sau Ban cán sự Sài Gòn, tôi đã tổ chức được Ban cán sự tỉnh Chợ Lớn, rồi Ban cán sự tỉnh Gia Định, tới Ban cán sự tỉnh Tân An, tỉnh nhà của tôi. Các đồng chí Hoằng (Tân An), Hoành (Chợ Lớn), Tổng, Công, Khương, Nỉ (Gia Định) hoạt động đắc lực. Tôi với tay đến Thủ Dầu Một, tìm được Văn Công Khai, thợ cúp tóc là một “đồ đệ” hồi ở Khám Lớn. Tới Biên Hoà, tôi liên lạc với Châu, nguyên là cán bộ đã từng hoạt động với tôi ở quận Càng Long (tỉnh Trà Vinh) từ năm 1933. Đồng chí Phải, cựu sinh viên đại học Đông Phương, khoá trước của tôi, nay ở Bà Rịa cũng hứa hoạt động trong tỉnh Bà Rịa và thị trấn Vũng Tàu. Chưa bắt được mối ở Tây Ninh. Thế nhưng bấy nhiêu “ban cán sự” đó nếu hợp tác với các “tỉnh uỷ lâm thời” của Phúc, đã đặt ra yêu cầu phải có một Xứ uỷ chính thức đủ danh nghĩa lãnh đạo các đảng bộ toàn Nam Kỳ. Mà, cho đến nay chúng tôi chưa thấy tăm hơi nào của một Xứ uỷ còn sống sót sau đại khủng bố 1940-1941. Phúc nhạy bén và bạo dạn hơn tôi; vì vậy mà anh tổ chức đại biểu hội nghị xứ ở Chợ Gạo tháng 10 năm 1943. Còn tôi, không biết phải e dè cẩn thận hay là không nhạy bén bạo dạn bằng, tôi quả thật sợ một cuộc đại biểu hội nghị xứ đông đảo bị lộ bí mật, bị địch tóm gọn trong lúc mới khôi phục, thì biết bao giờ mới vươn lên nổi. Cho nên tôi vắng mặt ở hội nghị Chợ Gạo. Tuy rằng lúc ấy tôi ở Phú Lạc chớ không đâu xa, từ Phú Lạc đi Chợ Gạo bằng xe đạp chỉ mất một buổi sáng. Vậy mà, anh em vẫn bầu tôi làm bí thư. Tôi cảm động biết mấy! Cơ sở của Phúc ở miền Trung, miền Tây là chủ yếu; cơ sở của tôi ở Sài Gòn và miền Đông [1] là thứ yếu; hai cánh hợp nhau thì có một Xứ uỷ chánh thức khá mạnh từ gần cuối năm 1943.
Bầu cử Xứ uỷ, là một thành công lớn, lớn nhất từ sau ngày vượt ngục Tà Lài. Tuy vậy, hệ thống và cơ sở Đảng ở toàn bộ Nam Kỳ vẫn còn là vấn đề lớn, rất lớn. Đi đôi với vấn đề tổ chức và vấn đề đường lối chính trị mà bọn tôi biết bao lần đặt ra nhưng chưa hề được giải quyết ổn thoả. Ổn thoả sao được, bởi vì, giỏi mấy mình vẫn là một địa phương thôi. Còn Trung ương[2] thì có những quyết nghị gì, mình hoàn toàn không biết.
Ở đây, tôi muốn nói thêm rằng nhà bác hương trưởng Hoài, tuy bọn cầm quyền thực dân không đứa nào không biết là nhà cách mạng, nhưng thực tế là một nơi dung thân rất tốt của nhiều đồng chí: nhà ông ở xa trong vườn, từ lộ cái vào phải hơn cây số vườn dừa, trên đường vào có rất nhiều cầu qua mương, cầu bằng thân cây dừa, xe đạp qua phải dắt, trên đường vào toàn là nhà tá viên, bà con, ai coi bộ khả nghi thì người nhà lấy chày giã gạo gõ nhịp trên cối giã làm hiệu. Sau nhà bác hương trưởng là vườn, là dừa nước, là sông rạch chằng chịt, thoát ra một phút thì có trời mà kiếm. Tôi hay nghỉ ngơi, để viết sách, ở nhà bác hương trưởng ở Tân Thuận Bình, Chợ Gạo, là vì vậy. Nơi đây, từ 1943 tôi tổ chức một “nhà in”, một “nhà xuất bản” in phát một số quyển như “Việt Nam trên đường độc lập”, “Rạng đông của dân tộc” thường ký tên là “Xuyên Vân Nhạn”[3], mà mục đích là giúp các đồng chí tuyên truyền chống “chủ nghĩa Đại Đông Á” của Nhật, chống “Chủ nghĩa Liên bang” cũng gọi là “chủ nghĩa Pháp Việt phục hưng” của Decoux. Gây lại tin tưởng vào tiền đồ của cách mạng Việt Nam.
Xác định đường lối cách mạng
Việc lập lại Xứ uỷ Nam Kỳ như vậy là đã xong về cơ bản; nói rằng làm xong về cơ bản nghĩa là sau khi đã gây dựng lại một số tỉnh uỷ lâm thời (theo cách của Dương Văn Phúc) và một số ban cán sự tỉnh hay thành (theo cách của tôi), vấn đề còn lại về tổ chức là các tỉnh thành phải lo gây dựng lại cơ sở của mình, tập hợp lại quần chúng vài ba năm nay bị rời rạc, tan tác. Xét ra thì việc lập lại Xứ uỷ tất nhiên là một việc khó mà tương đối dễ; bọn tôi có kinh nghiệm bản thân, riêng tôi đã từng thực hiện loại nhiệm vụ đó hồi 1933, thành công và thất bại ở những chỗ nào, đến nay tôi hãy còn nhớ kỹ như là nhớ chuyện ngày hôm qua; phần khác những đồng chí nào “kinh cung chi điểu”[4] thì thôi, chớ nếu đã đồng ý lãnh nhiệm vụ mới thì đều là những đồng chí từng kinh qua cấp uỷ của Đảng hay của hội, nhiều hay ít đều được quần chúng tin cậy. Khó mà dễ là như vậy.
Còn hai việc lớn nữa phải làm cho tốt, cho mau; một là phải nỗ lực làm sao cho Đảng ở Nam Kỳ, sau một thời gian tan vỡ, trở lại mạnh như trước, mạnh hơn trước, ngõ hầu theo kịp với tình hình thế giới và trong nước chắc chắn sẽ biến chuyển nhanh về hướng có lợi cho cách mạng. Việc này là bình thường, là thường xuyên. Hai là phải xác định đường lối cách mạng, xác định đặc điểm và triển vọng của tình hình, đề ra các nhiệm vụ cần kíp trên con đường chiến đấu của đất nước và của địa bàn mình phụ trách. Việc này, thoáng qua thì hình như là dễ, ta đã sẵn có đường lối chiến lược “cách mạng tư sản dân quyền” từ năm 1930 rồi kia mà, sau luận cương cách mạng tư sản dân quyền thì ta đã có “chương trình hành động” phổ biến từ 1932, được Quốc tế Cộng sản tán thành kia mà.
♦
Thật thà mà nói, Văn, bạn học tôi trường Stalin, Văn nay đã chết rồi, chết từ 1941, chết trong tay mật thám, thì không còn đồng chí vượt ngục nào có khả năng lý luận khá. Toàn là những tay hoạt động thực tiễn giỏi mà ít lý luận. Kể cả Phúc; Phúc kiên trì hoạt động thì ít ai hơn, ít ai bằng, nhưng ít đọc, càng ít viết, Phúc (Bà Rịa) thì học nhiều mà không hoạt động tích cực. Tây thì viết được mà chưa chịu ra. Nhiệm vụ vạch đường lối rơi vào tôi, túng quá phải gánh, không chối được, chờ liên lạc với Trung ương, chờ chỉ thị thì chừng nào mới có?
Tôi có ý thức rất rõ, có ý thức đầy đủ rằng, ngày nay lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc đã vào một thời kỳ mới, thời kỳ chiến tranh và cách mạng chắc chắn rộng hơn thời kỳ chiến tranh 1914-1918 và cách mạng vô sản sau chiến tranh đó. Đường lối đã vạch ra từ hồi 1930, 1932 nay đâu còn thích hợp nữa. Vậy phải có một đường lối mới thích hợp hơn. Trung ương hội nghị lần thứ VI họp ở Bà Điểm cuối năm 1939, đã bắt đầu đề ra một đường lối mới. Mà nay là 1943 rồi, không phải là 1939 nữa. Năm 1939, chiến tranh thế giới còn là chiến tranh giữa phe Đức phát xít và Pháp, Anh đế quốc thực dân. Nay chiến tranh đã mở rộng ra khắp thế giới tây đông, mà mặt trận chính là Đức, Nga, và nay Anh, Mỹ là tư bản chủ nghĩa, đồng minh của Liên Xô là xã hội chủ nghĩa. Pháp đã mất nước từ tay Đức. Hai ba năm trước, một mình Pháp thống trị Đông Dương, bây giờ Đông Dương bị Pháp và Nhật cùng thống trị. Thì đường lối cách mạng của Đảng ta phải như thế nào mới đúng? Đúng nghĩa là chắc chắn đưa đến cách mạng thành công?
Tôi hiểu rằng một cái Xứ uỷ cho dầu là cứng hơn, vững hơn bọn tôi mấy lần đi nữa, cũng không có quyền vạch ra đường lối cách mạng là đường lối của toàn Đảng, toàn quốc; cho nên xác định đường lối cách mạng phải là nhiệm vụ của Đại hội Đảng hay là của Ban chấp hành Trung ương Đảng, các cấp bậc ấy mới có đủ quyền hạn. Nhưng ở Nam Kỳ bấy giờ không còn có cơ quan Trung ương cũng không còn có uỷ viên Trung ương từ sau những vụ bị bắt ở đường Nguyễn Tấn Nghiêm và xung quanh cuộc khởi nghĩa 1940. Ngày nay nhìn lại thì thấy rằng mãi cho đến sau cách mạng tháng Tám, chúng tôi, không biết có nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ VIII – một cuộc hội nghị Trung ương có Nguyễn Ái Quốc tham dự[5]. Lúc đó chúng tôi cảm giác bơ vơ trong một thời cuộc cực kỳ rối và khó. Phải tự vạch đường mà đi hay là phải chờ đợi? Mà chờ đợi đến chừng nào? Chờ đợi ai? Trong lúc không thể dẫm chân một chỗ. Mà thời thế xem chừng như là cấp bách. Sau Stalingrad rồi! Người chiến sĩ cách mạng, đoàn thể cách mạng cần biết tự động, có sáng kiến, phải sáng kiến tự động giống như một sĩ quan cầm đầu một đơn vị chiến đấu đang cơn hỗn loạn ở chiến trường, đứt liên lạc với cấp trên và với tả hữu, tất phải tự động sáng kiến mà tiến thoái. Nhớ lại hồi 1933, Xứ uỷ cũ không còn, Xứ uỷ mới vừa thành lập, Trung ương không có, các bạn và tôi vạch lấy con đường mà đi; trong nhiều việc mới chưa có tiền lệ, như việc tranh cử hội đồng thành phố Sài Gòn, Xứ uỷ đã tự mình giải quyết đúng đắn, lần đầu tiên kết hợp bí mật và công khai, dám sử dụng các cơ hội hợp pháp để hoạt động cách mạng, nhờ đó một phần mà gây lại được phong trào quần chúng rộng lớn và sôi nổi ở Nam Kỳ. Bây giờ, mười năm sau, tình thế đơn độc thì giống mười năm trước mà tình hình chính trị của thời chiến ngày nay gay go hơn biết mấy! Nhưng rồi cũng phải tự vạch con đường mà đi thôi. May là, trong Nam, từ cuối 1939, đã có nghị quyết Trung ương lần thứ VI. Mà Trung ương hội nghị lần thứ VI họp trong lúc ở châu Âu đã nổ ra chiến tranh giữa Đức và Pháp, Anh, chưa có chiến tranh Đức - Liên Xô, Pháp chưa bại trận. Á Đông thì quân Nhật chưa vào Đông Dương, chiến tranh Thái Bình Dương chưa nổ ra. Bây giờ, 1943, thì tình hình khác xa hồi cuối 1939, chắc chắn là nghị quyết Trung ương VI còn có nhiều phần ứng dụng được, nhưng không đủ nữa. Thì làm thế nào bây giờ? Suy nghĩ nhiều, thảo luận mãi, chúng tôi, đi đến chỗ quyết định phải tự trao cho mình trách nhiệm vạch ra đường lối mà đi tới, đó là đường lối cách mạng do tôi đề nghị và tôi phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về sai đúng của nó.
Trần Văn Giàu diễn thuyết tại Nhà hát lớn Hà Nội ngày 13.03.1946
(mít tinh về tình hình mặt trận Nam Bộ)
Phúc sau này lấy tên là Năm Đông[6], thấy tôi lúng túng nên đề nghị hãy lấy nghị quyết Trung ương thứ VI làm cơ sở của đường lối rồi thi hành châm chước theo tình hình mới, như vậy sẽ “hợp pháp” hơn. Văn và Phúc chỉ có hai người trong đám vượt ngục Tà Lài đã được biết nghị quyết ấy song cũng chưa bao giờ nghiên cứu cho thấu đáo, cho nên, học lóm, tôi chỉ biết vài nét đại cương; nay Văn chết rồi, còn Phúc thì quên ráo, trừ ra cái nhiệm vụ phải thừa cơ chiến tranh thế giới để làm cách mạng giải phóng thành công. Tìm kiếm mãi, tôi bắt gặp mấy đoạn chép tay nghị quyết VI ở nhà Prigorny (Trân[7] - Phú Lạc) giấu trên mái lá của chuồng trâu. Tôi hết sức cảm động khi đọc đoạn chót của nghị quyết, lời kêu gọi thống thiết toàn thể đảng viên cộng sản:
“ Các đồng chí! Thời cuộc hết sức nghiêm trọng, nhiệm vụ mà lịch sử phú thác cho ta rất nặng nề. Là những phần tử tiên tiến của giai cấp thợ thuyền và là những con cháu tinh anh tận tụy với công cuộc giải phóng dân tộc, chúng ta phải giác ngộ rõ cái sứ mệnh lớn lao ấy và đủ can đảm, đủ nghị lực, đủ sáng suốt để gánh vác nó.
Các đồng chí hãy xiết chặt hàng ngũ lại!
Muôn người cố kết như một!
Tiến lên thực hiện Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.
Tiến lên lật đổ ách đế quốc, tranh lấy độc lập, giải phóng tự do, bình đẳng, hoà bình, hạnh phúc…”.
Và kêu gọi thống thiết toàn thể đồng bào:
“Anh chị em đồng bào!
Dân tộc chúng ta đứng ở vào tình thế một còn một mất.
Là dòng dõi tinh anh của Trưng Vương, Triệu Ẩu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Phan Đình Phùng, lại là dân tộc đông nhất, dân tộc Việt Nam hãy mau mau đoàn kết lại, thống nhất Trung Nam Bắc, liên hiệp với Miên Lào và tất cả các dân tộc thiểu số khác dưới ngọn cờ Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, kẻ xuất công người xuất của, ra sức đấu tranh chống đế quốc chiến tranh và giải phóng các dân tộc Đông Dương ra khỏi đế quốc Pháp.
Chỉ có chiến tranh giải phóng mới thật là chiến tranh vì công lý, tự do”.
Đọc nghị quyết tháng 11 năm 1939, tôi chú ý đặc biệt đến một số tư tưởng mang nhiều tính sáng tạo so với luận cương cách mạng tư sản dân quyền (1930) và Chương trình hành động (1932), những tư tưởng đem lại nhiều gợi ý lớn cho tôi khi tôi phải đề nghị một dự thảo đường lối cách mạng cho Xứ uỷ 1943. Những tư tưởng gợi ý đó là:
“Đứng trong một tình thế ít nhiều khác với tình thế 1930-1931, chiến lược cách mạng tư sản dân quyền bây giờ cũng phải thay đổi ít nhiều cho hợp với tình thế mới. Cách mạng phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mạng tư sản dân quyền. Không giải quyết được cách mạng điền địa thì không giải quyết được cách mạng phản đế; không giải quyết cách mạng phản đế thì không giải quyết được cách mạng điền địa. Các nguyên tắc ấy không bao giờ thay đổi được; nhưng nó phải ứng dụng một cách khôn khéo thế nào để thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mạng là đánh đổ đế quốc”.
Ngay khi đọc nghị quyết, tôi liền thấy rằng đây không phải là “các nguyên tắc ấy - cách mạng phản đế và điền địa song song, không tách, không cái nào thứ nhất, cái nào thứ yếu - không bao giờ thay đổi được”. Thực tế thì hội nghị Trung ương 1939 đã “thay đổi” nguyên tắc ấy, đã chuyển hướng chiến lược, trước là cách mạng phản đế và điền địa, nay là cách mạng dân tộc giải phóng, nhiệm vụ phản đế là “chính cốt”; không nói tách bạch ra nhưng cũng đã đủ rõ rằng cách mạng điền địa là thứ yếu, nhưng cần viết lại sao cho các đồng chí hiểu rằng dù nó là quan trọng lớn, lớn nào cũng không bằng cách mạng phản đế; đặt cách mạng phản đế làm “chính cốt” là cốt để tập hợp được lực lượng yêu nước của cả dân tộc đến mức cao nhất có thể được. Đúng là đã có thay đổi ở nguyên tắc chính. Nghị quyết nói rõ hơn nữa:
“Hiện nay tình hình có đổi mới. Đế quốc chiến tranh, khủng hoảng cùng với ách thống trị phát xít thuộc địa đã đưa đến vấn đề dân tộc thành một vấn đề khẩn cấp rất quan trọng. Đám đông trung tiểu địa chủ và tư bản bản xứ cũng căm tức đế quốc. Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mạng, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào mục đích ấy mà giải quyết”.
Lâm thời không đưa ra khẩu hiệu “tất cả ruộng đất về tay dân cày” nữa mà đưa ra khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của thực dân và của địa chủ phản bội quyền lợi của dân tộc”.
Bạo dạn lắm và rất đúng, rất hay. Về sau, tôi nghĩ rằng trên thực tế lịch sử, sự chuyển hướng chiến lược lớn của Đảng ta đã bắt đầu từ tháng 11 năm 1939, còn nghị quyết Trung ương VIII thì tiếp tục và hoàn thiện một sự nghiệp phát triển lý luận bắt đầu từ nghị quyết Trung ương VI. Năm 1943, sau khi lập Xứ uỷ, trong việc tự vạch một đường lối cách mạng, chúng tôi ở Nam Kỳ, đặc biệt là tôi, đã chịu ảnh hưởng cực kỳ sâu sắc của nghị quyết Trung ương VI về sự xác định “nhiệm vụ chính cốt” của cách mạng Đông Dương, cách mạng Việt Nam. Giống như cái thời (1928-1929, khi tôi gõ cửa xin gia nhập Đảng Cộng sản Pháp) mà tôi “phát hiện” ra trong nghị quyết của Quốc tế Cộng sản đại hội lần thứ VI nhiệm vụ chiến lược cách mạng điền địa gắn liền với cách mạng phản đế.
Chưa hết cái sáng tạo của Hội nghị tháng 11 năm 1939, tại Bà Điểm. Nghị quyết còn nói đến vấn đề tính chất và hình thức của chính quyền cách mạng đã thành công. Nghị quyết rút lại khẩu hiệu “lập chính phủ Xô Viết công nông” mà đưa khẩu hiệu lập chính phủ cộng hoà dân chủ mang tính chất đoàn kết rộng rãi bao gồm nhiều thành phần xã hội ngoài công nông tuy là dựng trên cơ sở liên minh công nông.
Bạo dạn lắm; cũng là thức thời lắm!
Vấn đề Miên Lào được quan niệm một cách khác hơn hồi 1930, 1932 khi ra đời Luận cương chính trị và Chương trình hành động. Nghị quyết tháng 11 năm 1939 nói:
“Không một dân tộc nào có thể giải phóng riêng lẻ, vì Đông Dương ở dưới quyền thống trị duy nhất của đế quốc Pháp về mặt chính trị, kinh tế và binh bị. Không thể có một bộ phận nào thoát khỏi nền thống trị ấy mà chẳng liên quan đến cả nền thống trị của đế quốc Pháp. Sự liên hiệp các dân tộc Đông Dương không nhất thiết bắt buộc các dân tộc phải thành lập một quốc gia duy nhất vì các dân tộc Việt Nam, Miên, Lào xưa nay vẫn có sự độc lập. Mỗi dân tộc có quyền giải quyết vận mệnh theo ý muốn của mình song sự tự quyết cũng không nhất định nghĩa là rời hẳn nhau ra”.
Nói một cách khác hơn, rõ hơn, không đặt vấn đề thành lập Liên bang Đông Dương như hồi 1930 nữa, mà đặt vấn đề liên minh chiến đấu giữa Việt, Miên, Lào chống đế quốc thực dân Pháp nhằm giành lại độc lập cho nhau, mỗi dân tộc Việt, Miên, Lào có quyền quyết định chế độ chính trị của mình mà cả ba đều ủng hộ nhau để hoàn thành và bảo vệ nền độc lập đó.
Thế là rõ. Thế là hội nghị tháng 11 năm 1939 đã cho phép ta đánh đổ một chính sách tuyên truyền “chia để trị” của Pháp. Duy, ngay sau tháng 11 năm 1939, ta không có cơ hội để tuyên truyền cổ động rộng rãi cho một chiến lược đổi mới vừa hợp với lịch sử, vừa hợp với lòng dân của cả ba dân tộc Việt, Miên, Lào.
Bên trên, tôi vừa nói đến ba chuyển hướng chiến lược đặc biệt quan trọng của Trung ương hội nghị tháng 11 năm 1939. Ba điều ấy được chúng tôi, hồi 1943-1944, lấy làm cơ sở để vạch ra đường lối của Xứ uỷ.
Đọc lại một số đoạn của nghị quyết VI, tôi lấy làm lạ, đồng thời cũng rất cảm động, khi thấy rằng cuối năm 1939, trong lúc Thường vụ Trung ương còn toàn vẹn và an toàn mà hội nghị đã đặc biệt chú tâm đến vấn đề nối chắp liên lạc dưới trên, Nam Bắc trong Đảng bị địch làm tổn hại nguy hiểm. Nghị quyết nói phải:
“Tìm cách khôi phục hệ thống Trung Nam Bắc và phải làm cho sự liên lạc từ chi bộ đến Trung ương được khắng khít. Nhất là trong lúc này (là lúc) Đảng thay đổi chính sách, phải làm cho chính sách ấy phổ cập trong toàn Đảng… Và trong lúc tình thế nghiêm trọng này, phong trào quần chúng sẽ tiến tới một tốc độ không ngờ, nếu các tổ chức Đảng từ trên tới dưới không liên lạc mật thiết như một người thì Đảng không thể chỉ huy phong trào một cách đúng đắn được. Phong trào cách mạng của quần chúng sẽ vì đó mà yếu ớt đi, cách mạng sẽ không thực hiện được, Đảng ta sẽ mang tội với vô sản, với dân tộc, với cách mạng toàn thế giới”.
Chúng tôi càng thấm thía tầm quan trọng đặc biệt của nhiệm vụ “khôi phục hệ thống Trung Nam Bắc” được đặt ra ngay từ cuối năm 1939, nhiệm vụ càng cấp bách vào năm 1943-1944… tới đó mà vẫn chưa thực hiện được, tới đó mà chúng tôi ở Nam chưa biết Trung ương còn hay không, còn thì đã vạch ra đường lối cách mạng thế nào cho tất cả các tổ chức cộng sản đều theo đúng như vậy. Về sau ai nói đông tây gì mặc kệ, chớ hồi 1943, khi lập lại Xứ uỷ chúng tôi Phúc, Giàu… nhắc mãi cái câu tâm huyết của nghị quyết VI: “Nếu các tổ chức Đảng từ trên xuống dưới không liên quan mật thiết như một người… cách mạng không thực hiện được… ta mắc tội với vô sản, với dân tộc…”.
Không đành chịu ngồi chờ, bất đắc dĩ chúng tôi phải tự vạch ra một đường lối cách mạng mà dù tự tin mấy cũng không khỏi phải âu lo rằng có thể có sự khác biệt đáng lẽ tránh được với các đồng chí ở Bắc Trung. Sau này, ai hiểu được cho tôi thì tôi nhờ, ai hiểu không được hay không muốn hiểu thì tôi chịu, chớ bảo nhau “ngồi chờ” quyết không phải là thái độ của tôi hay của bất cứ người “cách mạng chuyên nghiệp” nào. Khi ấy, ở Nam Kỳ, ở trong tình thế phải tự vạch ra con đường để mà đi tới trước, nếu có sai biệt gì với bên trên (mà chúng tôi không biết chắc là còn hay mất) thì tôi sẵn sàng chịu phê bình, nhưng người ta không những phê bình mà còn công kích dữ dội, ác liệt, cái lối xử sự ấy quả là khó chấp nhận lắm.
Vấn đề “một cổ hai tròng”, ách của hai đế quốc Pháp và Nhật
Hồi cuối năm 1939, đầu năm 1940, chỉ có một mình Pháp thống trị Đông Dương.
Khi ấy, trong những năm cuối thời Mặt trận bình dân, đứng trước nguy cơ chiến tranh giữa Nhật- Pháp ở Đông Á, anh Lê Hồng Phong chủ trương “phòng thủ Đông Dương”. Còn tôi, dù ở trong Khám Lớn Sài Gòn, tôi có gởi bài đăng ở báo Avant garde chủ trương là “giữa bệnh dịch tả và bệnh dịch hạch, ta không lựa chọn cái nào” (entre la peste et le choléra, on ne choisit pas). Khi ấy, có mặt Honel nghị sĩ cộng sản Pháp được Đảng Cộng sản Pháp phái sang Sài Gòn, anh ấy phản đối tôi hết sức dữ dội, và không phải chỉ có một mình Honel phản đối tôi. Nhưng quần chúng và cán bộ thì bàn tán nhiều, không phải ai cũng ủng hộ “phòng thủ Đông Dương”. Anh tuyên chiến với Đức. Đồng minh của Đức là Nhật đem quân vào Đông Dương, Pháp-Nhật câu kết nhau.
Ngay từ khi chiến tranh thế giới bắt đầu, Đảng đã quyết định sẽ nhân cơ hội chiến tranh đế quốc để làm cách mạng giải phóng thành công, điều này đã ghi trong Luận cương chính trị 1930 và Chương trình hành động 1932. Giữa năm 1940, Pháp bị Đức đánh bại phải đầu hàng, một chính phủ chư hầu, tay sai của Đức được thành lập ở Pháp và Pháp được giữ nguyên các thuộc địa. Chính phủ thuộc địa tại Đông Dương theo đường lối của chính phủ Pétain ở Pháp. Quân Pháp theo Pétain nắm trọn quyền ở Đông Dương. Nhưng cuối 1940 và đầu 1941, Pháp chấp nhận để quân đội Nhật vào Đông Dương. Từ đó, thống trị Đông Dương không phải chỉ có đế quốc Pháp mà còn có quân phiệt Nhật. Một cổ hai tròng là thế. Ai đoán trước được? Cuối năm 1940, nổ ra cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Khởi nghĩa thất bại. Pháp đàn áp dữ dội, khốc liệt nhất từ khi chúng đến đồng bằng Cửu Long, Đồng Nai. Khi nổ ra khởi nghĩa Nam Kỳ chưa có đại quân Nhật vào đây; nay thì quân Nhật có mặt ở cả Bắc, Trung, Nam, Miên, Lào nữa, đóng căn cứ hành quân khắp nơi. Nhật dung dưỡng Pháp và Pháp phục vụ lại Nhật, hai thằng đế quốc tuy có mâu thuẫn với nhau mà cùng nhau đè đầu cưỡi cổ dân ta. Nhân dân và cả đồng chí nữa đặt câu hỏi: một đế quốc Pháp, đã bị phát xít Đức đánh bại, mà ta còn đánh đổ không nổi, ta còn thua, nay thêm một đế quốc Nhật, đế quốc đó lại đang thắng Mỹ, Anh, Hà như chẻ tre, cả hai kẻ xâm lược Pháp, Nhật cùng thống trị dân tộc ta, thì ta làm sao đánh đổ nổi chúng để giành lại độc lập?
Trong câu hỏi có xen ý hoài nghi tiền đồ cách mạng. Chúng tôi đã trả lời câu hỏi một cách đơn giản mà không có ai trong số các đồng chí (và trong quần chúng cảm tình) không cho là đúng:
Pháp sở dĩ chấp nhận để cho quân đội Nhật vào Đông Dương vì chúng không có sức đương đầu với Nhật, một trận Lạng Sơn đủ chứng tỏ điều ấy rồi. Đánh Nhật thì Pháp (ở Đông Dương) chết ngay, mất hết. Nhân nhượng thì may ra còn. Vả lại, chính phủ Pétain ở Pháp chịu phục tùng Đức, mà Đức thì muốn cho Pháp cứ giữ thuộc địa, Nhật là đồng minh của Đức; cho nên Pháp ở Đông Dương nuôi hy vọng có thể giữ được bộ máy cai trị của chúng cho đến ngày hết chiến tranh mà chúng tưởng rằng phe trục phát xít sẽ thắng.
