Thứ Hai, 6 tháng 1, 2014

40 năm hải chiến Hoàng Sa

“40 năm đã trôi qua, nhưng chúng tôi không thể nào quên được trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974. Nhiều đồng đội của chúng tôi đến giờ vẫn còn lại dưới đáy sâu vùng biển này. Thân xác và hương hồn những người lính Việt đã hòa với cát đá, sóng gió đại dương để mãi mãi khẳng định rằng nơi này chưa một ngày nào chia lìa Tổ quốc...”.

Kỳ 1. http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/588163/40-nam-hai-chien-hoang-sa.html#ad-image-0
Kỳ 2. http://tuoitre....vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/588297/40-nam-hai-chien-hoang-sa-ky-2-tang-vien-tai-chiem-dao.html
Kỳ 3. http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/588465/40-nam-hai-chien-hoang-sa-ky-3-do-bo-dao-quang-hoa.html#ad-image-0
Kỳ 4. http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/588608/40-nam-hai-chien-hoang-sa-%C2%A0ky-4-lenh-khai-hoa.html#ad-image-0
Kỳ cuối. http://tuoitre.vn/Nhip-song-tre/588727/nhat-tao-nam-lai-khong-kich-bat-thanh.html


“40 năm đã trôi qua, nhưng chúng tôi không thể nào quên được trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974. Nhiều đồng đội của chúng tôi đến giờ vẫn còn lại dưới đáy sâu vùng biển này. Thân xác và hương hồn những người lính Việt đã hòa với cát đá, sóng gió đại dương để mãi mãi khẳng định rằng nơi này chưa một ngày nào chia lìa Tổ quốc...”.

40 năm hải chiến Hoàng Sa

TT - Ngày 11-1-1974, Trung Quốc đơn phương tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Kèm theo những lời tuyên bố vô căn cứ, Trung Quốc phái nhiều tàu đánh cá võ trang và tàu chiến xâm nhập hải phận Hoàng Sa.
Ngày hôm sau 12-1-1974, ngoại trưởng Việt Nam cộng hòa (VNCH) Vương Văn Bắc đã cực lực bác bỏ luận điệu ngang ngược và lên án hành động xâm lăng gây hấn của Trung Quốc. Đồng thời, Bộ tư lệnh hải quân VNCH khẩn cấp tăng cường chiến hạm tuần tiễu tại vùng biển Hoàng Sa.
Đổ bộ, cắm cờ và khiêu khích
Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải, viết trong hồi ký: “Vào ngày 15-1-1974, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ16), hạm trưởng là trung tá Lê Văn Thự, được lệnh đưa địa phương quân thuộc tiểu khu Quảng Nam và nhân viên khí tượng ra Hoàng Sa để thay thế toán đang ở ngoài đó hết nhiệm kỳ. Cùng đi còn có hai sĩ quan công binh đi theo tàu để nghiên cứu việc tu sửa lại cầu tàu tại Hoàng Sa và một người Mỹ tên Gerald Kosh xin đi để biết đảo Hoàng Sa... Khi chiến hạm vừa khởi hành, tôi được báo cáo từ Hoàng Sa là thấy một vài ghe đánh cá xuất hiện rất gần bờ tại đảo Pattle. Tôi liền chuyển tin tức đó cho chiến hạm HQ16”.
Sáng 16-1, đến đảo Pattle (Hoàng Sa), HQ16 cho bốn nhân viên cơ hữu dùng xuồng chở sáu người trong đoàn công binh lên đảo do thiếu tá Hồng chỉ huy và trong khi chờ đoàn công binh trở lại tàu, hạm trưởng HQ16 “thấy trên đảo Quang Hòa bốn năm người ăn mặc như thường dân, có người ở trần, đi lại gần một dãy nhà đang cất dở dang”. Hạm trưởng Thự liền hỏi bộ chỉ huy và được biết trên đảo này không có “quân ta”.
Đến trưa 16-1-1974, HQ16 lại thấy “một chiến hạm Trung Quốc xuất hiện trong vùng”. Trung úy Đào Dân, sĩ quan phụ tá trên HQ16, ra lệnh đánh tín hiệu nhưng tàu lạ im lặng. Ông viết trong hồi ký: “Tôi liền hội ý với hạm trưởng và khai hỏa đại liên 30 li cố ý đuổi nó ra khỏi vùng đảo nhưng tàu lạ vẫn không nhúc nhích”. HQ16 tiến gần hơn khoảng 500m thì thấy rõ lá cờ Trung Quốc. Một mặt HQ16 báo cáo về bộ chỉ huy, một mặt dùng tay, cờ và loa phóng thanh tiếng Hoa “yêu cầu ra khỏi hải phận Việt Nam”. Lúc đó tàu Trung Quốc không trả lời, nhiều người lên boong tàu, “đa số mặc quần cụt, áo thun, một số mặc quân phục”. Mãi một lúc lâu, tàu Trung Quốc cũng lên tiếng “yêu cầu ngược lại”. Đồng thời, “nhiều tàu cá xuất hiện cạnh đảo Money và hàng trăm lá cờ Trung Quốc cắm rải rác dọc bờ cát trắng”.
Trước tình hình đặc biệt nghiêm trọng này, trung tá Thự phải báo cáo về bộ tư lệnh hải quân và xin được tăng viện. Khu trục hạm Trần Khánh Dư số hiệu HQ-4, do trung tá Vũ Hữu San làm hạm trưởng, được lệnh khẩn cấp hành quân ra Hoàng Sa.
40 năm đã trôi qua, cựu thượng sĩ Trần Dục hiện đang sống ở Huế vẫn không thể quên được cuộc hành quân đặc biệt này. “Khoảng giữa tháng 1-1974, khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư sắp hoàn thành nhiệm vụ tuần tra biển vùng 1 và chuẩn bị vào bờ. Đang tính toán lên bờ Đà Nẵng sẽ mua sắm quà tết gì cho gia đình thì bất ngờ nhận nhiệm vụ mới ở Hoàng Sa. Anh em binh sĩ, thủy thủ đoàn chưa rõ tình hình nhưng đoán nhiệm vụ rất quan trọng. Bởi tết nhất rồi mà còn phải hành quân khẩn cấp chắc chắn phải có lý do quân sự”. Ông Dục lúc ấy là quản trưởng có trách nhiệm thay mặt hạm trưởng sắp xếp, điều động toàn bộ nhân sự trên tàu.

