Thứ Bảy, 21 tháng 1, 2012

Chúc mừng Tết Nhâm Thìn 2012


Nhân dịp Tết Nhâm Thìn 2012 chủ trang nhà này muốn gửi lời chúc mừng năm mới đến các bạn và bạn đọc xa gần. Chúc các bạn một cái Tết đầm ấm, vui vẻ, và an lạc. Chúc các bạn một năm Nhâm Thìn nhiều may mắn (thời đại này chúng ta cũng cần may mắn) và thăng tiến trong công việc.

Riêng đối với cá nhân tôi, năm nay là một cái mốc thời gian đáng nói. Đó là năm đánh dấu 30 năm tôi định cư ở Úc (và 31 năm xa quê). Nhạc sĩ Y Vân có câu “60 năm cuộc đời”, và chiếu theo câu đó thì tôi đã ở đây hơn nửa đời người. Nhớ lại những ngày đầu chông chênh trong xã hội Tây, vất vả làm ngày làm đêm bươn chải kiếm từng đồng đôla cho cái xe hơi, cho căn nhà, và … gửi về Việt Nam, tôi thấy mình đã đi một quãng đường dài. Nói là “dài” nhưng thật ra là ngắn. Trong tâm tưởng, tôi cứ thấy cái thời gian bĩ cực đó như là hôm qua! Đời người đo bằng đơn vị ngày tháng thì quả là như bóng câu qua cửa sổ. Mới đó mà đã 30 năm!

Tết là thời điểm để suy nghiệm những gì trong quá khứ và suy nghĩ về tương lai. Tôi nghĩ về thế hệ trẻ. Ba chục năm là thời gian của một thế hệ. Một thế hệ người Việt mới đã hình thành ngoài Việt Nam, và tôi may mắn là một chứng nhân trước sự trưởng thành đó. Không chỉ là sự trưởng thành của con tôi mà còn của cháu tôi. Năm nay về quê thăm nhà cùng một lúc với mấy đứa cháu bên Mĩ, tôi mới thấy lạc quan cho thế hệ kế tiếp. Mới hôm nào mình còn bồng bế chúng nó trên tay, mà nay chúng nó đã tốt nghiệp cử nhân, cao học, có địa vị vững vàng trong xã hội Mĩ, ăn nói tự tin cứ như là sếp. Mà chúng làm sếp thật. Không chỉ có học, có địa vị, chúng nó còn có tham vọng làm việc tốt cho quê nhà. Tôi hỏi con nhỏ cháu 24 tuổi rất xinh gái rằng “năm năm nữa con sẽ làm gì”, nó không ngần ngại nói một tràng dài rồi kết luận “con sẽ hoàn tất chương trình PhD và sẽ trở thành giáo sư về marketing”. Tôi nói con phải tìm cho mình một mentor nổi tiếng và nên tận dụng thời gian ở UCLA. Để nhấn mạnh ý định làm giáo sư, nó nói một cách khẳng định: I will. Tôi hỏi thằng cháu là em của nó một câu hỏi tương tự, nó nói “Con sẽ hoàn tất chương trình học làm hiệu trưởng trung học, và con sẽ dứt khoát làm hiệu trưởng, và sẽ làm thay đổi cái trường con đang dạy”. Anh chàng này hồi còn bé thì lù lù, rất ít nói chuyện, mà bây giờ nói lưu loát như két, và có nhiều nhận xét rất hay về xã hội Việt Nam. Chúng ngạc nhiên không hiểu những nghịch lí trong xã hội Việt Nam và không hiểu tại sao chẳng ai làm gì để khắc phục. Hỏi về quê nhà, đứa nào cũng nói chưa biết làm gì, nhưng sẽ cố gắng hết sức mình đóng góp cho quê nội chúng nó tốt hơn.