Nhật tất nhiên là muốn ăn hết miếng mồi Đông Dương chớ không muốn chia phần cho Pháp. Nhật hất cẳng Pháp không khó khăn, dễ như móc thuốc lá trong túi. Nhưng nếu như Nhật hất cẳng Pháp ngay thì cái khó khăn lớn của Nhật là phải tổ chức ra bộ máy cai trị của chúng, liệu bộ máy mới có giữ trật tự nổi trong một nước có truyền thống cách mạng rất mạnh như Việt Nam không? Chi bằng tạm để quân Pháp ở đó, buộc Pháp nếu muốn tồn tại để chờ thời, thì một mặt phải làm việc giữ trị an bằng bộ máy Nhà nước đã xây dựng từ gần một trăm năm nay, mặt khác phải lo bảo đảm hậu cần cho quân đội Nhật, cần lương thực có lương thực, cần nhân công có nhân công, cần tiền có tiền, bến tàu, sân bay, đường sá đều sẵn. Lợi hơn là trực tiếp nắm tất cả quyền hành. Mà người chủ thật sự là Nhật, không phải là Pháp. Đến lúc nào cần thiết thì Nhật sẽ lật Pháp dễ như trở bàn tay, việc này có ngày nhất định sẽ xảy ra, vấn đề là sớm hay muộn chớ hai con chó không thể cùng chia êm một miếng mồi ngon. Chúng nó sẽ cắn nhau, một con sẽ chết. Con chết trước là thực dân Pháp. Hai kẻ thống trị sẽ còn một, hai ách sẽ chỉ còn một, mà ách thống trị còn đó cũng sẽ không kiên cố lâu dài gì bởi vì Nhật sẽ thua trong cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trong cuộc xâm lăng Trung Quốc. Nhật lật đổ Pháp sẽ không có phần trợ lực nào hết dù là gián tiếp của lực lượng ta, nhân dân ta đóng góp càng lớn thì cách mạng Việt Nam, cách mạng Đông Dương càng có điều kiện dễ thắng lợi.
Vậy không có gì phải ngán, phải bi quan với cái sự thật đáng ghét là một cổ hai tròng, một dân tộc thuộc địa mà hai đế quốc hè nhau thống trị.
Cũng do nhận định như thế mà tôi đề nghị với các đồng chí là ta không để ngang hàng thực dân Pháp với quân phiệt Nhật, ta phải xem đế quốc Nhật là kẻ thù số một mặc dù nó không ngồi ghế toàn quyền, thống sứ, thống đốc; tôi đề nghị khẩu hiệu chiến lược là “đánh đổ đế quốc Nhật, bài trừ phản động Pháp, Đông Dương độc lập muôn năm”. Khẩu hiệu này bao hàm ý nghĩa rằng ta có thể cần phải lợi dụng mâu thuẫn của Pháp và Nhật, hàm ý nghĩa rằng Pháp, Nhật đều là kẻ thù của ta, mà bây giờ thì kẻ thù chính là Nhật; cũng hàm ý nghĩa rằng Nhật thế nào cũng sẽ lật đổ Pháp, rằng những người Đông Dương yêu nước trong trường hợp cụ thể và trong điều kiện nhất định có thể là đồng minh chiến đấu của phe kháng chiến Pháp chống Nhật và chống phe Decoux thân phát xít. Về sau tôi mới biết được ở ngoài Bắc, các đồng chí ta từ năm 1941,1942 đề ra khẩu hiệu “đánh Pháp, đuổi Nhật” cho đến khi nổ ra sự kiện 9 tháng 3 năm 1945, Nhật lật đổ Pháp. Như vậy là trước ngày 9 tháng 3 năm 1945 Nam, Bắc có sự khác biệt không phải đâu đó muốn khác nhau như thế nào, mà vì hệ thống Đảng chưa được khôi phục. Nhà làm sử về sau có thể đánh giá là ở Nam Bộ, và riêng ở tôi, sai đúng tới mức nào, nặng bao nhiêu nhưng trong vấn đề này, tôi muốn được thấy rõ sai lầm của tôi nếu quả đó là sai lầm về khẩu hiệu chiến lược.
Trong một lần Hội nghị Xứ uỷ ở Chợ Gạo năm đó (cuối 1943), tôi đã yêu cầu các đồng chí chú trọng đặc biệt đến nhiệm vụ – cũng mang tính chất chiến lược – đấu tranh tư tưởng chính trị chống “chủ nghĩa Pháp-Việt phục hưng” của thực dân Pháp ở Đông Dương và “chủ nghĩa Đại Đông Á” của Nhật. Vào thời điểm đó, trong khi tôi nhận định rằng trong hai kẻ thù đế quốc, đế quốc Nhật là số một, thì tôi nhận định rằng trong hai tư tưởng địch thủ, không cái nào là thứ hai, cả hai đều rất nguy hiểm; từ năm 1943 trở đi, cái chủ nghĩa Đại Đông Á có sút giảm ảnh hưởng bởi vì chiến tranh Thái Bình Dương bắt đầu chuyển sang chiều hướng bất lợi khó gỡ cho Nhật và bởi vì hơn vài năm nay đám thân Nhật coi như là “mỏi mòn trông đợi”, mất dần tin tưởng vào Nhật cho đến nỗi tướng Tòng Tỉnh chủ tịch Liên Á phải sang Sài Gòn để “trấn an”, để “lên dây cót” cho đám tay chân người bản xứ, cái xu thế của chủ nghĩa Đại Đông Á càng lâu càng mất đà, khó gỡ. Còn cái “chủ nghĩa Pháp-Việt phục hưng” cũng gọi la “chủ nghĩa Pháp-Việt đề huề mới” của phái Decoux thì với cái sức mạnh đang chuyển sang đà thắng của đồng minh Anh, Mỹ, Liên Xô, dẫn đến chỗ thực dân Pháp và đồng minh bản xứ lâu đời của chúng hy vọng một cuộc khôi phục nước Pháp, hy vọng vào hoạt động của De Gaulle và đám gaullistes ở Đông Dương. Cho nên, trên cơ sở đường lối cách mạng (mà chúng tôi tự vạch ra), cuộc đấu tranh tư tưởng chính trị chống chủ nghĩa “Pháp-Việt phục hưng” và “chủ nghĩa Đại Đông Á” được chúng tôi xem như là điều kiện cốt yếu để đẩy phong trào cách mạng tới thành công. Về sau, tôi nhận thấy rằng, trên mặt trận này, chủ trương đường lối ở Bắc và ở Nam không có khác biệt nhiều, duy ở trong Nam lực lượng thân Nhật, tiêu biểu là các giáo phái, to lớn lắm, hoạt động dữ lắm, đấu tranh với họ vừa vất vả, vừa tế nhị hết sức. Những quyển sách loại “bỏ túi” của tôi phát hành lúc đó chống “chủ nghĩa Pháp-Việt phục hưng” (hay là “chủ nghĩa Liên bang của Decoux), chống “Chủ nghĩa Đại Đông Á” của Nhật có giúp cho anh em ta tuyên truyền cách mạng, khôi phục lòng tin vào cách mạng, nhưng phải nói rằng có tác dụng quyết định trong việc khôi phục lòng tin vào cách mạng là những chiến thắng của Hồng quân Liên Xô từ Stalingrad trở đi.
Vấn đề tập hợp lực lượng
Vấn đề tập hợp lực lượng để đi tới khởi nghĩa cách mạng là vấn đề rất lớn trong việc xác định đường lối sau khi đã rõ đối tượng tính chất của cách mạng. Nói giải phóng dân tộc, giành độc lập, các thời kỳ, các tổ chức, các vị yêu nước đều nói; nhưng tới nay thì chưa ai làm được. Khởi nghĩa Yên Bái 1930, khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, đều biểu hiện ý chí giải phóng dân tộc, nhưng đều thất bại; một trong những nguyên nhân lớn của sự thất bại là đã chưa tập hợp đủ lực lượng để làm cách mạng. Nam Kỳ 1940 tập hợp được lực lượng nhiều lần hơn Yên Bái 1930, mà cả hai đều thiếu; Nam Kỳ khởi nghĩa, ngay khi nhìn ở tầm địa phương, cũng là một cuộc nổi dậy với lực lượng tập hợp còn xa mới đủ: công nhân lao động thành thị chưa nổi lên, không có binh lính nổi lên, đa số các quận huyện không có nổi lên và ngay nông dân ở các quận huyện có khởi nghĩa cũng chỉ một số ít cầm vũ khí đánh giặc Pháp. Vả chăng, trong một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, nếu chỉ có công nông binh trong tổ chức của Đảng nổi lên thì một sự tập hợp lực lượng như thế vẫn còn hẹp hay là chưa đủ rộng lớn cần thiết. Xứ uỷ chúng tôi nhận định như vậy. Nhận định như vậy, quyết không phải là “chê” các đồng chí lãnh đạo khởi nghĩa 1940, nhận thấy khuyết điểm ấy là để xác định rằng muốn khởi nghĩa thành công phải có không chỉ hàng vạn mà hàng ức triệu người nhất tề nổi lên mới được.
Từ nay cho đến khi có thời cơ khởi nghĩa, phải làm cho kỳ được những gì trong trách nhiệm tập hợp lực lượng?
– Phải chú trọng đặc biệt vào công nhân, người lao động; chú trọng vào công chức của chính quyền ở thành thị, trước hết là ở Sài Gòn đầu não; thật sự biến các xí nghiệp lớn và các công sở chính làm “thành trì của cách mạng”, giống như đặt quả bom, đặt trong bụng của địch nhân, như đóng cái đinh vào đầu của chúng; nếu quả ta tính đánh địch một đòn chết tươi thì phải đánh thẳng vào bộ não, trái tim của chúng; có thể nghĩ ngay bây giờ là ngày mai, khi nổi lên khởi nghĩa, ta sẽ chiếm các công sở Sài Gòn chủ yếu bằng lực lượng cách mạng ở trong công sở đó. Vậy từ bây giờ, ta phải dồn phân nửa sức mạnh của đảng bộ vào công tác trọng tâm này, để không bao giờ lặp lại cái dở tai hại của tháng 11 năm 1940, là nhiều nơi ở nông thôn nổi lên mà Sài Gòn thì lại yên tĩnh.
- Phải thu hút đông đảo nông dân cho bằng và nhiều hơn hồi 1930-1931, 1937-1938, đặc biệt là, ở mỗi tỉnh, ta phải tập trung nhiều cán bộ giỏi hoạt động tổ chức tuyên truyền ở các quận huyện gần châu thành của tỉnh ấy là chính chớ không phải dàn đều; cũng ra sức hoạt động tổ chức tuyên truyền ở dọc theo các đường giao thông huyết mạch. Trong toàn bộ Nam Kỳ thì nông vận phải chú trọng riêng các tỉnh xung quanh Sài Gòn, làm sống lại và mạnh hơn lên cái “vành đai đỏ” từng nổi tiếng để có ngày tiếp ứng mãnh liệt cho lực lượng khởi nghĩa của thành phố.
- Phải phát huy truyền thống binh vận và nắm cho kỳ được số lính khố xanh ở Sài Gòn, Chợ Lớn và mỗi tỉnh. Từ ngày Pháp đầu hàng Đức và dạ dạ vâng vâng trước Nhật thì công tác binh vận có nhiều cơ hội thành công hơn trước. Lênin đã làm khởi nghĩa ở Petrograd với nhiều đơn vị lục quân và hải quân của chính quyền tư bản. Năm 1940, các báo cáo về kết quả binh vận là không đúng thực tế. Chúng tôi biết rõ tầm quan trọng của binh vận, nhưng khác xa với Quốc dân đảng, chúng tôi cho rằng chỉ khi nào chúng ta tập hợp được một lực lượng công nông thật lớn thì binh lính mới mạnh dạn đứng về phe cách mạng.
– Phải đặc biệt chú trọng tập hợp lực lượng thanh niên ở thành thị và nông thôn, không phân biệt là thanh niên thuộc thành phần giai cấp nào. Nếu ví Đảng là một con người thì công nhân và thanh niên là tay mặt tay trái của con người đó. Cả Pháp lẫn Nhật, mấy năm nay đã chú trọng chinh phục thanh niên. Ta phải cản trở, đánh bại những cố gắng ấy của chúng. Mấy năm nay, cũng thấy nảy nở ra ở Sài Gòn và nhiều tỉnh một phong trào sinh viên, học sinh chưa xác định rõ được tính chất chính trị, mà điều chắc chắn nhất là Đảng ta không được để cho tụi tay chân của Pháp, của Nhật lôi kéo thanh niên; ta phải quyết tâm giành thanh niên với chúng. Nhiệm vụ này chỉ có thể hoàn thành tốt nếu Đảng ta tạo được một sức mạnh lớn công nông liên minh có khả năng “lôi kéo” các giai cấp trung gian và nếu Đảng ta có một số cán bộ đại trí thức có tiếng tăm và nhân cách. Chỗ này lâu nay là một nhược điểm lớn của Đảng, ta cần phải khắc phục nhanh chóng. Công tác này rất khó mà không thể xem nhẹ.
– Đặc điểm chính trị xã hội Nam Kỳ là có nhiều chánh đảng và giáo phái lớn; có cả chánh đảng hoạt động dưới hình thức tôn giáo. Phải điều tra kỹ tình hình đảng phái và giáo phái ở Nam kỳ, xem xét khả năng “làm đoàn” trong một số phái có đông quần chúng, phân hoá họ và cảnh tỉnh những cánh nào có thể cảnh tỉnh, đoàn kết với họ. Công tác này khó khăn và tế nhị, cần giao cho một số ít cán bộ có năng lực, có tư cách. Khi cần, ta có thể bàn đến khả năng một số ít đồng chí có năng lực, có tư cách đứng ra trợ lực, hướng dẫn cho những người yêu nước nào đó thành lập chính đảng cách mạng quốc gia, dân chủ, góp phần đấu tranh giải phóng dân tộc.
Vào năm 1943 trở đi, sau khi chiến dịch đại thắng của Hồng quân Liên Xô tại Stalingrad thì các đồng chí cộng sản nằm yên hay ẩn núp từ 1940, nay bắt đầu được vực lên về mặt tinh thần; số anh chị em đó còn nhiều; có thể và cần phải đưa họ trở lại hoạt động cách mạng với Xứ uỷ, đó là điều kiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ “tập hợp lực lượng”. Tập hợp lực lượng nhân dân tất nhiên phải bắt đầu và đi song song với tập hợp lực lượng các chiến sĩ cộng sản bị tan tác sau cuộc khởi nghĩa thất bại 1940.
Hồi cuối năm 1943 đó, khi vạch ra cho mình một đường lối cách mạng thì tôi và các bạn của tôi chưa đặt ra và bàn luận vấn đề lập “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế” mà Hội nghị Trung ương 1939 ở Bà Điểm đã đặt ra. Tôi chưa biết có nghị quyết lập Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh) của hội nghị Trung ương lần thứ VIII, năm 1941, ở Cao Bằng. Cho nên chúng tôi tổ chức Đảng và hội, để tập hợp lực lượng, y như hồi Đảng Cộng sản mới ra đời; cũng công hội, nông hội như trước chớ không phải “công nhân cứu quốc”, “nông dân cứu quốc” v.v… (sau tôi sẽ có dịp trở lại vấn đề này). Còn về việc lập “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế” thì Nghị quyết VI không nói rõ sẽ tổ chức ra sao? Gồm những ai? hoạt động cách nào? Tôi nói với các đồng chí trong cuộc họp để bàn về đường lối cách mạng và những nhiệm vụ cần kíp rằng, khi nào năm, sáu nhiệm vụ lớn (đã kể trên) được thực hiện có kết quả thì khi ấy mới có điều kiện để lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế ở Nam Kỳ; chớ bây giờ thì chưa có thể lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế được; nếu bây giờ lập mặt trận thì mới chỉ có hình thức, chớ chưa có thực tế bởi lẽ ta chỉ có Đảng ta và các tổ chức công nông thanh phụ còn yếu ớt của chúng ta, cái đó chưa phải là mặt trận. Mặt trận theo đúng ý nghĩa của nó phải là một liên minh chiến đấu theo một chương trình hành động chung giữa các chính đảng, các đoàn thể, các giai cấp, các sắc tộc, các tôn giáo, các thân sĩ tiêu biểu. Nay (1943, 1944) ta chưa có điều kiện để lập mặt trận; riêng Đảng Cộng sản và công hội, nông hội chưa thành mặt trận; liên minh công nông là cơ sở của mặt trận dân tộc thống nhất nhưng chưa trở thành tổ chức mặt trận rộng lớn mà ta hướng tới.
Vấn đề tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
Viết đến đây tôi muốn để ít thời giờ để kiểm điểm và tự kiểm điểm về vấn đề: Tại sao Nam Bộ không sớm tổ chức Việt Minh? Tại sao? Thời điểm đó tôi chưa nghe hai chữ Việt Minh. Tới tháng 7 năm 1945, tôi mới có chương trình điều lệ Việt Minh trong tay, thì làm sao hồi 1943,1944 có chủ trương theo đường lối của hội nghị Trung ương VIII được? Mà ví phỏng trước hay trong các cuộc hội nghị đại biểu ở Phú Lạc, Chợ Gạo tôi đã nắm được chương trình điều lệ Việt Minh mà chưa được giải thích thật kỹ, chắc gì tôi không “thắc mắc” về một số điểm trong đó có việc biến đổi các công hội, nông hội thành “hội công nhân cứu quốc”. Tuy vậy tôi sẽ tán thành tổ chức “Hội thanh niên cứu quốc”, “Hội văn nghệ cứu quốc”, “Hội phụ nữ cứu quốc”. Còn những tổ chức mang tính chất giai cấp của công nhân, nông dân (công hội, nông hội) thì bản chất của nó vốn đã đậm đà chất cứu quốc rồi, bản chất và nhiệm vụ của nó còn cao hơn là cứu quốc, nên tôi nghĩ rằng việc gì phải lấy một cái tên khác tiêu biểu chỉ cho cách mạng phản đế? Mặt trận Việt Minh mà chúng tôi sẽ tổ chức ở Nam Kỳ vào giữa năm 1945, sẽ bao gồm: Đảng Cộng sản, Tổng Công đoàn, Thanh niên Tiền phong, đảng Tân Dân chủ, Cánh tả đảng Quốc gia (Cư sĩ tịnh độ), Cao Đài cứu quốc, hội binh sĩ yêu nước… không giống như điều lệ Việt Minh chính thức, cho nên khi đó, một số anh em mỉa mai gọi chúng tôi là “Việt Minh mới”, gọi chúng tôi là “Việt Minh mới” là không đúng lắm, nhưng cũng không phải là không duyên cớ! Sau này tôi còn nghe nói “Việt Minh thiệt, Việt Minh giả” nữa! Phiền phức quá! Mà tránh sao được khi đồng chí ở mỗi nơi đều ra sức tự động thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển, chớ không ngồi chờ.
Tôi nhớ rằng khi ấy các đồng chí ở Nam không mấy ai quan tâm thực hiện vấn đề Mặt trận. Trái lại thì anh em quan tâm đến vấn đề khởi nghĩa giành chính quyền. Khi ấy, sở dĩ, trong lúc Xứ uỷ Đảng mới khôi phục, anh em ai nấy đều quan tâm đến vấn đề khởi nghĩa, hẳn là vì ai nấy đều không thể quên cuộc khởi nghĩa thất bại năm 1940, dưới thời kỳ của Xứ uỷ do đồng chí Tạ Uyên lãnh đạo. Phải tránh vết xe đổ, nhiều đồng chí nói. Đòn đau 1940 hãy còn thấm thía lắm; nhưng hội nghị vẫn khẳng định với Trung ương VI (1939) và luận cương chính trị (1930) rằng không thể nào giành được độc lập mà không trải qua cuộc vũ trang khởi nghĩa (lúc bấy giờ cũng được gọi là “bạo động”). Khởi nghĩa, bạo động là thuộc vào đường lối cách mạng, là bộ phận quan trọng bậc nhất của một đường lối cách mạng.
Cuối năm 1943, chúng tôi ở Nam Kỳ quan niệm như thế nào về khởi nghĩa, về “bạo động” cách mạng? Tôi đã nhiều lần ra sức thử tổng kết kinh nghiệm của cuộc khởi nghĩa 1940, rút những bài học lớn. Nay cuối năm 1943, ở các cuộc hội nghị Chợ Gạo, Phú Lạc, để “hoàn chỉnh” về cơ bản một đường lối cách mạng, ít nhất là tạm thời trong lúc chưa nối được liên lạc với Trung ương – tôi đã trình bày những ý kiến chủ đạo sau:
Thứ nhất là: ý kiến của Nghị quyết VI. Nghị quyết VI nói:
Muốn đi tới đánh đổ đế quốc, phải huy động dân chúng chống đế quốc chiến tranh, và kêu gọi lòng ái quốc chân chính, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc; phải biết gắn kết với những quyền lợi thiết thực của các tầng lớp nhân dân với quyền lợi dân tộc và kêu gọi thống nhất dân tộc. Cái tinh thần ái quốc và đòi thống nhất dân tộc, giải phóng dân tộc càng phát triển thì tinh thần phản đế càng mạnh mẽ. Mở rộng và nâng cao tinh thần dân tộc, làm cho mỗi người trong các giai cấp có ý thức về sự tồn vong của dân tộc và sự mật thiết của vận mệnh dân tộc với lợi ích cá nhân mình; đặt quyền lợi dân tộc lên trên tất cả các quyền lợi khác; thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp…
“Xoay tất cả phong trào đấu tranh lẻ tẻ vào cuộc đấu tranh chung, phản đối đế quốc chiến tranh, chống đế quốc Pháp và bè lũ, dự bị điều kiện bước tới bạo động làm cách mạng giải phóng dân tộc”.
Như vậy nghĩa là giương cao ngọn cờ dân tộc, đi tới khởi nghĩa vũ trang. Hoàn toàn không vì khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại mà chọn con đường nào khác; không có con đường nào khác để giành độc lập dân tộc ngoài con đường dẫn đến khởi nghĩa, “bạo động” cách mạng. Mọi sự tập hợp lực lượng đều nhằm vào một trận thư hùng, một cuộc khởi nghĩa vũ trang quyết thắng, không có quyền bại.
Trong cuộc chiến tranh thế giới ngày nay, đế quốc Pháp ở Đông Dương rồi sẽ bị đế quốc Nhật lật đổ. Cuộc hợp tác ma quỷ Nhật-Pháp sẽ chấm dứt không sớm thì chầy. Rồi sau đó, phát xít Nhật hùng cường sẽ bị quân Mỹ, Anh, Trung Quốc đánh bại, việc nhất định phải đến, sẽ đến, chỉ có sớm hay muộn thôi. Chúng ta tin chắc rằng không phải là Nhật đánh đổ Pháp thì tự nhiên đem lại độc lập cho dân tộc ta và cho các dân tộc Đông Dương, cái độc lập đó cho dù có tuyên bố cũng quyết không phải là độc lập thực sự mà chỉ là hình thức thôi, giả mạo thôi; chúng ta không hề muốn cái thứ độc lập ấy. Chúng ta cũng chắc chắn rằng dù đồng minh Mỹ, Anh, Trung Quốc thắng Nhật cũng không trả lại độc lập cho dân tộc Việt Nam đâu, mà sẽ trả lại chủ quyền cho Pháp, hay nhiều nhất là họ đặt chế độ “uỷ trị” và giao lại cho Mỹ và một đế quốc nào khác. Ta phải nhận thức rõ rằng không đời nào có “bất chiến tự nhiên thành”, không có độc lập do ai ban cho mình; chỉ có độc lập do bản thân ta chinh phục mới thực sự là độc lập. Độc lập thật sự chỉ có thể giành được bằng khởi nghĩa vũ trang, bằng bạo động cách mạng. Một đường lối cách mạng phải khẳng định điều này, hoàn toàn trái với lời hứa hẹn của Nhật với các chính đảng và giáo phái theo chủ nghĩa Đại Đông Á. Cũng khác hẳn với kế hoạch “Liên bang Đông Dương” lừa bịp của Decoux.
Còn như hỏi: chừng nào mới khởi nghĩa, thì ta trả lời rằng: khi các điều kiện khách quan đã đủ, đã chín (hồi 1943,1944 chưa ai dùng chữ “chín muồi”) và khi tập hợp đủ lực lượng. Còn như lực lượng tập hợp chưa đủ, điều kiện khách quan chưa chín, mà cứ phát động khởi nghĩa, là manh động, là khởi nghĩa non, mà non thì thua. Khởi nghĩa Nam Kỳ tháng 11 năm 1940, là khởi nghĩa non, nên thất bại thấy trước.
Hôm đó, một lần nữa, tôi nêu ra cái sai lầm lớn của các đồng chí lãnh đạo khởi nghĩa Nam Kỳ. Tất nhiên tôi không trách Thường vụ Trung ương đã bị bắt gần một năm trước mà trách hai đồng chí ủy viên Trung ương còn sót (là anh Tần và anh Lưu) sao không kiên quyết ngăn cản Tạ Uyên và Xứ uỷ trên con đường bạo động non dẫn đến thất bại kia. Cuối 1940 đã không có thời cơ đủ chín cho khởi nghĩa, lại chưa có lực lượng đủ mạnh cho bạo động, mà cứ bạo động, khởi nghĩa là làm liều, nổi lên thì rất anh dũng mà thất bại thì rất lớn, không đáng có. Lần tới, ta phải làm khởi nghĩa theo khoa học và nghệ thuật Lênin, theo mẫu mực cách mạng tháng Mười Nga. Nói cho rõ hơn, tôi và các đồng chí của tôi không ưng ý với chủ trương khởi nghĩa bằng lực lượng du kích, bằng khởi nghĩa địa phương, bằng chiến lược “nông thôn bao vây thành thị”. Tôi thấy hồi 1940 Xứ uỷ Nam Kỳ chịu ảnh hưởng của Mao Trạch Đông, việc phát hành quyển “chiến tranh du kích” vào giữa năm 1940 nói rõ điều ấy. Bằng du kích làm sao mà giành chính quyền được? Phải làm khởi nghĩa cách mạng, một cuộc quyết chiến bằng bạo lực chính trị và bạo lực vũ trang kết hợp nổ ra trên đỉnh cao nhất của một phong trào quần chúng, mà địch dù thấy trước cũng không làm sao ngăn cản nổi, không làm sao trở tay kịp. Chúng tôi lại đinh ninh rằng một cuộc khởi nghĩa muốn thành công, phải là một cuộc tổng khởi nghĩa toàn quốc, không phải là một cuộc khởi nghĩa địa phương dù là một địa phương rộng lớn và có tầm chiến lược như Nam Kỳ. Có thể đoán trước rằng cuộc tổng khởi nghĩa sẽ nổ ra vào khoảng tàn cuộc của chiến tranh thế giới lần thứ hai, vào năm tháng nào khó mà đoán trước, song từ nay tới đo ta phải nỗ lực.
– Tập hợp lực lượng lớn nhất có thể được.
– Nối hệ thống tổ chức giữa Xứ uỷ với Trung ương và toàn Đảng.
Đại để, chúng tôi, Xứ uỷ Nam kỳ, vào cuối năm 1943, đã tự vạch ra một đường lối cách mạng như thế. Ngoài chúng tôi ra, lúc ấy ở Nam Kỳ không thấy có ai khác, không biết có nhóm nào khác vạch ra một đường lối cách mạng.
Ban Tuyên huấn của Xứ uỷ Nam Kỳ lập ngay kế hoạch phát hành một số sách “bỏ túi” (theo kiểu “cộng sản tùng thư” hồi 1933, 1934) để phổ biến những vấn đề thuộc đường lối mà Xứ uỷ đã vạch. Những quyển sách “bỏ túi” đầu tiên là quyển “Việt Nam trên đường độc lập”, “Rạng đông của một dân tộc” của Xuyên Vân Nhạn (tức là tôi) mà sau đó bị Trường Chinh[8] phê phán. Bộ sách bỏ túi này chú trọng công kích chủ nghĩa Đại Đông Á của Nhật và chủ nghĩa Liên bang của Decoux.
Từ cuối 1943, ở Nam Kỳ chúng tôi đã lập lại Xứ uỷ và Xứ uỷ ấy tự trang bị cho mình một đường lối chủ trương vận động cách mạng trong khi chờ đợi những chỉ thị của Trung ương Đảng. Những chỉ thị của Thường vụ Xứ uỷ cho Ban cán sự Sài Gòn trở thành một bộ phận cấu thành chủ trương đường lối của đảng bộ Nam kỳ.
Tôi trở lại Sài Gòn và từ nay tôi để gần hết tâm lực, trí lực vào hoạt động ở Sài Gòn và các tỉnh xung quanh Sài Gòn. Trên đường về lại Sài Gòn, tôi ghé thăm mẹ. Nhà tôi cách Tân Thuận Bình Chợ Gạo khoảng mười cây số. Từ năm 1941, tôi đã qua lại Chợ Gạo đến ba lần mà đều “tam quá kỳ lư bất nhập”[9].
Về thăm nhà mẹ
Chuyện lớn phải lo mà chuyện nhỏ đừng quên. Việc công là trọng, mà việc tư thỉnh thoảng cũng phải nhớ. Tôi hay nghĩ lẩn thẩn như vậy, khi ở chân trời góc biển, tôi luôn luôn nhớ đến mẹ, đến vợ, đến làng quê; nhớ lắm.
