Xem thêm:
Hiến pháp 1946 với tư tưởng pháp quyền
Sửa hiến pháp để thúc đẩy dân chủ hóa nền quản trị quốc gia
Luật pháp không thể không hội nhập với thế giới
Bùi Ngọc Sơn
Trong một bài viết bàn về sửa đổi Hiến pháp ở Việt Nam, GS Tương Lai dẫn lại nhận xét của William Ewart Gladstone, Thủ tướng nước Anh (1809 - 1898) về Hiến pháp Mỹ như là “tác phẩm tuyệt vời nhất từng được sản sinh ra vào một thời điểm nhất định bởi trí óc và mục đích của con người".
Giáo sư không quên chú thích thêm rằng Hiến pháp Mỹ là “bản hiến pháp lâu đời nhất và nổi tiếng nhất với trên 200 năm lịch sử. Từ khi có hiệu lực năm 1789, bản Hiến pháp này đã là mô hình tham khảo để xây dựng hiến pháp của nhiều quốc gia phương Tây khác.”(1) Thực sự trong việc sửa đổi Hiến pháp, Việt Nam có thể học được gì từ văn hóa Hiến pháp Mỹ?
Bài viết này trả lời rằng bài học quan trọng nhất mà văn hóa Hiến pháp Mỹ có thể đem lại cho Việt Nam là: khác với Coca-Cola, KFC, Rock&Roll, thể chế không phải là một thứ mà người ta có thể dễ dàng nhập khẩu và thưởng thức. Bài viết khẳng định rằng các vấn đề hiến pháp cần phải được bối cảnh hóa trong điều kiện văn hóa bản địa, mặc dù không phủ nhận khả năng tiếp nhận các giá trị hiến pháp nước ngoài.
Hiến pháp hay là lòng mộ đạo?
Thomas Jefferson, tác giả của Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ, viết năm 1861 rằng: “Một số người nhìn hiến pháp với một lòng mộ đạo quá mức.” (2) Tinh thần mộ đạo đối với hiến pháp không chỉ giới hạn ở một số người mà trở thành đặc trưng chung của văn hóa hiến pháp của người dân Mỹ. GS Satanford Levinson ở ĐH Texas khái quát rằng “sự tôn kính” đối với Hiến pháp trở thành khía cạnh trung tâm của truyền thống chính trị Mỹ. Bản Hiến pháp, cùng với Quốc kỳ và Tuyên ngôn độc lập được coi là “bộ ba thánh thần” của “tôn giáo dân sự” của nước Mỹ (3). GS Thomas C. Grey ở ĐH Stanford cũng nhận định: “Ngay từ thời điểm nó được phê chuẩn, người Mỹ đã coi Hiến pháp của Hợp chúng quốc không chỉ là một phương tiện pháp lý mà còn là một biểu tượng có tính chất thần thánh. Cùng với Quốc kỳ, nó là vật tổ của chúng ta.” (4)
2/3 dân số trên thế giới sống dưới các chính quyền hợp hiến không ít thì nhiều chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hợp hiến tự do phương Tây mà chủ nghĩa hợp hiến phương Tây đến lượt nó lại chịu sự chi phối của chủ nghĩa hợp hiến Mỹ.
Khi người ta sùng bái một vật thể, vật thể đó tất có tính chất quyết định đối với cuộc sống của người ta. Cũng tương tự như vậy, việc sùng bái Hiến pháp của người Mỹ được lý giải từ một thực tế là Hiến pháp có tính chất quyết định đối với cuộc sống của người dân. Mọi người dân Mỹ đều có thể xác định cương vị của mình bằng ngôn ngữ Hiến pháp; nói cách khác, người dân dựa vào hiến pháp để định vị thân phận của họ. Từ việc đi xe buýt, chào cờ ở các trường tiểu học đến vấn đề nạo phá thai, hôn nhân đồng giới, hình phạt tử hình, và nói chung những vấn đề chính trị quan trọng của quốc gia, cuối cùng rồi người ta cũng viện dẫn đến Hiến pháp để giải quyết. Các vấn đề luật pháp Mỹ chẳng chóng thì chầy sẽ trở thành các vấn đề Hiến pháp.
Điều đáng nói là sự sùng bái Hiến pháp Mỹ không chỉ giới hạn ở những người dân Mỹ: các quốc gia khác nhau trên thế giới cũng ngưỡng mộ bản Hiến pháp này. Một thực tế có tính chất toàn cầu là các chuẩn mực của chủ nghĩa hợp hiến phương Tây như phân quyền, pháp quyền, nhân quyền, tài phán hiến pháp đang chiếm ưu thế và được “cấy” vào những vùng khác nhau của thế giới. 2/3 dân số trên thế giới sống dưới các chính quyền hợp hiến không ít thì nhiều chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hợp hiến tự do phương Tây mà chủ nghĩa hợp hiến phương Tây đến lượt nó lại chịu sự chi phối của chủ nghĩa hợp hiến Mỹ.
Tuy nhiên, con đường vay mượn thể chế gian nan hơn rất nhiều việc trực chờ để được sở hữu phiên bản mới nhất của một sản phẩn công nghệ thông tin. Xây dựng thể chế về mặt hình thức là một chuyện, nhưng thực thi nó lại là chuyện khác.
Một học giả Mỹ cho rằng những văn bản hiến pháp được xây dựng nửa cuối thế kỷ 20 chỉ là những sự sao chép về mặt hình thức, còn thực tế chính trị lại khác xa. (5) Người ta có thể dễ dàng giải khóa các sản phẩm công nghệ có bản quyền, nhưng không dễ kích hoạt các thể chế Mỹ, dù rằng không có bản quyền, trong những môi trường khác. Lý do nằm ở chỗ các thể chế có điều kiện hoạt động của nó. Thể chế có thể hoạt động tốt ở nước này nhưng lại trục trặc ở nước khác do điều kiện bản địa khác nhau.
Người Mỹ đã “vay mượn hiến pháp” như thế nào?
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, khi các giá trị hiến pháp của một quốc gia được tiếp nhận và thực hiện ở các nền tài phán khác, các học giả quốc tế bàn nhiều hơn đến sự “vay mượn hiến pháp” (constitutional borrowing). Trong bối cảnh đó, Hiến pháp Mỹ được “vay mượn” ở nhiều khu vực khác nhau, và đâu đó người ta cho rằng Hiến pháp là mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất của nước Mỹ. Tuy nhiên, bản thân Hiến pháp Mỹ cũng là một sự “vay mượn.” Các nhà lập hiến Mỹ đã vay mượn khá nhiều từ hệ thống hiến pháp của Anh (kể cả các tập quán chính trị lẫn các văn bản hiến pháp như Đại hiến chương Magna Carta, Luật dân quyền, Luật đình quyền giam giữ…)
Hơn một trăm năm trước đây, GS Christopher Tiedeman (1857-1903), một nhà hiến pháp học kinh điển của nước Mỹ, thuộc ĐH Missouri, đã cho rằng: “Hiến pháp của Liên bang cũng như các hiến pháp của tiểu bang ở Mỹ là sự phát triển tiếp theo một cách tự nhiên của Hiến pháp Anh, được điều chỉnh một số chi tiết và nguyên tắc bởi bối cảnh mới.” (6)
Thực vậy, không khó để chỉ ra những dấu ấn của Hiến pháp Anh trong Hiến pháp Mỹ: hệ thống phân chia quyền lực, những giới hạn của quyền lực hành pháp, chế độ lưỡng viện, hệ thống tư pháp độc lập… Nhà chính trị học Robert Lowry Clinton giúp chỉ ra rằng trong 21 khoản của 4 điều đầu tiên của Hiến pháp Mỹ (những điều khoản chính về cấu trúc lập pháp, hành pháp và tư pháp), ít nhất có 16 khoản có nguồn gốc từ các quy tắc Hiến pháp của Anh.
Không chỉ hiến pháp gốc, các tu chính án của Hiến pháp Mỹ cũng vay mượn nhiều từ nguồn Anh. Cũng theo Clinton, Luật dân quyền Anh đã cung cấp những quy tắc cho các nhà thảo hiến Mỹ trong những tu chính án liên quan đến dân quyền của nước Mỹ. Cụ thể, ít nhất 17 trong số 28 quy phạm ở 8 tu chính án đầu tiên của Hiến pháp Mỹ có nguồn gốc từ hệ thống thông luật Anh (7).
Nói như vậy không có nghĩa Hiến pháp Mỹ không có bản sắc riêng. Kỳ thực, nhiều quy tắc của Hiến pháp Mỹ phản ánh những đòi hỏi của bối cảnh mới khi các thuộc địa mới dành được độc lập như như hệ thống liên bang, chế độ tổng thống, chủ quyền nhân dân thay cho chủ quyền nghị viện…
Dù vay mượn từ Hiến pháp Anh, Hiến pháp Mỹ đã hoạt động thành công và tạo nên sự ngưỡng mộ của thế giới. Lý do của sự thành công này là gì? Các thể chế của Hiến pháp Anh hoạt động thành công ở Mỹ thực chất là vì chủ nghĩa hợp hiến Mỹ là vì sự liên tiếp của văn minh Anglo-Saxons ở vùng đất mới bên bờ kia Đại Tây Dương. Tiedeman đã nhận xét: “Hiến pháp Anh và Mỹ hoạt động hiệu quả, tạo nên sự ngưỡng mộ của những người nghiên cứu chính trị không phải do sự xuất sắc trừu tượng cố hữu của chúng- vì không khó chỉ ra những khiếm khuyết rõ ràng, mà do chúng là sản phẩm tự nhiên của nền văn minh Mỹ-Anglo. Các đặc tính của văn minh Anglo-Saxons như yêu chuộng tự do, tuân thủ pháp luật, và tinh thần bảo thủ, dù không tìm thấy trong bản văn hiến pháp, nhưng là những yếu tố bảo đảm cho sự vững bền của chính phủ tự do ở nước Anh và nước Mỹ.” (8)
Với thực tế đó, chúng ta cần suy nghĩ lại nhận xét Thủ tướng Anh Ewart Gladstone về Hiến pháp Mỹ như là “tác phẩm tuyệt vời nhất từng được sản sinh ra vào một thời điểm nhất định bởi trí óc và mục đích của con người.” “Sự tuyệt vời” của tác phẩm không phải ở chỗ nó chứa đựng các định chế tân tiến mà chính là ở chỗ nó phản ánh một cách trung thành nhất sự liên tục tự nhiên của văn hóa. Nếu như vậy, nó không phải được sản sinh “bởi trí óc và mục đích của con người”. Nó giản đơn chỉ là sự phản chiếu tự nhiên của một nền văn minh được mở rộng.