Cuộc hành quân lúc 0 giờ
Công tác chuẩn bị của khu trục hạm Trần Khánh Dư rất gấp rút. Buổi chiều, hạm trưởng San lên bờ họp trong khi bộ phận còn lại hối hả tiếp liệu, lương thực, đạn dược... Khoảng nửa đêm 16-1, tàu quay mũi rời Đà Nẵng hướng ra Hoàng Sa. Ngoài binh sĩ cơ hữu, tàu chở thêm một trung đội biệt hải do đại úy Nguyễn Minh Cảnh chỉ huy. HQ-4 là chiến hạm thuộc lớp hiện đại nhất thời điểm ấy của hải quân VNCH nên tốc độ khá cao. Khoảng trưa 17-1, khu trục hạm HQ-4 Trần Khánh Dư đã gia nhập với tuần dương hạm HQ16 Lý Thường Kiệt có mặt từ trước.
Tư lệnh vùng 1 duyên hải Hồ Văn Kỳ Thoại “chỉ định trung tá Vũ Hữu San giữ chức vụ chỉ huy chiến thuật (OTC-officer in tactical command) phân đội hoạt động vùng Hoàng Sa, gồm tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ16) và khu trục hạm Trần Khánh Dư”. Trung úy hải quân Đào Dân kể: Vừa nhập vùng, HQ-4 hành động ngay. HQ-4 từ phía nam đảo Money chạy lên, HQ16 từ đảo Pattle chạy xuống kềm chặt hai chiếc tàu Trung Quốc vào giữa. Hai bên đấu khẩu nhau. Cuối cùng HQ-4 nổ máy đâm thẳng tàu địch đuổi nó ra khơi”.
Là một trong những sĩ quan thường xuyên có mặt trên đài chỉ huy cùng hạm trưởng San, cựu trung úy Phạm Ngọc Roa (hiện sống ở Lâm Đồng), phụ tá sĩ quan hải hành, kể: “Hạm trưởng San là một người thẳng thắn và nóng tính, sẵn sàng thực hiện ngay việc mình xác quyết là đúng. Trung tá San lệnh dùng cờ, quang hiệu lẫn loa phát tiếng Việt, Trung, Anh để đuổi tàu Trung Quốc. Lúc đầu tàu Trung Quốc còn im lặng, đậu lì. Sau đó họ cũng trả lời dối trá lại đây là vùng chủ quyền Trung Quốc, yêu cầu tàu VNCH phải rời ngay lập tức. Hai bên vờn nhau mãi không giải quyết được gì, trung tá San cảnh báo, rồi ra lệnh bẻ lái ủi thẳng vào chiếc tàu giả trang ngư nghiệp 407 của Trung Quốc theo hướng đẩy ra xa đảo. Mũi khu trục hạm Trần Khánh Dư cao lớn hơn, chồm lên đè bể một phần buồng lái chiếc tàu 407 làm nó và một chiếc gần đó hoảng sợ, phải lùi ra xa.
Ông Dân mô tả “Trước thái độ quyết liệt của HQ-4, tàu địch bỏ chạy về phía nam của hai đảo Duy Mộng và Quang Hòa. Sau khi đuổi hai tàu địch, HQ-4 đổ bộ khoảng 20 người nhái lên đảo Money dẹp cờ Trung Quốc, cắm cờ VN. Còn HQ16 chuẩn bị đổ bộ 15 nhân viên cơ hữu lên đảo Robert do trung úy Lâm Trí Liêm chỉ huy. Toán này mang vũ khí đầy đủ, lương thực khô vài ba ngày”.
Thượng sĩ giám lộ Lữ Công Bảy trên HQ-4 kể: “Trung đội biệt hải lên đảo Quang Ảnh không phát hiện gì ngoài vài nấm mộ hình như mới đắp, không có bia, chỉ có cọc gỗ và bảng gỗ đóng trước đầu mộ ghi chữ Trung Quốc với ngày sinh và chết mấy chục năm trước. Các chiến sĩ biệt hải được lệnh đào bới các nấm mộ lên, chẳng thấy xương cốt gì cả. Đây là những nấm mộ ngụy tạo...”.
Đêm 17 rạng 18-1 là đêm cực kỳ căng thẳng. Phía Trung Quốc tiếp tục tăng cường lực lượng và cố tình khiêu khích. Các chiến hạm của họ tiến sâu vào lãnh hải Hoàng Sa. Tàu HQ-4 và HQ16 dùng tín hiệu cảnh cáo: “Đây là lãnh hải của Việt Nam. Yêu cầu các ông hãy rời khỏi đây ngay!”. Phía Trung Quốc đáp trả rằng Hoàng Sa là của họ!
TRẦN NHẬT VY - QUỐC VIỆT