Từ lâu, 1930, tôi được liệt vào loại cán bộ mà thời ấy được người ta gọi là “thoát ly gia đình”. Khái niệm “cán bộ thoát ly gia đình” ở Việt Nam trước cách mạng cũng giống như khái niệm “cán bộ cách mạng chuyên nghiệp” (révolutionnaire professionnel) Lênin đã dùng khi Người viết sách “Làm gì?”. Lênin cho rằng, để xây dựng một đảng cách mạng nhất là trong điều kiện khủng bố trắng, phải có một loại đồng chí làm “cách mạng chuyên nghiệp” nghĩa là không làm nghề gì khác hơn là làm cách mạng, số đồng chí đó để hết thời giờ của mình vào hoạt động cách mạng. Bên Việt Nam những năm 1920, 1930 (cả hồi đầu những năm 1940 nữa) bọn tôi lấy cái ý mà không lấy cái từ của sách “Làm gì?”; nhưng trong phiên toà thực dân Pháp xử tôi năm 1935, khi quan toà hỏi: “Ông làm nghề gì?” thì tôi trả lời: “Làm cách mạng chuyên nghiệp”. Chớ không lẽ trả lời: “Tôi thoát ly gia đình”? “Thoát ly gia đình” để làm gì? Có thể là để làm cách mạng, có thể để làm bất cứ cái gì mà trong gia đình mình làm không được, không nhất thiết phải là làm cách mạng. Tuy vậy, tôi vẫn thích thú với khái niệm “thoát ly gia đình” mà anh em ta dùng thời đó, bởi vì khái niệm ấy, trong lịch sử xuất hiện của nó, đã có thời bao hàm một ý nghĩa triết lý, chính trị. Mãi đến sau chiến tranh thế giới thứ nhất, ở Việt Nam còn nhiều gia đình mang nặng tư tưởng, tình cảm, tập tục Nho giáo phong kiến; chẳng những phần lớn là các gia đình thân sĩ theo đạo Khổng, Mạnh, Trình, Chu đều theo lối xưa như thế, mà ngay cả một số gia đình trung nông, viên chức, thương nhân cũng vậy. Tuổi trẻ thường bị ràng buộc nhiều lắm bởi cương thường Nho giáo đã thâm căn từ mấy chục đời rồi. Nhưng tuổi trẻ, nhất là tuổi trẻ có ít nhiều Tây học, thấy rằng mình cần bay nhảy tự do. Thanh niên Sài Gòn đã vỗ tay hoan nghênh Nguyễn An Ninh khi anh Ninh tại một cuộc mít tinh ở Nam Kỳ Khuyến hội học năm 1923, kêu gọi thanh niên hãy đi xa, đi thật xa nhà tổ phụ để tìm lý tưởng mới, đừng lẩn quẩn lại xó bếp gia đình chật hẹp và lạc hậu. Đó là cái lý vào những năm cuối 1920, người ta gọi là “thoát ly gia đình”, ý đó có nghĩa là chống lại tàn dư tư tưởng tập quán phong kiến, đi tìm chân trời mới. Nhưng ngay cả khi anh Ninh khi ấy cũng chưa chắc đã rõ lắm cái “chân trời mới” đó là gì. Đến khi Nguyễn Ái Quốc lập Thanh niên cách mạng đồng chí hội vào năm 1925 và Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) thì cái lý tưởng cách mạng đã rõ. Khái niệm “thoát ly gia đình” ra đời với nội dung mà Lênin đề ra trong sách “Làm gì?”: Đảng cách mạng chẳng những gồm đại đa số đồng chí là những người lao động tay chân và trí óc, vừa làm ăn bình thường, cầm búa, cầm cày, cầm bút, vừa để một phần thời giờ cho công tác tuyên truyền, tổ chức, hội họp, đấu tranh; Đảng Cách mạng còn phải có một số đồng chí dành hết quỹ thời gian của mình cho hoạt động cách mạng, các đồng chí ấy thường nhất là không ở tại nhà mình nữa, mà đi xa, nhiều khi đi rất xa, từ Bắc vào Nam, từ nông thôn ra thành thị, từ phố phường hay trường học, vào đồn điền, hầm mỏ, để tuyên truyền, tổ chức, đấu tranh, in phát báo bí mật, làm bất cứ việc gì dù lớn dù nhỏ, dù an dù nguy mà Đảng cách mạng cần. Đó là những anh chị em “thoát ly gia đình”, làm “cách mạng chuyên nghiệp”. Loại cán bộ này trong Đảng Cộng sản đông tới hàng trăm. Tôi là một trong số đó.
Từ cuối năm 1930, tôi đã bắt đầu “thoát ly gia đình”, và trở thành người hoạt động “cách mạng chuyên nghiệp”.
Gia đình tôi không đến nỗi quá phong kiến lạc hậu, với tâm lý: “cha mẹ còn, con cái không nên đi xa”. Nhưng tôi vẫn phải thoát ly gia đình, trước tiên bởi vì nếu không “vào bí mật” thì không hoạt động cách mạng được, địch theo dõi sát quá và sẽ bắt giam tôi, bắt luôn cả những ai đi lại với tôi. Thú thật, nếu Đảng Cộng sản được quy chế hợp pháp hay nửa hợp pháp, tôi sẽ thích làm người “cách mạng chuyên nghiệp” mà không “thoát ly gia đình”. Hết ngày công tác tuyên truyền, huấn luyện, tổ chức, hết đợt hoạt động náo nhiệt và căng thẳng thì về nhà tìm yên tĩnh âu yếm với cha mẹ, vợ con, chẳng hơn là đất khách quê người, ăn trong bếp, ngủ dưới đất, nghe chó sủa đã phải đề phòng hay sao? Nhưng “thời thế thế, thế thì phải thế”. Từ cuối 1930 đến nay (hết 1943), tôi chỉ được sum họp với gia đình trước sau ba lần, cộng lại chừng hơn ba tháng. Cha tôi chết; con tôi chết; mẹ tôi già, tựa cửa trông tôi. Vợ tôi hiu quạnh, nước mắt ướt gối. Tôi nhớ nhà lắm chớ! Tim tôi đâu phải bằng đá? Vượt ngục Tà Lài từ đầu năm 1941, đến giờ hơn hai năm, gần ba năm, tôi chưa lén được về nhà lần nào. Chị tôi, vợ tôi có bí mật đi thăm tôi. Nhưng má tôi chỉ biết rằng tôi còn sống, mạnh giỏi, đang hoạt động cách mạng. Nay, nhân một chuyến đi họp ở Mỹ Tho, thấy tình hình cho phép. Tôi tạt qua nhà thăm mẹ. Tôi thèm hôn mẹ tôi và thèm được mẹ tôi xoa đầu như hồi còn nhỏ.
Thuở tôi còn học trường Tầm Vu, nhà tôi đông người lắm; tứ đại đồng đường: cha mẹ tôi, anh chị tôi, cháu gọi tôi bằng cậu, chú và con của con đầu lòng anh Năm tôi, chưa kể hai anh ở mùa, cầm cày, đập lúa, chăn trâu. Nhưng rồi dần dà, anh Năm, anh Bảy, anh Mười tôi ra riêng, mỗi người trấn một dãy ruộng; tới phiên chị Chín tôi cất nhà ở trong vườn. Vợ tôi vì không có chồng ở nhà nên về bên xã Phú Ngãi Trị với cha mẹ ruột, mấy tháng mới vô thăm tía má tôi một lần, mỗi lần tía má tôi được con dâu về thăm thì hai cụ như sống lại, ít hôm sau gạt nước mắt đưa con dâu ra cửa ngõ, trông theo mà càng buồn. Rồi tía tôi chết. Mẹ tôi còn chỉ có một mình. May có đứa cháu gái goá bụa về ở cùng tại nhà dưới. Nhà tôi bây giờ giống như một ngôi chùa không tượng Phật, chỉ có hai bà vãi tối tối đốt nhang, đánh chuông. Cả ngày cả đêm hầu như không có tiếng động nếu không có con Vện già sủa trăng hay điểm khách qua đường ngoài cửa ngõ. Hiu quạnh lắm. Buồn bã lắm. Bà con hàng xóm có người nói: “Tại chú Út đi đâu mất mới ra cảnh này”. Người khác bảo: “Ruộng vườn, nhà cửa, vợ trẻ, có gì cột được chân ông ấy đâu; làm trai phải vậy chớ sao? Nước mất mà nhà an thì cũng hiếm”. Ruộng nhà bị bán đi lần lần, không còn mấy, trừ ruộng hương hoả; nhưng nợ nần cũng được trang trải hết. Bồ lúa nhỏ đi mà vẫn đầy. Túi tiền cạn mà không khổ. Má tôi, chị tôi, cháu tôi đã sống được lại còn có thể chu cấp cho tôi sống mà công tác. Vợ tôi tần tảo, nuôi heo, chà gạo, làm tá điền cho ông Cụ, ăn chung mà làm riêng nên dư dả, không ai dám khinh miệt, đạo đức gương mẫu, dân làng kính nể, trong quê ngoài chợ ít ai bảo con trai bắt chước chú Mười vì gian lao quá, nhưng rất nhiều phụ huynh dạy con gái hãy theo gương cô Sáu, một tấm gương chung thuỷ vì nghĩa như Kiều Nguyệt Nga.
Trần Văn Giàu và gia đình thời còn trẻ
(ảnh tư liệu Trầm Hương)
Khi mặt trời sắp lặn thì tôi đã băng đồng, từ kinh Chợ Gạo đi qua chợ Ông Văn, tránh lộ dây thép, tránh cả lộ me, không sợ lính xét giấy thuế thân, chỉ sợ gặp người quen. Trong mình tôi có thẻ thuế thân, trong túi cũng lắm tiền, lưng quần lận một cây súng lục đầy đạn, vai vác một cây đòn xóc có lủng lẳng một đôi dép, đầu đội nón lá, chân đi đất, quần áo xềnh xoàng như nông dân đi đồng. Ma nào mà biết rằng tôi là ông Giàu đi về thăm nhà? Vợ anh Hiển, người chợ Ông Văn, báo cáo cho tôi tình hình tuần tra ban đêm của lính đồn Ông Văn: “Chẳng có gì đáng lo, tụi lính đi kiếm ăn ở những sòng cờ bạc. Theo báo cáo mới nhất thì từ hơn một năm nay, làng lính không còn chú ý đến nhà tôi nữa vì đã chú ý nhiều năm mà chẳng thấy gì”.
Trời nhá nhem thì tôi đã qua khỏi chợ. Trở ngại xem như không còn. Cầu Đồn bây giờ không có đồn. Qua cầu rồi thì tới làng tôi; nhà tôi ở đầu kia làng, phải mất một giờ nữa mới tới. Vào thời điểm này, đồng đã khô vì lúa đã gặt xong. Tôi đi tắt, vừa để rút ngắn quãng đường, vừa để tránh gặp người. Thời đó, không ai ăn trộm lúa vì lúa quá rẻ, bán không được, chỉ có Pháp thu mua để cung cấp cho quân Nhật và để thay thế cho than đá đốt lò nhà đèn Chợ Quán Sài Gòn; tôi không gặp một ai trên đường đi. Gần tới vuông tre nhà tôi, tôi ngồi xuống để xem động tĩnh ra sao, trước hết để nhìn rõ mộ cha tôi; tôi mặc niệm hồi lâu. Cha tôi chết khi tôi còn bị đày ra đảo Côn Lôn. Chị Chín tôi có lần kể lại rằng trước khi tắt thở, cha tôi dốc tàn lực, vịn cột nhà đứng dậy, lần theo vách, vừa đi vừa kêu: “Ký ơi! Ký ơi! Con ở đâu không về với tía”. (Ký là tên tôi hồi tôi chưa đi học). Người nhà bà con ai cũng mủi lòng, dắt cha tôi trở lại giường. Như vậy là cái hình ảnh cuối cùng trong tâm trí cha tôi là đứa con bất hiếu này! Tôi nguyện lấy trung với nước mà làm hiếu với cha; chớ làm sao khác được? Nhớ lại lần tôi bị trục xuất từ Pháp về và hai lần tôi bị Pháp bắt bỏ tù về, cha tôi không hề rầy la tôi sao không lo công danh, sao không lo vợ con. Cha tôi không tham gia chiến đấu chống Pháp như ông nội tôi, nhưng Cụ dù có ruộng vườn cũng không hề ra làm hương chức. Cụ chỉ làm ông “tiên bái” lo việc cúng tế thuần làng; con trai lớn của Cụ là anh Năm tôi thì tham gia nghĩa quân Thiên địa hội năm 1916, Cụ không ngăn cản.
Ở quê, chín giờ tối đã khuya. Xóm làng ngủ hết. Đường không còn ai. Quan sát hồi lâu tôi không thấy động tĩnh gì, bèn vo quần bước xuống một cái cống đào tự bao giờ, tôi lớn lên đã thấy nó rồi; cái cống xẻ ngang bờ tre, cho nước sông lên, cho nước đồng xuống. Phải vạch ô rô để vào mương, leo lên tiếp mới vào nhà chị tôi ở góc vườn. Tôi vừa leo lên bờ thì, bất ngờ, một con vật gì lủi tôi: con chó; nó định sủa, nhưng rồi nó nín thinh, nó ngửi được mùi tôi, rồi liếm tay và vẫy đuôi lia lịa, kêu hự hự, mừng quýnh. Té ra con Vện già! Tôi rờ đầu nó, nó đứng lên ôm eo ếch tôi. Hồi tôi từ Khám Lớn về nhà cách đây ba năm, ngày nào tôi cũng cho Vện ăn ngon, vuốt ve nó, nói chuyện với nó. Nó mến tôi lắm. Tối, nó ngủ dưới chân tôi, tôi trải manh đệm cho nó nằm. Có một buổi tối nọ, mật thám Tây, phủ Hoài và cả phủ Mai dắt lính đến nhà bắt tôi thì Vện sủa dữ, bị thằng cò đá một đá, nó la hoẳng, chạy trốn dưới sàn, nhưng nó dám đưa tôi ra tới cổng. Bây giờ nó còn nhớ hơi tôi! Như vậy là Vện đã hay tôi về khi tôi còn lội dưới mương. Nếu nó sủa ầm lên thì cũng sanh rầy: hàng xóm, mấy ông già chưa ngủ, sẽ đoán rằng bà Bái có khách khuya. Con Vện dường như cũng biết giữ bí mật cho chủ nó. Khôn thật! Chị Chín tôi còn thức. Linh tính khiến chị ngó qua vách, hỏi khẽ: “Em đó hả?”. Tôi khẽ lên tiếng “Em đây!”.
Trong nhà chị tôi chỉ có một cây đèn dầu leo lét trên bàn thờ Phật, ngọn chỉ bằng hột bắp, chiếu sáng lờ mờ một khoảng bằng cái cơi trầu. Chị tôi mở cửa sau rước tôi vào nhà. Hai cháu gái mừng cậu trong bóng tối, khóc thút thít. Con Vện liếm chân tôi một hồi rồi ra nằm ngoài sân, như để canh chừng.
Ông bà Trần Văn Giàu những năm cuối đời
(ở nhà riêng, 70 Phạm Ngọc Thạch, Sài Gòn)
Chị Chín tôi cực khổ với tôi lắm. Hồi tôi còn đi học ở trường Tầm Vu, chị tôi phải dậy sớm nấu cơm, rang vài bát cho tôi ăn liền, còn vài ba bát nữa thì tôi đem theo trong một cái giạ nhỏ xíu xinh xinh với mấy con tép hay một khứa cá kho khô. Khi tôi bị tù rạc thì chị Chín tôi đi thăm. Tôi trốn ở Nam Trung Kỳ thì chị Chín lặn lội đem tiền ra cho tôi. Chưa kể hằng đêm chị tôi tụng kinh cầu Phật phù hộ em. Bây giờ chị kể hết việc nhà, từ khi tôi trốn khỏi căng Tà Lài tới nay; chị nói: “đám lính rình rập mãi năm, sáu tháng rồi thôi, em có thể ở nhà mấy bữa mà không hề gì”.
Trong lúc tôi bắc ghế trên phản với lên mái nhà cắt năm ruột lạt cột lá dừa (đề phòng có biến sẽ đu lên nóc) thì hai cháu Ba, Tư lên nhà thờ rước bà ngoại xuống nhà tụi nó, nói rằng có ông thầy chùa ở chợ Ông Văn sang thăm và lạc quyên để sửa tượng Phật. Má tôi vô nhà chị tôi rồi mới hay rằng ông thầy chùa đó là tôi. Mẹ con ôm hôn nhau, mừng mừng tủi tủi. Mẹ tôi hôn tôi khắp mặt, cổ, tay, hôn tới đâu nước mắt cụ thấm ướt tới đó. Trong đêm tối, tôi cảm thấy má tôi già thêm nhiều so với ba năm trước. Làm da má nhăn sâu hơn, cái răng cửa hồi đó còn, bây giờ rụng mất rồi; lưng má tôi còng hơn. Má tôi năm nay ngót 80 tuổi. Bà kể lại rằng hôm cò Tây tới bắt tôi, má tôi tưởng đâu Pháp bắt tôi đem đi bắn bởi vì chiến tranh đã nổ ra rồi. Má tôi còn kể lại rằng, sau khi tôi bị bắt, sáng sớm má tôi rải lúa cho bầy gà bầy vịt để dành cho tôi thì má tôi khóc hết nước mắt. Má tôi cũng kể lại rằng, khi tôi vượt ngục Tà Lài, đám quan chức trong làng báo tin tôi đã bị dân thiểu số bắt lại, chặt đầu đem nộp cho Tây lấy thưởng bằng gạo, bằng muối. Nghe tin sét đánh đó, mấy lần má tôi chết ngất. Mãi đến khi chị Chín tôi ra Nha Trang gặp tôi rồi về nói cho má tôi biết thì má tôi mới tin chắc là tôi còn sống. Má tôi cưng tôi nhất nhà, bởi vì tôi là con út, là đứa có trách nhiệm nuôi cha mẹ lúc già và giỗ cha mẹ khi mất; nhưng bao nhiêu hy vọng của cha mẹ gởi vào tôi đều chẳng được chút gì. Cha tôi chết khi tôi còn ở tù. Không biết rồi khi má tôi theo cha đi, tôi sẽ có mặt ở nhà không? Hay lại cũng nơi chân trời góc biển?
Cả má và chị Chín đều bảo tôi ở lại chơi một vài ngày, để có thời giờ cho các cháu đi Phú Ngãi Trị rước vợ tôi về An Lục Long. Tôi cũng muốn như vậy lắm. Song, làm sao tính cho hết sự bất ngờ? Rủi ro có bề gì thì đã thiệt mạng mình mà mình lại đắc tội với dân tộc, với Đảng. Nên tôi quyết định là quá canh ba tôi sẽ lên đường; mục đích về thăm mẹ đã đạt rồi. Vài hôm nữa, tôi phải có mặt ở một địa điểm thuộc tỉnh Chợ Lớn (Phú Lạc), hay một địa điểm thuộc Gò Vấp (Hàng Điệp, Bào Lăng, Gia Định) để họp với Ban cán sự thành Sài Gòn mở rộng. Đứng vững trên căn cứ nơi ngoại thành Sài Gòn, tôi sẽ có dịp nhắn vợ tôi lên, không muộn.
Gà gáy mấy chập. Trăng sắp mọc.
Tôi ôm hôn mẹ, chị, hai cháu, rồi gạt nước mắt ra đi, không quên vuốt đầu vỗ lưng con Vện và để nó hít tay tôi, nó vừa hít vừa ngoáy đuôi lia lịa. Tôi lại vo quần, xuống mương, ra bằng ngõ đã vào. Đứng yên trong bụi một lúc, không thấy động tĩnh gì, tôi thong thả lên đường, chốc chốc ngoái lại mộ cha, nhà mẹ, rặng tre thân thiết nơi đã chứng kiến tôi được sinh ra, lớn lên và vào đời chiến sĩ. Tôi nào ngờ gặp mẹ lần này là lần cuối. Tháng Tám năm 1945, cách mạng thành công, tôi chưa kịp thu xếp một ngày về quê thăm mẹ, thì kháng chiến chống Pháp nổ ra; việc lớn này chưa làm lại xảy ra việc lớn hơn. Má tôi mất năm 1950, khi tôi đang từ mặt trận Đăngrêch (Campuchia) về ở Việt Bắc. Tôi ân hận mãi không được gặp lại mẹ tôi ban ngày ban mặt hay dưới ánh sáng đèn điện để ghi lại trong đáy mắt chân dung người mang nặng đẻ đau sinh ra đứa con bất hiếu này.
(Còn tiếp Phần thứ Ba)
Chú thích của người biên tập:
1 Miền Trung Nam Bộ, miền Tây Nam Bộ, miền Đông Nam Bộ.
2 Trung ương: Năm 1943, Trường Chinh là quyền tổng bí thư, hai ủy viên ban thường vụ khác là Hoàng Văn Thụ (bí thư xứ ủy Bắc Kì, bị bắt tháng 8.1943, bị Pháp xử bắn tháng 5.1944) và Hoàng Quốc Việt. Người tiền nhiệm của Trường Chinh, Nguyễn Văn Cừ, đã chủ trì Hội nghị Trung ương tháng 11.1939 ở Bà Điểm (Nam Kì), sau đó bị bắt cùng với nhiều người khác (như Lê Duẩn). Hội nghị Trung ương tháng 11.1940 họp ở Đình Bảng (Bắc Kì) cử Trường Chinh làm quyền tổng bí thư. Phan Đăng Lưu trở về miền Nam phổ biến quyết định hoãn cuộc khởi nghĩa mà chính ông và xứ ủy Nam Kì đã quyết định mấy tháng trước đó: quá muộn. Cuộc khởi nghĩa Nam Kì (23.11.1940) bị dìm trong biển máu. Phan Đăng Lưu và hầu hết lãnh đạo ở Nam Kì bị bắt, nhiều người bị xử tử. Nguyễn Ái Quốc đặt chân tới Pắc Bó (tháng 1.1941) sau 30 năm bôn ba, vào đúng điểm mà tổ chức cách mạng do ông thành lập 11 năm trước đó bị đàn áp nặng nề, hầu hết những người lãnh đạo bị thực dân bắt giam hoặc thủ tiêu. Trong cái rủi cũng có cái may, có thể nói hai lần may. Một là cũng với sự tiêu vong của ban lãnh đạo 1930-1940, là thất bại của đường lối tả khuynh, giáo điều mà họ đã áp dụng theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản – nhân danh đường lối ấy, Nguyễn Ái Quốc đã bị phê phán nặng nề và vô hiệu hóa, ngay sau khi thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 2.1930), và nhất là trong những năm 1934-1938. Hai là, ở Liên Xô, Stalin rối bời trước cuộc tấn công của Hitler, Hồng quân thua đậm trong thời kì đầu (tổng tư lệnh và phần lớn bộ chỉ huy Hồng quân đã bị Stalin tàn sát từ cuối thập niên 1930); ở Trung Quốc, thì Mao và lãnh đạo ĐCS Trung Quốc còn ẩn náu mãi tận Diên An; Nguyễn Ái Quốc không còn bận tâm vì các đồng chí của mình, có thể vạch ra và theo đuổi đường lối giải phóng dân tộc đã từng bị lên án. Tất nhiên, thực hiện chính sách Mặt trận Việt Minh không dễ dàng khi đất nước còn nằm dưới ách thống thị của bộ máy thực dân Pháp theo Pétain và bộ máy quân phiệt Nhật Bản, hàng ngũ ĐCS bị đàn áp nặng nề, liên lạc với các xứ ủy Trung Kì và Nam Kì dường như bị cắt đứt trong mấy năm. Tình trạng phân hóa khá phổ biến: như ta sẽ thấy, Nam Kì sẽ có hai xứ ủy; ở Trung Kì, có tỉnh có tới ba tỉnh ủy bất đồng với nhau (xem David G. Marr: Vietnam 1945 / The Quest for Power, University of California Press, 1995).
3 Xuyên Vân Nhạn: con chim nhạn bay xuyên qua mây mù.
4 Kinh cung chi điểu: con chim đã bị tên bắn rồi thì trông thấy cành cong cũng kinh hãi (tưởng là cung).
5 Hội nghị Trung ương lần thứ VIII: họp từ ngày 10 đến 19.5.1941 tại Pắc Bó (Cao Bằng), chấp nhận sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh: “ Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Đó là nhiệm vụ của Đảng ta trong vấn đề dân tộc ”; “Đế quốc Pháp - Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày, mà chúng nó áp bức bóc lột cả các dân tộc không chừa một hạng nào. Dẫu là anh tư bản, anh địa chủ, một anh thợ hay một anh dân cày đều cảm thấy cái ách nặng nề của đế quốc là không thể nào sống được. Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào bằng”. Quan niệm, tầm nhìn, ngôn ngữ khác xa quan niệm “trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” của những Trần Phú, Hà Huy Tập…
6 Năm Đông: Dương Quang Đông, tức Dương Văn Phúc (1902-2003). Ông Năm Đông là nhà cách mạng lão thành đã tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí hội của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sớm hoạt động trong Công hội Đỏ của cụ Tôn Đức Thắng. Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nam Kì. Trong thời kháng Pháp, ông là Phó phòng Hàng hải Nam Bộ, phụ trách văn phòng thường trực của ta ở thủ đô Xiêm quốc, Bangkok. Ông đóng vai doanh thương có cửa hàng xuất nhập cảng lớn tại thủ đô Bangkok, mua sắm tàu biển chở súng đạn, hóa chất, máy móc về nước đánh Tây. Trong cuộc sống đầy gian nguy giữa hàng ngũ mật vụ Pháp bố trí dày đặc ở Xiêm, dưới cái tên Xiêm là Nai Chran ông vẫn bình tĩnh làm tròn sứ mạng của mình cho tới ngày bị phe đảo chính bắt. Xem tiểu sử đầy đủ trong cuốn Dương Quang Đông xuyên Tây của Nguyên Hùng (sách đã dẫn). Những năm cuối đời, tuy tuổi cao, ông vẫn lên tiếng chống tiêu cực và sự lưu manh hóa hàng ngũ đảng (như tố cáo sự gian trá của tướng Lê Đức Anh).
7 Tức Nguyễn Văn Trân: xem chú thích ở các phần (I) và (IV).
8 Chúng tôi chưa tìm ra được những tập sách bỏ túi này cũng như những lời phê phán của Trường Chinh. Rất mong được bạn đọc giúp đỡ.
9 Tam quá kỳ lư bất nhập: ba lần đi qua ngôi nhà nhỏ đó mà không ghé vào.
Về lại Sài Gòn: Chỉ thị của Xứ ủy cho Ban cán sự thành
Về Sài Gòn lần này, lần cuối năm 1943, tôi đi thẳng lên Gò Vấp. Gò Vấp là một quận ngoại ô kế cận của Sài Gòn. Trong ý thức của tôi, Gò Vấp của Sài Gòn là Saint-Denis của Paris; sát với Paris, thị xã Saint-Denis nổi tiếng là thị xã “đỏ”, ở đây Đảng Cộng sản luôn luôn toàn thắng trong các lần bầu cử hội đồng thị xã. Đa số nhân dân Gò Vấp có cảm tình với Đảng Cộng sản Đông Dương, không phải mới đây thôi mà từ 1930 kìa. Những năm 1933, 1934, 1935, khi Xứ uỷ Nam Kỳ lập lại và hoạt động, thì vùng Xóm Thuốc - Bào Lăng - Hàng Điệp từng là căn cứ, là một nơi an toàn của Xứ uỷ chúng tôi. Năm 1942, khi tôi từ Đà Lạt về Phú Lạc, tôi đã nhờ Bảy Trân lên Gò Vấp, lại nhà Sáu Sáng để xem nơi đó còn là nơi an toàn không? Kỳ này về Sài Gòn, định “cắm sào” hơi lâu, thì ngoài Phú Lạc, tôi chọn Gò Vấp làm một nơi căn cứ, căn cứ thứ hai, căn cứ thứ ba sẽ là Chợ Đệm sau khi tôi gặp Bảy Trân.
Xóm Thuốc, Bào Lăng, Hàng Điệp là một vùng tiểu công nghiệp: nhuộm vải, sắc thuốc. Đa số dân làm nghề nhuộm, sắc thuốc. Ở đây gần con sông thường được gọi là sông “Miếu nổi” (có một cù lao trên đó dựng lên một cái miễu không biết từ bao giờ, tiếng đồn linh thiêng lắm), dưới sông này có một thứ bùn gì mà, hễ vải dệt xong, đem chôn dưới bùn đó một thời gian, vải trắng trở thành vải đen, đem vải phơi ở miếng đất trống xung quanh cái đồn Tây bỏ hoang gần đó khô rồi cuốn lại thành cây vải, đem về đập nện mấy ngày thì vải trở nên láng lẫy. Tiếng vồ đập vải cộp cộp cả ngày đêm, tháng này qua tháng nọ. Vùng này lại là vùng trồng thứ thuốc lá ngon nhất Nam Kỳ, thuốc Gò Vấp, hút say mê tơi; tới mùa thì cây thuốc đầy đồng bao nhiêu chục, có khi cả trăm mẫu, cao lút đầu người. Họp hội nghị trong đám ruộng thuốc lá thì có trời mới phát hiện nổi và có trời mới vây bắt được. Dân chúng ở cái vùng ngoại ô này làm nghề nhuộm, nghề sản xuất thuốc lá, rồi cả ngàn người làm thợ, làm thầy trong thành phố, chiều năm giờ, sáu giờ thì cỡi xe đạp về nhà để sáng sớm lại vào thành. Các tiểu chủ xe thổ mộ, những người trồng, sắc thuốc, dệt nhuộm và công nhân lao động của vùng này đã từng đi biểu tình vào Sài Gòn nhiều lần từ những năm 1936-1937, từng tham gia tổng bãi công để ủng hộ Tạo[1], Ninh[2], Thâu[3] khi các anh này bị Thống đốc Nam Kỳ bắt giam hồi thời Mặt trận bình dân.
Trần Văn Giàu gặp F. Mitterrand tại TP. HCM trong chuyến đi thăm Việt Nam của tổng thống Pháp (1993).
François Mitterrand thua ông 5 tuổi, thuở trẻ thuộc phe hữu (thậm chí cực hữu).
Khi TVG bị giam ở Tà Lài, FM bi bắt làm tù binh ở Đức. Cả hai vượt ngục thành công.
Năm 1943, TVG làm bí thư xứ ủy Nam Kì, FM mới bắt đầu tham gia kháng chiến.