Tóm lại, văn hóa hiến pháp Mỹ đem lại một bài học quý giá rằng các hiến pháp chỉ thành công khi được cấy rẽ vào nguồn của nền văn hóa bản địa. Sự vay mượn hiến pháp chỉ thành công khi được sự ủng hộ của bối cảnh bản địa.
Tiếp nhận hiến pháp ở Việt Nam: một ví dụ từ quy định bỏ phiếu tín nhiệm
Đầu năm 2001 Việt Nam cải cách hiến pháp và một số thể chế nước ngoài được tiếp nhận. Điển hình nhất là chế độ bỏ phiếu tín nhiệm, theo đó, Quốc hội được trang bị thêm thẩm quyền mới là “bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.” (khoản 7, Điều 84). Dễ nhận ra rằng đây là một sự tiếp nhận có điều chỉnh của chế độ bỏ phiếu bất tín nhiệm được áp dụng phổ biến trong các chế độ đại nghị ở Châu Âu.
Chế độ bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội Việt Nam là một sự tiếp nhận có điều chỉnh của chế độ bỏ phiếu bất tín nhiệm được áp dụng phổ biến trong các chế độ đại nghị ở Châu Âu nhưng đã được điều chỉnh cho phù hợp với môi trường chính trị Việt Nam: bỏ phiếu bất tín nhiệm được mềm hóa thành bỏ phiếu tín nhiệm; bỏ phiếu đối với cá nhân thay cho bỏ phiếu đối với tập thể.
Bỏ phiếu tín nhiệm hay bỏ phiếu bất tín nhiệm là thể chế được thiết kế để ngành lập pháp có thể bày tỏ thái độ không hài lòng và áp đặt trách nhiệm đối với ngành hành pháp. Thể chế được điều chỉnh cho phù hợp với môi trường chính trị Việt Nam: bỏ phiếu bất tín nhiệm được mềm hóa thành bỏ phiếu tín nhiệm; bỏ phiếu đối với cá nhân thay cho bỏ phiếu đối với tập thể. Mặc dù vậy, thể chế này, trong một thập kỷ qua chưa từng hoạt động. Cũng cần lưu ý rằng điều này không có nghĩa vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm chưa từng được đặt ra trước Quốc hội. Chúng ta có thể nhớ lại ấn tượng gần đây nhất về một vị đại biểu Quốc hội đặt vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm đối với người đứng đầu ngành hành pháp nhân vụ Vinashin. Tuy nhiên, Quốc hội chưa từng bỏ phiếu tín nhiệm đối với ai kể từ khi thể chế này được xây dựng từ năm 2001.
Có lẽ có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng là thể chế không nhận được sự ủng hộ của văn hóa bản địa. Liên quan đến những cọ xát giữa lập pháp và hành pháp, tinh thần bằng hữu hay văn hóa hài hòa có giá trị chi phối hơn là các thể chế chính thức. “Dĩ hòa vi quý” có lẽ không chỉ là một phương châm giải quyết tranh chấp dân sự để tránh con đường kiện tụng nơi tòa án mà còn trở thành quy tắc ứng xử mang tính chất bao quát hơn trong đời sống chính trị.
Vài lời kết
Hiến pháp cũng như luật pháp là một bộ phận của văn hóa. Các hiến pháp chân thực, không phải hiến pháp hình thức, bao giờ cũng là sự phản ánh trung thành văn hóa bản địa. Sự gắn kết với văn hóa bản địa là điều kiện để hiến pháp vận hành trên thực tiễn thay vì trở thành hữu danh vô thực. Nếu hiến pháp được xem như khế ước của một cộng đồng, nó phải được xây dựng và điều chỉnh trên nền tảng lối sống, cách nghĩ, những mong muốn chung, những xu hướng chung được một cộng đồng chấp nhận.
Bài viết này, trong khi không có ý dựa vào “chủ nghĩa liên quan văn hóa” để phủ nhận khả năng tiếp nhận thể chế ngoại sinh, đề nghị rằng học thuật trong nước cũng như các nhà xây dựng thể chế quốc gia cần xem xét nhiều hơn đến sự tương quan của văn hóa bản địa đối với việc thiết lập, điều chỉnh và vận hành thể chế.
1. Xem: Để dân trao quyền mà không mất quyền: http://tuanvietnam.net/2010-08-29-de-dan-trao-quyen-ma-khong-mat-quyen.
2. David N.Mayer. The Constitutional Thought of Thomas Jefferson (Virgina: University of Virgina Press, 1994), p 296.
3. Satanford Levinson, Constitutional Faith (New Jersey: Princeton University Press, 1988), p11.
4. Thomas C. Grey, “The Constitution as Scripture” 37 Stanford Law Review p 17
5. David T Butle Ritchie, “Critiquing Modern Constitutionalism” (2004) Vol 3: 37 Appalachian Journal of Law p 45.
6. Christopher Tiedeman, The Unwritten Constitution of the United States (New York: William S.Hein& Co., Inc, 1974), p 26.
7. Do khuôn khổ bài viết có hạn, chúng tôi không tiện chỉ ra nội dung cụ thể. Ban đọc quan tâm xin tham khảo: Robert Lowry Clinton, God and Man in Law: The Foundations of Anglo-American Constitutionalism (Lawrence, Kansas: University Press of Kansas, 1997), pp 96-98. Trong phần viết này, Clinton chỉ ra cụ thể điều khoản nào của Hiến pháp Mỹ có nguồn gốc từ văn bản nào trong hệ thống Hiến pháp nước Anh.
8. Christopher Tiedeman, tlđd, p 26.
Hiến pháp Việt Nam trong cách nhìn chuyển đổi
Tác giả: Bùi Ngọc Sơn
Bài viết dưới đây giới thiệu cách nhìn chuyển đổi về hiến pháp được phát triển bởi một số học giả phương Tây và Châu Á. Sau đó, chúng tôi sẽ thử áp dụng cách nhìn này để xem xét các hiến pháp Việt Nam.
Trong một cuộc thảo luận về sửa đổi Hiến pháp ở Việt Nam, TS Nguyễn Đình Lộc, Nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp băn khoăn: "Vì sao chỉ trong 46 năm từ 1946 đến 1992 mà ta có đến bốn hiến pháp - không kể những lần sửa đổi? Nước Mỹ 200 năm qua chỉ có một Hiến pháp."(1) Điều này cũng được TS Trần Du Lịch nhắc lại trong một dịp thảo luận khác về cùng chủ đề(2). Nhận thức này tiêu biểu cho cách nhìn ổn định về hiến pháp vốn bắt nguồn từ tư duy cổ điển về luật căn bản. Cách nhìn ổn định thích hợp trong việc giải thích các hiến pháp cổ điển được ban hành trong thế kỷ 18-19 trong đó có Hiến pháp Philadelphia 1787, nhưng có vẻ không thích hợp trong việc giải thích diễn tiến của hiến pháp hiện đại ở Việt Nam và tương lai của nó.
Bài viết dưới đây giới thiệu cách nhìn chuyển đổi về hiến pháp được phát triển bởi một số học giả phương Tây và Châu Á. Sau đó, chúng tôi sẽ thử áp dụng cách nhìn này để xem xét các hiến pháp Việt Nam.
Lập hiến
Sự sụp đổ của Bức tường Berlin kéo theo quá trình chuyển đổi sâu sắc từ các chế độ độc đoán sang các nền dân chủ mới, khởi đầu ở Trung và Đông Âu rồi mở rộng ra nhiều vùng khác của thế giới, gồm cả khu vực châu Á, một thực tế mà Samuel P.Huntington gọi là "làn sóng thứ ba" của quá trình dân chủ hóa (3). Trong bối cảnh chuyển đổi đó, tiến trình lập hiến có những chuyển đổi tương ứng với những diễn biến phức tạp và không thuần nhất. Một số nền dân chủ mới chọn con đường xây dựng hiến pháp mới rất sớm trong quá trình dân chủ hóa, như ở Cộng hòa Séc, các quốc gia Baltic, Mông Cổ và Philippines, trong khi một số nước khác xây dựng hiến pháp mới muộn hơn như ở Nam Phi, Hà Lan, và Thái Lan. Một số nền dân chủ mới lại không ban hành hiến pháp mới thay vì sửa đổi hiến pháp cũ với mức độ khác nhau, như những trường hợp của Hungary, Argentina, Hàn Quốc, Đài Loan và Indonesia.
Sau những chuyển đổi thành công ban đầu, một số nước như Hà Lan, Hungary, Hàn Quốc, và Đài Loan nhận thấy không cần thiết phải ban hành một hiến pháp mới ngay lập tức thay vì lựa chọn con đường "cải cách hiến pháp dần dần." Hà Lan cuối cùng cũng có hiến pháp mới vào năm 1997 sau tám năm soạn thảo, trong khi Hungary, và Hàn Quốc, và Đài Loan vẫn không có hiến pháp mới.
Xét về mặt nội dung, các hiến pháp hiện đại của các nền dân chủ mới phản ánh các nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa hợp hiến tự do, xây dựng các định chế nhằm thoát khỏi chế độ độc đoán, thay đổi các quy tắc bầu cử, củng cố các quyền tài sản của cá nhân để chuyển đổi nền kinh tế từ nền tập trung sang thị trường, và để thực thi những điều đó, thiết lập các tòa án hiến pháp.
