Thứ Tư, 1 tháng 12, 2010

Nguy cơ tụt hậu vĩnh viễn?

Nguyễn Tất Thịnh
Giảng viên Học viện Hành chính Quốc gia



 Gần đây một số chuyên gia và tổ chức nước ngoài có đưa ra vài nhận xét so sánh về mức độ, trình độ phát triển của Việt Nam với các quốc gia có tăng trưởng nhưng có nguy cơ tụt hậu vĩnh viễn.

Sự tụt hậu của một Quốc gia được đánh giá bằng (xem xét trên cơ sở những quyền Dân Sinh được Liên hợp quốc thừa nhận) :
1. Số danh mục giá trị văn minh tích lũy được của xã hội mà người dân mỗi nước được hưởng một cách phổ cập so với nước khác.
2. Tỷ lệ % trong giá trị tăng trưởng tuyệt đối mà mọi quốc gia sử dụng vào mục tiêu phát triển Dân Sinh như thế nào.
3. Bao nhiêu % Dân số có quyền Dân Sinh được đảm bảo trên thực tế ở mức độ nào trong thang bậc văn minh Nhân loại.
4. Khoảng cách thời gian dự kiến đạt được mức bình quân tiêu chuẩn quốc tế trên đầu người về những giá trị phúc lợi Dân Sinh.
5. Một cam kết cùng loại với toàn xã hội mà Chính phủ nước này phải mất bao nhiêu thời gian so với chính phủ nước khác.
6. Bao nhiêu năm nữa một Quốc gia mới đạt được mục tiêu Dân Sinh cao nhất mà Quốc gia khác đã đạt được.

Để chống nguy cơ tụt hậu vĩnh viễn cần:
1. Vấn đề cơ bản là cách Tổ chức tư duy trước thời gian và hành động với tốc độ tăng trưởng cao bền vững
2. Dân tộc có nguyên khí, hào khí, chí khí thông qua giáo dục tiến bộ, hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể thao, phong trào thời đại
3. Thể chế chính trị khai phát, tập hợp định hướng và thúc đẩy toàn bộ nội lực đất nước
4. Có được giá trị cốt lõi tích cực để phản tỉnh và nuôi dưỡng Danh dự mỗi công dân
5. Mọi giới, các tầng lớp xã hội dẹp bỏ mưu cầu vị kỷ, lợi ích riêng vụn vặt
6. Mở cửa xã hội toàn diện hướng tới văn minh

Lưu ý thêm:
Khi chính Nội lực, nguồn lực bên trong sử dụng không hiệu quả, lãng phí, lộn xộn, mà đi nhờ vả, vay mượn bên ngoài thì Tương lai quốc gia đó chỉ gánh nặng thêm những Của Nợ mà thôi, càng ngày càng hèn kém đi.


Mô hình tăng trưởng của Việt Nam đang mất dần động lực 

Tác giả: Cao Nhật

(VEF) - "Nếu Việt Nam không vượt qua được cách thức tăng trưởng hiện nay, quốc gia sẽ bị tắc ở mức thu nhập trung bình thấp và phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các nước thu nhập thấp hơn mới trỗi dậy".
Trong khi đó, việc quá phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài để gia tăng đầu tư nhằm tạo tăng trưởng sẽ tạo ra các mất cân đối vĩ mô nguy hiểm và có thể dẫn tới khủng hoảng.
Đó là những cảnh báo đáng suy nghẫm từ Báo cáo Năng lực cạnh tranh Việt Nam 2010, do Học viện Năng lực cạnh tranh châu Á (Singapore) hợp tác với Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) thực hiện dưới sự chỉ đạo nội dung của GS. Michael Porter - chuyên gia uy tín trong lĩnh vực cạnh tranh tới từ Trường Kinh doanh Harvard - được công bố hôm qua 30/11.