Trong số hàng trăm gia đình cảm tình cách mạng, tôi tin cậy nhất là gia đình anh Sáu Sáng, tôi đã ở đó trong những năm 1933-1935 và luôn luôn được an toàn. Những khi tôi bị bắt, căn cứ Xóm Thuốc, Bào Lăng, Hàng Điệp vẫn không hề hấn gì. Anh em nhà Sáu Sáng làm việc ở bệnh viện Đồn Đất[4] và ở tổng kho súng đạn Pyrotechnie, gần cầu Thị Nghè, Sài Gòn. Anh Sáu Sáng, trước là học sinh trung học, thạo tiếng Pháp, người cao lòng khòng, gầy nhom; chị Sáu thì lùn, giỏi bếp núc, đóng vai hậu cần và bảo vệ tin cậy được. Vợ chồng Sáu Sáng gặp lại tôi, tôi trở lại thăm vợ chồng Sáu Sáng, mừng mừng tủi tủi, chỉ có nhà văn trữ tình mới tả được nỗi lòng. Anh chị đọc báo biết tôi là tù vượt ngục mà anh chị vẫn tiếp tôi không có vẻ sợ sệt gì hết, chỉ sợ bà con hàng xóm nhận ra tôi, nên phải đề phòng kỹ lưỡng; vả lại nhà Sáu Sáng cũng trồng thuốc như xưa, vườn không rộng mà nhà đủ kín đáo; ngõ vào có một, ngõ ra thì nhiều. Được sự đồng ý của anh Sáu Sáng, tôi triệu tập ở nhà anh một cuộc hội nghị mở rộng của ban cán sự thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn. Ban cán sự lúc đó mới có ba đồng chí: anh Oanh (cũng có tên là Bạch Đằng lớn), anh Tư Chí và anh Mười Thức, cả ba là công nhân kỳ cựu của thành phố, mời thêm hai đồng chí nữa là Hảo, nguyên học sinh tốt nghiệp trường Kỹ nghệ thực hành và chú thanh niên Hoàng, cháu tôi, học sinh lớp Tú tài trường trung học Pétrus Ký. Oanh, trạc tuổi với tôi, người Bắc Ninh, làm thợ giỏi, giao thiệp rộng, siêng công tác, chỉ có một cái dở là thỉnh thoảng ghé tiệm “làm vài điếu”[5] nhưng không ghiền. Anh sống ở Chợ Cũ, đường Guynemer[6], hồi đó có thể xem là khu phố đóng giày; anh hoạt động đâu từ 1935, 1936, cũng đã sẵn sàng khởi nghĩa hồi tháng 11 năm 1940 mà giờ chót không được lệnh. Thức, rể ông hương trưởng Hoài, chồng đồng chí Mười, cũng thợ giày, cùng người Bắc, từ chiến tranh về ở Tân Thuận Bình, tôi mời anh trở lại Sài Gòn, nơi anh từng hoạt động những năm Mặt trận bình dân. Từ Chí, người Quảng Nam, làm bồi bếp cho Tây ở bót mật thám Bô-Lô, Chợ Lớn, đã dám mở còng cho Hà Huy Giáp chạy trốn, bấy lâu nay về vùng Phú Lạc mở tiệm bán cá khô không xa nhà Bảy Trân, là người trong nhóm cộng sản Phú Lạc.
Cuộc họp Ban cán sự lần này quan trọng nhiều cho công tác Đảng ở Sài Gòn vì một mặt Ban cán sự thành lập chưa đầy nửa năm, đã bắt đầu tập hợp được cả chục đảng viên “nằm chờ” từ sau 1940, mặt khác, và đây mới là điều quyết định nhất, một phương châm được vạch ra cho Thành bộ theo đó mà hoạt động. Những chỉ thị của Thường vụ Xứ ủy cho ban cán sự thành có thể được xem như một bộ phận của đường lối chung của Xứ ủy (đã được trình bày trên kia). Hãy nói lại rằng: nếu người phụ trách Sài Gòn là anh Phúc thì anh ấy đã lập Thành uỷ lâm thời rồi. Tôi tổ chức hơi khác anh Phúc một chút; tôi lập Ban cán sự để rồi sau đó xây dựng lại được một số cơ sở, một Đại hội đại biểu sẽ bầu ra Thành ủy. Hai cách làm không chắc cách nào hơn cách nào.
Thay mặt cho Xứ ủy, tôi truyền đạt và giải thích tỉ mỉ cho ban cán sự thành những điểm sau đây của một đường lối cách mạng trong thành phố một phương hướng hoạt động nhằm làm cho Sài Gòn và ngoại ô thật sự trở thành một pháo đài của chủ nghĩa cộng sản.
Thứ nhất: trong tương lai, chắc là không xa mấy, Sài Gòn sẽ phải trở thành trung tâm điểm của một phong trào đấu tranh cách mạng nổi lên khắp Nam Kỳ lục tỉnh nhằm thực hiện thành công nhiệm vụ vinh quang nhất, cũng là khó khăn nhất là khởi nghĩa vũ trang giành độc lập dân tộc. Có khởi nghĩa vũ trang mới có độc lập dân tộc; không có cách nào khác giành độc lập cho nên mọi hoạt động của chúng ta bây giờ đâu phải nhằm vào cái mục tiêu khởi nghĩa cách mạng. Và cần phải khẳng định rằng một cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ, muốn thành công, muốn tránh khỏi thất bại đau đớn như hồi 1940, thì nó phải là bộ phận không tách rời của một cuộc khởi nghĩa trên toàn quốc. Khởi nghĩa địa phương, cô độc, không thể thành công dù là ở trong một địa phương lớn như là Nam Kỳ. Một cuộc tổng khởi nghĩa, tất nhiên là cuộc tổng khởi nghĩa trên toàn quốc, chắc không thể nổ ra cùng ngày mà sẽ nổ ra chỗ trước chỗ sau, nhưng trước sau phải không cách nhau bao lâu. Kinh nghiệm khởi nghĩa tháng Mười năm 1917 ở Nga do Lênin chỉ đạo, đã cho ta biết như vậy. Xứ ta, Bắc, Trung, Nam cách bức, phương tiện liên lạc của ta còn thô sơ thì càng không có khởi nghĩa đồng thời được. Xưa nay, trên thế giới, ở nước nào cũng vậy, phong trào cách mạng phát triển bất đồng. Vấn đề lớn được đặt ra trước mắt của chúng ta là, mặc dù hậu quả những cuộc đàn áp thực dân hồi 1939, 1940, 1941 rất nghiêm trọng cho phong trào cách mạng ở Nam Kỳ, đương nhiên Nam Kỳ không được phép vắng mặt, cũng không được phép đến quá trễ trong một cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng nhất định sẽ phải nổ ra trong thời gian chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Điều đáng lo nhất là, nếu hồi đầu chiến tranh (1939, 1940), Đảng bộ Nam Kỳ có đông đảo đảng viên, đông đảo quần chúng (được Trung ương nhận xét là xứ bộ mạnh nhất nước), thì sang 1941, 1942, cơ sở của ta còn lại hết sức thưa thớt, hệ thống của chúng ta tan vỡ, quần chúng của chúng ta phần thì mất phương hướng, mất lòng tin, phần thì chưa tập hợp lại được. Sắp tới, nếu tình hình chiến tranh thế giới chuyển biến mau có lợi về phe ta (thời điểm này đã bắt đầu trông thấy rõ) thì liệu ta, ở Nam Kỳ có kịp xây dựng lại cơ sở và hệ thống Đảng, tập hợp đủ lực lượng nhân dân hợp lực với Trung, Bắc làm tổng khởi nghĩa cùng một lúc, hoặc gần cùng một lúc, hay là, đến khi có điều kiện khách quan, có thời cơ lịch sử, thì ở Nam Kỳ và ở Sài Gòn ta lại bất lực đứng nhìn thời cuộc trước những lực lượng kình địch to lớn hơn ta nhiều? Nam Kỳ mà không khởi nghĩa kịp với Bắc, Trung, thì tình hình đó sẽ gây ra vô cùng khó khăn cho cách mạng Việt Nam, cách mạng Đông Dương. Ta mà không giành được chính quyền ở Nam thì kẻ địch ngoại bang hoặc tay sai bản xứ của đế quốc sẽ giành lấy và các đế quốc sẽ dựa vào Nam Kỳ chưa làm nổi cách mạng để mà chống phá cách mạng thành công ở Bắc, Trung tựa như một trăm năm trước Pháp căn cứ vào Nam Kỳ lục tỉnh để đánh lấy Bắc Kỳ. Bởi vậy cho nên chúng ta ở Nam Kỳ phải nỗ lực “chạy đua với thời gian”, khẩn trương, không để mất thời giờ, cũng hết sức thận trọng không để tổn thất lớn về lực lượng nòng cốt – cán bộ đảng viên nay còn lại không bao nhiêu. Vấn đề lớn được đặt ra là mấy năm nay, ở Nam Kỳ, chúng ta không được biết là Trung ương Đảng còn hay không (sau khi Thường vụ bị bắt đầu 1940 ở Sài Gòn), nếu còn thì đã có những nghị quyết, chỉ thị gì? Chúng ta cho tới bây giờ chưa có liên lạc được với Đảng bộ Bắc, Trung. Đọc nghị quyết Trung ương cuối 1939, thấy ghi rằng Đảng phải “tìm cách khôi phục hệ thống Trung, Nam, Bắc”; như vậy có nghĩa là hệ thống Trung, Nam, Bắc của Đảng ngay từ chiến tranh thế giới bắt đầu đã bị trục trặc, đứt đoạn như thế nào đó chớ không đợi đến sau khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại. Cho nên để đảm bảo cho tổng khởi nghĩa sắp tới mang tính chất toàn quốc, chúng ta phải “tìm cách khôi phục hệ thống Trung, Nam, Bắc”.
Thứ hai: Trong tương lai, một cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ phải lấy thành phố Sài Gòn làm nơi quyết định sự thành bại. Chúng ta hoàn toàn không xem nhẹ nông thôn; ở đảng bộ Nam Kỳ từ những năm 1930, đã có truyền thống nông vận mạnh, truyền thống tổ chức và lãnh đạo nông dân đấu tranh. Nay ta tiếp tục truyền thống đó. Nhưng ngày nay là lúc vấn đề chuẩn bị tổng khởi nghĩa cách mạng đã được đặt ra thì chúng ta cần có ý thức rất rõ rằng đầu não của địch, yết hầu của địch tại Nam Kỳ đều tập trung ở Sài Gòn. Muốn đánh địch cho chết tươi, chết không kịp ngáp, thì phải đánh mạnh nhất vào đầu não, vào yết hầu của chúng. Ví như ta lấy được năm, mười quận, ba, bốn tỉnh mà chưa làm chủ được Sài Gòn thì cách mạng ở Nam Kỳ chưa thể xem là thắng lợi. Đốn cành mà chưa chặt bứt gốc thì cây chưa đổ. Gốc còn thì cành lá sẽ mọc lại. Chúng ta tin rằng cuộc “chạy đua với thời gian” ở Nam Kỳ sẽ kết thúc thắng lợi cho ta mặc dầu rằng nơi đây năm 1940, chúng ta đã bị địch giáng cho những đòn tối tăm mày mặt. Nhưng trong Sài Gòn hồi 1940 không có khởi nghĩa nên tổn thất của ta tương đối ít vì lực lượng không phải đã bộc lộ hết, cán bộ còn khá nhiều các hội ái hữu (làm nhiệm vụ công đoàn) cũng còn khá nhiều, có thể móc nối lại và dựa vào đó mà phát triển mau. Nội thành Sài Gòn, nhân dân, không chỉ nhân dân lao động, có truyền thống đấu tranh mạnh nhất Đông Dương, không có thành phố nào hơn, không có thành phố nào bằng. Và, đặc biệt là chung quanh Sài Gòn, ta có một “vành đai đỏ” nổi tiếng mà sức chiến đấu phối hợp với nội thành đã từng được chứng minh nhất là ở những năm 1936-1937, hay trở về trước, ở những năm 1930-1931. Ta sẽ “nắm sừng con trâu để vật ngã nó”; ta phải đánh quỵ địch ngay tại chỗ nó mạnh nhất là Sài Gòn. Giành được chính quyền ở Sài Gòn là tạo điều kiện thuận lợi để mau chóng giành chính quyền ở các tỉnh, các quận, dễ như trở bàn tay. Bởi vậy cho nên các tỉnh đảng bộ sẽ có lợi mà đóng góp cho Sài Gòn những cán bộ biết công tác thành thị. Xứ ủy Nam Kỳ sẽ tập trung nhiều trí tuệ, nhiều lực lượng về Sài Gòn, các tỉnh lân cận và ngoại ô thành phố, nhằm có ngày phải đánh một đòn quyết định, một đòn chí tử vào đầu não, vào yết hầu của địch. Khởi nghĩa sắp tới sẽ được thực hiện khác hẳn với hồi tháng 11 năm 1940.
Thứ ba: Một cuộc khởi nghĩa cách mạng muốn được thành công thì không thể làm theo kiểu Blanqui [7] ở Pháp, hoặc theo kiểu Thiên Địa Hội ở Nam Kỳ những năm 1911, 1916, hoặc theo kiểu Việt Nam Quốc dân đảng ở Bắc Kỳ năm 1930, chỉ tập trung ra trận một số chiến sĩ kiên quyết mà đồng thời chưa có phong trào đấu tranh của nhân dân lên cao đến tột đỉnh. Một cuộc khởi nghĩa cách mạng không thể là một cuộc “âm mưu”; đảng cách mạng, đảng mác-xít, đảng cộng sản tuy là đảng bí mật “bất hợp pháp” nhưng không phải là một “hội kín”. Ta sẽ làm cuộc khởi nghĩa theo những chỉ thị của chủ nghĩa Marx và Lenin; theo Marx và Lenin thì khởi nghĩa là một khoa học, một nghệ thuật, ta phải nắm chắc. Các đồng chí lãnh đạo Xứ uỷ và Thành bộ phải thuộc lòng những lời dạy của Lenin về khởi nghĩa, chớ không phải của ai khác, thì mới tránh được những sai lầm tai hại của xứ ủy năm 1940.
Cụ thể trước mắt, chúng ta ở Sài Gòn phải nỗ lực đến mức cao nhất làm cho được năm công tác lớn sau đây:
Một là: Xây dựng lại cơ sở và hệ thống Thành bộ Sài Gòn của Đảng cho hoàn chỉnh, cho vững chắc, nhanh chóng, đủ số lượng tối thiểu cho việc thực hiện quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân trong cái thành phố lớn nhất Đông Dương (với số dân non già 800.000 người) và trong đó có nhiều đảng phái chính trị và nhiều tổ chức tôn giáo có lực lượng lớn và ảnh hưởng sâu. Vực dậy các đồng chí ẩn náu, đưa thêm đồng chí ở các tỉnh lên.
Hai là: Mạnh dạn thâm nhập vào đội ngũ công nhân, đi vào xí nghiệp, thu phục đa số giai cấp công nhân, khắc phục cho kỳ được cái nhược điểm lớn từ trước tới nay của ta là mạnh ở công nhân lao động lẻ tẻ, ở khu phố và xí nghiệp nhỏ mà yếu ở công nhân lao động tập trung, ở các công sở và tư sở. Nói đi vào công nhân lao động cũng là nói đi vào tầng lớp công chức và tư chức (tầng lớp các “thầy”). Ở Sài Gòn lâu nay hai chữ thầy thợ, đi liền nhau. Xem trọng thợ mà không được xem nhẹ thầy. “Biến các công sở và tư sở thành pháo đài của chủ nghĩa cộng sản” điều này ta nói mãi mà từ khi lập đảng tới nay, ít nhất là ở Sài Gòn ta chưa làm được; bây giờ, để đi đến tổng khởi nghĩa thì điều chủ yếu là phải khởi nghĩa thành công ở Sài Gòn trước hết; Sài Gòn khởi nghĩa phải thành công thì khởi nghĩa mới thành công ở khắp Nam Kỳ. Muốn được như vậy phải tổ chức công đoàn và nhiều hội biến tướng như hồi thời kỳ Mặt trận dân chủ; ta phải chú trọng đặc biệt vào việc cấp tốc đào tạo cán bộ công đoàn, có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu nhảy vọt một khi tình thế cách mạng xảy ra. Tình thế cách mạng sẽ xảy ra, nếu ta không có đủ cán bộ thì không lãnh đạo nổi quần chúng, quần chúng không được lãnh đạo thì đã không thành sức mạnh thật sự mà lại còn có thể bị đảng này, phái nọ lôi kéo đi vào hướng sai lệch nguy hiểm. Hãy nhớ rằng một thời, phái La Lutte tờ-rốt-kýt có ảnh hưởng trong một số không nhỏ công nhân viên chức Sài Gòn. Ta phải làm thế nào để cho đa số, cho tất cả công nhân viên chức nhất trí đứng dưới cờ lãnh đạo của Đảng cộng sản để cho ta có thể chiếm lấy các cơ quan của địch chủ yếu bằng lực lượng của công nhân viên chức trong các cơ quan đó, chớ không phải chủ yếu bằng dân làng được đưa lên “ém” trước trong nội thành như kế hoạch hồi 1940, lực lượng nông dân quanh thành sẽ hỗ trợ đắc lực cho nội thành là khi nào bản thân dân nội thành là chủ lực.
Ba là: Chú trọng vận động thanh niên thành phố. Ở thành phố Sài Gòn, nếu công nhân được xem là tay mặt của đảng thì thanh niên phải được xem là tay trái. Ở đây, nói thanh niên là chẳng những nói thanh niên lao động, mà còn nói cả thanh niên học sinh, sinh viên, tiểu tư sản, trí thức nữa. Họ là tầng lớp tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, có nhiều khả năng đấu tranh cho cách mạng giải phóng dân tộc, dám hy sinh, nếu ta biết đem lại cho họ một lý tưởng cách mạng tốt đẹp và khoa học. Ở Sài Gòn, lâu nay, người ta thấy thanh niên học sinh và sinh viên từ Hà Nội về nghỉ hè sáng tạo nhiều hình thức hoạt động yêu nước đáng được khuyến khích như diễn những vở kịch lịch sử dân tộc, hát những bài hát yêu nước hùng tráng, cắm trại hè rầm rộ ở Thủ Đức, họ không theo phong trào của “Tổng ủy Thể dục và thanh niên”[8] của chính quyền thực dân Pháp. Triệu chứng rất tốt. Ta có thể tìm cách chuyển về hướng cách mạng các phong trào đang phát triển đó. Nếu ta không làm được công việc quan trọng này thì sẽ có những chính đảng tư sản, hay tiểu tư sản, hay Trốt-kýt, lôi cuốn thanh niên đi chệch con đường yêu nước chân chính. Điều mà ta thấy quá rõ là cả Nhật lẫn Pháp đều ra sức hoạt động để lôi kéo thanh niên, trước hết là thanh niên có học thức. Ta phải gấp gáp tìm cho những hình thức tổ chức thích hợp và có hiệu quả (hiện tại ta chưa tìm ra) để thu hút thanh niên về phía cách mạng giải phóng dân tộc. Các cuộc xung kích chiến đấu sau này phải cậy nhiều ở thanh niên và công nhân. Tin cậy thanh niên thì cầm chắc là không thất vọng.
Bốn là: Đi vào nông dân các quận huyện, các tỉnh xung quanh Sài Gòn trong vòng ba, bốn mươi cây số. Lịch sử các cuộc khởi nghĩa 1885, 1911, 1916, 1940, rồi các cuộc tổng bãi công, tổng biểu tình trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, đều nói lên rằng nội và ngoại thành Sài Gòn, nhân dân vì được thống nhất nên rất mạnh, nội thành, ngoại thành tương tuỳ mật thiết. Vả lại, hơn nửa số công nhân viên chức Sài Gòn, Chợ Lớn có nhà cửa ở ngoại thành, sớm đi tối về; công nhân nông dân thực tế là sát cánh. Những điều ấy cho phép chúng ta thấy trước rằng một cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn sẽ phải do hàng chục vạn công nhân lao động, thanh niên và nhân dân thành phố thực hiện, những cuộc nổi dậy đó nhất thiết phải được sự yểm trợ tích cực của cả triệu nông dân ở ngoại thành và ở các tỉnh kế cận. Bởi vậy cho nên Xứ ủy và Thành ủy cần giúp sức cho hai Tỉnh đảng bộ Gia Định và Chợ Lớn xây dựng lực lượng nông dân cho vững vàng, nhanh chóng để cho việc phối hợp được thực hiện thành công tốt đẹp nhất trong những ngày tổng khởi nghĩa.
Năm là: Đi vào binh vận một cách mạnh dạn và có kế hoạch, trước hết là vận động số lính người Việt Nam trong quân đội Pháp, số này đông cả mấy vạn người. Một vạn người tay trắng là ít; một vạn người có súng đạn trong tay là lớn. Chắc rằng lực lượng chính trị nào cũng ra sức tranh thủ số binh lính đó. Nhưng cũng chắc chắn rằng số binh lính đó sẽ ngả về phía chính đảng nào có nhiều quần chúng công nông dưới cờ. Từ chiến tranh thế giới lần thứ hai, Pháp tăng nhiều số lính người Việt Nam; chúng đào tạo ra một lớp sĩ quan người Việt Nam; chúng đưa số lính các binh chủng ở Nam Kỳ lên tới 40.000 người; riêng ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định có khoảng 10.000 quân. Vài năm nay, Nhật tổ chức quân “Hai Hô” , một thứ lính thủy đánh bộ. Nhật cũng tổ chức một lực lượng bán vũ trang của Cao Đài phái Trần Quang Vinh. Trọng tâm binh vận của ta là binh đoàn bảo an lưu động Gia Định Chí Hoà (brigade mobile) và binh đoàn phụ thuộc sở Sen đầm Chợ Lớn (brigade auxiliare de la gendarmerie de Cholon). Phải làm tất cả để cho các binh đoàn đó ngả về phía cách mạng. Chúng ta chưa đủ cán bộ để làm binh vận đối với lính Pháp, lính Nhật; việc binh vận trong số lính người Việt mà thành công sẽ giải quyết được một phần vấn đề vũ trang quần chúng trong khởi nghĩa cách mạng sắp tới. Pháp đã bị Đức đánh bại, Nhật sẽ bị Mỹ, Anh, Trung Quốc đánh bại, thì việc binh vận của ta hiện nay và từ nay về sau khắc có điều kiện thuận lợi. Vấn đề còn lại là phải đưa một số cán bộ giỏi làm việc binh vận.
Đó là năm nhiệm vụ, năm phương hướng công tác chủ yếu mà tôi, nhân danh Xứ ủy đã đề ra cho ban cán sự thành Sài Gòn những ngày cuối năm 1943. Dĩ nhiên là tôi đã dành đủ thời gian để giải thích luôn đường lối cách mạng mà Xứ ủy đề ra.
Lúc này Xứ ủy ra quyết định ra báo “Tiền Phong” làm cơ quan tuyên truyền của mình. Báo Tiền Phong, cơ quan của Xứ uỷ Nam Kỳ đặc biệt chú trọng vào hai đề tài lớn trong nước: đấu tranh chống “Chủ nghĩa liên Á” ( Đại Đông Á) của Nhật và đấu tranh chống chủ nghĩa “Pháp-Việt phục hưng” của gã thực dân Pháp Decoux. Từ năm 1943 việc giải thích tình hình chiến tranh thế giới không còn khó khăn lớn như trước nữa, nhưng báo Tiền Phong cũng ra sức cung cấp cho các đồng chí những lập luận cần thiết đã nói lên rằng Liên Xô, Trung Quốc và phe Đồng minh nhất định thắng, phe Đức, Ý, Nhật nhất định thua, phe phát xít quân phiệt thua thì càng có điều kiện thuận lợi, càng mau thắng, song phải rõ, Đồng minh thắng thì không phải tự nhiên Việt Nam ta được giải phóng đâu, ta phải nỗ lực hết sức, thừa cơ để làm khởi nghĩa cách mạng, tự mình giải phóng cho mình, bằng không làm nổi cách mạng thì nước ta sẽ bị thống trị nữa dưới ách một vài trong số các nước Pháp, Anh, Trung Quốc, Mỹ.
Bước sang năm 1944, tôi gần như là túc trực ở vùng Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định thỉnh thoảng mới đi Tân An, Mỹ Tho, Bến Tre.
Đấu tranh chống “Huyền thoại Đông Dương”
(mythe de l’Indochine) của Pháp và chống
“Chủ nghĩa Đại Đông Á” của Nhật
Trong suốt năm 1942 và phần lớn năm 1943, mọi hoạt động của bọn tôi đều nhằm dựng dậy một số đồng chí còn sót lại sau khởi nghĩa 1940, đang ẩn náu, đang nằm nhà và tránh mọi công tác Đảng. Nói các đồng chí ấy là “mất tinh thần” thì không đúng lắm. Gọi họ là “Chờ xem” thì đúng hơn. Quả tình thời thế lúc ấy buộc phần lớn các đồng chí ấy “chờ xem”, chờ xem coi sau 1940 các nhà lãnh đạo Đảng rút ra những bài học gì, chẳng lẽ cứ theo dấu xe đã đổ thì theo sao được? Nhưng lãnh đạo ở miền Nam thì đã bị bắt hết rồi còn ai đâu mà rút kinh nghiệm? Còn ai đâu mà vạch đường lối? Làm cách mạng không phải ai cũng có sức và có chí tự động. Phần thì khi ấy tình hình chiến tranh thế giới đen tối quá, triển vọng cách mạng thế giới chưa sáng sủa chút nào. Vậy thì, trong hoàn cảnh đó, “nằm chờ” có một mặt ý nghĩa tích cực là bảo tồn những cán bộ đã được đào tạo từ hàng chục năm, phòng có ngày xây dựng lại sự nghiệp. Những anh Khiêm (Ung Văn Khiêm), anh Tây (Nguyễn Văn Tây), v.v… miễn là các anh ấy còn sống, thì sẽ có ngày đắc dụng hết sức. Nhưng cần phải biết rõ trong số đồng chí 1939, 1940 còn sống thì ai ở đâu, ai “rót”[9] hẳn, ai còn có thể dựng dậy, muốn dựng họ dậy thì cần giải quyết những vấn đề tư tưởng gì? Bởi vậy cho nên trong lúc đầu, vào 1942 đầu 1943, tôi để hết tâm trí làm một cuộc tuyên truyền hẹp chủ yếu là trong số đồng chí còn sống sót sau cuộc khủng bố 1939 và 1940, và ngay trong số đó cũng chỉ chọn một ít mà thôi. Không có báo, không có sách, không có hội nghị học tập. Chỉ tuyên truyền miệng, giải thích cho từng cá nhân, từ nhóm nhỏ là chính; đến không tiếng, đi không dấu, bảo đảm bí mật an toàn.
Nhưng từ khi ban cán sự Sài Gòn, miền Đông, và Xứ uỷ Nam Kỳ được thành lập lại rồi thì sự tuyên truyền cách mạng phải rộng ra để vũ trang lý luận cho đồng chí, để trong chừng mực có thể, truyền bá rộng đường lối của đảng bộ và đấu tranh chống các tư tưởng địch đang tuyên truyền lúc bấy giờ. Lúc bấy giờ tư tưởng địch, chính trị địch đang quảng bá rộn ràng nhất là “chủ nghĩa liên bang” của Decoux, còn gọi là “Huyền thoại Đông Dương” và chủ nghĩa Đại Đông Á, cũng gọi là “Liên Á” của Nhật. Cả Pháp lẫn Nhật đều dùng tất cả các phương tiện để cổ vũ cho “chủ nghĩa” của chúng bằng những nha, những hãng thông tin, bằng những đoàn thể thân Pháp, thân Nhật, và chúng tuyên truyền cổ động trên các mặt báo chí, bằng thể dục thể thao, văn hoá, nghệ thuật, giáo dục v.v… Tử giữa 1943 tụi tôi có kế hoạch tuyên truyền cách mạng ở Nam Kỳ, chủ yếu là chống chủ nghĩa Đại Đông Á và chống chủ nghĩa Pháp-Việt đề huề mới, và bằng cách đó, khẳng định đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản.
Tôi bàn với các đồng chí là phải xuất bản một loạt sách tuyên truyền “bỏ túi”, giống như lời “cộng sản tùng thơ” hồi 1933, 1934, 1935; mỗi quyển dài bằng một bài tạp chí gọn giải quyết một vấn đề. Các vấn đề nối tiếp nhau có hệ thống. Sách “bỏ túi” phải ra đều kỳ nhất có thể được, một vài tháng một lần. Có hai cái khó; thứ nhất là Văn (Kiệt) chết rồi, lúc ấy chỉ còn có một mình tôi viết được sách dù là sách “bỏ túi” để cho các đồng chí căn cứ vào đó mà có nội dung tuyên truyền thống nhất; thứ hai là, nếu hồi 1933, 1934, tôi có một cái máy Gestetner[10] của Đảng Cộng sản Pháp mua dùm, thì, bây giờ phương tiện in ấn của tôi hết sức lạc hậu: xu xoa[11]. Tụi tôi có cải tiến nghề in của chúng tôi: cắt kiếng, đổ xu xoa mấy lớp một lần nấu, mỗi tấm kiếng cho phép in hai mặt, mỗi mặt in được mấy chục trang lớn bằng giấy học sinh. Tạm được. Kế bên bộ “tùng thơ” còn có tờ báo Tiền Phong phát hành không đều kỳ để thông tin về tình hình lớn trong nước và trên thế giới. Sách tuyên truyền bỏ túi và báo Tiền Phong đều do tôi làm cả! Bao biện quá; mà làm thế nào khác được? Do “biên tập” có một mình tôi và phương tiện in ấn hết sức đơn giản, cho nên “trụ sở” biên tập lúc thì như đi theo tôi lúc ở Phú Lạc, lúc thì ở Gò Vấp, lúc thì ở Chợ Gạo. Ở mỗi “trụ sở” thì chọn một chú hay một cô học khá văn không cần hay nhưng chữ viết thì phải đẹp. Quả là tôi bao biện, bao biện thì không nên, nhưng bây giờ làm sao khác được? Các tay “bỉnh bút” còn ở trong tù.