Trung tá hạm trưởng HQ-4 Vũ Hữu San - Ảnh tư liệu
Sáng 17-1, theo nhà nghiên cứu Trần Đỗ Cẩm, “HQ16 quay lại đảo Hữu Nhật thấy hai tàu Trung Quốc vẫn còn đó. Ngoài ra, gần đảo Quang Ảnh (Money) lân cận cũng có tàu Trung Quốc xuất hiện với hàng trăm lá cờ Trung Quốc cắm rải rác dọc bãi cát trắng. Hạm trưởng HQ16 liền báo cáo “hai tàu cá Trung Quốc không tuân lệnh của chiến hạm VNCH ra khỏi lãnh hải VN và xuất hiện hai tàu chở quân của Trung Quốc đến gần đảo và trên bờ có cắm nhiều cờ của Trung Quốc”. Nhận được báo cáo, đô đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ra lệnh cho HQ16 đổ bộ nhân viên cơ hữu lên đảo Quang Ảnh để triệt hạ cờ Trung Quốc.
Trung tá Thự cho một toán đổ bộ gồm một trung úy và 14 đoàn viên của chiến hạm trang bị M79 và súng cá nhân lên bờ bằng xuồng cao su để nhổ hết cờ Trung Quốc mới cắm và thay bằng cờ Việt Nam.

_____________
 
Kỳ 5: Bỏ mình vì nước

(TNO) Các tường thuật có chi tiết mâu thuẫn nhau về Hải chiến Hoàng Sa, nhưng có một thực tế không thể chối cãi, đó là Trung Quốc đã ngang nhiên xâm lăng quần đảo của Việt Nam. Và người Việt Nam đã chiến đấu để bảo vệ chủ quyền, nhiều người đã bỏ mình vì nước.



Bài 5: Bỏ mình vì nước
Hạm trưởng Ngụy Văn Thà và con tàu HQ-10 Nhật Tảo nằm lại giữa biển khơi trong Hải chiến Hoàng Sa - Ảnh tư liệu

>> Xem Tuyên cáo của Bộ Ngoại giao VNCH ngày 19.1.1974
>> Xem Tuyên cáo ngày 14.2.1974 của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa

Gần 40 năm sau trận hải chiến, trong căn nhà tạm cư ở quận 10, TP.Hồ Chí Minh, góa phụ Huỳnh Thị Sinh kể với phóng viên Thanh Niên Online: “Ngày 18.1.1974, nhiều người nghe tin có đánh nhau ở ngoải nên kéo ra cầu tàu quân cảng chờ. Cô không ra được. Nghe người ta bảo chưa biết tàu mình ra làm sao”. Đến ngày 19.1, hung tin báo về, chồng bà, Thiếu tá hải quân Ngụy Văn Thà, tử trận ở tuổi 30, mất xác cùng con tàu HQ-10 Nhật Tảo mà ông chỉ huy.