3 mất cân đối vĩ mô không thể xem thường
Theo phân tích của Báo cáo, hiện Việt Nam đang đối mặt với ba mất cân đối kinh tế vĩ mô khá nghiêm trọng.
Đầu tiên là lo lắng về thâm hụt thương mại đang ngày càng tăng: "Mặc dù được coi là một nền kinh tế định hướng xuất khẩu, Việt Nam đang nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu một cách có hệ thống".
Cùng với đó là quan ngại về khả năng trang trải các thâm hụt đối ngoại của Việt Nam ngày càng tăng với mức nợ công tăng lên và dự trữ ngoại hối giảm đi đáng kể, ảnh hưởng tới triển vọng của nền kinh tế.



Một điểm nữa cũng được nhóm nghiên cứu nhắc đến là tỷ lệ lạm phát của Việt Nam trong những năm qua ngày càng dao động mạnh, với xu hướng tăng lên đáng kể. Những dòng vốn ngoại lớn đổ vào cùng với tăng trưởng tín dụng trong nước đã gây ra áp lực đáng kể đối với lạm phát.
Vì thế, theo các chuyên gia của nhóm nghiên cứu, "khi Việt Nam vẫn duy trì tỷ giá danh nghĩa ở mức ổn định, lạm phát dẫn tới tỷ giá thực có hiệu lực tăng lên, buộc Việt Nam phải liên tục phá giá đồng tiền".
"Những mất cân đối này có thể gây ra những hậu quả không thể xem thường, ít ra là chúng tạo ra tâm lý với các nhà đầu tư rằng rủi ro khi đầu tư vào Việt Nam là rất cao", nhận định đưa ra trong báo cáo.
Cũng theo báo cáo thì khi niềm tin bị xói mòn và các dòng vốn nước ngoài chảy khỏi Việt Nam, quốc gia sẽ phải trải qua quá trình điều chỉnh rất khó khăn và phải thay đổi hoàn toàn các chính sách về tỷ giá, cắt giảm chi tiêu công và đánh mất đi thành quả tăng trưởng của rất nhiều năm trước đó.
"Mặc dù những phản ứng chính sách gần đây của Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận nhưng cho tới nay Việt Nam vẫn thiếu một chiến lược tổng thể để giải quyết các thách thức một cách toàn diện, hệ thống", báo cáo nhìn nhận.

Đòi hỏi những cách tiếp cận chính sách mới
Theo nghiên cứu của nhóm thực hiện, các doanh nghiệp vẫn phàn nàn nhiều về tình trạng không tìm được lao động có kỹ năng đáp ứng nhu cầu và sự thiếu hụt hạ tầng kỹ thuật, logistics và năng lượng.
Trong khi đó nguồn vốn FDI ngày càng tập trung vào lĩnh vực bất động sản và các ngành sử dụng nhiều lao động, chưa thấy rõ tác dụng lan tỏa tích cực của khu vực FDI đối với khu vực trong nước.
"Những khó khăn này là dấu hiệu phần nào cho thấy mô hình tăng trưởng hiện nay đang mất dần động lực", báo cáo nhận định.
Ngoài ra, chính sách kinh tế vĩ mô là một điểm yếu lớn trong những năm gần đây. Cụ thể thời gian qua chính sách tài khóa bị cản trở nhiều bởi các thâm hụt cơ cấu lớn của khu vực nhà nước.
Thêm vào đó, với những áp lực liên tục lên tỷ giá, tỷ lệ lạm phát cao, cũng như sự phát triển nóng của thị trường tài chính trước khi nổ ra khủng hoảng tài chính toàn cầu là những dấu hiệu về một chính sách tiền tệ còn có vấn đề.
"Đến nay, trọng tâm của chính sách chủ yếu tập trung vào gia tăng đầu tư, nhất là đầu tư vào DNNN và cơ sở hạ tầng để tạo ra tăng trưởng hơn là dựa trên năng suất và hiệu quả", báo cáo đưa ra nhận định.
Phân tích cũng cho thấy tăng trưởng hiện tại của Việt Nam đang dựa trên một mô hình kinh tế mà dư địa còn lại không nhiều. Với mô hình này, mức độ phồn thịnh cao nhất mà Việt Nam có thể đạt tới sẽ bị giới hạn bởi mức năng suất mà các lao động sản xuất chế biến, chế tạo.