Tuổi trẻ ngoài này có tham vọng và hoài bảo, chúng nó biết mục tiêu và biết mình đi đâu hay sẽ làm gì. Tôi chợt so sánh với giới trẻ bên nhà (cũng là con cháu tôi), và thấy hình như chúng không có tham vọng, thậm chí không dám suy nghĩ cái gì lớn lao. Tôi hỏi câu “năm năm nữa con sẽ làm gì”, thì đứa nào cũng không trả lời cụ thể được. Chúng nó chỉ biết là lên đại học, hay tốt nghiệp đại học, rồi sau đó làm gì thì chúng nó không biết. Tôi có cảm tưởng giới trẻ trong nước thiếu tham vọng. Cũng có thể họ có tham vọng nhưng không dám nói ra. Hình như hai chữ “tham vọng” trong cái nhìn của nhiều người ở VN là hàm ý không tốt. Tham vọng có khi hiểu đồng nghĩa với có mưu mô chiếm đoạt. Trong môi trường xã hội mà nói ra tham vọng của mình dễ bị gắn nhãn hiệu “nổ”, hay “chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng”, thì chẳng trách giới trẻ co rút lại với những chuyện nhỏ nhặt và tủn mủn. Chúng được lớn lên với quan điểm rằng “chuyện lớn” đã có Nhà nước lo, có lãnh đạo phụ trách. Thật ra, giới trẻ trong nước cũng có nghĩ đến chuyện lớn, nhưng vì viễn ảnh bị sách nhiễu và cánh cửa tương lai bị đóng, nên giới trẻ chọn cách bày tỏ thụ động hoặc tốt hơn hết là không nói. Thật đáng quan tâm nếu một [hay nhiều] thế hệ trẻ lớn lên mà thiếu tham vọng và không được bày tỏ hoài bảo liên quan đến đất nước.

Ba mươi năm qua, chưa một lần tôi có dịp ăn Tết ở bên nhà. (Cũng không bao giờ đi mấy cái gọi là hội chợ Tết ở đây, mà theo tôi là hội chợ nhậu chứ chẳng có văn hoá gì cả). Bởi vậy, cứ mỗi lần Tết về là tôi nhớ quê da diết. Nhớ những buổi sáng se se lạnh, gió bấc lao xao qua rặng dừa nước, và đêm về lủ nhỏ chúng tôi soi đèn đi bắt cá bóng. Nhớ những hôm sang nhà Ngoại để đánh bóng bộ lư. Nhớ buổi sáng Mồng Một diện bộ độ mới đi … xin lì xì. Nhớ nhiều lắm. Nhưng nay thì những kỉ niệm đó đã đi vào dĩ vãng. Bởi vậy, cứ mỗi dịp Tết về, tôi mở máy nghe ca khúc của nhạc sĩ Châu Kỳ mà tôi muốn gửi tặng các bạn ở đây:

Đón Xuân này tôi nhớ Xuân xưa
Một chiều xuân em đã hẹn hò
Như ươm tình trong cánh hoa mơ, đưa hương theo làn gió
Em nói rằng em viết thành thơ
Đón Xuân này tôi nhớ Xuân xưa
Hẹn gặp nhau khi pháo giao thừa
Em đứng chờ tôi trước song thưa
Tôi đi qua đầu ngõ
Hỏi nhau thầm Xuân đã về chưa
Xuân đến xuân đi, xuân về gieo thương nhớ
Xuân qua để tôi chờ
Xuân đến xuân đi, xuân về mơn lá hoa,
Xuân qua rung đường tơ
Bước sông hồ như đắm như mơ
Trở về đây khi gió sang mùa
Mong ước tìm cô gái Xuân xưa, cho vơi bao niềm nhớ
Có ngờ đâu Xuân vắng người thơ

Một lần nữa, mến chúc các bạn một năm Nhâm Thìn với nhiều tham vọng và hoài bảo mới và thực hiện thành công những hoài bảo cá nhân.

NVT



Từ một chân phụ bếp rồi phụ tá trong bệnh viện để mưu sinh, Nguyễn Văn Tuấn đã tự vươn lên, trở thành Giáo sư, Tiến sĩ, là nhà nghiên cứu khoa học giỏi về xương, dịch tễ học.
PV báo SVVN đã có cuộc trò chuyện với anh để hiểu rõ hơn về nỗ lực, sự phấn đấu của một nhà khoa học Việt Nam nơi xứ người.