Máy in roneo của hãng Gestetner, mẫu 1913 (quay tay)
Chống chủ nghĩa Pháp-Việt đề huề mới
Hồi 1942, 1943, cái “Huyền thoại Đông Dương” (mythe de l’Indochine), còn gọi là “Pháp-Việt đề huề mới” của Decoux, được Pháp và đám tay sai của Pháp tuyên truyền mạnh lắm. Còn lúc ấy, ở cả Việt Nam nói chung và Nam Kỳ nói riêng, cái hy vọng mà bọn thân Nhật đặt vào Nhật (lật đổ Pháp) ban đầu (1942) rất mạnh, đến sau 1943, yếu dần, suy dần cho đến đỗi chủ tịch Hội Liên Á là tướng Tòng Tỉnh phải bay sang Sài Gòn, Hà Nội để “lên dây cót” cho bè đảng người bản xứ, rồi Nhật phải gởi một số lãnh tụ tay sai (người Việt Nam, nghe đâu trong số đó có Diệm, Ân, Sâm[12]) sang lánh mặt ở Singapore. Tụi thân Pháp lên chân một chút. Thì chính trong lúc ấy tôi viết một loạt sách “bỏ túi” để công kích chủ trương chính sách “Liên bang Đông Dương” của Decoux. Mấy mũi nhọn tôi chĩa vào chính sách của Decoux là:
Thứ nhất: Cái “Liên bang Đông Dương” ngày nay của Decoux, cũng như cái “nước Pháp Á châu” (la France d’Asie) của Sarraut hồi chiến tranh thế giới thứ nhất, cũng như cái “chính sách đề huề hợp tác” (politique de collaboration) của Varenne hồi 1925 khi ảnh hưởng của cách mạng Trung Quốc dội mạnh vào Việt Nam, đều là những cách của thực dân đối phó với một tình thế khó khăn, đều là những lừa phỉnh, đều là những bánh vẽ chỉ có nghe nhãn hiệu mà chưa hề thấy đường bột, hễ khó khăn qua thì Pháp không nói tới nữa. Decoux, Varenne, Sarraut giống nhau. Mà kỳ này thì Decoux chắc sẽ không có thì giờ để mà ca ngợi lâu cái bánh vẽ của mình, chó sói Pháp sẽ bị chó sói Nhật giật mất miếng mồi ngon trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Vấn đề tư tưởng cần giải quyết ở đây là làm cho đồng chí, đồng bào không bi quan ở chỗ Việt Nam một cổ hai ách khó bề giải thoát.
Thứ nhì: cái “Liên bang Đông Dương” của Decoux đề nghị sẽ chỉ là cái “nhà tù trong nhà tù” thôi, không có gì mới. Decoux tính sẽ lập ra “năm nước”: nước Lào, nước Miên, nước Bắc Kỳ, nước Trung Kỳ, nước Nam Kỳ. “Năm nước” hợp lại thành Liên bang Đông Dương do Pháp nắm các đòn bẩy chỉ huy. Liên bang Đông Dương đó ở trong Liên hiệp Pháp; dân mỗi nước có quyền lập chế độ cộng hoà hay giữ chế độ quân chủ, có quyền nói lên lòng yêu đất nước mình nhưng có nghĩa vụ phải yêu nước Pháp là nước “cha đỡ đầu” cho Liên bang Đông Dương. Dân mỗi nước được phép tuyên dương những sự kiện lịch sử anh hùng của dân tộc mình miễn là không chống đối lại Pháp. Như vậy, Pháp vẫn giữ chính sách chia cắt Việt Nam làm ba; cái “nước Nam Kỳ” phải ở trong Liên bang Đông Dương, Liên bang phải ở trong Liên hiệp Pháp; tất cả phải trung thành với Pháp. Nhà tù ở trong tù vừa, tù vừa ở trong tù lớn. Cái “Huyền thoại Đông Dương” của Decoux chỉ là thế thôi. Rốt cuộc lại thì Decoux chỉ đề nghị là sẽ thay chữ “Đông Dương thuộc Pháp” bằng chữ “Liên bang Đông Dương”, sẽ thay những chữ “xứ thuộc địa”, “xứ bảo hộ”, bằng cái chữ “bang”, chữ “nước”; sẽ không còn “Trung Kỳ xứ bảo hộ”, “Nam Kỳ xứ thuộc địa” mà thành ra “nước Trung Kỳ”, “nước Nam Kỳ”, “nước Bắc Kỳ”, cả ba ở trong “Liên bang Đông Dương” do nước Pháp làm “cha đỡ đầu”.
Ai muốn theo thì theo! Cái bánh thời Decoux hơn là cái bánh thời Sarraut, Varenne ở chỗ nó có hình vẽ, nội việc xem hình vẽ thôi thì đã ớn rồi! Nhưng nếu không kịp thời vạch trần thực chất của chủ trương “Liên bang Đông Dương” thì chủ trương này có thể đánh lừa nhiều người, nhiều người tưởng đâu bây giờ để cạnh tranh với Nhật, Pháp chịu một số nhượng bộ nào đó cho chủ nghĩa dân tộc Việt Nam, tưởng đâu Pháp dọn đường cho một chủ trương Đông Dương tự trị sau chiến tranh.
Nếu chỉ có thế thôi thì chủ trương đường lối của Decoux sẽ không lấy gì làm nguy hiểm, không lừa dối được số đông dân. Decoux trong những năm 1942, 1943, 1944 còn làm làm nhiều chuyện mị dân có ít nhiều kết quả. Tôi chú ý đến hai việc nổi bật sau đây:
1. Pháp bỏ ra nhiều công sức, tài chính để gây nên và phát triển khá rầm rộ một phong trào thể dục, thể thao lớn thu hút nhiều vạn thanh niên và uốn nắn thanh niên theo khẩu hiệu “Thống chế Pétain muôn năm!” của chính phủ Vichy tay sai Đức Hitler. Tuyên cáo của Xứ uỷ Nam Kỳ nhận định và tuyên bố rộng rãi rằng đó là cách của Pháp chuẩn bị chiến tranh vì quyền lợi của Pháp, đó là Pháp giành thanh niên Việt Nam với Nhật. Tuy vậy, Xứ uỷ Nam Kỳ không yêu cầu thanh niên tẩy chay phong trào thể dục thể thao do Ducoroy đứng đầu. Trái lại “ở đâu có quần chúng thì Đảng Cộng sản phải có mặt”, tuy rằng khi ấy Đảng bộ Nam Kỳ còn rất yếu, chúng tôi cũng cố gắng đưa người vào trường Phan Thiết xem họ làm gì và xem ta có thể làm gì được để tranh thủ tuổi trẻ với địch. Một trong những người đó sau này là Ngô Thất Sơn, đến tháng 8 năm 1945, là cận vệ của tôi, sau làm đến cấp tá của quân đội và được tuyên dương “anh hùng”.
2. Lúc ấy, có một ngành hoạt động của bọn Decoux ở ngoài tầm tay của Xứ uỷ chúng tôi; ấy là hoạt động của chúng trên mặt trận văn hoá. Tôi thấy rằng bọn Decoux sớm nhận ra tầm quan trọng chính trị của vận động văn hoá, trước bọn tôi; trong lúc đó thì ở Nam Kỳ bọn tôi gần như mù tịt về vấn đề này, và thực tế không có chút phương tiện nào để hoạt động cả. Mắt tôi sáng ra khi thấy nhà cầm quyền thực dân dùng đến những từ “chấn hưng văn hoá dân tộc”, lập một số trường học nhằm khôi phục nghệ thuật Lào, Khmer, nghệ thuật Việt Nam. Decoux cổ vũ rất nhiều cho việc y tổ chức những giải thưởng văn học, những cuộc triển lãm nghệ thuật. Việc ấy không phải không gây nhiều ảnh hưởng có lợi cho Pháp. Decoux còn mở rộng đại học, lập thêm trường phổ thông. Ảnh hưởng ngó thấy trong các giới tư sản trí thức. Mà ở Nam Kỳ chúng tôi không có phản ứng kịp thời, chúng tôi bị động; chúng tôi chỉ biết nói rằng đó là cách thực dân Pháp xoa dịu tinh thần dân tộc đang lên trong thời cuộc chiến tranh thế giới. Mãi cho đến khi sinh viên Hà Nội về nghỉ hè ở Nam Kỳ, ở Sài Gòn với học sinh Sài Gòn lục tỉnh họp nhau lại để tổ chức diễn những vở kịch yêu nước, hát những bài hát yêu nước được đồng bào hoan nghênh nhiệt liệt, thì chúng tôi ở Sài Gòn mới sáng mắt thêm rằng văn nghệ có tác dụng chính trị lớn, rằng nếu không kịp có chính sách đối phó thì thanh niên có thể bị kẻ khác lôi kéo đi chệch đường cách mạng giải phóng dân tộc. Và bản thân tôi mới nhận ra rằng cái chính sách gọi là “chấn hưng văn hoá dân tộc” có chỗ mạnh và chỗ yếu của nó, mạnh là dưới hình thức giả vờ dân tộc, Pháp có thể lôi kéo thanh niên, có thể làm cho dân tin lầm rằng chúng không còn khắc nghiệt áp bức dân tộc như trước nữa. Nhưng đảng cách mạng, người yêu nước, có thể dùng “gậy ông đập lưng ông”, ngày nọ cũng nói chơi là “giáo Tàu đâm Chệt”, ta có thể lợi dụng cái mức chủ nghĩa dân tộc được cho phép ấy để công khai hợp pháp tuyên truyền sâu rộng cho chủ nghĩa yêu nước. (Việc này tôi sẽ có dịp nói lại khi nói tới vấn đề thanh vận và Thanh niên Tiền phong ở Sài Gòn).
Trước những ngày tàn tạ, chết yểu của “Huyền thoại Đông Dương” (le mythe de l’Indochine) của Decoux, thì De Gaulle ở Brazzaville đề nghị cho Đông Dương một thứ “tự trị sau một thời gian”. Cái bả De Gaulle và cái huyền thoại Decoux đều trở thành mảnh giấy lộn.
Vấn đề là tuyệt đối không được trông mong ở bất cứ phái nào của đế quốc dù Pháp Pétain hay Pháp De Gaulle, sẽ ban bố tự trị cho Việt Nam, cho Đông Dương. Vấn đề là phải tính toán, phải hoạt động sao cho chính quyền Pháp bị đánh đổ, các dân tộc Đông Dương, trước hết là dân tộc Việt Nam được giải phóng bằng một cuộc cách mạng nổ ra ngay trong lúc tàn cuộc chiến tranh thế giới hiện nay. Pháp vẫn cứ là đế quốc thực dân dù là tàn cuộc chiến tranh thế giới Pháp thoát khỏi ách của Đức Hitler, cái hứa hẹn “tự trị sau một thời gian” chỉ có thể là một thứ mặt nạ Pháp đeo vào để tranh giành ảnh hưởng của Nhật, để cố giữ Đông Dương dưới ách của nó.
Vấn đề là tuyệt đối không phải lựa chọn giữa Nhật và Pháp; chúng đều là đế quốc thực dân cả; không thằng nào hơn thằng nào. Mà kẻ thù số một trong thời thế bấy giờ là Pháp, đế quốc Nhật; Nhật cho Pháp sống sót một thời gian và chỉ một thời gian thôi, để làm việc hậu cần cho Nhật, để giữ an ninh cho quân Nhật trên một đất nước có truyền thống cách mạng giải phóng dân tộc. Tới ngày nào đó, trong cuộc chiến tranh, Nhật sẽ lật đổ Pháp để gạt bỏ một lưỡi gươm bên hông, điều ấy hoàn toàn sẽ không có ý nghĩa rằng Nhật giải phóng Việt Nam, mà chỉ có ý nghĩa rằng Nhật giành quyền độc chiếm Đông Dương; một sự thay thầy đổi chủ, không hơn không kém.
Chống chủ nghĩa Đại Đông Á
“Chủ nghĩa Đại Đông Á” hay là “chủ nghĩa Liên Á” của Nhật thực tế chỉ là một ngọn cờ xâm lược thực dân. Nhưng không phải ai cũng biết như thế. Và có nhiều người biết song lại cho rằng có thể “tương kế tựu kế” lợi dụng Nhật được. Tư tưởng này đã có từ đầu thế kỷ XX lận kìa chớ đâu phải bây giờ mới có.
Xe tuyên truyền cho "chủ nghĩa Đại Đông Á" của Nhật ở Sài Gòn.
Bên trái là áp-phích ca ngợi thồng chế Pétain của Pháp.
(Nguồn: J. M. Pedrazzani, La France en Indochine de Catroux à Sainteny, Flammarion).
Trong số sách của tôi viết ra hồi thời kỳ khôi phục cơ sở và hệ thống Đảng ở Nam Kỳ trong chiến tranh thế giới thứ hai, tôi xem quyển “Việt Nam trên đường độc lập” chống “chủ nghĩa Pháp-Việt đề huề mới” và quyển “Rạng đông của một dân tộc”- chống “chủ nghĩa Đại Đông Á”, chống Nhật xâm lược, là tài liệu tuyên truyền chính trị và tư tưởng có tác dụng thiết thực nhất. Hồi đó (1942, 1943), ảnh hưởng tai hại của “chủ nghĩa Đại Đông Á” ở Nam Kỳ rất lớn, có thể nói là đến mức cao nhất. Tôi nói ở Nam Kỳ là nơi tôi đang hoạt động lúc bấy giờ. Chắc là khắp Nam, Trung, Bắc không nơi nào mà bè đảng thân Nhật nhiều và mạnh như ở Nam Kỳ. Ở Nam Kỳ thì một phần số đạo Cao Đài chủ yếu là phái Cao Đài Tây Ninh mà người đứng đầu lúc này là Trần Quang Vinh, ra mặt thân Nhật; Cao Đài có vài triệu tín đồ khắp lục tỉnh. Còn Phật giáo Hoà Hảo thì phát triển rộng ở Hậu Giang, và từ khi quân Nhật đưa thầy Hoà Hảo (bị Pháp an trí ở Bạc Liêu) về Sài Gòn, ở đường Miche[13], và được sở Sen đầm Nhật bảo vệ, thì Phật giáo Hoà Hảo cũng hướng mạnh về phía Nhật. Tín đồ của Phật giáo Hoà Hảo cũng đông có tới hàng chục vạn. Ngoài ra, Nhật còn làm chỗ dựa cho phái chính trị gọi là Phục quốc do Trần Văn Ân đứng đầu, cựu chủ tịch hội nhà báo là Nguyễn Văn Sâm cũng ở trong đó. Họ suy tôn Cường Để lâu nay ở bên Nhật (tôi không rõ ông Cường Để có đồng ý hay không) và tiếng đồn khắp xứ là Nhật sẽ hạ Pháp, sẽ đem Cường Để về làm vua của nước Việt Nam được trao trả độc lập. Tất cả chúng đều đi theo cờ “chủ nghĩa Đại Đông Á” cũng gọi là “chủ nghĩa Liên Á”. Từ 1941 cho đến giữa năm 1943, quân Nhật luôn luôn chiến thắng ở tây và nam Thái Bình Dương đánh bại Mỹ, Anh, Hà Lan, thế như chẻ tre, đến đâu Nhật cũng phất cờ chủ nghĩa Đại Đông Á, khua môi múa mép rằng Nhật là người anh cả da vàng quyết tâm và có đủ sức giải phóng các nước Á châu khỏi ách các đế quốc thực dân da trắng. Ảnh hưởng lớn, rộng, không dễ gỡ.
Để làm cho đồng bào trước hết là cán bộ, đảng viên hiểu sự thật, hiểu các chính sách của Nhật, tôi viết một loạt sách tuyên truyền “bỏ túi” về những vấn đề như:
- Mấy nét về cuôc duy tân của Nhật. Nhật đã trở thành một cường quốc tư bản chủ nghĩa. Các cuộc xâm chiếm thuộc địa của Nhật hồi đầu thế kỷ XX.
- Tham vọng bá chủ của Nhật; chương trình Điền Trung (Tanaka) và sự khởi đầu thực hiện chương trình đó trong thời gian trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Nhật đánh Trung Quốc.
- “Chủ nghĩa Đại Đông Á” chỉ là kế hoạch của Nhật làm bá chủ ở châu Á, là kế hoạch chiếm lấy thị trường lớn nhất thế giới.
Tôi nhắc lại chuyện Phan Bội Châu và các chí sĩ Đông Du, hồi 1908 bị chính phủ Nhật trục xuất theo lời yêu cầu của Pháp; đế quốc Nhật, đế quốc Pháp cũng đồng một phường, khác nhau là nước Nhật và nước ta gần nhau, sớm đi tối về được, nếu Việt Nam bị Nhật thống trị thì càng khó giải phóng và khác nhau là Pháp ít dân đất rộng, còn Nhật đất hẹp người đông, nước ta về tay Nhật có thể trở thành một thuộc địa di dân, nếu ngày nào đó ở trong nước ta và ở Miên, Lào có năm mười triệu người Nhật định cư, thì khi ấy cuộc giải phóng sẽ khó khăn đến chừng nào? Tai hoạ của một chủ nghĩa Đại Đông Á thành công sẽ là tai hoạ vô biên. Sách “Rạng đông của một dân tộc” được in lại nhiều lần, quay roneo nữa.
Vào 1943 thì Nhật dẫm chân và bắt đầu thối lui ở tất cả các chiến trường, uy tín Nhật bắt đầu xuống, tướng Tòng Tỉnh, chủ tịch hội Liên Á được phái qua Sài Gòn, Hà Nội để “lên dây cót” cho đám tay sai thân Nhật, mà chỉ “lên” được một lúc nào, một phần nào thôi. Hẳn rằng chủ nghĩa Đại Đông Á mất đà từ 1943 trở đi, tất nhiên là không phải nhờ các sách tuyên truyền bỏ túi chống Nhật của tôi… Vài tuần một tập sách dày không quá 32 trang, in không quá một trăm bản làm thế nào ảnh hưởng đáng kể đến thời cuộc, nhưng hoạt động tư tưởng chính trị đó của toàn Đảng bộ Nam Kỳ ít nhất cũng nói lên được rằng, ở Nam Kỳ, Đảng Cộng sản không chết mất sau cuộc đại tàn sát 1940, mà đã hồi sinh rồi và sẽ tới ngày đứng lên phất cờ giải phóng dân tộc.
Đó, hình như cái “nghiệp” của tôi là vừa làm công tác thực tiễn vừa làm công tác tư tưởng, mà công tác tư tưởng, có những lúc là chính. Tôi nhận thấy rằng khi nào và ở đâu mà công tác tư tưởng hoặc bị xem nhẹ hoặc bị quên lửng thì không thể làm việc tổ chức và lãnh đạo đấu tranh được. Cho nên sau khi từ trại giam Tà Lài về tới Phú Lạc là tôi lo giải quyết các vấn đề tư tưởng cho các đồng chí còn sống sót sau những cuộc khủng bố trắng 1940, 1941. Cho nên, khi Xứ ủy được thành lập lại, tôi đã nghĩ đến các vấn đề tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Và để giành nhân dân với các tổ chức thân Nhật, thân Pháp tôi có ý thức dành nhiều thời giờ viết sách, mở lớp huấn luyện chính trị nhằm giải thích đường lối cách mạng, củng cố lòng tin, đả phá nguy cơ của chủ nghĩa Đại Đông Á, của chủ nghĩa Pháp – Việt phục hưng. Bọn tôi làm được việc, một phần do nỗ lực chủ quan, một người làm việc bằng năm, bằng mười, phần nữa là do tình hình thế giới từ 1943, 1944 mới thêm thuận lợi lạc quan, có “tận lực” mà trước hết là có “thời thế”. Không phải nói như thế để ra vẻ “khiêm tốn” đâu, sự thật quả như thế.
Về sau, kiểm điểm lại, tôi thấy Xứ ủy Nam Kỳ đã “dám” tự mình vạch ra một đường lối để tiến tới trong thời kỳ tiền cách mạng. Thực tế là dám nhận lãnh trách nhiệm trước lịch sử và nhìn chung, đường lối tự vạch ra đó là đúng, bằng cớ của cái đúng ấy là cách mạng tháng Tám ở Nam Bộ đã thành công gần cùng một lúc với cách mạng tháng Tám ở Bắc, Trung. Tuy vậy, truy nguyên thì không phải là cái “dám lãnh trách nhiệm” ấy nó khai đường cho chiến thắng. Khai đường mở lối cho chiến thắng là chủ trương của Lênin: rằng những người cách mạng phải ra sức thừa cơ hội chiến tranh thế giới để làm cách mạng thành công, chủ trương đó được Đảng Cộng sản Đông Dương khẳng định lại trong Luận cương chính trị 1930, và một lần nữa trong Nghị quyết Trung ương lần thứ VI cuối năm 1939, mà chủ yếu, hơn hết, là chủ nghĩa Lênin về vấn đề chiến tranh đế quốc và cách mạng vô sản mà người cộng sản nào cũng thấm nhuần ngay từ khi mới vào Đảng. Ngay từ khi gặp Đảng thì không người yêu nước nào mà không đặt câu hỏi chính, câu hỏi này được trả lời thông suốt thì người yêu nước đó mới vào Đảng. Đó là hai câu hỏi:
- Đế quốc thực dân Pháp mạnh như thế, lại có sự tương trợ của các đề quốc Anh, Hà Lan - như lời Nguyễn An Ninh đã nói nhiều lần - thì làm sao ta có thể đánh đuổi nó được?
Trả lời:
- Để quốc có lúc thịnh, lúc suy, lúc mạnh, lúc yếu; nhưng suy yếu nhất là lúc nổ ra chiến tranh giữa các đế quốc, như cuộc chiến tranh 1914-1918, khi ấy chúng như cọp bị mắc bẫy một chân, nếu ta đồng lòng nổi dậy thì ta có thể tiêu diệt được chúng và ta phải tiêu diệt chúng trong thời cơ chúng bị kẹt, bị mắc bẫy một chân đó, nhất thiết không để cho thời cơ trôi qua mà không làm việc giải phóng.
Cho nên, năm 1939, khi chiến tranh thế giới nổ ra thì các đồng chí cộng sản bất kỳ ở đâu cũng đều nói: “Thời cơ tới rồi!”. Vấn đề chỉ là: ta có đủ sức hay không? Những người đã thuộc chủ nghĩa Mác-Lênin như Văn, như tôi không có quyền ngồi chờ nghị quyết, chỉ thị cấp trên, ngồi chờ sẽ là một hình thức ta bỏ trách nhiệm trước khó khăn. Phải dám chủ động, tự vạch đường đi tới, nếu sai lệch chút ít chắc lịch sử sẽ hiểu cho mình.
Hết Phần thứ Ba
Chú thích của người biên tập:
1 Tạo: Nguyễn Văn Tạo (1908-1970), ủy viên trung ương Đảng Cộng sản Pháp, phụ trách các vấn đề thuộc địa (1929), bị trục xuất về nước cùng với Tạ Thu Thâu, Trần Văn Giàu… năm 1930 sau cuộc biểu tình ở trước phủ tổng thống Pháp, một trong những người lãnh đạo cộng sản ở Nam Bộ, cùng Dương Bạch Mai làm báo La Lutte (do Nguyễn An Ninh chủ trương) cùng với những người trốt-kít như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm…, bộ trưởng Bộ lao động trong chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946-1965).
2 Ninh: Nguyễn An Ninh (1900-1943), sang Pháp học luật năm 1918, một trong nhóm “Ngũ Long” (Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền), hợp tác với Nguyễn Ái Quốc làm báo Le Paria, về nước năm 1922, diễn thuyết kêu gọi thanh niên học hành đàng hoàng: “ Bằng cứ theo nẻo hoạn đồ, lấy việc làm quan là mục đích của việc học thì hỡi ơi! Sau này giòng giống sẽ yếu ớt, ắt có ngày kia rút vô rừng mà ở! ” (hoạn đồ, làm quan, nghĩa hiện đại là vào đảng, làm cán bộ). Từ đó đến ngày mất trong tù (14.8.1943), ông trở lại Pháp ba lần (trong những thời gian ngắn), ngồi tù bốn lần, ra báo (La cloche fêlée, La Lutte), lập đảng (Thanh niên cao vọng). Ông là người Việt Nam đầu tiên dịch Khế ước xã hội của J.-J. Rousseau và Tuyên ngôn cộng sản của K. Marx và F. Engels.
3 Thâu: Tạ Thu Thâu (1906-1945), sang Pháp năm 1927, học khoa học ở Đại học Paris, gia nhập nhóm “Đối lập phái tả” (trốt-kít). Tháng năm 1930, tổ chức cuộc biểu tình trước phủ tổng thống Pháp, phản đối đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên Bái, bị trục xuất về nước (cùng với Nguyễn Văn Tạo, Huỳnh Văn Phương…). Về nước, thành lập nhóm trốt-kít Đông Dương cộng sản (cơ quan ngôn luận là báo Vô sản), một trong ba, bốn nhóm trốt-kít ở Việt Nam (khác với các nhóm cộng sản trước năm 1930, các tổ chức trốt-kít ở Việt Nam – cũng như trên thế giới – chưa bao giờ hợp nhất được). Tuy nhiên, được sự thôi thúc của Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu và các đồng chí đã hợp tác với các đảng viên cộng sản Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, ra báo La Lutte, ứng cử (và thắng cử) trong cùng một danh sách “Sổ lao động”. Từ năm 1932 đến 1944, ông bị bắt 6 lần, kết án 6 lần (tổng cộng các bản án là 13 năm tù, 10 năm biệt xứ). Cuối năm 1944, được phóng thích từ Côn Đảo về, ông đi vận động thành lập đảng Xã hội Thợ thuyền từ nam ra bắc (theo Hồ Hữu Tường kể với D. Marr, Tạ Thu Thâu ra bắc cùng với Komatsu Kiyoshi, một nhân vật khó định vị). Nhật đầu hàng, triển vọng tổ chức ở Bắc Bộ không mấy sáng sủa, ông lên đường về nam, tháng 9-1945 ông bị bắt ở Quảng Ngãi và bị thủ tiêu tại đây. Quảng Ngãi là nơi nhiều người hoạt động chính trị đi qua đã bị bắt, có người bị giết, có người thoát chết, đủ mọi xu hướng: Lê Văn Hiến (cộng sản), Ngô Đình Diệm, Hồ Tá Khanh… Ai, cấp nào đã ra lệnh thủ tiêu Tạ Thu Thâu? Câu hỏi này chưa được trả lời dứt khoát. Một số người trốt-kít quy trách nhiệm vào Hồ Chí Minh (viện dẫn ba bức thư năm 1939 của Nguyễn Ái Quốc lên án chủ nghĩa trốt-kít) hay Trần Văn Giàu (mà người ta cho rằng có trách nhiệm trong việc thủ tiêu các lãnh tụ trốt-kít ở Nam Bộ năm 1946). Các nhà sử học có uy tín như D. Hémery, D. Marr đều cho rằng đây là trách nhiệm của một nhóm Việt Minh ở địa phương.
4 Tức là bệnh viện Grall, nay là bệnh viện Nhi đồng 2.
5 Làm vài điếu: thuốc phiện.
6 Guynemer: nay là đường Hồ Tùng Mậu.
7 Auguste Blanqui, nhà cách mạng Pháp (thế kỉ XIX), chủ trương cách mạng là bạo động của một nhóm nhỏ, rồi quần chúng sẽ “tự động” hưởng ứng.
8 Cơ quan do toàn quyền Decoux thành lập, đặt dưới quyền của “tổng ủy” Maurice Ducoroy, đại úy hải quân, chủ trương tập hợp thanh niên, chạy đua ảnh hưởng với Nhật. Ducoroy cho rằng thanh niên bản xứ, giữa hai con đường “Nhật hoàng, chúng con đây” và “Thống chế (Pétain), chúng con đó” (!), nhất thiết phải chọn một. Thanh niên phong trào Ducoroy hát bài “Maréchal, nous voilà!” và đi đều bước sau ngọn cờ… Jeanne d’Arc (đoàn thanh nữ mang tên là “Jeannettes”). Đầu óc Ducoroy không mường tượng ra khả năng thứ ba: thanh niên Việt Nam chọn con đường giải phóng đất nước (xem Maurice Ducoroy, Ma trahison en Indochine, Paris 1949).
9 rót: phương ngữ Nam Bộ, nghĩa là bỏ cuộc, rút lui hay đầu hàng.
10 Gestetner: Máy in roneo thường dùng trong văn phòng, thông dụng từ đầu thế kỉ 20 cho đến thập niên 1970, khi được thay thế bằng máy photocopy và máy tính & máy in điện tử. Máy in roneo mang tên người sáng chế, gốc Hung: David Gestetnet (1854-1939).
11 Xu xoa: thạch trắng (agar agar). Đây là lối in thủ công. Đoạn văn sau đây, do Nguyễn Ngu Í ghi lại lời kể của Hồ Hữu Tường, mô tả khá chính xác cách in xu xoa: “Úp bản cái lên mặt khuôn xu xoa, vuốt cho đều tờ giấy, để đó mười lăm phút cho mực thấm vô xu xoa, vuốt cho giấy sát. Rồi gỡ bản cái ấy lên, mình có bản chánh "in" ngược lên xu xoa. Giờ chỉ còn lấy giấy để lên mặt xu xoa, vuốt giấy cho sát, để chừng một phút, gỡ ra. "In" độ năm mươi bản thì chữ mờ. Tôi có nghĩ ra một cách có lợi cho việc "in xu xoa" này. Thói thường là nấu xu xoa, đổ vô một cái khuôn, và chỉ dùng được có mặt xu xoa ở trên mà thôi. Tôi cho cắt những tấm kiếng bằng nhau để trong khuôn, tấm này cách tấm kia độ một phân (giữa hai tấm kiếng ở hai đầu, có cây cạnh cao chừng một phân), đổ xu xoa vô, thì mỗi lớp xu xoa có hai mặt, mặt trên in cũng được, mà lật lại mặt dưới, in cũng được. Ví như ta có năm tấm kiếng thì ta có sáu miếng xu xoa, tức là mười một mặt xu xoa in được.”