Từ những nghiên cứu của mình, nhóm nghiên cứu cho rằng cách tiếp cận chính sách hiện nay vẫn dựa vào việc xây dựng các DNNN trở thành các tập đoàn anh cả của quốc gia, cấp tín dụng cho các công ty riêng lẻ và xây dựng những khu vực có hạ tầng hoàn chỉnh và chuyên biệt.
Cách tiếp cận chính sách mới cần tập trung vào các cụm ngành thay vì các công ty riêng lẻ, "mục tiêu của chính sách là tăng năng suất chứ không phải chỉ tăng lợi nhuận của một vài công ty đơn lẻ nào đó, Chính phủ cần khuyến khích các doanh nghiệp trong cụm ngành cạnh tranh ở mức độ cao hơn thay vì bảo hộ cho họ tránh khỏi áp lực cạnh tranh".

Điểm yếu phân cấp và phối hợp thực hiện
Một vấn đề nữa cũng rất được lưu ý là với quy mô và đặc điểm địa lý của Việt Nam, việc phân bổ hợp lý, hiệu quả quyền hạn và trách nhiệm giữa chính quyền trung ương và các địa phương là vô cùng quan trọng.
Lý do là vì các công ty bao giờ cũng có cơ sở sản xuất kinh doanh đặt tại một địa phương nào đó, do đó họ sẽ chịu tác động tổng hợp của các hiệu ứng chính sách từ cấp trung ương tới địa phương.
Nhưng thực tế là cơ cấu phân cấp và phối hợp hiện nay của Việt Nam đang có nhiều điểm yếu, các vùng hay địa phương cần được khuyến khích nâng cao năng lực cạnh tranh của mình dựa trên những lợi thế và định vị đặc thù của địa phương.
"Thay vì cạnh tranh, cần khuyến khích mạnh sự hợp tác, kết hợp và làm lợi lẫn nhau giữa các tỉnh, nhất là các tỉnh trong cùng một vùng, thông qua các chính sách phát triển cụm ngành", báo cáo đề xuất.
Cũng theo nhìn nhận của Học viện Năng lực cạnh tranh châu Á, Chính phủ Việt Nam cần xác định được một vai trò mới cho mình, phù hợp với yêu cầu của một nền kinh tế thị trường năng động và đang hội nhập ngày càng sâu rộng.
Với vai trò này, Chính phủ sẽ đảm nhận những công việc tạo điều kiện và đảm bảo thị trường được vận hành theo nguyên tắc của nó.
Dựa trên kinh nghiệm thành công của nhiều quốc gia trên thế giới, nhóm nghiên cứu cho rằng Việt Nam cần xây dựng một cơ quan độc lập chịu trách nhiệm cung cấp các thông tin, số liệu minh bạch và chính xác về thực trạng của nền kinh tế và đóng vai trò quan trọng trong việc điều phối và kết nối đồng bộ các chính sách vĩ mô giữa các bộ, ngành.
Cụ thể hóa nhận định đó là đề xuất thành lập Hội đồng Năng lực cạnh tranh Việt Nam (VCC) với nhiệm vụ chính là để thực hiện những việc trên. Hội đồng này sẽ do Thủ tướng chủ trì và có một Ban thư ký chuyên trách và nguồn lực phù hợp để hoạt động.
Khi đó, chức năng nhiệm vụ và hoạt động của Hội đồng là định hướng và điều phối các mục tiêu chính sách trung và dài hạn, chứ không chỉ để tìm kiếm các giải pháp tình thế nhằm đối phó và xử lý những khủng hoảng hay vấn đề trước mắt.