Giáo sư Ruti Teitel ở ĐH New York, trong một nghiên cứu công bố trên Tạp chí Luật Yale, đề xuất cách nhìn chuyển đổi đối với các hiến pháp hiện đại. Học giả này cho rằng chủ nghĩa hợp hiến trong bối cảnh chuyển đổi phản ánh tính chất chuyển đổi của quá trình và khi đó các hiến pháp không được thiết lập một cách ổn định ngay từ đầu; quá trình lập hiến thường bắt đầu với những hiến pháp có tính chất tạm thời định vị cho những cải cách hiến pháp tiếp theo.
Ruti Teitel viết: "Mặc dù quan niệm phổ biến của chúng ta về luật hiên pháp như là có tính chất hướng về phía trước và là cơ sở ổn định cho hệ thống pháp luật, lập hiến trong quá trình chuyển đổi có tính chất tạm thời và gắn liền với những thay đổi dần dần. Nhiều hiến pháp được ban hành trong quá trình chuyển đổi chính trị rõ ràng có khuynh hướng như là những phương tiện nhất thời. Trong khi quan niệm phổ biến nhìn nhận hiến pháp như là có tính chất ổn định và lâu dài, một số phương diện của các hiến pháp chuyển đổi có tính chất nhất thời, và một số phương diện khác được củng cố theo thời gian."(4)
Lấy dẫn chứng từ quá trình chuyển đổi hiến pháp ở Nam Phi, Brazil, Colombia, Teitel đi đến kết luận rằng trong quá trình chuyển đổi, hiến pháp không phải đóng vai trò như là kết quả cuối cùng của quá trình chuyển đổi, mà là những tác nhân trong việc xây dựng quá trình đó; các hiến pháp thường là có tính chất nhất thời để kích thích quá trình chuyển đổi chính trị; những sự chuyển đổi hiến pháp thúc đẩy những chuyển đổi hiến pháp tiếp theo.(5)
Luận điểm của Teitel được ủng hộ và được minh họa thêm bởi hai học giả ở Đại học Quốc gia Đài Loan, Jiunn-Rong Yeh và Wen-Chen Chang. Trong một nghiên cứu gần đây về chủ nghĩa hợp hiến hiện đại dưới góc nhìn chuyển đổi với những thực tế của Trung và Đông Âu, Nam Phi, Châu Á, hai học giả này khằng định: "Chức năng của hiến pháp trong quá trình chuyển đổi dân chủ rõ ràng chuyển từ việc giới hạn quyền lực chính phủ sang việc kích thích các chương trình cải cách và thậm chí tái thiết cấu trúc xã hội. Chủ nghĩa hợp hiến chuyển đổi vận hành không những là nền tảng của quá trình chính trị dân chủ hóa mà còn tạo ra khả năng chuyển đổi về mặt thể chế cho cho những chuyển đổi tiếp theo."(6)
Tính chất của các hiến pháp hiện đại trong bối cảnh chuyển đổi đỏi hỏi chúng ta suy nghĩ lại quan niệm cổ điển về hiến pháp. Trong qua niệm cổ điển, hiến pháp với tư cách luật cơ bản của quốc gia, tạo lập nền tảng cho chính thể và hệ thống pháp luật, nên được cho là có tính chất ổn định. Quan niệm ổn định có thể thích hợp trong việc nhìn nhận các hiến pháp cổ điển được ban hanh trong khoảng thế kỷ 18, 19, nhưng sẽ không giải thích được tính chất của các hiến pháp chuyển đổi được ban hành ở cuối thế kỷ 20. Nam Phi thậm chí còn có "Hiến pháp lâm thời" và "34 nguyên tắc" đóng vai trò như các nguyên tắc hiến pháp trước khi xây dựng một hiến pháp mới của quá trình chuyển đổi. Tương tự, Hà Làn có "Tiểu Hiến pháp" và mãi cho đến khi quá trình chuyển đổi đã khá vững chắc mới ban hành hiến pháp mới vào năm 1997. Cách nhìn chuyển đổi sẽ thích hợp hơn trong việc nhận thức về tính chất của hiến pháp trong bối cảnh chuyển đổi.
Các hiến pháp cổ điển được quan niệm như là khế ước xã hội áp đặt các giới hạn pháp lý lên quyền lực của chính phủ để chống lạm quyền nhằm bảo vệ các quyền cá nhân. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi hiến pháp là kết quả của một quá trình cách mạng khi sự đồng thuận xã hội đã đạt được. Các hiến pháp hiện đại không nằm trong một trạng thái tương tự. Trong bối cảnh chuyển đổi chính trị-xã hội, các giá trị xã hội không những không có sự thống nhất mà còn chia rẽ. Vì vậy, các hiến pháp chuyển đổi thay vì là kết quả của quá trình chuyển đổi như các hiến pháp cổ điển, nó là một bộ phận của quá trình chuyển đổi. Với tính chất đó, hiến pháp xác lập những cơ sở và kích thích quá trình chuyển đổi.
Sửa đổi hiến pháp
Do tính chất của quá trình chuyển đổi, các hiến pháp hiện đại nằm trong quá trình được sửa đổi khá thường xuyên. Hungary cải cách sâu rộng Hiến pháp 1949 vào năm 1989 và sau đó có nhiều sửa đổi vào các năm: 1990, 1993, 1994, 1997, 2000, 2001, và 2002.(7) Với một tần suất tương tự, Đài Loan liên tục sửa đổi hiến pháp vào các năm: 1991, 1992, 1994, 1997, 1999, 2000, và 2005.(8) Sự sửa đổi thường xuyên đối với hiến pháp là một điều có thể giải thích được trong bối cảnh chuyển đổi. Các chính quyền chuyển đổi phải đối mặt với những vấn đề chuyển đổi mà sự ổn định của những điều khoản căn bản không những không có ích cho việc xúc tiến quá trình mà còn làm chậm quá trình.
Hơn nữa, các nền dân chủ chuyển đổi để làm cho quá trình được diễn ra một cách hòa bình thay vì những cuộc cách mạng bạo lực, đã lựa chọn con đường "cải cách hiến pháp dần dần". Tính chất "dần dần" của quá trình cải cách cho phép những sửa đổi hiến pháp thường xuyên. Mỗi một lần sửa hiến pháp tạo điều kiện cho những bước nhích lên của quá trình dân chủ hóa. Ngoài ra, đối với các hiến pháp chuyển đổi, những sửa đổi không có tính chất chung cuộc thay vì nó mở đường cho những sửa đổi tiếp theo.
Một điều đáng chú ý là do tính chất của quá trình chuyển đổi, các nền dân chủ phải đối mặt với các nhiều vấn đề chuyển đổi khác nhau, cho nên cải cách hiến pháp không chỉ được diễn ra qua hình thức sửa đổi chính thức hiến pháp mà còn là thiết lập các đạo luật đặc biệt có tính chất hiến pháp. Nói cách khác, người ta chứng kiến những cải cách hiến pháp diễn ra ngoài việc tu chính hiến pháp chính thức. Ví dụ ở Đài Loan và nhiều nước khác, các đạo luật thay vì hiến pháp cho phép cá nhân được quyền đòi bồi thường đối với việc xâm phạm các quyền cơ bản và tịch thu tải sản của chế độ cũ. (9) Trong trường hợp này, luật thúc thẩy tôn trọng các quyền căn bản được xem như là có tính chất hiến pháp và đóng góp vào quá trình cải cách hiến pháp. Thực tế nói trên gợi mở rằng trong việc nhìn nhận về chế độ hiến pháp trong bối cảnh chuyển đổi, người ta cần vượt ra ngoài chính văn hiến pháp và các tu chính án hiến pháp chính thức.
Tài phán hiến pháp
Một đặc điểm quan trọng của các hiến pháp hiện đại trong bối cảnh chuyển đổi là sự thiết lập các tòa án hiến pháp cùng với quyền tài phán tư pháp đối với các hành vi bất hợp hiến. Khung cảnh chuyển đổi hiện đại chứng kiến sự thành lập mới hoặc sự thiết lập lại các tòa án hiến pháp ở Trung và Đông Âu, Nam Phi, và Châu Á. Dưới đây là bảng về tình hình thiết lập tòa án hiến pháp ở các nền dân chủ chuyển đổi.(10)
1986 Hà Lan Philippines
1988 Hàn Quốc
1990 Hungary
1991 Bulgaria Nga
1992 Romania
1993 Cộng hòa Séc/Slovakia
1994 Nam Phi,
Slovenia, Moldova Đài Loan
1997 Thái Lan
Do được thiết lập trong quá trình chuyển đổi, các tòa án hiến pháp đóng vai trò xúc tiến cho quá trình đó. Trước tiên, các tòa án này góp phần vào việc hiện thực hóa các cam kết của quá trình chuyển đổi. Không có các tòa án này các cam kết chuyển đổi tuyên bố trong các chính văn hiến pháp sẽ trở thành hình thức. Vì vậy, các tòa án hiến pháp được cho rằng sẽ thực thi các nguyên tắc của nền dân chủ hợp hiến mà các chính quyền chuyển đổi cam kết như sự bảo vệ các quyền tài sản làm cơ sở cho sự phát triển nền kinh tế thị trường, sự phân chia quyền lực... Tòa án hiến pháp tham gia vào quá trình này bằng việc giải thích các quy tắc hiến pháp, phát triển học lý hiến pháp, và phán xét những hành vi bất hợp hiến của chính quyền.
Điều đáng nói nữa là các tòa án hiến pháp là một diễn đàn trung lập để giải quyết các vấn đề chuyển đổi một cách hòa bình. Trong bối cảnh chuyển đổi, do các giá trị chưa được thống nhất, các xung đột quyền lực diễn ra, và để tránh những con đường cách mạng và bạo lực, các chính khách có khuynh hướng lựa chọn con đường giải quyết bằng những trọng tài trung lập- các tòa án hiến pháp.