12 Diệm, Ân, Sâm: tức là Ngô Đình Diệm, Trần Văn Ân, Nguyễn Văn Sâm.
13 Rue Miche: nay là đường Phùng Khắc Khoan.
Chương này ghi lại một phần những điều tôi đã nghĩ, đã làm, đã thấy trong khoảng thời gian từ sau khi chúng tôi lập lại Xứ ủy Nam Kỳ, tháng 10 năm 1943, đến trước khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Thời gian ngắn, chỉ 20 tháng, mà cuộc sống thì hết sức phong phú, sôi nổi nhất trong cuộc đời tôi, kể từ khi được sinh ra. Khó khăn chồng chất từ lâu, cao như núi; khó khăn mới thêm vào khó khăn cũ chưa giải quyết hết. Thuận lợi chỉ xuất hiện như kết quả sự nỗ lực kiên trì của tập thể anh chị em; lúc bấy giờ còn quá ít người, mà người nào cũng hoạt động không biết mệt, không ai “rớt đài” cả; thuận lợi cũng dồn dập đến với chiến thắng của Liên Xô và của Đồng Minh trên các chiến trường Âu châu và Thái Bình Dương. Thành công nhiều, mà về sau tai tiếng cũng lắm. Có sáng tạo cần thiết để ứng phó kịp thời với tình hình mà cũng không ít vấp váp, sai lầm. Vừa đánh kẻ thù trước mặt, lại vừa đỡ ngọn giáo của bạn bên hông. Mệt ơi là mệt! Nhưng, xét cho cùng, đời bằng phẳng chưa chắc là đáng sống hơn đời sóng gió. Tôi thích khoảng đời sóng gió mà cô đặc này; phần khác, vì thấy mình đóng vai của một người vo quần, cởi áo nhảy xuống sông, góp sức đẩy thuyền qua khúc cạn chớ không phải đứng trên thuyền “tiếp” đẩy cái mui, càng không phải đứng trên bờ mà vỗ tay cổ vũ hay là phẩy quạt phê bình.
Từ cuối năm 1943, tôi bám sát Sài Gòn, ít đi lục tỉnh. Lục tỉnh được sự chú tâm của tuyệt đại đa số các đồng chí trong Xứ ủy. Còn Sài Gòn là chiến trường mà tất cả bọn tôi đều xem như nơi quyết định sự thành bại của tổng khởi nghĩa, mà khi ấy, rất ít người kham. Anh em ta có nhiều kinh nghiệm về nông vận, hiếm đồng chí biết làm công vận, càng hiếm đồng chí làm được trí vận, binh vận. Cho nên, với ý thức nhận lãnh cái khó nhất về phần mình, tôi phải để hầu hết thời giờ và tâm trí vào Sài Gòn, mong có thể kịp thời xoay chuyển tình thế. Ta không hề xem nhẹ công tác nông thôn. Trong một xứ nông nghiệp lạc hậu như xứ ta, tuyệt đại đa số đồng bào là nông dân, ai đi làm cách mạng mà lại xem nhẹ công tác nông thôn bao giờ? Nhưng vào cuối năm 1943, qua đầu năm 1944, Đảng Cộng sản chưa có lực lượng đáng kể ở thành phố, cụ thể là ở Sài Gòn. Tại Sài Gòn, cơ sở ít và nhỏ; hệ thống tổ chức chưa hoàn chỉnh. Phong trào cách mạng như ở giữa hai làn sóng. Cán bộ thưa thớt như sao buổi sớm; anh em ở tù, ở căng chưa về; anh em ở ẩn phần nhiều chưa ra; số đồng chí có khả năng hoạt động thành phố như những người ở báo Le Peuple, Dân chúng, ở “Ủy ban sáng xuất công đoàn”, hồi 1937, 1938, 1939, đều cao bay xa chạy hay đều bị án “biệt xứ” không có phép đi Sài Gòn. Trong lúc đó thì chính đảng và giáo phái thân Nhật vừa nhiều, vừa mạnh, tập hợp ở thành phố dưới sự bảo trợ của sở Sen đầm Kempeitai[1]. Vấn đề được đặt ra là làm sao, trong một thời gian tương đối ngắn (tôi nhấn mạnh ở chữ “ngắn”), ta phải bám rễ chắc chắn trong Sài Gòn, phải đưa rất đông đảo công nhân, thanh niên, trí thức vào tổ chức yêu nước, phải thổi bừng lên một phong trào quần chúng cách mạng sâu rộng, phải làm cho Đảng Cộng sản theo kịp và mạnh hơn tất cả các chính đảng và giáo phái thân Nhật, thân Pháp cộng lại. Tôi không chủ quan lấy gàu tát sông đâu; khó khăn lớn lắm; nhưng nếu không làm được như vậy, nếu không nhảy vọt mà cứ phát triển từ từ thì sẽ không làm gì có cách mạng. Tôi lường được những nỗi khó khăn trước mắt và lâu dài; nhưng tôi không đến nỗi đơn thương độc mã; tôi lạc quan, lạc quan cách mạng vốn là bản tính của tôi. Tôi tin tưởng ở tài đức của số đồng chí đã tập hợp được, tin tưởng ở truyền thống nhạy bén chính trị và đấu tranh bất khuất của người dân Sài Gòn đặc biệt là của công nhân và thanh niên; tôi tin ở bản chất yêu nước và cách mạng của đồng bào nói chung, tin ở thế tất thắng của Hồng quân Liên Xô, khiến phong trào sắp có ngày đột biến và khiến tư tưởng chính trị của các tầng lớp nhân dân chuyển động rất mau về hướng cách mạng tức là về phía Đảng Cộng sản và mặt trận dân tộc thống nhất mà bọn tôi đang nỗ lực xây dựng.
1. Tình hình chiến tranh thế giới biến chuyển thuận lợi cho công tác cách mạng của chúng tôi
Không ai dám bảo rằng mình tài giỏi, tài giỏi mấy cũng còn phải nhờ thời thế mới làm nên; mà phần lớn những yếu tố của thời thế không do ta tạo thành. Thời thế nghịch thì “anh hùng ẵm hận”, ngày xưa bảo là “vận khú”. Dù sao, chèo ngược vẫn hơn là buông trôi. Ông bà từng dạy: “chớ đem thành bại luận anh hùng”. Còn thời thế thuận mà không sử dụng được mới là dở thật, là đáng chê trách, há miệng chờ trái sung rơi xuống, càng dở hơn, trái sung rất có thể rơi trên mũi, trên mắt.
Hồi 1941, khi Hồng quân Liên Xô thua đậm, khi Nhật thắng Mỹ, Anh như chẻ tre, thì hoạt động tuyên truyền của bọn tôi ủng hộ Liên Xô, chống Nhật, gay go lắm nhưng mà tôi và anh em vẫn ra sức ủng hộ Liên Xô, ủng hộ Liên Xô là trợ lực cho tinh thần cách mạng Việt Nam. Khi ấy, ở Sài Gòn, ở Nam Kỳ, chắc là trên toàn Việt Nam cũng vậy thôi, phe thân Trục, thân Nhật thắng thế dữ. Trong Nam, phe thân Trục mạnh lắm, có hàng vạn ức người theo, đặc biệt là một số giáo phái lớn như Cao Đài. Lúc ấy ta đi tuyên truyền cho cách mạng, chống Nhật, Pháp, tin tưởng vào Liên Xô, thì gần như là gào thét trong sa mạc, hát vọng cổ ở chợ cá đang đông. Nói gì đến dân thường ít chính trị? Ngay cả cái việc mời những đồng chí ẩn náu từ 1939, 1940 (kể cả các đồng chí nguyên là Xứ ủy viên), mời anh em đó trở lại hoạt động cũng khó, khó lắm, khó hết sức! Xét cho cùng thì không nên trách ai cả. Nếu mọi người đều vững như núi thì tuyên huấn sẽ là thừa; mà tuyên huấn có bao giờ thừa đâu? Đúng! Hồi 1941, 1942, đầu 1943, bọn vượt ngục Tà Lài chúng tôi thưa thớt như sao ban ngày. Thỉnh thoảng chúng tôi ngâm lại câu “gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần”[2] để tự mình an ủi và khuyến khích lấy mình.
Vào cuối năm 1943, đầu năm 1944 thời cuộc chiến tranh thế giới không còn u ám như hồi 1941-1942 nữa. Bĩ cực, thái lai.
Mỗi ngày tôi nhờ mua nhiều báo Tây, Nam để theo dõi tin tức chiến sự và chính trị. Tôi cũng nhờ vài người bạn nghe các đài phát thanh chống phát xít, thuật lại cho tôi. Lúc này, chúng ta nghèo quá; nông dân làm ra lúa mà không bán được. Lúa bán được thì mấy cắc bạc một thùng quan; đi làm thuê chỉ mấy xu một ngày, ở nhà quê, nhiều nơi bao cà ròn[3] thay cho quần vải; thì chúng tôi chạy đâu cho ra tiền mua một chiếc máy thu thanh, mướn một căn phố để đặt máy nghe tin; khó hơn là hồi 1928, 1929 mua một chiếc xe hơi, mướn một villa!
Ở châu Âu vào thời điểm cuối năm 1943 sang1944, chiều gió của chiến tranh đổi hẳn. Phe Đức, Ý thất bại lớn, thất bại liên tiếp. Các báo Tây, Nam ở Sài Gòn, trừ các bài “xã luận”, đều đăng tin kể cũng là khách quan. Sau chiến dịch Stalingrad long trời (11.1942-2.1943), Hồng quân đuổi quân phát xít về phía tây, quân Đức thoái mau như chúng đã tiến. Vòng vây quân Đức ở Leningrad bị phá vỡ. Rồi phát xít Đức bị đuổi ra khỏi biên cương Liên Xô và Hồng quân bắt đầu vào Đông Âu, Trung Âu, Bancăn, kích động mạnh cuộc chiến tranh giải phóng chống phát xít của nhân dân các dân tộc ở vùng đó. Hồi chiến thắng Stalingrad, tụi tôi ở Chợ Gạo, Phú Lạc, Gò Vấp mổ gà ăn mừng; bây giờ chiến thắng của Hồng quân nhiều quá, đâu có đủ tiền mua gà để mà mổ nữa, vả lại nghe tin chiến thắng trở thành quen, như bình thường, không còn kích thích mạnh nữa, trái lại, tôi càng sốt ruột về những tiến bộ chậm chạp của công tác cách mạng trong Sài Gòn, sợ thời cơ sẽ đến mau mà lực lượng Đảng còn quá yếu; mấy chục, một trăm anh chị em trong một Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định gần một triệu người thì như nắm muối bỏ mái nước[4] đầy.
Quân Anh, Mỹ, sau khi đánh thắng quân Ý, Đức ở Bắc Phi liền đổ bộ lên miền Nam nước Ý. Quân đội Ý tan rã. Mussolini bị bắt; y được Đức giải thoát mà chẳng làm nên trò trống gì. Ô hô một trong ba chân của chiếc ghế có thời lừng danh cũng gọi là trục Bá Linh - La Mã - Đông Kinh. Hồi 1942, Liên Xô đòi Anh, Mỹ mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu đỡ bớt đòn nặng cho Liên Xô thì Anh, Mỹ không chịu, vì chuẩn bị chưa đủ hay có lẽ đúng hơn, vì muốn cho Đức tiêu diệt thêm nhiều sinh lực của Liên Xô và Liên Xô tiêu hao thêm nhiều sinh lực của Đức. Nay, tháng 6 năm 1944, khi Hồng quân Liên Xô đã quét sạch Đức khỏi Liên Xô và đã vào tới Trung Âu, thì Anh, Mỹ mới mở mặt trận thứ hai ở Pháp, thực hiện một cuộc đổ bộ lớn nhất trong lịch sử với nhiều triệu lính, mấy vạn máy bay, nhiều tàu đủ loại. Quân Đức tháo lui. Paris được giải phóng. Chính phủ De Gaulle vừa thành lập ở thủ đô Pháp thì đã quyết định tuyên chiến với Nhật (cho có chừng, để tạo thế pháp lý, chớ sức mấy mà đánh đấm), và quyết định chuẩn bị quân đội gửi sang chiếm lại Đông Dương. Một mối lo mới cho chúng tôi bắt đầu xuất hiện. Đám “Pháp-Việt đề huề” lại ngo ngoe mạnh ở Sài Gòn. Tụi thực dân Pháp trở nên phách lối, láo xược ra mặt và ngày nào cũng như ngày nào, độ 11 giờ trưa, chúng nó đánh trận mồm chống Đức, chống Nhật ở các nhà hàng Majestic, Continental, trước những ly áppêrô đắt giá. Trong lúc đó, những chiến thắng liên tục, vang dội của Liên Xô đánh bại một đội quân nổi tiếng là không ai đánh bại nổi, làm cho dư luận chê bai cộng sản trước đây, nay không còn nữa, ngược lại, tiếng khen đều trời, những người cách mạng Việt Nam dù ở góc biển chân trời phương Đông xa xôi này cũng được thơm lây: Nói người ta nghe hơn, đoán người ta tin hơn, hoạt động người ta ủng hộ hơn. Các đồng chí ẩn náu từ 1939, 1940 nay lục tục tự động ra xin công tác; đội ngũ cán bộ không phải là đông đủ mà đã tăng lên trông thấy; không còn cảnh lẻ loi buồn tẻ như vài năm trước. Chính lúc này gần cuối năm 1944, là lúc tôi gặp Nguyễn Văn Trấn (Chợ Đệm) và nhóm “các anh La Sơn - Bàn Tiên Động” của anh ấy là Tươi và đại ca Nguyễn Thiện Hành, các anh “hạ san” về thành phố bắt tay làm việc ngay.
Đặc biệt của chiến cuộc Đông Á và Thái Bình Dương qua 1943, 1944 là quân Nhật từ dẫm chân đến thoái lui, thua trên bộ thì ít, thua trên biển nhiều hơn… sau khi mất quần đảo Gilbert, Nhật mất luôn quần đảo Marshall rồi mất cả quần đảo Mariannes. Trên các đảo Saipan và Guam quân Nhật chiến đấu với một tinh thần tuyệt đỉnh anh hùng nhưng rút cuộc đều bị vũ khí hiện đại Mỹ tiêu diệt. Như vậy là cái “vòng đai an toàn” của nước Nhật bị vỡ toang rồi. Từ Saipan, từ Guam, máy bay ném bom hạng nặng của Mỹ có thể đánh thẳng vào nội địa Nhật và Mỹ đã thật sự bắt đầu dội bom xuống các thành phố Nhật. Gần cuối 1944, sau khi nhấn chìm một bộ phận lớn của hải quân Nhật ở đông Philippines, quân Mỹ đổ bộ lên Philippines, chiếm lại các quần đảo quan trọng mà Mỹ đã phải chịu nhục bỏ chạy 2, 3 năm trước. Đầu năm 1945, quân Mỹ vào Manille. Xuất hiện một khả năng mới trong cuộc chiến tranh ở Đông Nam châu Á là khả năng quân Mỹ từ Philippines đổ bộ lên Trung Kỳ của Đông Dương thuộc Nhật, Pháp nhằm cắt đứt đại quân Nhật trên lục địa Đông Nam Á ra làm hai[5]. Câu hỏi khẩn cấp đặt ra cho Xứ ủy Nam Kỳ chúng tôi là quân Mỹ sẽ đổ bộ lên Trung Kỳ hay không? Họ đổ bộ lên Trung Kỳ thì may hay rủi, lợi hay hại cho ta? Chưa rõ. Điều đó chắc chắn là những người cách mạng phải chú ý đến vấn đề và tính toán sách lược đối phó với khả năng đó. Chúng tôi dự tính (mà dự tính này rốt cuộc là sai) rằng Mỹ mà muốn trong thời gian ngắn bắt buộc Nhật phải xếp giáp quy hàng thì Mỹ không thể không đổ bộ vài ba triệu quân lên đất Nhật, ở đó người Nhật sẽ đánh một trận cuối cùng, một trận xáp lá cà mà Mỹ chắc ngán run, một trận trong đó máy bay, đại bác đều bất lực, nghĩa là ưu thế của Mỹ trở thành vô dụng. Bởi vậy, Mỹ phải tìm chỗ yếu nhất của quân Nhật trên lục địa Đông Á, cắt đứt quân Nhật ra để mà diệt, vì vậy Mỹ sẽ đổ bộ lên “cái bụng mềm” của Đông Dương là một khả năng lớn. Nếu Mỹ và đồng minh của chúng ở Viễn Đông đổ bộ lên Nam Trung Kỳ thì ở Nam Kỳ ta phải làm gì? Các bạn của tôi trong Xứ ủy và tôi đều nhất trí là chúng ta sẽ tuỳ sức mà làm khởi nghĩa từng phần ở những nơi nào có thể khởi nghĩa được, như miền đông rừng núi hay miền tây sình lầy dựng cờ độc lập dân tộc chống cả hai bọn thống trị Pháp, Nhật, xem cả hai như là “bệnh dịch hạch và bệnh dịch tả, không phải lựa chọn một cái nào”, hình ảnh này tôi đã có lần dùng trong một bài báo công khai hồi 1939, được nhiều anh em tán thưởng mà cũng bị vài anh em công kích hồi thời trước chiến tranh khi mà báo ta “lắm khi” cũng công khai tán thành “phòng thủ Đông Dương”!
Xa hơn, ở phía Tây, trên xứ Miến Điện, vào đầu 1945, con đường bộ Miến Điện – Vân Nam lại được mở ra do thắng lợi của quân Anh. Trong tình hình chiến sự đó, ở Nam Kỳ, ở Sài Gòn, việc tuyên truyền của Nhật và tay sai bản xứ cho chủ nghĩa Đại Đông Á dẫu còn mà đã mất hẳn đà. Uy thế của Cao Đài, Phục Quốc chẳng những khựng lại mà còn giật lùi mau. Các đảng thân Nhật đã đâm lao thì phải theo lao vậy thôi, theo với một lòng tin bị bào mòn, bởi thời cuộc chiến tranh, bởi chính sách gian trá lừa đảo của Nhật. Họ còn tuyên truyền theo Nhật mà đã có ý một ngày nào đó sẽ phản lại Nhật, thời bây giờ gọi là “bỏ giò lái”.
Tất cả những chiến sự kể trên, các báo Tây, Nam đều nói rõ, nói hết, công chúng theo dõi dễ dàng. Các báo quốc ngữ chỉ còn hai trang, nhưng Sài Gòn không ngày nào thiếu báo. Mỗi sáng anh cứ đi “kéo ghế nhẩm xà”[6] thì anh thông thạo tình hình, anh cứ yên tâm ngồi nghe người ta bình luận, máy bay Mỹ trưa trưa mới đến. Bọn tôi chẳng những cho ra đều tờ báo Tiền Phong cơ quan của Xứ uỷ mà chúng tôi còn phát hành Bản tin rônéo để kịp thời hướng dẫn dư luận. Dư luận quần chúng làm cho chúng tôi thích thú nhất là: hồi 1941, 1942, khi Đức tiến, Liên Xô lùi, mà cộng sản đoán trước rằng Đức sẽ bị Liên Xô đánh bại, khi Mỹ, Anh thua, Nhật Bản thắng thì cộng sản khẳng định rằng Nhật sẽ bị Đồng minh đánh bại; cộng sản đoán trúng; “anh hùng đoán giữa trần ai mới cừ”, có người bảo như vậy. Còn lời đoán của cộng sản rằng cách mạng Đông Dương sẽ thắng lợi ngay trong cuộc chiến tranh thế giới này, Việt Nam, Miên, Lào sẽ giành được độc lập tự chủ, thì theo nhiều người, sự đoán trước ấy phải còn chờ thực tế chứng minh, chắc không lâu lắc gì đâu. Song người ta bàn tính với nhau rằng một ách Pháp còn chưa bẻ gãy, nay cả hai ách Pháp, Nhật thì bẻ cách nào cho xong? Khi Nhật thua, Pháp sẽ trở lại và trở lại với quân Đồng minh, thì làm sao cản được? Huống chi là ở Nam Kỳ từ sau cuộc bạo động 1940 thất bại, Đảng cách mạng còn, mất, mạnh, yếu chưa rõ, phong trào cách mạng như chìm xuống, chìm đến bao giờ mới nổi lên trong lúc chiến tranh chắc không còn kéo dài lắm? Vậy, dư luận quần chúng có tin tưởng lẫn với hoài nghi. Bọn tôi biết rằng đối với người dân thường, thuyết lý không đủ, phải có thực tế, họ cần được tự kinh nghiệm thì lòng tin mới toàn vẹn và khi ấy thì tinh thần quần chúng mới thật cao vọi.
Tựu trung, vấn đề được đặt ra là: thời cơ thì nhất định sẽ đến nhanh nhưng khi thời cơ đến, liệu phe cách mạng có đủ lực lượng hay không? Thời cơ là cái ngoài ta. Lực lượng cái do ta. Có cả hai tụ hội, có đủ lực lượng khi thời cơ thuận lợi thì mới có cách mạng giải phóng thành công.
Tôi nhớ mãi và luôn nhắc với đồng chí của mình bằng những lời than thở tuyệt vọng của cụ Phan Bội Châu, cụ Nguyễn Thượng Hiền khi chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc thắng lợi về phía thực dân Pháp. Và chúng tôi hạ quyết tâm làm cho kỳ được nhiệm vụ thiêng liêng mà các cụ đã mất và các đồng chí đã hy sinh trao lại cho chúng ta: giành độc lập tự do với bất cứ giá nào trong thời cơ chiến tranh thế giới này.
2. Những bước đầu xây dựng lực lượng trước cuộc đảo chánh Nhật tháng 3 năm 1945
1) Vận động thành lập Tổng Công đoàn
Tôi không nhớ đã lên lớp bao nhiêu lần về công vận, về sứ mạng lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc cách mạng Đông Dương. Có lẽ cho đến đó, tôi là một người chiếm kỷ lục về việc mở lớp dạy công vận. Tôi không nhớ có lần lên lớp nào mà tôi không nhấn mạnh vào những lời của Trung ương Đảng hay của Đại hội Đảng phê bình các sai lầm và thiếu sót trong công vận từ 1930 đến 1939. Tôi giảng bài công vận ai cũng khen là đúng. Bây giờ tới phiên tôi làm, tới phiên tôi thực hiện những điều tôi nói. Tôn Văn của nước Tàu bảo “tri nan, hành dị”, biết khó, làm dễ. Thì câu ấy cũng có phần đúng, nhưng đúng chỉ một phần thôi. Biết như Karl Marx biết vai trò lịch sử của giai cấp công nhân trong thế giới ngày nay, thì khó thật. Chớ còn sau Marx, Engels, Lenin, tôi biết lý luận về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, thì khó gì? Còn như thực tế làm làm sao cho giai cấp công nhân xứ mình đóng nổi vai trò lịch sử ấy? Thì khó lắm! Khó lắm! Tôi lo quá, đôi khi sợ anh em cười mình “Năng thuyết bất năng hành”[7]. Anh em cán bộ lão luyện công vận bây giờ còn ai? Nguyễn Công Trung mà hồi chọn người vượt ngục tôi nhắm để làm công vận, thì đã bị bắt lại rồi. Nguyễn Thành A còn bó gối ở căng Bà Rá. Văn Công Khai, Nguyễn Văn Chùa nghe nói ở Bến Súc, Thủ Dầu Một, điều tra mãi mới gặp Khai và anh ấy đã nhận nhiệm vụ Bí thư Ban cán sự tỉnh Thủ Dầu Một. Mà Thủ Dầu Một cũng là nơi có hàng vạn công nhân đồn điền cao su thì điều động Khai về Sài Gòn sao được? Phần nhiều cán bộ cũ, nhân viên báo Dân Chúng, Lao Động điều bị án “biệt xứ”, không được rời các tỉnh mình ở, mà dầu có dời được anh em vị tất đã chịu lên Sài Gòn và vào vườn cao su đâu? Người lên Sài Gòn được, không phải ai cũng làm được cái chuyên môn công vận. Khi ấy công vận khó hơn nông vận. Một cái khó nữa là trong thời kỳ chiến tranh, công nhân Sài Gòn bị phân tán. Như Ba Son (công xưởng thuỷ quân) bị xé lẻ thành mấy bộ phận ở xa nhau. Vì thiếu nguyên liệu, thiếu chất đốt, nhiều nhà máy đóng cửa. Nhà đèn Chợ Quán kia còn phải lấy lúa thay than đá thì các xưởng thợ khác làm sao có than, có điện. Thợ trở thành thủ công, nông dân, người đi buôn vặt. Những người còn lại thì ngày làm, ngày nghỉ bất thường. Trong lúc đó Nhật Bản nhờ phe Trần Quang Vinh chiêu mộ hàng vạn tín đồ Cao Đài lên Sài Gòn - Chợ Lớn làm nhiều nghề mà nhà binh Nhật dùng, ví dụ như cưa gỗ, đóng tàu dọc theo Kinh Đôi từ cầu Nhị Thiên Đường (Chợ Lớn) ra tới cầu Tân Thuận (Sài Gòn). Những công nhân mới này lạc hậu về tư tưởng và ta rất khó chen vào đây để làm việc tuyên truyền. Lại thêm, hồi 1937, 1938, 1939 (mà trước đây cũng vậy) một nhược điểm lớn của chúng ta là mạnh ở xưởng nhỏ và các hãng lao động lẻ tẻ, thủ công, nhưng yếu ở xưởng lớn, và các xưởng lớn thì mạnh ở số thợ “áo nâu”, mà yếu ở thợ “áo xanh”; viên chức, công chức đông mà ít được tổ chức, tổ chức họ cũng khó. Tự phê bình không biết bao nhiêu lần rồi mà chưa vượt qua khuyết điểm. Bây giờ phải thực sự phải vượt qua những khuyết điểm đó một cách nhanh chóng. Nói thì dễ, làm thì khó hơn rất nhiều: muốn kiếm một đồng chí khuân vác được, nay bảo mai có; muốn kiếm một đồng chí làm nghề điện, máy, “cạo giấy” kiếm đâu ra, kiếm ra rồi làm sao xin vào sở? Xin vào sở rồi phải có thời gian mới làm quen với anh em đồng nghiệp, chớ đâu phải họp mít tinh nói chương trình công đoàn rồi ghi tên vào tổ chức như ở xứ có tự do dân chủ đâu? Việc thì đòi hỏi nhiều thì giờ mà tình hình không trì hoãn được, trái lại rất khẩn trương. Làm sao đây? Bài toán khó giải quyết. Chúng tôi thấy: muốn đi nhanh trước hết phải tìm lối mòn cũ, Đảng đã hoạt động công đoàn từ năm 1930; trước khi có Đảng thì Tôn Đức Thắng tổ chức công hội đỏ (bí mật). “Tàn dư” của công hội Tôn Đức Thắng nay hãy còn. Lê Văn Lưỡng, Ca Him – đều là bạn thân của Phúc, Xứ uỷ viên Thường vụ. Rồi những năm 1937, 1938, 1939, ta có nhiều hội ái hữu lớn làm nhiệm vụ công đoàn; từ 1940, hội viên, đoàn viên nằm yên không hoạt động, nhưng ý thức của họ hãy còn, đó là kết quả của một cuộc tuyên truyền bền bỉ nhiều năm của nhiều thế hệ cán bộ cách mạng. Công nhân viên chức Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định chắc chắn là có truyền thống sâu xa, họ không giống như một đám ruộng khô đất nẻ mà giống như là đám ruộng đã có nước chân, mưa thêm vài đám thì cấy lúa được; ta phải hết sức chú tâm đi tìm người cũ còn “mai phục”, còn “dấu mũi nhọn” làm ăn hiền lành vô sự ở nhà máy, ở văn phòng và chờ bắt liên lạc trở lại với Đảng. Ta tin chắc còn những người cũ, và họ cũng tin chắc sẽ có ngày lại gặp Đảng. Quả đúng như vậy. Làm tuyên truyền cách mạng là cả một sự kế thừa; trong cái gián đoạn về tổ chức còn cái liên tục về ý thức tư tưởng. Chúng tôi ở Sài Gòn có nhiều anh em đã sống trong thành phố hàng chục năm, đã tham gia mấy giai đoạn phong trào, cho nên việc tìm lại người cũ, lối mòn, không phải là điều khó lắm, vấn đề mấu chốt là nói sao cho anh em nghe, làm gì cho anh em tin, đưa người nào đến thì anh em mới chịu hợp tác.
Dân ta dưới ách Tây-Nhật, tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc
(báo Việt Nam Độc Lập)
Năm 1943 trôi qua nhanh như một thời gian dành cho việc tìm lại manh mối ở các công sở và tư sở lớn, chớ còn những tiệm giày, thợ giặt ủi, tiệm may, bồi bếp Tây, nhà riêng và nhà hàng thì các anh Oanh, Chí, Thức trong Ban cán sự Sài Gòn đã quen lớn liên lạc từ đời nào. Riêng tôi có một ông bạn là cò-mi Hên ở Ba Son, hùng mạnh hồi 1938, 1939; anh em của Sáu Sáng (ở Bàu Lăng, Gò Vấp), người làm trong kho thuốc đạn Pyrotechnie, người làm ở nhà thương Đồn Đất. Anh Nỉ, anh Vị (đường Mới, Gò Vấp) vẫn làm nhà in Ardin. Hai anh em Khương, Lương (đường Mới, Gò Vấp) vẫn còn làm ở sở Trường Tiền và Ba Son. Nắm mấy cái mối ấy mà phăng ra thì bắt liên lạc được với nhiều cơ sở xí nghiệp lớn. Nhờ các chi bộ xã ở Bà Hom, Bình Trị thì sẽ biết người mình ở hãng rượu Bình Tây và nhiều nhà máy xay Rạch Cát…
Vào cuối năm 1944, Đảng bộ Sài Gòn đã có chân đứng ở hơn 30 nơi lớn nhỏ, công tư sở, không kể các khu phố lao động, đã có khá đông cán bộ công đoàn, mà nổi nhất là Nguyễn Lưu, Hoàng Đôn Văn, Từ Văn Ri, Huỳnh Đình Hai, Nguyễn Văn Tư. Ở hãng FACI có Nguyễn Văn Lưỡng, ở xe lửa có anh Chiêu, ở Eiffel có anh Giỏi, ở Labbé có các anh Trần Mạnh Quyền, Trần Mạnh Phú, Trương Luyện, Phạm Văn Củng; ở tàu thuỷ có Từ Văn Ri, ở MIC có Nguyễn Viết Phái, ở nhà đèn Paul Blanchy[8] có Vũ, ở nhà đèn Chợ Quán có Dương, Thức, Mao, Anh; ở máy cưa Vĩnh Hội có Lê Tấn Ích, ở Scama có Xuyên, v.v… Tuy cơ sở đã khá, nhiều sở lớn ta chưa có tổ chức: hãng dầu Nhà Bè, đề pô Dĩ An, sở Bưu điện, v.v. Công đoàn xí nghiệp, buồn thay, chưa đông người bằng những công đoàn thợ may, thợ giày, thợ giặt ủi, thợ nhuộm, thợ mộc… lúc này tôi ở Phú Lạc (Chợ Lớn), hay ở Bàu Lăng (Gò Vấp), hoặc ở các trại bán tre của anh chị Tám Chiếu tại bến Cầu Ông Lãnh. Anh chị Tám là cơ sở của Đảng từ thời Mặt trận Bình dân. Sau khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại. Trấn người chợ Đệm, (người báo Dân Chúng) đi “ẩn” ở núi La Ba, động Bàn Tiên với một nhóm người anh em, như Marcel Tươi, Sáu Hành, nay trở về Sài Gòn hoạt động đắc lực với Xứ uỷ mà anh em trở thành trụ cột. Tôi thêm một chỗ trú chân tại thành phố; tôi đỡ đạp xe đi về xa xôi lại dễ bị lộ bí mật. Tôi không nhớ rõ là những ngày cuối năm 1944 hay là những ngày đầu năm 1945, bọn tôi đã có thể tổ chức Tổng Công đoàn Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định với non già 5.000 đoàn viên. 5.000 đoàn viên trong thời bình và trong bí mật là khá lớn, là giỏi, có triển vọng. Nhưng so với thời “loạn” (chiến tranh) với nhu cầu lịch sử (cần chuẩn bị lực lượng cho tổng khởi nghĩa), thì 5.000 hãy còn quá ít. Sắp tới tình hình có thể biến đổi nhảy vọt, đột biến thì ở cái đất Sài Gòn có nhiều chính đảng và giáo phái này, chẳng nói 5, 6 ngàn mà đến 10.000, 20.000 cũng chỉ là muối bỏ biển. Làm sao bây giờ? Làm sao tổ chức cho được 10, 15 vạn công nhân viên chức ở thành phố lớn nhất nước là Sài Gòn bấy giờ đông hơn tám chục vạn dân.