Để vượt lên “nghịch cảnh”

Sang Úc và làm công việc phụ bếp tại một bệnh viện lớn rồi trở thành một giáo sư có tiếng. Con đường này diễn ra thế nào, thưa anh?
Các bạn trẻ kể từ thời sau chiến tranh sang đây học tập quả là có nhiều thuận lợi và suôn sẻ. Còn với mỗi người Việt Nam thuộc thế hệ của tôi thì đều có một "lịch sử", hiểu theo nghĩa thăng trầm trong cuộc đời. Khi mới sang đây định cư, tôi vừa làm đủ thứ nghề để kiếm sống vừa đi học. Thời gian đầu tôi làm phụ bếp, rồi làm phụ tá trong phòng thí nghiệm sinh học, trong xưởng,…
Trong thời gian đi làm như thế, tôi đi học ban đêm, gọi là học bán thời gian. Suốt gần 5 năm liền, đêm nào cũng về nhà lúc 10 hay 11 giờ đêm. Lúc đó cuộc sống cực nhọc lắm. Nhưng có lẽ vì còn trẻ nên tôi chẳng thấy khổ cực gì cả!

GS Nguyễn Văn Tuấn đang phát biểu tại một hội thảo quốc tế.
Sinh viên ngoài công việc chính là học thường dành thời gian rảnh rỗi để làm một công việc part-time, trong khi anh thì ngược lại, học vào thời gian không phải làm. Bí quyết vượt lên "nghịch cảnh" của anh là gì?
Tôi chẳng có bí quyết nào cả. Tất cả chỉ là cố gắng và quyết tâm học hành thôi. Nếu có "bí quyết" thì tôi nghĩ lúc đó tôi có quyết tâm đạt được mục tiêu mình đề ra, sử dụng quỹ thời gian nghiêm chỉnh, và chọn môi trường học tốt.
Khi làm trong nhà bếp Bệnh viện St Vincent's (nơi tôi đang làm hiện nay), tôi được biết rất nhiều phụ bếp đều xuất thân là chuyên gia đến từ các nước Liên Xô (cũ), Đông Âu, Trung Quốc, nhưng vì hoàn cảnh nên đã làm trong nhà bếp cả 10, 20 năm trời. Lúc đó tôi rất "ngán", và nghĩ đến chuyện phải làm sao thoát khỏi hoàn cảnh này. Do đó, tôi tự hứa với lòng là bằng mọi giá phải đi học lại. Cũng may, lúc đó còn trẻ, nên dễ dàng vượt qua hoàn cảnh, chứ nếu như bây giờ tôi chẳng biết mình sẽ làm thế nào.
Vì vừa làm vừa học, nên tôi phải quản lý quỹ thời gian rất nghiêm chỉnh, rất ít đi chơi, dứt khoát không có chuyện… nghỉ hè, và dồn tất cả thời gian trống vào việc học hành. Thật ra, lúc đó, chương trình học nặng lắm, nên có muốn đi chơi cũng không được!

Cái khó của một người trẻ muốn khẳng định mình nơi xứ người là gì?
Phải phấn đấu học nhiều hơn, làm việc nhiều hơn và tốt hơn so với người bản xứ. Khi tôi mới vào học, tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện mình sẽ trở thành giáo sư, vì trong môi trường ở Úc, chuyện đó nằm ngoài tầm tay của mình. Thời đó, ở Úc, các bạn tôi qua đây trước cho tôi biết rằng nên cố gắng học hành xong và tìm việc làm, chứ đừng mơ đến vị trí giáo sư hay thậm chí giảng viên cao cấp, vì đã mấy mươi năm qua số giáo sư gốc Á châu trong đại học Úc chỉ đếm đầu ngón tay.
Có một anh bạn thân với tôi khuyên rằng nếu mình (người Á châu) muốn bằng họ (người bản xứ) thì mình phải "cao" hơn họ 2 cái đầu, chứ ngang hàng hay cao hơn 1 cái đầu vẫn chưa đủ! Tôi nghiệm ra câu này hết sức đúng. Do đó, có thể nói lúc nào tôi cũng đặt mục tiêu gấp 2 lần những tiêu chuẩn dành cho người bản xứ.