Hiến pháp Việt Nam trong cách nhìn chuyển đổi
Cánh nhìn chuyển đổi được đưa ra bởi các học giả phương Tây và Châu Á như đã trình bầy ở trên dựa trên thực tế của làn sóng dân chủ thứ ba. Mặc dù vậy, chúng tôi suy nghĩ rằng rằng cánh nhìn chuyển đổi có thể thích hợp trong chừng mực nhất định đối với việc giải thích các hiến pháp hiện đại của các xã hội chuyển đổi nói chung. Trên cơ sở đó, chúng tôi thử nhìn diễn tiến của hiến pháp Việt Nam theo tư duy chuyển đổi.
Từ khi xác lập nền lập hiến đến nay, Việt Nam đã trải qua những chuyển đổi quan trọng về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Sự chuyển đổi này tất yếu dẫn đến những sự chuyển đổi về hiến pháp. Ngoại trừ Hiến pháp 1946 theo khuynh hướng cổ điển được xây dựng như là kết quả của một cuộc cách mạng, các hiến pháp sau không hoàn toàn là kết quả của quá trình chuyển đổi mà là những nhân tố của quá trình đó. Khi đó, các hiến pháp xác lập những cơ sở và kích thích cho quá trình chuyển đổi được diễn ra. Khi quá trình chuyển đổi có những khuynh hướng mới, các hiến pháp phải chuyển đổi theo. Chính vì vậy khi miền Bắc Việt Nam chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp 1959 thay thế Hiến pháp 1946; khi chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội được thực thi trên phạm vi toàn quốc, Hiến pháp 1980 thay thế Hiến pháp 1959; và khi chương trình Đổi mới được triển khai, Hiến pháp 1992 (hiện hành) thay thế Hiến pháp 1980. Cách nhìn chuyển đổi sẽ xóa tan đi sự băn khoan "chỉ trong 46 năm từ 1946 đến 1992 mà ta có đến bốn hiến pháp."
Chúng ta xem xét tính chất chuyển đổi của Hiến pháp hiện hành được ban hành năm 1992. Bản Hiến pháp này được xây dựng trong bối cảnh chuyển đổi từ một xã hội tập trung sang một xã hội đổi mới theo khuynh hướng thị trường (định hướng xã hội chủ nghĩa). Do đó, bản Hiến pháp này là một nhân tố của quá trình Đổi mới, xác lập những cơ sở và kích thích cho quá trình Đổi mới được diễn ra. Về mặt kinh tế, nó xác lập cơ sở pháp lý cao nhất cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường. Về mặt thể chế, nó xác lập một mô hình chính quyền bớt tập trung hơn như Quốc hội không còn được tự quy định cho mình những quyền khác khi cần thiết; thiết chế Chính phủ được tái lập thay cho thiết chế Hội đồng Bộ trưởng, với một vị trí tương đối độc lập so với Quốc hội (không còn là cơ quan hành chính của Quốc hội), Hội đồng Nhà nước được tách thành Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước như một định chế cá nhân...
Với tính chất là một Hiến pháp của quá trình Đổi mới, người ta không thể mong chờ bản hiến pháp này xác lập những nền tảng ổn định cho toàn bộ quá trình đó. Nó chỉ có thể xác lập những nền tảng ban đầu cho quá trình chuyển đổi. Do vậy, nó được điều chỉnh để tiếp tục tạo những nền tảng mới và kích thích phát triển những yếu tố mới của quá trình chuyển đổi. Chính vì vậy những chuyển đổi hiến pháp đã diễn ra tư khi chương trình Đổi mới được đưa ra cho đến nay. Cuộc sửa đổi Hiến pháp năm 2001, chẳng hạn, xây dựng những nền tảng cho sự phát triển nhà nước pháp quyền và các yếu tố kinh tế thị trường có tính chất toàn cầu (thành phần kinh tế có yếu tố nước ngoài), điều mà những nhà thảo hiến những năm 90 chưa dự trù.
Một điều cũng cần đáng chú ý là trong quá trình chuyển đổi những cải cách hiến pháp có thể diễn ra bằng con đường không chính thức, tức thông qua các luật có tính cách hiến pháp. Luật Công ty năm 1990, chẳng hạn, là một luật có tính cách hiến pháp được ban hành hồi đầu quá trình chuyển đổi. Do yêu cầu của chương trình Đổi mới, Luật này đưa ra những nền tảng pháp lý cho việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thực hiện các quyền căn bản về tài sản của cá nhân, điều chưa được quy định trong Hiến pháp 1980. Luật Công ty 1990 có thể được coi là một luật cải cách hiến pháp.
Luật Kiểm toán Nhà nước năm 2005 cũng có một tính cách tương tự. Do những yêu cầu mới của bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường liên quan đến sự minh bạch nền tài chính công, Luật này được ban hành và thiết lập một định chế mới có tính cách quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, chưa được tiên liệu trong Hiến pháp 1992. Với trường hợp này, chuyển đổi Hiến pháp đã diễn ra không phải thông qua con đường tu chính án hiến pháp chính thức.
Nghị quyết số 26/2008/QH12 ngày 15/11/2008 của Quốc hội khóa XII về việc việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường cung cấp thêm một sự minh họa. Dù không có những sửa đổi hiến pháp chính thức diễn ra, do thực tế thực tiễn chứng minh rằng các định chế đại diện địa phương ở cấp trung gian đã tỏ ra hoạt động một cách hình thức, cấu trúc chính quyền địa phương được điều chỉnh trên thực tiễn bởi một Nghị quyết có tính cách hiến pháp của Quốc hội.
Tương lai sửa đổi hiến pháp ở Việt Nam
Cách nhìn ổn định về hiến pháp không thích hợp trong việc giải thích diễn tiến của hiến pháp ở Việt Nam cũng như sự phát triển trong tương lai của nó. Do Việt Nam là một xã hội đang chuyển đổi trên nhiều phương diện, tư duy chuyển đổi sẽ thích hợp hơn trong việc nhận thức cũng như cải cách hiến pháp. Với tư duy này, những sửa đổi hiến pháp diễn ra linh hoạt hơn theo con đường "cải cách hiến pháp dần dần" sẽ thích hợp cho một xã hội chuyển đổi như Việt Nam.
Trong một thập kỷ trở lại đây, Việt Nam có những chuyển đổi năng động về mặt kinh tế-xã hội, trong khi Hiến pháp không chuyển đổi theo một cách chính thức. Chính vì vậy, như là một yêu cầu tất yếu có tính thực tiễn của quá trình chuyển đổi, một số hình thức chuyển đổi hiến pháp không chính thức đã diễn ra. Tuy nhiên, để làm cơ sở cho quá trình chuyển đổi diễn ra tốt hơn, nhanh hơn, hiến pháp cần có những chuyển đổi linh hoạt hơn cả bằng việc sửa đổi hiến pháp chính thức lẫn thông qua những đạo luật có tính cách hiến pháp.
Việt Nam có thể sẽ sửa hiến pháp chính thức trong thời gian tới không xa. Việc sửa đổi hiến pháp này sẽ cần được xem xét với một thực tế là Việt Nam là một xã hội đang chuyển đổi sang các giá trị mới: công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, và xây dựng nhà nước pháp quyền. Như vậy, sửa đổi hiến pháp sắp tới nên tạo lập những cơ sở mới và kích thích quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, và xây dựng nhà nước pháp quyền được diễn ra tốt hơn và nhanh hơn. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa việc sửa đổi hiến pháp sắp tới sẽ tạo lập những nền tảng toàn diện cho quá trình đó. Những sửa đổi hiến pháp trong thời gian tới đây nếu có thể diễn ra sẽ cần được xem như là một công đoạn chuyển đổi hiến pháp, và nó sẽ tiếp tục sinh ra những sửa đổi hiến pháp tiếp theo nữa trong quá trình thúc đẩy dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
(Theo Tạp chí Tia Sáng)
---
(1) Xem: Dân mới là chủ thể cơ bản ban hành Hiến pháp: http://www.vietnamnet.vn/chinhtri/201008/Dan-moi-la-chu-the-co-ban-ban-hanh-Hien-phap-926639/
(2) Sửa đổi Hiến pháp: nên trưng cần dân ý: http://phapluattp.vn/20100916105431521p0c1013/sua-hien-phap-nen-trung-cau-y-dan.htm
(3) Samuel P.Huntington, The Third Wave: Democratization in The Late Twentieth Century (Norman: University of Oklahoma Press, 1991)
(4) Ruti Teitel, "Transititional Jurisprudence: The Role of Law in Political Transformation" (1997) 106 begin_of_the_skype_highlighting (1997) 106 end_of_the_skype_highlighting (7) The Yale Law Journal p 2057.
(5) Như trên, p 2063.
(6) Jiunn-Rong Yeh & Wen-Chen Chang, "The Changing Landscape of Modern Constitutionalism: Transitional Perspective" (2009) 4 (1) National Taiwan University Law Review p149
(7) Chi tiết hơn về cải cách hiến pháp ở Hungary, xem: Gregory Tardi, "The Democratization of Hungarian Constitution" (2000) 9 MSU-DLC Journal of International Law p 369
(8) Chi tiết hơn về cải cách hiến pháp ở Đài Loan xem: Jiunn-Rong Yeh, "Constitutional Reform and Democratization in Taiwan, 1945-2000" trong Peter C.Y. Chow (ed), Taiwan's Modernization in Global Perspective (Westport, Conn.: Praeger, 2002), p 47-78.
(9) Xem: Jiunn-Rong Yeh & Wen-Chen Chang (đã dẫn), p157.