“Người ta làm lễ truy điệu long trọng cho ông xã cô. Có cả tư lệnh Hải quân tới viếng”. Người chồng quá cố của bà được vinh danh, được truy phong trung tá hải quân dưới thời Việt Nam Cộng Hòa.

Chồng bà Sinh nằm trong số ít nhất 74 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa đã ngã xuống trong cuộc chiến bảo vệ quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974, trước sự xâm lăng của quân Trung Quốc.

Nằm lại nơi biển xa

Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10) là tàu nhỏ nhất và có hỏa lực yếu nhất của Việt Nam Cộng Hòa. Khởi đầu cuộc chiến, các tàu 389 và 396 của Trung Quốc dồn hỏa lực vào HQ-16, nên HQ-10 được dịp “rảnh tay” phát hỏa vào tàu địch, khiến chiếc 389 của đối phương gần như tê liệt. Tuy nhiên, chỉ trong vòng khoảng 10 phút kể từ khi khai chiến, đài chỉ huy HQ-10 bị trúng đạn pháo, toàn bộ hệ thống truyền tin và hầm máy tê liệt. Hạm trưởng Ngụy Văn Thà tử trận, Hạm phó – Thiếu tá Nguyễn Thành Trí cũng bị trọng thương. HQ-10 trôi không kiểm soát và va vào tàu 389 của Trung Quốc, theo cuốn Tài liệu Hải chiến Hoàng Sa. Sau đó, hai chiến hạm Trung Quốc mới nhập vùng còn bắn dữ dội vào HQ-10 lúc này đã bất khả phản kháng, khiến tàu chìm vào buổi chiều ngày 19.1.

Khi HQ-10 trúng đạn, nhiều thành viên tàu tử trận cùng với Hạm trưởng. Số thủy thủ còn lại là 23 người đã tìm cách thả bè đưa Hạm phó Nguyễn Thành Trí đào thoát. Trong lúc lênh đênh trên biển, Hạm phó Trí cùng một thủy thủ khác đã không qua khỏi do vết thương quá nặng, đành nằm lại giữa biển khơi. Sau vài ngày trôi dạt không thức ăn, nước uống, những người sống sót trên bè được tàu chở dầu Skopionella trên đường từ Hồng Kông đi Singapore vớt được.

Khi tàu HQ-16 bị bắn trúng hầm máy, Trung sĩ Điện khí Xuân bị đạn chém đứt lìa tay. Trong hành trình rút về Đà Nẵng, Trung sĩ Xuân đã qua đời do vết thương quá nặng và không được chăm sóc đúng mức.

Hạm trưởng HQ-16 Lê Văn Thự nhớ lại: “Khi rời Hoàng Sa, tôi hết sức ân hận đã bỏ lại trên đảo một toán nhân viên 8 người do Trung úy Liêm chỉ huy khi có lệnh đưa nhân viên lên giữ đảo. Trung úy Liêm và toán nhân viên sau đó đã mạo hiểm vượt biển bằng bè vì không muốn Trung Cộng bắt làm tù binh. Sau hơn mười ngày lênh đênh trên biển, bè trôi về tận ngoài khơi Qui Nhơn, được ngư phủ cứu và được đưa vào bệnh viện Qui Nhơn cấp cứu. Họ vượt biển mà không chuẩn bị thức ăn nước uống nên Hạ sĩ Quản kho Nguyễn Văn Duyên đã chết vì kiệt sức khi đưa vào Qui Nhơn”.

Theo Hạm trưởng Vũ Hữu San, HQ-4 là tàu hiện đại nhất của Việt Nam Cộng Hòa nên phía Trung Quốc tưởng nhầm là soái hạm. Địch dồn hỏa lực rất lớn vào HQ-4 nên tàu trúng nhiều đạn nhưng sau đó khắc phục các tổn thất khá nhanh. Về nhân mạng, theo thống kê sau cuộc chiến, HQ-4 có Hạ sĩ vận chuyển Nguyễn Thành Danh và Nguyễn Văn Vượng (thành viên nhóm Biệt hải quá giang theo tàu) tử thương.

Bên cạnh đó, HQ-5 tổn thất một thành viên và bốn quân nhân thuộc nhóm Hải kích đi theo tàu. Theo các thống kê thu thập được cho đến hôm nay, phía Việt Nam Cộng Hòa tổn thất 74 nhân mạng trong Hải chiến Hoàng Sa; ngoài ra còn 16 người bị thương và 48 người bị bắt làm tù binh khi Trung Quốc tăng quân đổ bộ lên chiếm các đảo vào ngày 20.1.