Việc học của anh có do ảnh hưởng của những người đi trước?
Có lẽ người ảnh hưởng đến tôi nhiều nhất là anh Hai tôi. Thời gian "lên thành" học, tôi ở chung với anh ấy và chịu nhiều "cực hình" về học hành. Lúc đó, tôi nghĩ mình học không đến nỗi tệ, nhưng anh ấy không bao giờ khen tôi, mà lúc nào cũng chê bai, so sánh với những bạn học giỏi hơn. Lúc đó tôi rất khổ tâm, vì nếu anh ấy "báo cáo" về nhà tôi học dở là rất dễ bị khiển trách và cúp tài trợ! Nhưng thật ra, anh ấy chỉ đặt ra những cái ngưỡng để tôi vượt qua, chứ chẳng có ý chê trách gì. Anh Hai tôi dạy rằng học cái gì là phải học từ căn bản, chứ đừng có "học lớt lớt", và câu đó trở thành phương châm học hành của tôi.
Một anh bạn người Huế, tuy không chỉ dạy gì cho tôi, nhưng thái độ học của anh có ảnh hưởng rất lớn đến tôi. Lúc đó, chúng tôi tự học tiếng Anh. Mỗi ngày, anh ôm sách và báo ngồi một góc ở thư viện, và nguyên ngày anh chỉ học một chữ tiếng Anh, nhưng học từ nguồn gốc của chữ, ý nghĩa, cách sử dụng,… Anh ấy "rủ" tôi đi học kiểu đó, khuyến khích tôi làm theo anh ấy, và tôi thấy rất hiệu quả. Cách học này tuy chậm, nhưng rất vững chắc.

Tiến sĩ... nhiều chuyện

Công việc hiện nay của anh là gì?
Hiện nay, công việc chính của tôi là lãnh đạo một nhóm nghiên cứu về loãng xương tại Viện nghiên cứu y khoa Garvan. Tôi còn giữ chức giáo sư tại trường y và trường y tế cộng đồng thuộc Đại học New South Wales. Nhóm nghiên cứu của tôi có 2 chương trình nghiên cứu chính là di truyền học và dịch tễ học lâm sàng liên quan đến xương. Vài việc chính của tôi là suy nghĩ về những định hướng nghiên cứu cho nhóm, tìm tài trợ cho chương trình nghiên cứu, và hướng dẫn nghiên cứu sinh tiến sĩ. Ngoài ra, tôi còn phải làm vài việc ngoài phạm vi quốc gia, như tham gia các hội đồng chuyên ngành quốc tế; tham gia biên tập các tập san y khoa liên quan đến ngành xương; bình duyệt bài báo khoa học, đề cương nghiên cứu, luận án tiến sĩ,…

Vậy thời gian nào anh dành cho báo chí và quê nhà? 24h/1 ngày của anh được phân bổ thế nào?
Ngày của tôi hơi dài so với nhiều người khác. Tôi thức sớm, khoảng 6h30 mỗi sáng, chuẩn bị đi làm. Mỗi ngày tôi có một danh sách việc phải làm. Tôi đi làm bằng xe điện nên có thì giờ soạn ra những việc phải làm trong ngày và đọc sách, đọc tài liệu, đọc bài báo khoa học… trên xe điện. Nhiều khi tôi duyệt bài báo khoa học trên xe điện! Do đó, khi đến cơ quan, tôi cứ căn cứ vào danh sách việc cần làm trong ngày mà làm.
Tối về, tôi lại làm việc tiếp, nhưng phần lớn là việc liên quan với Việt Nam, như trả lời thắc mắc các bạn trong nước về nhiều vấn đề, viết bài cho báo chí, cập nhật trang web cá nhân,… Ngày làm việc của tôi thường kết thúc vào khoảng 23h30.
Tôi hay nói đùa rằng ban ngày thì làm việc cho Úc và cho thế giới, ban đêm làm việc cho Việt Nam. Nói tóm lại, bây giờ nhìn lại, tôi thấy thời gian tôi dành cho làm việc hơi nhiều, có lẽ tôi phải thay đổi nay mai.

Nếu anh trở về tuổi hai mươi, việc đầu tiên anh làm là...?
Tôi theo đuổi ngành Y học vì muốn tìm hiểu chuyên sâu về lĩnh vực loãng xương và nội tiết mà tôi đã ham thích từ lúc tôi tham gia vào các dự án nghiên cứu lâm sàng trong Viện nghiên cứu y khoa Garvan. Tôi nghĩ theo đuổi nghiên cứu như chúng tôi đang làm có thể giúp nhiều người mà cũng hợp với ý nguyện cá nhân, nên không có gì phải nhìn lại cuộc đời mình với chữ "nếu".
Tuy nhiên, nếu được trở về tuổi đôi mươi, tôi khẳng định mình vẫn đi học. Nhưng sẽ học thêm làm phóng viên báo chí. Tôi thích làm phóng viên để được đi đây, đi đó, lắng nghe và suy nghiệm những câu chuyện của thế giới.