(10) Nguồn: Jiunn-Rong Yeh & Wen-Chen Chang (đã dẫn), p 153
Hiến pháp 1946 với tư tưởng pháp quyền
Sửa hiến pháp để thúc đẩy dân chủ hóa nền quản trị quốc gia
Luật pháp không thể không hội nhập với thế giới
Bùi Ngọc Sơn
Trang đầu tiên của bản gốc Hiến pháp Mỹ.
Trong một bài viết bàn về sửa đổi Hiến pháp ở Việt Nam, GS Tương Lai dẫn lại nhận xét của William Ewart Gladstone, Thủ tướng nước Anh (1809 - 1898) về Hiến pháp Mỹ như là “tác phẩm tuyệt vời nhất từng được sản sinh ra vào một thời điểm nhất định bởi trí óc và mục đích của con người".
Giáo sư không quên chú thích thêm rằng Hiến pháp Mỹ là “bản hiến pháp lâu đời nhất và nổi tiếng nhất với trên 200 năm lịch sử. Từ khi có hiệu lực năm 1789, bản Hiến pháp này đã là mô hình tham khảo để xây dựng hiến pháp của nhiều quốc gia phương Tây khác.”(1) Thực sự trong việc sửa đổi Hiến pháp, Việt Nam có thể học được gì từ văn hóa Hiến pháp Mỹ?
Bài viết này trả lời rằng bài học quan trọng nhất mà văn hóa Hiến pháp Mỹ có thể đem lại cho Việt Nam là: khác với Coca-Cola, KFC, Rock&Roll, thể chế không phải là một thứ mà người ta có thể dễ dàng nhập khẩu và thưởng thức. Bài viết khẳng định rằng các vấn đề hiến pháp cần phải được bối cảnh hóa trong điều kiện văn hóa bản địa, mặc dù không phủ nhận khả năng tiếp nhận các giá trị hiến pháp nước ngoài.
Hiến pháp hay là lòng mộ đạo?
Thomas Jefferson, tác giả của Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ, viết năm 1861 rằng: “Một số người nhìn hiến pháp với một lòng mộ đạo quá mức.” (2) Tinh thần mộ đạo đối với hiến pháp không chỉ giới hạn ở một số người mà trở thành đặc trưng chung của văn hóa hiến pháp của người dân Mỹ. GS Satanford Levinson ở ĐH Texas khái quát rằng “sự tôn kính” đối với Hiến pháp trở thành khía cạnh trung tâm của truyền thống chính trị Mỹ. Bản Hiến pháp, cùng với Quốc kỳ và Tuyên ngôn độc lập được coi là “bộ ba thánh thần” của “tôn giáo dân sự” của nước Mỹ (3). GS Thomas C. Grey ở ĐH Stanford cũng nhận định: “Ngay từ thời điểm nó được phê chuẩn, người Mỹ đã coi Hiến pháp của Hợp chúng quốc không chỉ là một phương tiện pháp lý mà còn là một biểu tượng có tính chất thần thánh. Cùng với Quốc kỳ, nó là vật tổ của chúng ta.” (4)
2/3 dân số trên thế giới sống dưới các chính quyền hợp hiến không ít thì nhiều chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hợp hiến tự do phương Tây mà chủ nghĩa hợp hiến phương Tây đến lượt nó lại chịu sự chi phối của chủ nghĩa hợp hiến Mỹ.
Khi người ta sùng bái một vật thể, vật thể đó tất có tính chất quyết định đối với cuộc sống của người ta. Cũng tương tự như vậy, việc sùng bái Hiến pháp của người Mỹ được lý giải từ một thực tế là Hiến pháp có tính chất quyết định đối với cuộc sống của người dân. Mọi người dân Mỹ đều có thể xác định cương vị của mình bằng ngôn ngữ Hiến pháp; nói cách khác, người dân dựa vào hiến pháp để định vị thân phận của họ. Từ việc đi xe buýt, chào cờ ở các trường tiểu học đến vấn đề nạo phá thai, hôn nhân đồng giới, hình phạt tử hình, và nói chung những vấn đề chính trị quan trọng của quốc gia, cuối cùng rồi người ta cũng viện dẫn đến Hiến pháp để giải quyết. Các vấn đề luật pháp Mỹ chẳng chóng thì chầy sẽ trở thành các vấn đề Hiến pháp.
Điều đáng nói là sự sùng bái Hiến pháp Mỹ không chỉ giới hạn ở những người dân Mỹ: các quốc gia khác nhau trên thế giới cũng ngưỡng mộ bản Hiến pháp này. Một thực tế có tính chất toàn cầu là các chuẩn mực của chủ nghĩa hợp hiến phương Tây như phân quyền, pháp quyền, nhân quyền, tài phán hiến pháp đang chiếm ưu thế và được “cấy” vào những vùng khác nhau của thế giới. 2/3 dân số trên thế giới sống dưới các chính quyền hợp hiến không ít thì nhiều chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hợp hiến tự do phương Tây mà chủ nghĩa hợp hiến phương Tây đến lượt nó lại chịu sự chi phối của chủ nghĩa hợp hiến Mỹ.
Tuy nhiên, con đường vay mượn thể chế gian nan hơn rất nhiều việc trực chờ để được sở hữu phiên bản mới nhất của một sản phẩn công nghệ thông tin. Xây dựng thể chế về mặt hình thức là một chuyện, nhưng thực thi nó lại là chuyện khác.
Một học giả Mỹ cho rằng những văn bản hiến pháp được xây dựng nửa cuối thế kỷ 20 chỉ là những sự sao chép về mặt hình thức, còn thực tế chính trị lại khác xa. (5) Người ta có thể dễ dàng giải khóa các sản phẩm công nghệ có bản quyền, nhưng không dễ kích hoạt các thể chế Mỹ, dù rằng không có bản quyền, trong những môi trường khác. Lý do nằm ở chỗ các thể chế có điều kiện hoạt động của nó. Thể chế có thể hoạt động tốt ở nước này nhưng lại trục trặc ở nước khác do điều kiện bản địa khác nhau.
Người Mỹ đã “vay mượn hiến pháp” như thế nào?
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, khi các giá trị hiến pháp của một quốc gia được tiếp nhận và thực hiện ở các nền tài phán khác, các học giả quốc tế bàn nhiều hơn đến sự “vay mượn hiến pháp” (constitutional borrowing). Trong bối cảnh đó, Hiến pháp Mỹ được “vay mượn” ở nhiều khu vực khác nhau, và đâu đó người ta cho rằng Hiến pháp là mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất của nước Mỹ. Tuy nhiên, bản thân Hiến pháp Mỹ cũng là một sự “vay mượn.” Các nhà lập hiến Mỹ đã vay mượn khá nhiều từ hệ thống hiến pháp của Anh (kể cả các tập quán chính trị lẫn các văn bản hiến pháp như Đại hiến chương Magna Carta, Luật dân quyền, Luật đình quyền giam giữ…)
Hơn một trăm năm trước đây, GS Christopher Tiedeman (1857-1903), một nhà hiến pháp học kinh điển của nước Mỹ, thuộc ĐH Missouri, đã cho rằng: “Hiến pháp của Liên bang cũng như các hiến pháp của tiểu bang ở Mỹ là sự phát triển tiếp theo một cách tự nhiên của Hiến pháp Anh, được điều chỉnh một số chi tiết và nguyên tắc bởi bối cảnh mới.” (6)
Thực vậy, không khó để chỉ ra những dấu ấn của Hiến pháp Anh trong Hiến pháp Mỹ: hệ thống phân chia quyền lực, những giới hạn của quyền lực hành pháp, chế độ lưỡng viện, hệ thống tư pháp độc lập… Nhà chính trị học Robert Lowry Clinton giúp chỉ ra rằng trong 21 khoản của 4 điều đầu tiên của Hiến pháp Mỹ (những điều khoản chính về cấu trúc lập pháp, hành pháp và tư pháp), ít nhất có 16 khoản có nguồn gốc từ các quy tắc Hiến pháp của Anh.
Không chỉ hiến pháp gốc, các tu chính án của Hiến pháp Mỹ cũng vay mượn nhiều từ nguồn Anh. Cũng theo Clinton, Luật dân quyền Anh đã cung cấp những quy tắc cho các nhà thảo hiến Mỹ trong những tu chính án liên quan đến dân quyền của nước Mỹ. Cụ thể, ít nhất 17 trong số 28 quy phạm ở 8 tu chính án đầu tiên của Hiến pháp Mỹ có nguồn gốc từ hệ thống thông luật Anh (7).
Nói như vậy không có nghĩa Hiến pháp Mỹ không có bản sắc riêng. Kỳ thực, nhiều quy tắc của Hiến pháp Mỹ phản ánh những đòi hỏi của bối cảnh mới khi các thuộc địa mới dành được độc lập như như hệ thống liên bang, chế độ tổng thống, chủ quyền nhân dân thay cho chủ quyền nghị viện…
Dù vay mượn từ Hiến pháp Anh, Hiến pháp Mỹ đã hoạt động thành công và tạo nên sự ngưỡng mộ của thế giới. Lý do của sự thành công này là gì? Các thể chế của Hiến pháp Anh hoạt động thành công ở Mỹ thực chất là vì chủ nghĩa hợp hiến Mỹ là vì sự liên tiếp của văn minh Anglo-Saxons ở vùng đất mới bên bờ kia Đại Tây Dương. Tiedeman đã nhận xét: “Hiến pháp Anh và Mỹ hoạt động hiệu quả, tạo nên sự ngưỡng mộ của những người nghiên cứu chính trị không phải do sự xuất sắc trừu tượng cố hữu của chúng- vì không khó chỉ ra những khiếm khuyết rõ ràng, mà do chúng là sản phẩm tự nhiên của nền văn minh Mỹ-Anglo. Các đặc tính của văn minh Anglo-Saxons như yêu chuộng tự do, tuân thủ pháp luật, và tinh thần bảo thủ, dù không tìm thấy trong bản văn hiến pháp, nhưng là những yếu tố bảo đảm cho sự vững bền của chính phủ tự do ở nước Anh và nước Mỹ.” (8)
Với thực tế đó, chúng ta cần suy nghĩ lại nhận xét Thủ tướng Anh Ewart Gladstone về Hiến pháp Mỹ như là “tác phẩm tuyệt vời nhất từng được sản sinh ra vào một thời điểm nhất định bởi trí óc và mục đích của con người.” “Sự tuyệt vời” của tác phẩm không phải ở chỗ nó chứa đựng các định chế tân tiến mà chính là ở chỗ nó phản ánh một cách trung thành nhất sự liên tục tự nhiên của văn hóa. Nếu như vậy, nó không phải được sản sinh “bởi trí óc và mục đích của con người”. Nó giản đơn chỉ là sự phản chiếu tự nhiên của một nền văn minh được mở rộng.