Bàn tới bàn lui, chẳng biết có gì quan trọng hơn, mấu chốt hơn là gấp rút đào tạo nhiều cán bộ công đoàn để phòng khi thời cuộc biến chuyển ta có đủ người làm việc cho giỏi. Chúng tôi nhắc lại lời của Stalin: “cán bộ quyết định tất cả”, xem đó là chí lý. Đó cũng là “chuyên môn” của tôi trong huấn luyện đào tạo cán bộ. Vả lại, bây giờ anh em khá đông, tôi không phải trực tiếp đi nhiều nơi, nên lo việc huấn luyện là chính, đồng thời kiểm tra, đôn đốc chỗ nào cần. Các anh Văn, Lực, Lựu, Ri, Tư cà phê, Hai Râu, Giỏi (Eiffel) và Giỏi (cứu hoả) đều hăng hái lắm, nhưng họ ít kiến thức “sai đâu đánh đó” chớ lý luận cách mạng chưa có gì, chưa ai có một bó đuốc trong tay; vì vậy, sáng kiến bị hạn chế. Phải ra sức đào tạo họ thành những nhà lãnh đạo công đoàn, lãnh đạo phong trào công nhân, và khi cần thì đủ sức đương đầu với các lãnh tụ chính đảng tư sản, tiểu tư sản, tôn giáo. Phải đào tạo nhiều, phải thật nhiều cán bộ cơ sở xuất thân từ xí nghiệp, để khi thời thế đến, họ có sức nhân lên gấp mười, gấp hai mươi sức lao động và sức tổ chức công đoàn, làm cho lực lượng công nhân lao động trở thành mạnh nhất ở Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, làm cho phong trào công nhân có tác dụng tập hợp và dẫn đầu tất cả các phong trào yêu nước. Nói thực hiện vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, là một mặt thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản – đội tiên phong mácxít lêninnít của giai cấp công nhân, mặt khác (và đồng thời) là làm sao cho phong trào công nhân thật sự dẫn đầu tất cả các phong trào yêu nước, thu hút các phong trào yêu nước theo mình. Một mặt không đủ; phải hai mặt thì mới chọn là sự “lãnh đạo của giai cấp công nhân”, lúc đó cũng gọi là “bá quyền của giai cấp công nhân” – điều kiện cốt yếu cho cách mạng dân tộc dân chủ triệt để thành công. Trong mục đích chính trị đó, Thành uỷ và Thường vụ Xứ uỷ quyết định mở những lớp học liên hoàn cho cán bộ công đoàn toàn thành phố và một số anh chị em từ lục tỉnh lên tiếp tay làm công vận. Học viên chủ yếu do các công đoàn lựa chọn. Ban đầu giảng viên chỉ có mình tôi, cùng lúc dạy nhiều lớp, ở chùa Bà Đầm, ở nhà Hoàng Đôn Văn (ĐaKao) ở Xóm Lách, ở Bàu Lăng, v.v. Khi ấy Lý Chính Thắng chưa tham gia, Nguyễn Thành A còn ở căng Bà Rá chưa về, Hà Huy Giáp ở căng ngoài Trung Kỳ chưa vào, Nguyễn Văn Nguyễn mới từ Côn Lôn về Mỹ Tho cũng chưa chịu nhập cuộc, Nguyễn Văn Tây ẩn náu nơi nào đó ở Hậu Giang, Ung Văn Khiêm giả đi làm cố nông ở Cần Thơ, các anh lúc đó đều chưa nhận công tác, còn “chờ xem”. Các đồng chí đó, sau 9 tháng 3 sẽ có điều kiện góp phần đào tạo cán bộ công đoàn và các anh em sẽ hoạt động đắc lực lắm. Tạm thời tôi “bao sân”, anh Oanh (Bạch Đằng lớn) nói đùa rằng tôi một mình day trở như “Tam chiến Lữ Bố”! (lớp học Đảng và công đoàn, lớp học thanh niên và trí thức).
Chương trình huấn luyện cán bộ công đoàn lấy vấn đề “vai trò lịch sử của giai cấp công nhân” làm trung tâm, các vấn đề khác đều xoay quanh vấn đề trung tâm đó. Huấn luyện công nhân, tôi giảng một hệ thống tám bài. Không nói về triết học, về kinh tế học; không trình bày chủ nghĩa Marx - Lenin theo kiểu nhà trường mà đi thẳng vào “các vấn đề căn bản của cách mạng Đông Dương” – một cái “tủ” của tôi, bao gồm bốn phần, mỗi phần hai bài, mỗi bài một buổi. Phần thứ nhất: những tiền đề (thế giới và quốc gia) của cách mạng Đông Dương. Phần thứ hai: nhiệm vụ, tính chất của cách mạng Đông Dương. Phần thứ ba: các giai cấp và động lực của cách mạng Đông Dương. Phần thứ tư: tình hình hiện tại và những nhiệm vụ cần thiết (trong nhiệm vụ cần kíp, nhấn mạnh vào việc tổ chức công đoàn). Anh em đi học nghiêm túc lắm, tới đúng giờ, về có trật tự. Có lần anh Ca Him thợ kỳ cựu nhà đèn Chợ Quán, bạn của Tôn Đức Thắng, của Dương Văn Phúc (Năm Đông), đi tới trễ (có lẽ vì anh lớn tuổi) anh em không cho vào lớp, tôi phải xin mới được. Tôi có kinh nghiệm giảng dạy cán bộ công nông ở tù, ở căng Tà Lài, ở U Minh, nên anh em hiểu rõ, một số anh ghi được, tất cả đều nhớ các chương, tiết mục và khi về có thể ít nhiều “quay” lại cho bạn bè. Tôi khuyến khích anh em chất vấn. Tôi trả lời tất cả các câu hỏi. Tôi biết rằng hồi 1936, 1939, ở Sài Gòn ảnh hưởng của tờ-rốt-kýt trong anh em công nhân viên chức không phải không có, nên tôi chú ý đánh đổ tư tưởng chính trị của đệ tứ. Có lần mấy học viên lớp công đoàn xin phép tôi mời lãnh tụ một nhóm đệ tứ là Hồ Hữu Tường đến tranh luận với tôi, ngay ở nhà Hoàng Đôn Văn. Ai cũng tưởng đâu cuộc tranh luận sẽ nảy lửa. Nhưng không! Tường xuôi xị trong lúc một học trò của tôi, chú Tổng (người Càng Long, thợ nhà in) công kích tờ-rốt-kýt dữ dội. Tàn cuộc, anh em bảo rằng gà của đệ tứ chạy “rót”, đừng hòng nói trạng với thợ thầy Sài Gòn nữa. Chính tôi bảo anh em tổ chức cuộc đụng độ đệ tam, đệ tứ này để chứng tỏ cho anh em rằng đệ tứ không phải là đối thủ lợi hại, họ không có lý luận gì chân chính và họ không có tinh thần cách mạng đâu. Điều chính là tôi cố vũ trang cho cán bộ công đoàn một số vốn tối thiểu về lý luận cách mạng Đông Dương, trong đó có vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân phải được thực hiện, một số vốn càng cụ thể càng hay về tổ chức công đoàn, hoạt động xưởng máy, các hình thức đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động thành phố.
Ảnh căn cước ở nhà tù Côn Đảo năm 1935 của Trần Văn Giàu (số tù 588).
Thời đó, ông được gọi là "Giáo sư Đỏ"
Quả thật đúng với dự đoán, mà dự đoán này không có gì là tài tình cả, cuộc đảo chánh Nhật ngày 9-3-1945 nổ ra. Trái với ý muốn của Nhật, cuộc đảo chánh làm phát sinh một tình hình thuận lợi cho cuộc vận động chống Nhật, trong cuộc vận động đó, phong trào quần chúng phát triển nhảy vọt. Lúc này mấy lớp cán bộ công đoàn thứ nhất của chúng tôi đã học xong và mấy lớp thứ hai đã bắt đầu, chúng tôi có một lực lượng nòng cốt tối thiểu để chèo chống, không đến nỗi phải “theo đuôi” phong trào. Có cán bộ, lại có mấy chục công đoàn cơ sở và mấy ngàn đoàn viên có thể được đánh giá là nòng cốt, công vận chắc chắn sẽ phát triển rất nhanh, đưa lực lượng của giai cấp công nhân lên hàng tiền đạo.
Ở đây cần chú ý rằng, trong Nam, ở Sài Gòn, chúng tôi lập công đoàn chớ lúc ấy không lập công đoàn cứu quốc. Không phải vì lý do gì khác hơn là, khi ấy, chúng tôi không biết có chỉ thị lập công nhân cứu quốc. Chúng tôi theo Nghị quyết Trung ương tháng 11-1939. Vả lại đó là “đường mòn” quen thuộc. Mà xét cho cùng thì công đoàn cho phép tổ chức một cách rộng rãi hơn, cho phép hoạt động nhiều khi công khai, mà nhiệm vụ cứu quốc thì tất nhiên là làm được, đồng thời không hạn chế nhiệm vụ công đoàn trong khuôn khổ phản đế. Cho nên về sau, khi gần đến cách mạng tháng Tám, khi chúng tôi biết điều lệ công nhân cứu quốc, chúng tôi cũng không thấy cần thiết phải đổi tên. Liền sau 9 tháng 3, lực lượng công đoàn lớn nhanh tới 15.000 đoàn viên, vào thời điểm tháng 4, không nơi nào có lực lượng công nhân, có tổ chức mạnh bằng Sài Gòn, nhưng 15.000 đoàn viên vẫn quá ít đối với thời cuộc.
2) Những bước đầu của phong trào thanh niên
Những bước đầu lập lại Tổng công đoàn và gây dựng lại phong trào công nhân ở Sài Gòn - Gia Định - Chợ Lớn, đều là do Xứ uỷ Nam Kỳ của Đảng Cộng sản chủ trương, do cán bộ Đảng đứng ra thực hiện trước hết. Nên biết rõ là hoàn toàn không có đảng phái chính trị hay khuynh hướng tôn giáo nào chen vào. Kể cả Tờ-rốt-kýt hồi 1936, 1939 đã hoạt động khá ồn ào trong công nhân, hay kể cả Cao Đài Trần Quang Vinh hồi 1943, 1944, 1945 đã đưa hàng vạn tín đồ lên làm công nhân đóng tàu gỗ cho Nhật. Đảng Cộng sản là Đảng duy nhất có tổ chức trong giai cấp công nhân ở Sài Gòn lúc này.
Còn những bước đầu của phong trào thanh niên ở đây trước khởi nghĩa tháng Tám là một cuộc vận động tự phát, sau đó Đảng mới chú ý và ra sức hướng dẫn, phát triển. Thừa nhận rằng phong trào lúc đầu là tự phát, tất nhiên không phải chê trách các đồng chí ta, trong đó có tôi. Thành bộ có một số đoàn viên thanh niên cộng sản mà ít lắm; còn bảo rằng Đảng chú ý dìu dắt thanh niên đi đúng hướng yêu nước, không phải là kể công với tuổi trẻ, nếu kể công hãy kể cho Bà Trưng hay xa hơn nữa là cho ông Thánh Gióng mà tất cả chúng ta kế thừa sự nghiệp. Có thể ghi nhận rằng trong các cao trào 1930-1931, 1935-1939, chưa hề có ở Nam Kỳ một tổ chức, một cao trào thanh niên rộng lớn như năm 1945.
Từ năm 1930, khi Đảng mới ra đời, Trung ương Đảng đã từng quyết nghị là đảng viên phải chú ý lãnh đạo các phong trào “đột nhiên” (tức là tự phát) của quần chúng. Trong một xứ đang đi vào đường cách mạng, cách mạng chưa thành công, thường thấy nhiều loại vận động yêu nước của đồng bào mà Đảng cách mạng không thể biết trước cho hết. Làm sao biết trước cho hết được? Chống thực dân, nào phải chỉ có một mình Đảng Cộng sản? Nhiều lớp người tự động chống thực dân là lẽ thường ở một dân tộc yêu độc lập tự do. Biết việc mình chưa chắc đã hết, biết trước sao được việc của mọi người? Cái đó không có gì là “xấu hổ” cả, cũng không có gì gọi là “sai lầm”. Nhưng sẽ sai lầm thật nếu mình không chú ý đến những phong trào tự phát để biến nó thành phong trào tự giác.
Trước đảo chánh 9 tháng 3, ở Sài Gòn có một số đồng chí trẻ hoạt động đắc lực, như Trần Bạch Đằng (Bạch Đằng nhỏ, là anh thợ thụt lò nướng sắt, khác với Bạch Đằng lớn là anh Oanh thợ giày), nhưng Bạch Đằng nhỏ lúc này lại hoạt động trong phong trào công nhân là chính. Chưa có ban bệ nào của Xứ uỷ chuyên lo về thanh vận.
Tôi có một thằng cháu trai bên vợ tên là Đỗ Tường Hoàng, học sinh cấp ba ở trường Pétrus Ký. Qua nó, tôi được biết vài nét lớn của phong trào học sinh Sài Gòn mấy năm 1940, 1941, 1942. Còn từ 1943 thì tôi đã bám sát Sài Gòn nên có thể tự mình trực tiếp theo dõi phong trào học sinh, sinh viên (Hoàng hy sinh năm 1948 với chức vụ Trung đoàn phó Trung đoàn Quyết Tử của Sài Gòn).
Lúc thực dân Pháp đàn áp cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ cuối 1940 cũng là lúc Pháp giải tán “Câu lạc bộ học sinh” Sài Gòn. Câu lạc bộ học sinh này nguyên là một tổ chức mang tính chất thuần văn hoá của học sinh trung học thành phố được thành lập đầu năm 1940, dựa vào hội SAMIPIC (Nam Kỳ đức trí thể dục) và hoạt động dưới các hình thức thông thường như nói chuyện, dạ hội, du lịch, điền kinh, thể thao. Câu lạc bộ học sinh Sài Gòn[9] không có chí hướng cải lương hay cách mạng, quốc ca hay cộng sản gì hết. Nếu nhìn bề ngoài, thấy hình như nó chịu ít nhiều ảnh hưởng của Pétain – cái ông thống chế có thời là anh hùng dân tộc Pháp, nay cầm đầu chính phủ đầu hàng (Vichy); hình như có những ai đó, tôi không biết rõ tên, muốn kéo câu lạc bộ học sinh theo chủ trương “cách mạng quốc gia” và “Pháp-Việt phục hưng” của Decoux. Không có gì lạ. Độ này báo chí đầy dẫy những “lời của thống chế’ và sáng sáng các thầy các trò các trường phải chào cờ tam sắc và hô “Thống chế, có chúng tôi đây”. Câu lạc bộ học sinh (CLBHS) cũng đưa ra một số khẩu hiệu cần lao, danh dự, đoàn kết là những vị thuốc gọi là hồi sinh của Pétain - Decoux. Nhưng thực ra, nhà cầm quyền thực dân không chỉ đạo được Câu lạc bộ học sinh, không ngăn nổi ảnh hưởng của phong trào cách mạng đối với tuổi trẻ nhà trường. Câu lạc bộ học sinh tập hợp nhiều thanh niên các trường trung học công và tư Pétrus Ký, Tabert, Lê Bá Cang, Huỳnh Khương Ninh v.v… Câu lạc bộ học sinh tổ chức nhiều buổi nói chuyện, dạ hội, cắm trại. Những buổi sinh hoạt đó thực ra chẳng có nội dung gì tiến bộ lắm đâu, những nội cái sự tập hợp tổ chức và hoạt động văn hoá của tuổi trẻ đủ làm cho nhà cầm quyền Sài Gòn sinh nghi và quyết định giải tán CLBHS. Cạp vỏ dưa, thấy vỏ dừa thì sợ. Bấy giờ là sau khởi nghĩa Nam Kỳ. Như vậy là nhà cầm quyền chọc tức tuổi trẻ, vô tình nhà cầm quyền Pháp gắn liền CLBHS với nhân dân khởi nghĩa mà chúng vừa nhận chìm trong máu.
Trong không khí Nam Kỳ khởi nghĩa bị trấn áp dã man còn CLBHS thì bị giải tán, tâm trạng của tuổi trẻ không khỏi bàng hoàng. Người ta cho rằng phần nào đó, bài hát “Khóc quốc hồn” – nhạc của Mỹ Ca, lời của Mai Văn Bộ – một lúc phổ biến trong học sinh Nam Kỳ là ít nhiều biểu hiện tâm trạng có lúc bàng hoàng đó nếu có và nếu có thì ấy là một cái bàng hoàng đang chuyển sang sự chuẩn bị thái độ chống đối. Phương hướng hành động thì chưa có, mà lòng yêu nước thương nòi thì sẵn rồi:
Hương trầm theo gió đưa
Khơi nguồn thương tiếc xưa,
Tiếng nước non vang rền dư âm,
Điêu tàn thay quốc gia,
Đau lòng thương xót xa,
Khóc giống nòi bao đời lầm than…
Sau khi CLBHS Sài Gòn bị giải tán thì một số cậu tú Sài Gòn đi học Đại học Hà Nội. Lúc này, sinh viên Hà Nội có một tổ chức (hợp pháp) gọi là “Tổng hội sinh viên Đông Dương” (A.G.E.I). trong Tổng hội này xu hướng trì trệ và xu hướng tiến bộ chọi nhau “trì trệ” không có nghĩa là theo Tây mà có nghĩa là: hãy lo việc học giỏi, thi đậu, lấy bằng đã rồi sẽ hay. Sinh viên y khoa Phạm Biểu Tâm, chủ tịch Tổng hội, đại diện cho khuynh hướng này. Còn “tiến bộ” có nghĩa là học hành nhưng đồng thời quan tâm nhiều đến những việc yêu nước thương dân; con người thì ở Hà Nội mà chí khí thì ở Việt Bắc (nơi đó nghe nói có chiến khu). Xu hướng trì trệ bị đẩy lùi, xu hương tiến bộ thắng thế với việc bầu sinh viên Luật khoa Dương Đức Hiền lên làm chủ tịch Tổng hội sinh viên Đông Dương. Ngay trong sinh viên Nam Kỳ cũng có hai phe, một phe “trưởng giả” và một phe mà sau này người ta gọi là “dám nghĩ dám làm”, học thì giỏi mà “xem thường công danh như phù vân”: một mức, còn thấp, của sự phân hoá chính trị trong tình thế chiến tranh và cách mạng.
Hè năm 1942, một số sinh viên Nam Kỳ ở Hà Nội về Sài Gòn, liên kết với học sinh các trường trung học Sài Gòn để mở một đợt hoạt động văn hoá và chính trị. Lúc này thì toàn quyền Decoux đã tuyên bố chính sách mới của y rồi, sinh viên học sinh có thể lợi dụng được một số điểm của chính sách ấy. Đứng ngoài ngó vào, ở xa đọc báo (như tôi hồi này đang ở U Minh, Rạch Giá) thì có thể ngờ rằng cái đám sinh viên, học sinh này, ít nhất, những anh cầm đầu, là tay sai của Decoux, đi truyền bá học thuyết “cách mạng quốc gia” của Pétain và bè lũ. Tại trụ sở quen thuộc của SAMIPIC (Sài Gòn), sinh viên Mai Văn Bộ lên đàn diễn thuyết về “Con đường cách mạng quốc gia”. Vậy đích thị Pétain - Decoux chớ còn gì nữa? Thế nhưng không phải! Bình tây mà rượu đế! Diễn giả hô hào tuổi trẻ Việt Nam “hãy làm một cuộc cách mạng trong tâm hồn và trong tư tưởng mình trước tình hình biến động hiện này và hãy trở về với chân giá trị dân tộc”. Vẫn còn mù mờ gần như buổi diễn thuyết của Nguyễn An Ninh năm 1923, cũng tại hội trường SAMIPIC này, khi ấy anh Ninh hô hào thanh niên hãy đi tìm lý tưởng, khác một điều là hai mươi năm trước Nguyễn An Ninh bảo thanh niên phải dám rời bỏ tổ ấm gia đình, đi thật xa, tìm chân trời mới. Còn bây giờ Mai Văn Bộ hô hào thanh niên “hãy trở về với giá trị dân tộc”. Xét cho cùng thì ở hai đầu của thời gian lịch sử hai mươi năm, hai diễn giả bổ túc cho nhau chớ không đối lập nhau, duy cả hai, ít ra là trong diễn văn của họ, không ai nói lên được cái lý tưởng (khi ấy gọi là cao vọng) mới đó là gì và cái chân giá trị truyền thống dân tộc đó là gì. Dù sao đi nữa, diễn văn của Mai Văn Bộ đã gieo vào tâm trí một số thanh niên Sài Gòn, thanh niên lục tỉnh, những khái niệm “cách mạng tư tưởng”, “cách mạng tâm hồn”, “chân giá trị dân tộc”. Lần theo đường tìm hiểu những khái niệm đó, có thể và sẽ gặp cách mạng giải phóng dân tộc mà Đảng Cộng sản chủ trương, tôi sơ bộ nghĩ như vậy.
Còn vở kịch hè 1942 của sinh viên học sinh Sài Gòn là gần như vô thưởng vô phạt.
Bộ ba Hoàng Mai Lưu năm 1955 tại Hà Nội.
Từ trái sang phải : Huỳnh Văn Tiểng, Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ
Đáng chú ý hơn hết là sự xuất hiện một hiện tượng văn hoá đặc sắc trước kia ít thấy trong vòng hợp pháp; nhiều bài ca nhạc mới được phổ biến, mang nội dung chính trị tiến bộ; nổi tiếng nhất là bài “Tiếng gọi sinh viên” của Lưu Hữu Phước, lời ca của Mai Văn Bộ[10], nhạc hùng tráng, lời mạnh mẽ, tinh thần quật cường, có giá trị cổ động như hàng trăm người hô hào.
“Này sinh viên ơi, đứng lên đáp lời sông núi!”
Không còn sướt mướt nữa như trong “Khóc quốc hồn” năm trước, mà kêu gọi tuổi trẻ nỗ lực vượt khó, mở đường, bền chí trước mọi khó khăn.
“Thời khó, thế khó, khó làm yếu ta
Dù muôn chông gai vững lòng chi xá…”
Hè 1942, hoạt động của học sinh, sinh viên để lại một kỷ niệm khó quên được tô đậm bằng hoạt động của họ cuối 1942, khi Sài Gòn có hội chợ lớn. Thừa hội chợ, Tổng hội sinh viên Đông Dương gởi vào một đoàn đông hơn 100 người (do Nguyễn Ngọc Minh, Huỳnh Văn Tiểng, Lê Khắc Thiều cầm đầu). Vào Sài Gòn, đoàn sinh viên đã đông rồi, lại được tăng cường bởi hàng trăm học sinh nam nữ của hai trường Pétrus Ký và Nữ học đường; đoàn hoạt động rầm rộ lắm. Tinh thần sinh viên, học sinh bồng bột, tinh thần công chúng Sài Gòn cũng bồng bột, hai bên gặp nhau ở chỗ khêu gợi ý thức yêu nước và tự hào dân tộc. Đứng xa mà ngó (cuối năm 1942, tôi mới chuẩn bị rời U Minh) thì nửa mừng nửa lo. Mừng là vì phong trào nhân dân ở Sài Gòn hình như bắt đầu lên trở lại, có lẽ tự phát, nhưng không thể chối cãi là có thật. Lo là vì, lạ quá, tại sao lại nổi lên được cuộc vận động sinh viên, học sinh khá lớn như vậy, hay là phong trào này do một đảng quốc gia tư sản, tiểu tư sản nào khuấy động? Nếu vậy thì ta vừa thêm đồng minh mà cũng vừa thêm đối thủ đấy! Tôi nghĩ như vậy. Nghĩ sai. Có đồng minh chớ không phải gặp đối thủ.
Không thể kéo dài cuộc ẩn náu trong rừng tràm, trong vườn thơm nữa. Phải mau mau trở về Sài Gòn thôi. Về hỏi anh Oanh, anh Chí mới rõ được. Về mới có thể theo kịp với thời cuộc bắt đầu chuyển. Quân Đức đang đại bại trước Stalingrad, ngọn gió chiến tranh thế giới đổi chiều.
Sự xuất hiện của đoàn sinh viên, học sinh hơn 200 người kia làm cho Sài Gòn vốn rộn rịp vì hội chợ càng thêm rộn rịp. Đoàn bắt đầu hoạt động bằng một buổi dạ hội ở một nhà hát lớn. Nói là “Nhà hát lớn” chớ nó lớn lao gì đâu! Ngồi chen chúc thì được một ngàn người là cùng. Nhưng nó “oai”: không phải ai cũng thuê được; phải có thân thế mới thuê được. Đoàn sinh viên, học sinh thuê được bởi vì Decoux kẹt cứng trong cái đường lối “liên bang” của y, buộc y phải thừa nhận “thực tế dân tộc”, phải mua lòng thanh niên, nhằm tranh giành ảnh hưởng với Nhật Bản. Độ 42, 43 này, cuộc “tranh giành” đó dữ dội lắm. Cho nên bọn đầu xanh “dám nghĩ dám làm” lại được một số nhân vật bự (như Michel Văn Vĩ - Giám đốc Ngân hàng Pháp-Hoa) ủng hộ mạnh, họ được phép vào cửa Nhà hát lớn Sài Gòn diễn thuyết về một đề tài rất hấp dẫn là “Trần Hưng Đạo phá Nguyên” và giới thiệu các bài ca nhạc yêu nước mới. Ở Nhà hát lớn mà diễn thuyết về Trần Hưng Đạo phá Nguyên thì khác gì nổ bom (tư tưởng) trong thành phố từng được gọi là “Hòn ngọc Viễn Đông”? Hai diễn giả Nguyễn Ngọc Minh và Trần Văn Khê thuở ấy là sinh viên không tên tuổi gì lắm; nhưng khán giả đông nứt rạp vì các đề tài nói chuyện riêng nó đã hấp dẫn rồi!
“Trần Hưng Đạo phá Nguyên” thì người Việt Nam có học chút ít, ai mà không biết? Diễn giả lại là một sinh viên luật khoa, biết gì nhiều về lịch sử đâu, vậy mà anh được công chúng hoan nghênh nhiệt liệt. Có lẽ vì câu chuyện gảy đúng sợi dây đàn tự hào dân tộc trong tâm hồn của người Việt Nam. Có lẽ vì chuyện thì xưa mà ý thì nay: dân tộc Việt Nam nhỏ yếu phen này phải đánh đế quốc hùng cường và phải thắng, chẳng phải thấy ông cha ta đã đánh bại quân Nguyên đó sao? Diễn giả hoàn toàn không đụng chạm tới Nhật, tới Pháp mà thính giả thì cứ nghĩ đến việc giải phóng dân tộc trước mắt. Có lẽ vì mấy năm nay, người mình mệt nghe đại thắng của Đức, của Nhật, bây giờ cần nghe và được nghe đại thắng của Việt Nam. Trong đầu của nhiều người: chuyện xưa đã có thì nay sao không thể có? Dám có lắm chớ! Cho nên khi Minh chấm dứt bài nói, thính giả “vỗ tay dài như không bao giờ dứt”. Tâm hồn Việt Nam của dân Sài Gòn biểu lộ rõ: người ta vỗ tay cho tổ tiên ông cha mình anh hùng, cho ngày mai vinh quang của dân tộc. Đêm ấy, đi về, người ta bảo nhau “Sài Gòn nổi sóng Bạch Đằng!”.
Nhớ lại mấy năm trước, hồi thời Mặt trận bình dân, hồi thời nhóm La Lutte và Le Peuple xung khắc nhau, La Lutte là đệ tứ, Le Peuple là đệ tam, giáo sư Trần Văn Thạch trên La Lutte tuyên bố rằng “đã lâu rồi, sợi dây đàn yêu nước trong lòng bọn tôi không còn rung lên nữa” (il y a longtemps, chez nous, la fibre patriotique ne vibre plus)[11]. Ý muốn nói rằng chủ nghĩa yêu nước không còn được xem là có khả năng kích thích nữa. Thì nay, ở Nhà hát lớn Sài Gòn, người ta thấy cái chủ nghĩa yêu nước truyền thống rõ ràng là có tác dụng kích thích rất cao ở Nam Kỳ cũng như ở cả nước Việt Nam. Đảng Cộng sản phất cao ngọn cờ chủ nghĩa yêu nước cách mạng; sinh viên, thanh niên và Đảng cộng sản gặp nhau ở đây.