Có người nói Nguyễn Văn Tuấn hơi... nhiều chuyện vì anh tham gia ở đủ các lĩnh vực như y khoa, báo chí và cả văn học. Anh nghĩ sao về ý kiến này?
Tôi nghĩ mình quan tâm đến nhiều chuyện, hơn là "nhiều chuyện". Tôi đam mê về văn học từ lúc còn nhỏ, nên nếu có viết lách gì về lĩnh vực này thì cũng là chuyện bình thường, như là một thú tiêu khiển. Hơn nữa, một người làm khoa học cần phải có cái nhìn tổng thể, chứ không chỉ giới hạn vào chuyện chuyên môn hằng ngày, mà văn học và văn chương là lĩnh vực rất có ích cho khoa học.
Albert Einstein từng nói rằng: "Nếu bạn có logic, thì bạn có thể đi từ A đến B nhưng nếu bạn có tưởng tượng, bạn có thể bay bổng bất cứ nơi nào". Tôi nghĩ văn học và văn nghệ nói chung làm cho cuộc sống thêm phong phú, gieo sự tưởng tượng trong đầu, và làm cho mình bay bổng, và đó là một điều rất có ích cho khoa học.
Tôi là đồ đệ của cụ Nguyễn Khắc Viện, là "fan" của cụ Nguyễn Hiến Lê, những người bàn về nhiều vấn đề chẳng dính dáng gì đến chuyên môn của họ.
Giá trị sống mà anh theo đuổi, tôn thờ nhất là gì?
Theo tôi, giá trị sống là những gì mình hành động để gặt hái được và giữ được trong sự giới hạn về thời gian của một đời người. Hiểu như thế, tôi thấy giá trị sống của mình gần với triết lý nhà Phật, dựa vào triết lý "từ bi" của Phật. "Từ bi" ở đây phải hiểu theo nghĩa "từ" là giúp đỡ người khác, làm cho người khác hạnh phúc, an lành hơn; và "bi" là diệt khổ. Đó chính là tiêu chí làm việc hằng ngày của tôi.
Mỗi ngày, phải để ý đến cái mà giới khoa học gọi là "tỉ số thiền" (Zen ratio). Tử số của tỉ số thiền là những việc làm đem lại niềm vui và phúc lợi cho cộng đồng, và mẫu số là những việc làm hay hành động gây ảnh hưởng tiêu cực đến người khác, là những điều mình làm nhưng chưa đạt. Bởi vì mỗi hành động mình làm dù có ý định tốt, nhưng có tiềm năng gây tổn hại đến người khác, cho nên mẫu số của tỉ số thiền không thể nào là 0 được.
Do đó, trong mỗi việc làm và mỗi thời khắc, tôi tâm niệm làm sao duy trì tỉ số thiền này phải là 10 hay trên 10 thì càng tốt. Tôi làm nhiều việc như chia sẻ thông tin với mọi người cũng vì cái giá trị sống mà tôi mô tả trên.

GS.TS Nguyễn Văn Tuấn
Giảng viên cao cấp tại ĐH New South Wales, Úc.
Trưởng nhóm nghiên cứu, Viện nghiên cứu Y khoa Garvan, Úc.
Nghiên cứu viên cao cấp Hội đồng quốc gia về nghiên cứu y khoa và y tế Úc (NHMRC).
1987-1997: Thạc sĩ ĐH Macquarie (Úc); Tiến sĩ thống kê, chuyên về dịch tễ học ĐH Sydney (Úc); Tiến sĩ y khoa ĐH New South Wales (Úc), Nghiên cứu sinh sau tiến sĩ (postdoc) tại ĐH Basle, Trung tâm nghiên cứu lâm sàng Sandoz (Thụy Sĩ) và Bệnh viện St Thomas (Anh).
1998: Được bổ nhiệm Phó Giáo sư y khoa ĐH Wright States (Mỹ).
2009: Được bổ nhiệm Giáo sư ĐH New South Wales (Úc).

Theo Lê Ngọc Sơn - Ngọc Dung
Sinh Viên Việt Nam