Tóm lại, văn hóa hiến pháp Mỹ đem lại một bài học quý giá rằng các hiến pháp chỉ thành công khi được cấy rẽ vào nguồn của nền văn hóa bản địa. Sự vay mượn hiến pháp chỉ thành công khi được sự ủng hộ của bối cảnh bản địa.
Tiếp nhận hiến pháp ở Việt Nam: một ví dụ từ quy định bỏ phiếu tín nhiệm
Đầu năm 2001 Việt Nam cải cách hiến pháp và một số thể chế nước ngoài được tiếp nhận. Điển hình nhất là chế độ bỏ phiếu tín nhiệm, theo đó, Quốc hội được trang bị thêm thẩm quyền mới là “bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.” (khoản 7, Điều 84). Dễ nhận ra rằng đây là một sự tiếp nhận có điều chỉnh của chế độ bỏ phiếu bất tín nhiệm được áp dụng phổ biến trong các chế độ đại nghị ở Châu Âu.
Chế độ bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội Việt Nam là một sự tiếp nhận có điều chỉnh của chế độ bỏ phiếu bất tín nhiệm được áp dụng phổ biến trong các chế độ đại nghị ở Châu Âu nhưng đã được điều chỉnh cho phù hợp với môi trường chính trị Việt Nam: bỏ phiếu bất tín nhiệm được mềm hóa thành bỏ phiếu tín nhiệm; bỏ phiếu đối với cá nhân thay cho bỏ phiếu đối với tập thể.
Bỏ phiếu tín nhiệm hay bỏ phiếu bất tín nhiệm là thể chế được thiết kế để ngành lập pháp có thể bày tỏ thái độ không hài lòng và áp đặt trách nhiệm đối với ngành hành pháp. Thể chế được điều chỉnh cho phù hợp với môi trường chính trị Việt Nam: bỏ phiếu bất tín nhiệm được mềm hóa thành bỏ phiếu tín nhiệm; bỏ phiếu đối với cá nhân thay cho bỏ phiếu đối với tập thể. Mặc dù vậy, thể chế này, trong một thập kỷ qua chưa từng hoạt động. Cũng cần lưu ý rằng điều này không có nghĩa vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm chưa từng được đặt ra trước Quốc hội. Chúng ta có thể nhớ lại ấn tượng gần đây nhất về một vị đại biểu Quốc hội đặt vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm đối với người đứng đầu ngành hành pháp nhân vụ Vinashin. Tuy nhiên, Quốc hội chưa từng bỏ phiếu tín nhiệm đối với ai kể từ khi thể chế này được xây dựng từ năm 2001.
Có lẽ có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng là thể chế không nhận được sự ủng hộ của văn hóa bản địa. Liên quan đến những cọ xát giữa lập pháp và hành pháp, tinh thần bằng hữu hay văn hóa hài hòa có giá trị chi phối hơn là các thể chế chính thức. “Dĩ hòa vi quý” có lẽ không chỉ là một phương châm giải quyết tranh chấp dân sự để tránh con đường kiện tụng nơi tòa án mà còn trở thành quy tắc ứng xử mang tính chất bao quát hơn trong đời sống chính trị.
Vài lời kết
Hiến pháp cũng như luật pháp là một bộ phận của văn hóa. Các hiến pháp chân thực, không phải hiến pháp hình thức, bao giờ cũng là sự phản ánh trung thành văn hóa bản địa. Sự gắn kết với văn hóa bản địa là điều kiện để hiến pháp vận hành trên thực tiễn thay vì trở thành hữu danh vô thực. Nếu hiến pháp được xem như khế ước của một cộng đồng, nó phải được xây dựng và điều chỉnh trên nền tảng lối sống, cách nghĩ, những mong muốn chung, những xu hướng chung được một cộng đồng chấp nhận.
Bài viết này, trong khi không có ý dựa vào “chủ nghĩa liên quan văn hóa” để phủ nhận khả năng tiếp nhận thể chế ngoại sinh, đề nghị rằng học thuật trong nước cũng như các nhà xây dựng thể chế quốc gia cần xem xét nhiều hơn đến sự tương quan của văn hóa bản địa đối với việc thiết lập, điều chỉnh và vận hành thể chế.
1. Xem: Để dân trao quyền mà không mất quyền: http://tuanvietnam.net/2010-08-29-de-dan-trao-quyen-ma-khong-mat-quyen.
2. David N.Mayer. The Constitutional Thought of Thomas Jefferson (Virgina: University of Virgina Press, 1994), p 296.
3. Satanford Levinson, Constitutional Faith (New Jersey: Princeton University Press, 1988), p11.
4. Thomas C. Grey, “The Constitution as Scripture” 37 Stanford Law Review p 17
5. David T Butle Ritchie, “Critiquing Modern Constitutionalism” (2004) Vol 3: 37 Appalachian Journal of Law p 45.
6. Christopher Tiedeman, The Unwritten Constitution of the United States (New York: William S.Hein& Co., Inc, 1974), p 26.
7. Do khuôn khổ bài viết có hạn, chúng tôi không tiện chỉ ra nội dung cụ thể. Ban đọc quan tâm xin tham khảo: Robert Lowry Clinton, God and Man in Law: The Foundations of Anglo-American Constitutionalism (Lawrence, Kansas: University Press of Kansas, 1997), pp 96-98. Trong phần viết này, Clinton chỉ ra cụ thể điều khoản nào của Hiến pháp Mỹ có nguồn gốc từ văn bản nào trong hệ thống Hiến pháp nước Anh.
8. Christopher Tiedeman, tlđd, p 26.
Hiến pháp Việt Nam trong cách nhìn chuyển đổi
Tác giả: Bùi Ngọc Sơn
Bài viết dưới đây giới thiệu cách nhìn chuyển đổi về hiến pháp được phát triển bởi một số học giả phương Tây và Châu Á. Sau đó, chúng tôi sẽ thử áp dụng cách nhìn này để xem xét các hiến pháp Việt Nam.
Trong một cuộc thảo luận về sửa đổi Hiến pháp ở Việt Nam, TS Nguyễn Đình Lộc, Nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp băn khoăn: "Vì sao chỉ trong 46 năm từ 1946 đến 1992 mà ta có đến bốn hiến pháp - không kể những lần sửa đổi? Nước Mỹ 200 năm qua chỉ có một Hiến pháp."(1) Điều này cũng được TS Trần Du Lịch nhắc lại trong một dịp thảo luận khác về cùng chủ đề(2). Nhận thức này tiêu biểu cho cách nhìn ổn định về hiến pháp vốn bắt nguồn từ tư duy cổ điển về luật căn bản. Cách nhìn ổn định thích hợp trong việc giải thích các hiến pháp cổ điển được ban hành trong thế kỷ 18-19 trong đó có Hiến pháp Philadelphia 1787, nhưng có vẻ không thích hợp trong việc giải thích diễn tiến của hiến pháp hiện đại ở Việt Nam và tương lai của nó.
Bài viết dưới đây giới thiệu cách nhìn chuyển đổi về hiến pháp được phát triển bởi một số học giả phương Tây và Châu Á. Sau đó, chúng tôi sẽ thử áp dụng cách nhìn này để xem xét các hiến pháp Việt Nam.
Lập hiến
Sự sụp đổ của Bức tường Berlin kéo theo quá trình chuyển đổi sâu sắc từ các chế độ độc đoán sang các nền dân chủ mới, khởi đầu ở Trung và Đông Âu rồi mở rộng ra nhiều vùng khác của thế giới, gồm cả khu vực châu Á, một thực tế mà Samuel P.Huntington gọi là "làn sóng thứ ba" của quá trình dân chủ hóa (3). Trong bối cảnh chuyển đổi đó, tiến trình lập hiến có những chuyển đổi tương ứng với những diễn biến phức tạp và không thuần nhất. Một số nền dân chủ mới chọn con đường xây dựng hiến pháp mới rất sớm trong quá trình dân chủ hóa, như ở Cộng hòa Séc, các quốc gia Baltic, Mông Cổ và Philippines, trong khi một số nước khác xây dựng hiến pháp mới muộn hơn như ở Nam Phi, Hà Lan, và Thái Lan. Một số nền dân chủ mới lại không ban hành hiến pháp mới thay vì sửa đổi hiến pháp cũ với mức độ khác nhau, như những trường hợp của Hungary, Argentina, Hàn Quốc, Đài Loan và Indonesia.
Sau những chuyển đổi thành công ban đầu, một số nước như Hà Lan, Hungary, Hàn Quốc, và Đài Loan nhận thấy không cần thiết phải ban hành một hiến pháp mới ngay lập tức thay vì lựa chọn con đường "cải cách hiến pháp dần dần." Hà Lan cuối cùng cũng có hiến pháp mới vào năm 1997 sau tám năm soạn thảo, trong khi Hungary, và Hàn Quốc, và Đài Loan vẫn không có hiến pháp mới.
Xét về mặt nội dung, các hiến pháp hiện đại của các nền dân chủ mới phản ánh các nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa hợp hiến tự do, xây dựng các định chế nhằm thoát khỏi chế độ độc đoán, thay đổi các quy tắc bầu cử, củng cố các quyền tài sản của cá nhân để chuyển đổi nền kinh tế từ nền tập trung sang thị trường, và để thực thi những điều đó, thiết lập các tòa án hiến pháp.