Sau diễn thuyết có đồng ca mấy bài hát yêu nước. Lại có triển lãm của Vương Quang Lễ về “nguồn gốc của dân tộc Việt Nam”.
Công chúng theo dõi sự hoạt động của sinh viên, học sinh một cách rất cảm tình. Đồng chí Oanh (tức Bạch Đằng lớn) mừng lo lẫn lộn, lo hơn là mừng. Anh báo cáo, nói rằng anh ngờ rằng, đằng sau việc này, hoặc có một ý đồ gì của đế quốc Pháp, muốn khai sinh cho một loại chủ nghĩa quốc gia cải lương tả phái mang nhiều khả năng hấp dẫn thanh niên hơn là các loại quốc gia cải lương hữu phái bất lực trước đây; nếu không phải như vậy thì tại sao đám chính khách và nghệ sĩ này mượn được Nhà hát lớn để vận động cho chủ nghĩa dân tộc? Hoặc có một chánh đảng quốc gia tư sản nào đứng sau lưng đám thanh niên hăng hái này. Lịch sử hiện đại sau chiến tranh thế giới thứ nhất cho biết rằng, ở nhiều xứ thuộc địa và nửa thuộc địa, phong trào học sinh, sinh viên chống thực dân thường gắn liền với một chính đảng quốc gia tư sản hay một tôn giáo có tinh thần dân tộc. Đồng chí Oanh không tự giải đáp cho mình được thì làm sao các bạn xung quanh cũng thắc mắc như anh. Anh chờ tôi về Sài Gòn.
Khoảng vài tháng đầu năm 1943, tôi có mặt gần như thường trực ở Sài Gòn, bỏ đứt vườn thơm mười mẫu cho anh Hai Đen, tức anh Mười Nhung (Chợ Lớn) muốn làm gì thì làm. Tôi về Sài Gòn không phải vì bị kích thích bởi phong trào sinh viên học sinh mà được thúc đẩy bởi chiến thắng Stalingrad của Hồng quân Liên Xô trước hết. Tôi xáp gần sinh viên học sinh yêu nước, sinh viên học sinh yêu nước xáp gần tôi. Hai bên cần nhau. Nhớ rằng hơn mười năm trước, 1930, Xứ uỷ do Ung Văn Khiêm làm Bí thư chỉ định hai thanh niên đảng viên được vào Ban phản đế và học sinh của xứ: tôi và Hải Triều. Thanh vận không phải là việc mới đối với tôi. Một cái “nghiệp” (nói theo kiểu nhà Phật), “đã mang lấy nghiệp vào thân”.
Hè năm 1943, sinh viên người Nam Kỳ học ở Hà Nội lại về Sài Gòn. Lại hợp tác với học sinh Sài Gòn. Lại hoạt động văn hoá. Họ trình diễn liên tiếp ba vở kịch: “Đêm Lam Sơn”; “Nợ Mê Linh”, “Hội nghị Diên Hồng”. Cả ba đều của Huỳnh Văn Tiểng.
Toàn là những đề tài lịch sử, đề tài yêu nước chống ngoại xâm. Tôi không được đi xem diễn, chỉ được đọc kịch bản “Hội nghị Diên Hồng”. Không có vở nào cấu kết hay. Diễn xuất không có gì xuất sắc. Nhưng công chúng Sài Gòn hoan nghênh “Đêm Lam Sơn” dữ lắm. Tại sao? Tìm hiểu thì có thể thấy được rằng điều đó chứng tỏ một tâm trạng chính trị của quần chúng mà những người cán bộ Đảng cách mạng không dễ xem thường: bằng mọi cách khêu gợi lòng yêu nước, khêu gợi tinh thần dân tộc, khêu gợi tự hào dân tộc, thì dễ khuấy lên được phong trào quần chúng, đẩy nhanh cách mạng tới trước, chớ nếu chỉ lo bênh vực quyền lợi thiết thực của dân thì chưa đủ, không đủ. Đành rằng người cộng sản không được một phút xem nhẹ quyền lợi thiết thực của dân, nhưng, trước mắt và lâu dài, nếu muốn huy động hết sức đông đảo quần chúng thuộc tất cả các tầng lớp xã hội thì phải giương cao ngọn cờ dân tộc, phải không rời chủ nghĩa yêu nước chân chính. Vở kịch “Đêm Lam Sơn” gây xúc động lớn. Tới màn chót, khi Lê Lợi tuốt gươm thề quyết tâm tiêu diệt giặc Minh, thì cả rạp hát công chúng, không ai bảo ai, đều đứng dậy, vỗ tay, hò reo, nhịp tay nhịp chân đồng hát và hát đi hát lại bài “Tiếng gọi sinh viên” (từ nay được đổi tên là “Tiếng gọi thanh niên” cho hợp với yêu cầu xã hội và chính trị). Dư luận Sài Gòn nêu cao sức đồng cảm sâu sắc giữa người xem vở kịch và tác giả, diễn viên vở kịch yêu nước. Đêm ấy, anh Oanh đi xem về, kết luận rõ ràng: ta phải đến với nhóm sinh viên, học sinh này, phát huy đầy đủ khả năng của họ, hướng dẫn họ đi đúng đường, bằng không thì hoặc địch (Pháp hay Nhật) sẽ lợi dụng họ, sẽ lái họ vào đường sai lầm nguy hiểm, hoặc tự họ sẽ tổ chức thành một chánh đảng quốc gia tiểu tư sản, khi ấy sẽ khó nắm họ hơn nay. Tôi đồng ý. Nhất là vì, ít lâu nay, do điều tra, tôi biết chắc rằng phong trào sinh viên, học sinh là một phong trào tự phát. Còn như nếu phải trả lời câu hỏi tại sao Toàn quyền Đông Dương và Thống đốc Nam Kỳ cho phép sinh viên, học sinh hoạt động như thế kia mà không kiểm duyệt kịch bản, cấm cản công diễn, thì trước hết ta chớ nghi ngờ tấm lòng trong sáng của tuổi trẻ, ta hãy tìm nguyên nhân trong chính sách “Liên bang” của Decoux thì rõ (tuyên cáo của Xứ uỷ chú trọng đến việc phê phán “chủ nghĩa Liên bang của Decoux”). Nói theo kiểu của ta thì ấy là đám thanh niên táo bạo và yêu nước kia đã biết “lợi dụng khả năng công khai hợp pháp” tựa như Xứ uỷ Nam Kỳ năm 1933, mười năm trước, đã lợi dụng khả năng hợp pháp đưa “Sổ lao động” Nguyễn Văn Tạo tranh cử hội đồng thành phố.
Cũng trong hè 1943, sinh viên, học sinh tổ chức cắm trại ở bờ suối Lồ Ồ, gần Thủ Đức. Việc cắm trại Lồ Ồ sẽ tạo ra một mẫu cắm trại phổ biến trong học sinh các trường trung học Nam Kỳ. Trại trưởng trại Lồ Ồ là Đặng Văn Chung, nội trú năm thứ VI trường đại học Y khoa. Anh này xem chừng như không sợ mất bằng cấp bác sĩ đã ở trong tầm tay. Nhiều sinh viên, nhất là các cậu người lục tỉnh “xem thường công danh”, trước mắt họ, đường đời rộng thênh thang, đâu phải chỉ có hoạn lộ? Trại viên tự rèn luyện tinh thần đoàn thể, kỷ luật, tự quản; cũng còn luyện cho mình lòng yêu đồng bào, yêu nhân dân: trại viên là sinh viên y thì khám bệnh, chữa bệnh, truyền bá vệ sinh; trại viên khác thì dạy chữ, dạy hát; tất cả tổ chức nhiều màn kịch cho đồng bào xem. Trại là một lớp học sử, lịch sử nước nhà trước hết, học sử để tự hào dân tộc, để tự lập, tự cường. Ngày ngày, nhất là thứ bảy, chủ nhật, đồng bào trí thức, nhân sĩ, thanh niên từ Sài Gòn, từ các tỉnh đến thăm trại. Trại Lồ Ồ chỉ có một tháng mà ảnh hưởng của nó trong học sinh thì dài hơn nhiều.
Sau trại Lồ Ồ, học sinh Sài Gòn dẫn đầu là học sinh Pétrus Ký tổ chức đoàn SET[12] (đoàn du lịch và cắm trại). Cái tên vô thưởng vô phạt đó gói bên trong một tổ chức thanh niên yêu nước hẹp hơn, một “hạt nhân” gọi là “Đoàn Hùng”. “Đoàn Hùng” không phải là thanh niên cộng sản hay thanh niên cứu quốc đâu, nhưng nó đã có ít nhiều màu sắc chính trị yêu nước, làm nòng cốt cho SET; SET lấy huy hiệu “con đường”, nền xanh tươi, đường đỏ hồng. Có nhiều cách giải thích ý nghĩa của huy hiệu: nền xanh là tuổi trẻ, đường đỏ là cách mạng; hoặc, ôn hoà hơn: đường đỏ thắm chạy thẳng trên cánh đồng xanh um. Thanh niên đoàn viên hát:
Trời mây lồng lộng,
Đồng ruộng mênh mông,
Chân trời xa xa,
Con đường màu hồng,
Cùng nhau thẳng tiến.
Ai muốn hiểu “con đường màu hồng” là gì, thì tự do: đường cách mạng hay là đường đá Biên Hoà.
Đoàn SET có thể được xem như dọn một khúc đường cho Thanh niên Tiền phong sau này. Đoàn viên hợp thành một đội ngũ, mặc đồng phục, quần soóc màu, sơ mi trắng, ngực đeo biểu tượng “con đường” đi, nghỉ theo sự chỉ huy hoàn toàn bằng tiếng Việt. Đến tập trung, đi cắm trại, đoàn viên vừa đi vừa hát bài “Tiếng gọi thanh niên”. SET cũng tổ chức dạ hội. Tháng 12 năm 1944, SET trình diễn vở kịch “Nguyễn Huệ phá Thanh”, được đồng bào cổ vũ, lại một sự kiện văn hoá nhằm nói lên cái chân lý rằng một dân tộc nhỏ có thể đánh bại được một kẻ xâm lược lớn, rất lớn. Tư tưởng chính trị này phù hợp biết mấy với tình hình đất nước ta lúc đó.
Đoàn trưởng thứ nhất của SET ở Sài Gòn là Trịnh Kim Ảnh, con một ông thợ mộc ở Thủ Dầu Một. Đoàn trưởng kế tiếp là Đỗ Tường Hoàn, cháu ruột của vợ tôi. Ở Tân An, Mỹ Tho, Cần Thơ, Thủ Dầu Một cũng có đoàn SET.
Anh em trong Xứ uỷ chúng tôi rất lúng túng trong việc cần thiết phải tìm ra – như anh Dương Văn Phúc thường nói, những “hình thức tổ chức biến tướng” để tập hợp quần chúng cho thật đông. Cái “đường mòn” là lập ái hữu, trợ táng, đổi công, hội thể thao, v.v… những thứ biến tướng đó vào buổi này không mấy hấp dẫn và không mấy tác dụng trong tình thế chiến tranh và cách mạng. Đối với thanh niên, SET có phần hấp dẫn, nhưng nó chỉ là một tổ chức có tính chất văn hoá, còn cái mà ta cần hiện giờ và sắp tới là một tổ chức rất rộng lớn mang tính chất chính trị, yêu nước, cao hơn SET, chẳng những của học sinh mà của các tầng lớp trẻ tuổi khác nữa. Cao hơn SET thì là cái gì? Chưa trả lời được. Dù sao thì sự xuất hiện, sự hoạt động của SET cũng gợi ý cho chúng ta rất nhiều.
Mùa đông 1944, nhiều sinh viên Nam Kỳ học ở Hà Nội khởi xướng một phong trào mới lạ mà hợp thời, ấy là phong trào “xếp bút nghiên”. Không phải chỉ có những người học năm thứ hai, thứ ba đại học, có cả những người học năm thứ năm, thứ sáu, sắp thi ra, như anh Huỳnh Bá Nhung, họ cho rằng lúc này không phải là lúc chà mòn đũng quần trên ghế nhà trường nữa để lấy một cái văn bằng ra làm ăn, cưới vợ giàu; không phải “công danh trước đã, sau sẽ hay”. Họ nhận định rằng tình thế kêu gọi thanh niên các trường Đại học “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu” sát cánh với nhân dân để giành độc lập tự do. Đúng là “xếp bút nghiên theo việc kiếm cung”. Hoạt động như thế nào, họ chưa biết rõ lắm. Song họ biết rằng, về Nam họ sẽ tìm Đảng bộ Cộng sản và Kỳ bộ Việt Minh ở đó. Họ đi về bằng xe đạp, vừa đạp xe vừa ca hát để thâu đường ngàn dặm.
“Xếp bút nghiên, lên đường đấu tranh
Coi thường công danh như phù vân.
Xếp bút nghiên, sơn hà xao xuyến, tiến ta tiến!
Hồn Việt Nam hùng thiêng,
Từ nghìn xưa bừng chuyển,
Kêu ta lên đường…
(nhạc Lưu Hữu Phước, lời Huỳnh văn Tiểng)
Hàng trăm sinh viên Hà Nội tiễn đưa các bạn “xếp bút nghiên” của họ bằng xe đạp. Tới Hà Nam, một số sinh viên “xếp bút nghiên” bị Pháp bắt đày lên Sông Đà, số còn lại về tới Sài Gòn bắt tay ngay vào việc truyền bá quốc ngữ, sang báo Thanh niên làm cơ quan tuyên truyền, ban biên tập báo Thanh niên có Huỳnh Tấn Phát (kiến trúc sư), Huỳnh Văn Tiểng (sinh viên y khoa), Nguyễn Hải Trừng (hoạ sĩ và thi sĩ). Trong lúc Đảng Cộng sản tìm cách đi đến với sinh viên, thanh niên, trí thức thì họ cũng tìm cách bắt liên lạc với Đảng Cộng sản. Họ tỏ ý muốn học chính trị, học lý luận và kinh nghiệm cách mạng. Phạm Ngọc Thạch (và cả Huỳnh Văn Phương[13] nữa) nói với họ rằng ở Sài Gòn bây giờ chỉ có anh Ba (cũng gọi là anh Sáu) mới có thể thoả mãn được yêu cầu sinh viên, thanh niên, trí thức, các trường đại học. Anh Ba, anh Sáu đó là tôi.
Thế là tôi buồn ngủ mà gặp manh chiếu! Xứ uỷ đồng ý mở lớp huấn luyện liên hoàn cho thanh niên trí thức, một ít lâu sau khi mở lớp huấn luyện cán bộ công đoàn. Nói “liên hoàn” là nói: những chú đi học ở Sài Gòn ngày chủ nhật, ngày thứ hai về cơ sở, về tỉnh, tập hợp anh em nói lại bài đã học, rồi thứ bảy lại lên Sài Gòn để sáng chủ nhật học nữa. Cứ như thế. Tôi còn nhớ tên một số thanh niên trí thức dự lớp học chính trị vào đầu năm 1945 như: Huỳnh Tấn Phát, Trần Bửu Kiếm, Huỳnh Văn Tiểng, Vương Văn Lễ, Nguyễn Việt Nam, Tạ Bá Tòng, Trường Công Cán, Trương Công Trung, Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Trương Cao Phước, Trương Công Nhơn, Trần Ngọc Hiền, Lương Phán, Bùi Sĩ Hùng, v.v… Bên công đoàn cũng qua học bên sinh viên như: Hoàng Đôn Văn, Từ Văn Ri, Huỳnh Đình Hai, Sỹ Trúc, mấy tay công đoàn này cũng xấp xỉ tú tài cả (tất cả đều tham gia cách mạng và kháng chiến đến cùng). Thật là một lớp thanh niên đẹp, đẹp lắm!
Lớp học đầu tiên mở tại nhà một dược sĩ giàu có, tiến bộ, anh Trần Kim Quang.
Chương trình học là tám bài về chủ nghĩa Lenin, lý thuyết và thực hành, mỗi bài liên hệ mật thiết với các vấn đề cách mạng Đông Dương. Chương trình nhằm mục đích cung cấp cho thanh niên trí thức một lý tưởng cao đẹp và khoa học, cung cấp cho họ một đường lối cách mạng Đông Dương sáng tỏ, làm cho thanh niên trí thức tin tưởng chắc chắn vào sự thành công tất yếu của sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội. Tôi mở đầu chương trình bằng đề bài: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Tôi kết thúc chương trình bằng đề tài: Tình hình hiện tại và những nhiệm vụ cần kíp. Mỗi bài giảng xong thì Trần Bửu Kiếm cũng đã ghi xong các tiết mục và ý chính, đánh máy cho mỗi học viên một bản để về cơ sở, về tỉnh “quay” lại cho nhóm của mình (y như bên công đoàn). Tôi khuyến khích anh em đặt câu hỏi, bất cứ câu hỏi gì miễn là ở trong đề. Tôi trả lời tất. Qua các câu hỏi, tôi hiểu thêm thanh niên trí thức và qua các câu trả lời, anh em họ càng tin tưởng lý luận Marx-Lenin thật uyên thâm chứ không phải chỉ là lý luận thường thức.
Ban đầu tơi hơi bao sân. Sau đó Nguyễn Văn Nguyễn, Hà Huy Giáp tham gia giảng những bài phụ. Lớp học liên hoàn này của trí thức trẻ tuổi góp phần đào tạo kịp thời một số cán bộ nòng cốt của phong trào thanh niên phát triển nhảy vọt từ tháng 4 năm 1945 cho đến tổng khởi nghĩa tháng Tám.
Có thể thấy rằng lớp học hoàn toàn là lớp học cách mạng, cộng sản, nhằm cung cấp trong 2, 3 tháng cho mấy chục thanh niên trí thức và trí thức lý tưởng tốt đẹp và khoa học là chủ nghĩa cộng sản Marx-Lenin, nhằm cung cấp cho họ một hệ thống lý luận về chiến lược và chiến thuật cách mạng Đông Dương, nhằm đặt cho họ những nhiệm vụ trước mắt và cách thực hiện những nhiệm vụ cần thiết. Tóm lại, tôi không có nhân nhượng bất kỳ một số điểm nào về mặt tư tưởng, và anh em thanh niên trí thức rất nhất trí với tôi. Tất nhiên, vấn đề còn lại là hướng dẫn sự hoạt động thực tế của họ, bởi họ là những người trẻ tuổi, sôi nổi, tuy chưa có kinh nghiệm, dễ bị vấp thì họ cũng cứ đi tới nơi tới chốn, không ngồi lại nhất là không quay đầu nhất là một khi đã “giác ngộ lý luận” (conscience théorique).
Hoạt động của Xứ uỷ Nam Kỳ đang biến phong trào thanh niên trí thức, sinh viên, học sinh từ tự phát thành tự giác, biến những dòng suối nhỏ thành một nhánh sông đổ vào sông cái.
Chú thích của người biên tập:
1 Kempeitai : 憲兵隊 Hiến binh đội, bộ phận công an của quân đội Nhật Bản (1881-1945) thành lập theo mô hình Gendarmerie (Sen đầm) của quân đội Pháp. Công cụ trấn áp và đàn áp của phát xít Nhật ở Triều Tiên, Mãn Châu, Đông Dương… trong Thế chiến Thứ hai. Tại mỗi nước Nhật Bản chiếm đóng, Kempeitai sử dụng khá đông người bản địa. Ở Nam Kì, đặc biệt là hàng ngũ Cao Đài.
2 Gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần: Nhà nghèo mới biết (người) con nào có hiếu, nước loạn mới hiểu (ai là) tôi trung.
3 Bao cà ròn: bao (nhỏ) đan bằng cói.
4 Mái nước: chum nước.
5 Mỹ có kế hoạch đổ bộ lên Đông Dương không? Kế hoạch quân sự ấy liên quan thế nào với ý đồ chính trị của Hoa Kì đối với Đông Dương và vai trò của Pháp? Đúng là mùa hè 1944 tổng thống F. Roosevelt đã ra lệnh cho bộ tổng tham mưu chuẩn bị kế hoạch đổ bộ lên đảo Hải Nam và vào bắc Trung Kì và Bắc Kì, lấy đó làm bàn đạp đánh lên phía bắc. Ý đồ chiến lược này giải thích một phần các cuộc ném bom của Mĩ ở Đông Dương, và đó cũng là nguyên nhân chính thúc đẩy Nhật đảo chính, hất cẳng Pháp (9.3.1945). Về mặt chính trị, Roosevelt sử dụng ngôn ngữ “đả thực”, hứa hẹn sau ngày chiến thắng phe Trục, sẽ đặt các nước thuộc địa dưới sự ủy thác quốc tế, tiến dần (20 năm?) tới tự chủ, độc lập. Những tuyên bố của ông khá mập mờ, không rõ sẽ áp dụng cho các thuộc địa của phe Trục, hay cho cả các thuộc địa của những nước đồng minh. Một điều chắc chắn: Roosevelt không có ý hoặc không muốn đụng tới thuộc địa của Anh; còn đối với thuộc địa của Pháp, thì tùy nơi. Bắc Phi và Phi châu, không đụng tới, thậm chí còn cam kết tôn trọng chủ quyền của Pháp. Còn đối với Đông Dương, thì trong nội bộ chính quyền, hoặc trong các cuộc gặp riêng với Stalin và Tưởng Giới Thạch, Roosevelt tỏ ý không cho Pháp quay trở lại Đông Dương, và nêu khả năng Mỹ-Trung cùng ủy trị. Ý đồ này không những gặp sự kháng cự của Churchill (vì quyền lợi đế quốc Anh, Churchill ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương) mà còn gặp sự bất tuân của ngay bộ máy Bộ ngoại giao Mĩ. Chỉ có bộ phận OSS ở Vân Nam và Hoa Nam là ủng hộ, thậm chí còn đi xa hơn trng việc ủng hộ Việt Minh và ngăn cản đoàn Sainteny – một phần vì họ được Hồ Chí Minh chinh phục, một phần vị trong số họ số đông là những người có tư tưởng phóng khoáng, một số tiến bộ (sau này, từ Việt Nam về Mĩ, chiến tranh lạnh bắt đầu, nạn McCarthy hoành hành, họ sẽ bị loại trừ hoặc phải “lặn” mất tăm). Trong mấy thập niên sau đó, người ta vẫn giữ hình ảnh “chống thực dân” của Roosevelt và tưởng rằng khi ông mất đi, Truman mới chịu để cho Pháp trở lại Đông Dương. Vậy mà không phải vậy: ngay từ tháng 2.1945, Mĩ quyết định đánh thẳng từ Philippines lên Okinawa, bỏ kế hoạch đổ bộ lên Hải Nam và miền Bắc Việt Nam, câu chuyện “ủy trị” đã chìm xuồng. Khi huân tước Mountbatten chấp nhận cho Sư đoàn thiết giáp số 2 của tướng Leclerc tham gia lực lượng chuẩn bị đánh (hay giải giới) Nhật, Roosevelt biết mà không ngăn chận. Ông còn cho phép Bộ ngoại giao bắn tin cho phép Pháp trở lại Đông Dương dưới một dạng nào đó. Và một tháng sau khi Roosevelt từ trần (12.4.1944), tại hội nghị San Francisco (tháng 5.1945), ngoại trưởng Mĩ Edward Stettinius đã có thể tỉnh bơ nói với Georges Bidault, bộ trưởng ngoại giao của de Gaulle, rằng “chính phủ chúng tôi chưa bao giờ có tuyên bố chính thức nào… đặt vấn đề, dù chỉ là hàm ý, về chủ quyền của nước Pháp ở Đông Dương cả” (xem tác phẩm của David G. Marr, Stein Tonnesson, George C. Herring, và lưu trữ Bộ ngoại giao Mĩ trên mạng)..
6 Nhẩm xà: uống trà.
7 Năng thuyết bất năng hành: nói thì giỏi làm thì không.
8 Paul Blanchy: nay là đường Hai Bà Trưng.
9 Có thể đọc thêm hồi kí của Mai Văn Bộ: Một ký ức sâu sắc không thể nào quên. Trong: http://www.petruskylhp.org/hkymvbo.htm
10 Bài Tiếng gọi sinh viên, trở thành Tiếng gọi thanh niên (có thể nghe trên Youtube: http://www.youtube.com/watch?v=9RVWWovJwHw ) sau này đã bị chính quyền “quốc gia” rồi các chính quyền Việt Nam cộng hòa (1955-1975) mượn tạm làm quốc ca (đổi tên thành Tiếng gọi công dân). Trong suốt 15 năm trời (1960-1975), hai lực lượng, chính quyền đối nghịch nhau ở miền Nam Việt Nam đểu sử dụng làm bài ca chính thức tác phẩm của cùng một nhóm ba tác giả: Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước (mang tên tập thể, lấy từ ba họ: Hoàng Mai Lưu) tức là Huỳnh Minh Siêng (tác giả bài Giải phóng miền Nam) – có lẽ đây là trường hợp có một không hai trong lịch sử chính trị thế giới. Hoàng Mai Lưu đã sáng tác nhiều bài ca và nhạc kịch trong phong trào thanh niên những năm 1940. Năm 1960, khi thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Lưu Hữu Phước đã sáng tác lời, Mai Văn Bộ và Huỳnh Văn Tiểng soạn lời. Họ gửi vào chiến khu miền Nam, ký tên là Huỳnh Minh Liên (không ký Hoàng Mai Lưu, sợ “lộ bem”, nhưng vẫn giữ ba chữ cái HML). Bài ca được chấp nhận, điện gửi ra Hà Nội, viết tên tác giả là Huỳnh Minh Liêng. Tại Hà Nội – thời ấy người ta còn coi trọng chính tả –thấy chữ Liêng không có nghĩa, bèn nhanh nhảu sửa thành Huỳnh Minh Siêng, khiến cho tác giả bản nhạc (Lưu Hữu Phước) mất luôn cả chữ L trong cái tên tập thể.
11 La Lutte và Le Peuple: La Lutte từ 1933 đến tháng 5-1937 là tờ báo chung của phái tả, do Nguyễn An Ninh khởi xướng, tập hợp cả “đệ tam” (Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Nguyễn) lẫn “đệ tứ” (Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Huỳnh Văn Phương, Trần Văn Thạch, Hồ Hữu Tường). Đó là thời gian hai phái vừa “đoàn kết” vừa “đấu tranh”. Đến khi “đấu tranh” lấn át “đoàn kết” (xung đột trên nhiều vấn đề: thái độ đối với Mặt trận Bình dân Pháp, dân tộc và giai cấp) và dưới sức ép của Quốc tế Cộng sản (thông qua Đảng Cộng sản Pháp), phái “đệ tam” rút khỏi báo La Lutte; báo này (và ấn bản tiếng Việt Tranh Đấu) trở thành cơ quan của riêng xu hướng tờ-rốt-kýt (“đệ tứ quốc tế”); xứ ủy Nam Kỳ của ĐCS ra báo Le Peuple và Dân Chúng. Nhược điểm chính của những người tờ-rốt-kýt là coi nhẹ yếu tố dân tộc. Đây cũng là nhược điểm của phái “đệ tam” nhất là trong thời kì đi theo chủ trương “giai cấp đối đầu với giai cấp” của Stalin (chính trong giai đoạn này, Nguyễn Ái Quốc đã bị lên án mạnh mẽ là “quốc gia chủ nghĩa” và “cải lương chủ nghĩa”). Phải từng bước, ĐCSVN mới thoát ra khỏi quan niệm tả khuynh giáo điều này. Nhưng đối với những người đã được đào tạo trong tinh thần ấy, tiếp thu quan niệm Mặt trận đoàn kết dân tộc như Việt Minh của Nguyễn Ái Quốc không phải dễ dàng. Sự mâu thuẫn giữa hai nhóm “xứ ủy Tiền Phong” và “xứ ủy Giải Phóng” còn phức tạp hơn. Ngoài yếu tố cá nhân, có lẽ còn một nghịch lí khác: tuy chưa biết và chưa thấm chủ trương Việt Minh, nhưng quan điểm của Trần Văn Giàu đã đặt nặng vấn đề dân tộc, trong khi các đồng chí đối nghịch với ông, tuy đứng trên danh nghĩa Việt Minh, tổ chức Thanh niên Cứu quốc, nhưng quan niệm chưa chắc đã gột rửa bệnh tả khuynh của thập niên 1930. Chúng tôi nêu điều này với tất cả sự dè dặt, ngày nào hồ sơ lưu trữ của ĐCSVN chưa được công khai hóa (về những sự việc đã đi vào lịch sử, cách đây 70 năm rồi).
12 SET: Section d’Excursion et de Tourisme (Đoàn du ngoạn và du lịch)
13 Huỳnh Văn Phương: thuộc xu hướng tờ-rốt-kýt (trong ban biên tập La Lutte), bà con với cậu sinh viên Huỳnh Văn Tiểng. Khi bộ ba Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước ngỏ ý muốn học hỏi về chủ nghĩa Marx, chính ông Huỳnh Văn Phương đã khuyên họ đi tìm Trần Văn Giàu mà học. Đây không phải là thí dụ độc đáo duy nhất về mối quan hệ giữa những người “đệ tam” và “đệ tứ” những năm 1930 ở Sài Gòn. Theo nhiều nhân chứng, trong những cuộc mít-tinh 1935-37 tại đây, có một cặp vợ chồng khoác tay đi dự: ông Phan Văn Hùm và bà Mai Huỳnh Hoa (vợ thứ nhì). Khi Phan Văn Hùm lên đài diễn thuyết tuyên truyền cho chủ nghĩa Trotsky, thì bà Hoa ngồi ghế cử tọa đứng dậy hô với giọng ỏn ẻn “Đả đảo tờ-rốt-kýt Phan Văn Hùm!”. Mít tinh kết thúc, chàng và nàng lại khoác tay nhau ra về. Tiếc thay, cuộc đấu tranh tư tưởng và chính trị ấy, mười năm sau, đã chuyển sang lãnh vực khác và biến chất như thế nào.