Giáo sư Michael Porter
Toàn văn báo cáo của Michael Porter: Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam 2009-2010
Mô hình tăng trưởng của Việt Nam đã gần đến giới hạn


SGTT.VN - “Ông rất dũng cảm khi cho phép công bố báo cáo như thế vì chúng ta không biết báo cáo này sẽ nói gì”, đại diện trường Chính sách công Lý Quang Diệu hướng về phó thủ tướng Hoàng Trung Hải nói khi kết thúc nhận định của mình tại hội thảo công bố Năng lực cạnh tranh Việt Nam 2010.

Theo GS Michael Porter, tăng trưởng hiện tại của Việt Nam đang dựa trên một mô hình kinh tế mà dư địa còn lại không nhiều. Ảnh minh hoạ. Ảnh: Lê Quang Nhật

Về phần mình, ông Hải cam kết Chính phủ sẽ làm nhiều hơn là chỉ nghe bản báo cáo do các học giả nước ngoài soạn giúp Chính phủ. Ông nói: “Báo cáo này được công bố đúng lúc chúng tôi đang gửi văn kiện Đại hội Đảng và chiến lược phát triển kinh tế xã hội lấy ý kiến toàn dân, và lúc Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn, khủng hoảng cần tìm ra các giải pháp mới để phát triển hiệu quả bền vững hơn”.
Phó Thủ tướng nói tiếp: “Chúng tôi sẽ suy nghĩ về những đề xuất của nhóm nghiên cứu và sẽ giao các bộ ngành đưa tinh thần của báo cáo vào những chương trình hành động, các kế hoạch trong giai đoạn tới”.
Phó Thủ tướng đã kết luận ngắn gọn như vậy trước thính giả là các học giả, doanh nhân và quan chức chính phủ trong cuộc hội thảo tổ chức hôm qua tại Hà Nội, thay vì đọc một bản báo cáo dài mười trang chuẩn bị sẵn.

Mô hình tăng trưởng tới hạn

Bản báo cáo do đích thân Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đặt hàng giáo sư Michael Porter hai năm trước, nhận định rằng, mô hình tăng trưởng của Việt Nam đã gần đến giới hạn sau khi đã giúp đưa nền kinh tế phát triển vượt bậc trong 25 năm qua.
Giáo sư Porter nói: “Khi xem xét kỹ mô hình phát triển được áp dụng từ trước tới nay để xem có tiếp tục phù hợp với Việt Nam nữa không, câu trả lời của tôi là không”.
Ông nhận xét, trọng tâm của chính sách chủ yếu tập trung vào gia tăng đầu tư, nhất là đầu tư cho doanh nghiệp nhà nước và cơ sở hạ tầng, để tạo ra tăng trưởng hơn là dựa trên năng suất và hiệu quả.
Theo giáo sư, cho dù Việt Nam duy trì được mức tăng trưởng trong những thập kỷ qua, song mức thịnh vượng chung và năng suất của nền kinh tế là “quá thấp”.
Vì lẽ đó, tăng trưởng hiện tại của Việt Nam đang dựa trên một mô hình kinh tế mà dư địa còn lại không nhiều. Ông nói: “Nếu Việt Nam không vượt qua được cách thức tăng trưởng hiện nay, quốc gia sẽ bị tắc ở mức thu nhập trung bình thấp và phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các nước có thu nhập thấp hơn đang trỗi dậy”.
Ông nhận xét, tăng trưởng của Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa vào việc khai thác các lợi thế có sẵn như tài nguyên và nhân công giá rẻ.
Trong bối cảnh đó, Chính phủ lại hướng chính sách vào việc duy trì tăng trưởng trong ngắn hạn, thay vì nâng cao năng suất trong dài hạn.
“Nhiều chính sách vĩ mô có thể kích thích tăng trưởng trong ngắn hạn, nhưng lại không có tác dụng, hoặc thậm chí có thể gây ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng năng suất dài hạn của Việt Nam”.
Trong khi đó, chính sách vĩ mô là một điểm yếu lớn trong những năm gần đây. Chính sách tài khoá bị cản trở rất nhiều bởi các thâm hụt cơ cấu lớn của khu vực nhà nước.
Bên cạnh đó, áp lực liên tục lên tỷ giá, tỷ lệ lạm phát cao, cũng như sự phát triển nóng của thị trường tài chính trước khi nổ ra khủng hoảng tài chính toàn cầu, theo giáo sư, là những dấu hiệu về chính sách tiền tệ “còn nhiều vấn đề”.
Các mất cân đối vĩ mô lớn như cán cân thương mại và tài khoản vãng lai, tỷ lệ tiết kiệm – đầu tư, lạm phát và tỷ giá hối đoái có thể gây ra những hậu quả “không thể xem thường”.
Ông cảnh báo: “Ít nhất, chúng tạo ra tâm lý với các nhà đầu tư rằng, rủi ro khi đầu tư vào Việt Nam là rất cao. Các mất cân đối vĩ mô này có thể làm phát sinh khủng hoảng, khi niềm tin bị xói mòn và các dòng vốn nước ngoài chảy khỏi Việt Nam”.
Giáo sư nhận xét, khi đó quốc gia sẽ phải trải qua quá trình điều chỉnh rất khó khăn và phải thay đổi hoàn toàn các chính sách về tỷ giá, cắt giảm chi tiêu công, và đánh mất đi thành quả tăng trưởng của rất nhiều năm trước đó.
Ông nói: “Phản ứng chính sách gần đây của Việt Nam được quốc tế ghi nhận, nhưng vẫn còn thiếu một chiến lược tổng thể để giải quyết các thách thức một cách toàn diện, có hệ thống”.