Giáo sư Ruti Teitel ở ĐH New York, trong một nghiên cứu công bố trên Tạp chí Luật Yale, đề xuất cách nhìn chuyển đổi đối với các hiến pháp hiện đại. Học giả này cho rằng chủ nghĩa hợp hiến trong bối cảnh chuyển đổi phản ánh tính chất chuyển đổi của quá trình và khi đó các hiến pháp không được thiết lập một cách ổn định ngay từ đầu; quá trình lập hiến thường bắt đầu với những hiến pháp có tính chất tạm thời định vị cho những cải cách hiến pháp tiếp theo.
Ruti Teitel viết: "Mặc dù quan niệm phổ biến của chúng ta về luật hiên pháp như là có tính chất hướng về phía trước và là cơ sở ổn định cho hệ thống pháp luật, lập hiến trong quá trình chuyển đổi có tính chất tạm thời và gắn liền với những thay đổi dần dần. Nhiều hiến pháp được ban hành trong quá trình chuyển đổi chính trị rõ ràng có khuynh hướng như là những phương tiện nhất thời. Trong khi quan niệm phổ biến nhìn nhận hiến pháp như là có tính chất ổn định và lâu dài, một số phương diện của các hiến pháp chuyển đổi có tính chất nhất thời, và một số phương diện khác được củng cố theo thời gian."(4)
Lấy dẫn chứng từ quá trình chuyển đổi hiến pháp ở Nam Phi, Brazil, Colombia, Teitel đi đến kết luận rằng trong quá trình chuyển đổi, hiến pháp không phải đóng vai trò như là kết quả cuối cùng của quá trình chuyển đổi, mà là những tác nhân trong việc xây dựng quá trình đó; các hiến pháp thường là có tính chất nhất thời để kích thích quá trình chuyển đổi chính trị; những sự chuyển đổi hiến pháp thúc đẩy những chuyển đổi hiến pháp tiếp theo.(5)
Luận điểm của Teitel được ủng hộ và được minh họa thêm bởi hai học giả ở Đại học Quốc gia Đài Loan, Jiunn-Rong Yeh và Wen-Chen Chang. Trong một nghiên cứu gần đây về chủ nghĩa hợp hiến hiện đại dưới góc nhìn chuyển đổi với những thực tế của Trung và Đông Âu, Nam Phi, Châu Á, hai học giả này khằng định: "Chức năng của hiến pháp trong quá trình chuyển đổi dân chủ rõ ràng chuyển từ việc giới hạn quyền lực chính phủ sang việc kích thích các chương trình cải cách và thậm chí tái thiết cấu trúc xã hội. Chủ nghĩa hợp hiến chuyển đổi vận hành không những là nền tảng của quá trình chính trị dân chủ hóa mà còn tạo ra khả năng chuyển đổi về mặt thể chế cho cho những chuyển đổi tiếp theo."(6)
Tính chất của các hiến pháp hiện đại trong bối cảnh chuyển đổi đỏi hỏi chúng ta suy nghĩ lại quan niệm cổ điển về hiến pháp. Trong qua niệm cổ điển, hiến pháp với tư cách luật cơ bản của quốc gia, tạo lập nền tảng cho chính thể và hệ thống pháp luật, nên được cho là có tính chất ổn định. Quan niệm ổn định có thể thích hợp trong việc nhìn nhận các hiến pháp cổ điển được ban hanh trong khoảng thế kỷ 18, 19, nhưng sẽ không giải thích được tính chất của các hiến pháp chuyển đổi được ban hành ở cuối thế kỷ 20. Nam Phi thậm chí còn có "Hiến pháp lâm thời" và "34 nguyên tắc" đóng vai trò như các nguyên tắc hiến pháp trước khi xây dựng một hiến pháp mới của quá trình chuyển đổi. Tương tự, Hà Làn có "Tiểu Hiến pháp" và mãi cho đến khi quá trình chuyển đổi đã khá vững chắc mới ban hành hiến pháp mới vào năm 1997. Cách nhìn chuyển đổi sẽ thích hợp hơn trong việc nhận thức về tính chất của hiến pháp trong bối cảnh chuyển đổi.
Các hiến pháp cổ điển được quan niệm như là khế ước xã hội áp đặt các giới hạn pháp lý lên quyền lực của chính phủ để chống lạm quyền nhằm bảo vệ các quyền cá nhân. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi hiến pháp là kết quả của một quá trình cách mạng khi sự đồng thuận xã hội đã đạt được. Các hiến pháp hiện đại không nằm trong một trạng thái tương tự. Trong bối cảnh chuyển đổi chính trị-xã hội, các giá trị xã hội không những không có sự thống nhất mà còn chia rẽ. Vì vậy, các hiến pháp chuyển đổi thay vì là kết quả của quá trình chuyển đổi như các hiến pháp cổ điển, nó là một bộ phận của quá trình chuyển đổi. Với tính chất đó, hiến pháp xác lập những cơ sở và kích thích quá trình chuyển đổi.
Sửa đổi hiến pháp
Do tính chất của quá trình chuyển đổi, các hiến pháp hiện đại nằm trong quá trình được sửa đổi khá thường xuyên. Hungary cải cách sâu rộng Hiến pháp 1949 vào năm 1989 và sau đó có nhiều sửa đổi vào các năm: 1990, 1993, 1994, 1997, 2000, 2001, và 2002.(7) Với một tần suất tương tự, Đài Loan liên tục sửa đổi hiến pháp vào các năm: 1991, 1992, 1994, 1997, 1999, 2000, và 2005.(8) Sự sửa đổi thường xuyên đối với hiến pháp là một điều có thể giải thích được trong bối cảnh chuyển đổi. Các chính quyền chuyển đổi phải đối mặt với những vấn đề chuyển đổi mà sự ổn định của những điều khoản căn bản không những không có ích cho việc xúc tiến quá trình mà còn làm chậm quá trình.
Hơn nữa, các nền dân chủ chuyển đổi để làm cho quá trình được diễn ra một cách hòa bình thay vì những cuộc cách mạng bạo lực, đã lựa chọn con đường "cải cách hiến pháp dần dần". Tính chất "dần dần" của quá trình cải cách cho phép những sửa đổi hiến pháp thường xuyên. Mỗi một lần sửa hiến pháp tạo điều kiện cho những bước nhích lên của quá trình dân chủ hóa. Ngoài ra, đối với các hiến pháp chuyển đổi, những sửa đổi không có tính chất chung cuộc thay vì nó mở đường cho những sửa đổi tiếp theo.
Một điều đáng chú ý là do tính chất của quá trình chuyển đổi, các nền dân chủ phải đối mặt với các nhiều vấn đề chuyển đổi khác nhau, cho nên cải cách hiến pháp không chỉ được diễn ra qua hình thức sửa đổi chính thức hiến pháp mà còn là thiết lập các đạo luật đặc biệt có tính chất hiến pháp. Nói cách khác, người ta chứng kiến những cải cách hiến pháp diễn ra ngoài việc tu chính hiến pháp chính thức. Ví dụ ở Đài Loan và nhiều nước khác, các đạo luật thay vì hiến pháp cho phép cá nhân được quyền đòi bồi thường đối với việc xâm phạm các quyền cơ bản và tịch thu tải sản của chế độ cũ. (9) Trong trường hợp này, luật thúc thẩy tôn trọng các quyền căn bản được xem như là có tính chất hiến pháp và đóng góp vào quá trình cải cách hiến pháp. Thực tế nói trên gợi mở rằng trong việc nhìn nhận về chế độ hiến pháp trong bối cảnh chuyển đổi, người ta cần vượt ra ngoài chính văn hiến pháp và các tu chính án hiến pháp chính thức.
Tài phán hiến pháp
Một đặc điểm quan trọng của các hiến pháp hiện đại trong bối cảnh chuyển đổi là sự thiết lập các tòa án hiến pháp cùng với quyền tài phán tư pháp đối với các hành vi bất hợp hiến. Khung cảnh chuyển đổi hiện đại chứng kiến sự thành lập mới hoặc sự thiết lập lại các tòa án hiến pháp ở Trung và Đông Âu, Nam Phi, và Châu Á. Dưới đây là bảng về tình hình thiết lập tòa án hiến pháp ở các nền dân chủ chuyển đổi.(10)
Năm Thành lập mới Thành lập lại Thẩm phán được bổ nhiệm lại
1978 Tây Ban Nha 1986 Hà Lan Philippines
1988 Hàn Quốc
1990 Hungary
1991 Bulgaria Nga
1992 Romania
1993 Cộng hòa Séc/Slovakia
1994 Nam Phi,
Slovenia, Moldova Đài Loan
1997 Thái Lan
Do được thiết lập trong quá trình chuyển đổi, các tòa án hiến pháp đóng vai trò xúc tiến cho quá trình đó. Trước tiên, các tòa án này góp phần vào việc hiện thực hóa các cam kết của quá trình chuyển đổi. Không có các tòa án này các cam kết chuyển đổi tuyên bố trong các chính văn hiến pháp sẽ trở thành hình thức. Vì vậy, các tòa án hiến pháp được cho rằng sẽ thực thi các nguyên tắc của nền dân chủ hợp hiến mà các chính quyền chuyển đổi cam kết như sự bảo vệ các quyền tài sản làm cơ sở cho sự phát triển nền kinh tế thị trường, sự phân chia quyền lực... Tòa án hiến pháp tham gia vào quá trình này bằng việc giải thích các quy tắc hiến pháp, phát triển học lý hiến pháp, và phán xét những hành vi bất hợp hiến của chính quyền.
Điều đáng nói nữa là các tòa án hiến pháp là một diễn đàn trung lập để giải quyết các vấn đề chuyển đổi một cách hòa bình. Trong bối cảnh chuyển đổi, do các giá trị chưa được thống nhất, các xung đột quyền lực diễn ra, và để tránh những con đường cách mạng và bạo lực, các chính khách có khuynh hướng lựa chọn con đường giải quyết bằng những trọng tài trung lập- các tòa án hiến pháp.
Hiến pháp Việt Nam trong cách nhìn chuyển đổi
Cánh nhìn chuyển đổi được đưa ra bởi các học giả phương Tây và Châu Á như đã trình bầy ở trên dựa trên thực tế của làn sóng dân chủ thứ ba. Mặc dù vậy, chúng tôi suy nghĩ rằng rằng cánh nhìn chuyển đổi có thể thích hợp trong chừng mực nhất định đối với việc giải thích các hiến pháp hiện đại của các xã hội chuyển đổi nói chung. Trên cơ sở đó, chúng tôi thử nhìn diễn tiến của hiến pháp Việt Nam theo tư duy chuyển đổi.
Từ khi xác lập nền lập hiến đến nay, Việt Nam đã trải qua những chuyển đổi quan trọng về các mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Sự chuyển đổi này tất yếu dẫn đến những sự chuyển đổi về hiến pháp. Ngoại trừ Hiến pháp 1946 theo khuynh hướng cổ điển được xây dựng như là kết quả của một cuộc cách mạng, các hiến pháp sau không hoàn toàn là kết quả của quá trình chuyển đổi mà là những nhân tố của quá trình đó. Khi đó, các hiến pháp xác lập những cơ sở và kích thích cho quá trình chuyển đổi được diễn ra. Khi quá trình chuyển đổi có những khuynh hướng mới, các hiến pháp phải chuyển đổi theo. Chính vì vậy khi miền Bắc Việt Nam chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp 1959 thay thế Hiến pháp 1946; khi chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội được thực thi trên phạm vi toàn quốc, Hiến pháp 1980 thay thế Hiến pháp 1959; và khi chương trình Đổi mới được triển khai, Hiến pháp 1992 (hiện hành) thay thế Hiến pháp 1980. Cách nhìn chuyển đổi sẽ xóa tan đi sự băn khoan "chỉ trong 46 năm từ 1946 đến 1992 mà ta có đến bốn hiến pháp."
Chúng ta xem xét tính chất chuyển đổi của Hiến pháp hiện hành được ban hành năm 1992. Bản Hiến pháp này được xây dựng trong bối cảnh chuyển đổi từ một xã hội tập trung sang một xã hội đổi mới theo khuynh hướng thị trường (định hướng xã hội chủ nghĩa). Do đó, bản Hiến pháp này là một nhân tố của quá trình Đổi mới, xác lập những cơ sở và kích thích cho quá trình Đổi mới được diễn ra. Về mặt kinh tế, nó xác lập cơ sở pháp lý cao nhất cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường. Về mặt thể chế, nó xác lập một mô hình chính quyền bớt tập trung hơn như Quốc hội không còn được tự quy định cho mình những quyền khác khi cần thiết; thiết chế Chính phủ được tái lập thay cho thiết chế Hội đồng Bộ trưởng, với một vị trí tương đối độc lập so với Quốc hội (không còn là cơ quan hành chính của Quốc hội), Hội đồng Nhà nước được tách thành Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước như một định chế cá nhân...
Với tính chất là một Hiến pháp của quá trình Đổi mới, người ta không thể mong chờ bản hiến pháp này xác lập những nền tảng ổn định cho toàn bộ quá trình đó. Nó chỉ có thể xác lập những nền tảng ban đầu cho quá trình chuyển đổi. Do vậy, nó được điều chỉnh để tiếp tục tạo những nền tảng mới và kích thích phát triển những yếu tố mới của quá trình chuyển đổi. Chính vì vậy những chuyển đổi hiến pháp đã diễn ra tư khi chương trình Đổi mới được đưa ra cho đến nay. Cuộc sửa đổi Hiến pháp năm 2001, chẳng hạn, xây dựng những nền tảng cho sự phát triển nhà nước pháp quyền và các yếu tố kinh tế thị trường có tính chất toàn cầu (thành phần kinh tế có yếu tố nước ngoài), điều mà những nhà thảo hiến những năm 90 chưa dự trù.
Một điều cũng cần đáng chú ý là trong quá trình chuyển đổi những cải cách hiến pháp có thể diễn ra bằng con đường không chính thức, tức thông qua các luật có tính cách hiến pháp. Luật Công ty năm 1990, chẳng hạn, là một luật có tính cách hiến pháp được ban hành hồi đầu quá trình chuyển đổi. Do yêu cầu của chương trình Đổi mới, Luật này đưa ra những nền tảng pháp lý cho việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thực hiện các quyền căn bản về tài sản của cá nhân, điều chưa được quy định trong Hiến pháp 1980. Luật Công ty 1990 có thể được coi là một luật cải cách hiến pháp.
Luật Kiểm toán Nhà nước năm 2005 cũng có một tính cách tương tự. Do những yêu cầu mới của bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường liên quan đến sự minh bạch nền tài chính công, Luật này được ban hành và thiết lập một định chế mới có tính cách quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, chưa được tiên liệu trong Hiến pháp 1992. Với trường hợp này, chuyển đổi Hiến pháp đã diễn ra không phải thông qua con đường tu chính án hiến pháp chính thức.
Nghị quyết số 26/2008/QH12 ngày 15/11/2008 của Quốc hội khóa XII về việc việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường cung cấp thêm một sự minh họa. Dù không có những sửa đổi hiến pháp chính thức diễn ra, do thực tế thực tiễn chứng minh rằng các định chế đại diện địa phương ở cấp trung gian đã tỏ ra hoạt động một cách hình thức, cấu trúc chính quyền địa phương được điều chỉnh trên thực tiễn bởi một Nghị quyết có tính cách hiến pháp của Quốc hội.
Tương lai sửa đổi hiến pháp ở Việt Nam
Cách nhìn ổn định về hiến pháp không thích hợp trong việc giải thích diễn tiến của hiến pháp ở Việt Nam cũng như sự phát triển trong tương lai của nó. Do Việt Nam là một xã hội đang chuyển đổi trên nhiều phương diện, tư duy chuyển đổi sẽ thích hợp hơn trong việc nhận thức cũng như cải cách hiến pháp. Với tư duy này, những sửa đổi hiến pháp diễn ra linh hoạt hơn theo con đường "cải cách hiến pháp dần dần" sẽ thích hợp cho một xã hội chuyển đổi như Việt Nam.
Trong một thập kỷ trở lại đây, Việt Nam có những chuyển đổi năng động về mặt kinh tế-xã hội, trong khi Hiến pháp không chuyển đổi theo một cách chính thức. Chính vì vậy, như là một yêu cầu tất yếu có tính thực tiễn của quá trình chuyển đổi, một số hình thức chuyển đổi hiến pháp không chính thức đã diễn ra. Tuy nhiên, để làm cơ sở cho quá trình chuyển đổi diễn ra tốt hơn, nhanh hơn, hiến pháp cần có những chuyển đổi linh hoạt hơn cả bằng việc sửa đổi hiến pháp chính thức lẫn thông qua những đạo luật có tính cách hiến pháp.
Việt Nam có thể sẽ sửa hiến pháp chính thức trong thời gian tới không xa. Việc sửa đổi hiến pháp này sẽ cần được xem xét với một thực tế là Việt Nam là một xã hội đang chuyển đổi sang các giá trị mới: công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, và xây dựng nhà nước pháp quyền. Như vậy, sửa đổi hiến pháp sắp tới nên tạo lập những cơ sở mới và kích thích quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, và xây dựng nhà nước pháp quyền được diễn ra tốt hơn và nhanh hơn. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa việc sửa đổi hiến pháp sắp tới sẽ tạo lập những nền tảng toàn diện cho quá trình đó. Những sửa đổi hiến pháp trong thời gian tới đây nếu có thể diễn ra sẽ cần được xem như là một công đoạn chuyển đổi hiến pháp, và nó sẽ tiếp tục sinh ra những sửa đổi hiến pháp tiếp theo nữa trong quá trình thúc đẩy dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
(Theo Tạp chí Tia Sáng)
---
(1) Xem: Dân mới là chủ thể cơ bản ban hành Hiến pháp: http://www.vietnamnet.vn/chinhtri/201008/Dan-moi-la-chu-the-co-ban-ban-hanh-Hien-phap-926639/
(2) Sửa đổi Hiến pháp: nên trưng cần dân ý: http://phapluattp.vn/20100916105431521p0c1013/sua-hien-phap-nen-trung-cau-y-dan.htm
(3) Samuel P.Huntington, The Third Wave: Democratization in The Late Twentieth Century (Norman: University of Oklahoma Press, 1991)
(4) Ruti Teitel, "Transititional Jurisprudence: The Role of Law in Political Transformation" (1997) 106 begin_of_the_skype_highlighting (1997) 106 end_of_the_skype_highlighting (7) The Yale Law Journal p 2057.
(5) Như trên, p 2063.
(6) Jiunn-Rong Yeh & Wen-Chen Chang, "The Changing Landscape of Modern Constitutionalism: Transitional Perspective" (2009) 4 (1) National Taiwan University Law Review p149
(7) Chi tiết hơn về cải cách hiến pháp ở Hungary, xem: Gregory Tardi, "The Democratization of Hungarian Constitution" (2000) 9 MSU-DLC Journal of International Law p 369
(8) Chi tiết hơn về cải cách hiến pháp ở Đài Loan xem: Jiunn-Rong Yeh, "Constitutional Reform and Democratization in Taiwan, 1945-2000" trong Peter C.Y. Chow (ed), Taiwan's Modernization in Global Perspective (Westport, Conn.: Praeger, 2002), p 47-78.
(9) Xem: Jiunn-Rong Yeh & Wen-Chen Chang (đã dẫn), p157.
(10) Nguồn: Jiunn-Rong Yeh & Wen-Chen Chang (đã dẫn), p 153