Vai trò của Chính phủ

“Nếu Việt Nam không vượt qua được cách thức tăng trưởng hiện nay, quốc gia sẽ bị tắc ở mức thu nhập trung bình thấp và phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các nước có thu nhập thấp hơn đang trỗi dậy”.
Giáo sư Michael Porter

Nhìn nhận vai trò của Chính phủ hiện nay, giáo sư nhận xét, những thảo luận chính sách hiện nay tại Việt Nam thường tập trung quá nhiều vào quy mô và quyền lực trực tiếp của Chính phủ, hơn là vào khả năng thực hiện những chức năng cần thiết của Chính phủ.
Vì lẽ đó, giáo sư khuyến khích rằng, Chính phủ Việt Nam cần xác định một vai trò mới cho mình, phù hợp với một nền kinh tế thị trường đang hội nhập để nó vận hành theo “nguyên tắc của nó”.
Chính phủ nên cung cấp môi trường thể chế minh bạch và hiệu quả để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần cạnh tranh với nhau một cách bình đẳng, cũng như các dịch vụ công như cơ sở hạ tầng, giáo dục.
Chính phủ nên minh bạch trong việc quản lý các doanh nghiệp nhà nước, tách bạch vai trò chủ sở hữu với vai trò người điều tiết để khu vực kinh tế này tuân thủ các quy luật và kỷ luật thị trường như các thành phần kinh tế khác.
Các doanh nghiệp này phải công bố thông tin, đặc biệt là thông tin về tài chính, hiệu quả hoạt động và các mối liên hệ tài chính của Chính phủ.
Giáo sư cũng đưa ra các khuyến nghị cụ thể cho Chính phủ như phải minh bạch về tài khoá, củng cố quản lý tài chính công, duy trì chính sách tiền tệ nhất quán và có thể dự đoán được, và phối hợp đồng bộ các chính sách vĩ mô.
Tổng kết lại, ông cho rằng, Việt Nam có thể duy trì mô hình này vài năm nữa nhưng nên bắt tay viết một chương mới để tạo những nền tảng, thể chế mới cho quá trình phát triển tốt hơn.
Giáo sư nói: “Tôi sẽ rất buồn nếu báo cáo này chỉ được để trên giá sách. Tôi hy vọng phó Thủ tướng sẽ giao các cơ quan nhà nước sử dụng báo cáo này trong quá trình hoạch định chính sách”.
Tư Giang (lược thuật)