Ngày 30.1.1974, phía Trung Quốc bắt đầu trao trả tù binh qua ngả Hồng Kông.

Căm giận và tưởng nhớ

Cuộc xâm lăng của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa vào ngày 19.1.1974 đã thổi bùng ngọn lửa tranh đấu của nhân dân Việt Nam. Tài liệu do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa công bố cho biết tại hầu hết các tỉnh thành ở miền Nam, dân chúng và các đại diện dân cử, đoàn thể tôn giáo, nghiệp đoàn, hội sinh viên… đã tổ chức mít tinh, hội thảo, tuần hành, ra quyết nghị “để lên án đế quốc Trung Cộng và ủng hộ Chánh phủ VNCH”. Đồng bào còn gửi thỉnh nguyện thư lên Liên Hiệp Quốc và Tòa án Quốc tế La Haye đề nghị có biện pháp thích đáng với Trung Quốc.

Sinh viên Đại học Văn khoa và Minh Đức “đã tổ chức lễ tưởng niệm các chiến sĩ hy sinh trong biến cố Hoàng Sa”, theo tài liệu Hoàng Sa – lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa. Nhiều quân nhân tử trận đã được truy phong, truy tặng các danh hiệu. Nhiều quân nhân sống sót sau cuộc chiến được tôn vinh

Về mặt ngoại giao và chính trị, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã có nhiều phản ứng mạnh mẽ. Chúng tôi xin giới thiệu ở đây hai bản tuyên cáo chính thức của Việt Nam Cộng Hòa sau khi Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa. Những văn bản này là bằng chứng khẳng định ý chí duy trì chủ quyền, không bao giờ từ bỏ chủ quyền dù bị nước ngoài cưỡng chiếm bất hợp pháp của chính quyền tại Sài Gòn lúc bấy giờ.

Chúng ta coi những tờ chiếu, tờ lệnh mà các triều vua, chúa thời Nguyễn ban cho các đội thủy quân, đội dân binh đi thực thi chủ quyền tại Hoàng Sa là bằng chứng chứng minh chủ quyền, cho thấy hoạt động thực thi chủ quyền cấp nhà nước của các nhà nước tại Việt Nam là liên tục và không bao giờ từ bỏ. Thì ở đây, sự kiện các quân nhân Việt Nam Cộng Hòa nổ súng vào tàu quân xâm lược Trung Quốc, cũng như những tuyên bố chính thức từ Chính phủ, Bộ Ngoại giao và các cơ quan khác thuộc chính quyền Việt Nam Cộng Hòa xung quanh Hải chiến Hoàng Sa 1974 là những bằng chứng đanh thép tố cáo hành động xâm lăng phi pháp của Trung Quốc, khẳng định ý chí chủ quyền không bao giờ nhượng bộ của người Việt Nam.

Châu Minh Linh

>> Xem Tuyên cáo của Bộ Ngoại giao VNCH ngày 19.1.1974
>> Xem Tuyên cáo ngày 14.2.1974 của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa


>> Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam
>> Sống cùng Hoàng Sa, Trường Sa
>> Hải chiến Hoàng Sa - 40 năm nhìn lại
>> Hải chiến Hoàng Sa - 40 năm nhìn lại - Kỳ 2: Hành quân giữ đảo
>> Hải chiến Hoàng Sa - 40 năm nhìn lại - Kỳ 3: Tương quan lực lượng
>> Hải chiến Hoàng Sa - 40 năm nhìn lại - Kỳ 4: Nổ súng chống giặc
>> Một sự thật khác về Hải chiến Hoàng Sa (?)

 
SGTT.VN - Những sự kiện gần đây liên quan đến Trung Quốc ở Biển Hoa Đông (căng thẳng với Nhật Bản và Hoa Kỳ sau khi Trung Quốc tuyên bố thiết lập Vùng nhận dạng phòng không bao gồm cả quần đảo Senkaku) và trong biển Đông (căng thẳng với Philippines và Việt Nam) cho thấy tham vọng ngày càng tăng của Trung Quốc trong việc kiểm soát các vùng biển và hải đảo xung quanh.
Mặc dù bất ngờ và khó tiên đoán, những sự kiện này chắc chắn không phải là những hành xử tùy hứng của Trung Quốc, cường quốc thứ hai của thế giới. Chỉ cần nhìn lại một chút lịch sử, ai cũng có thể thấy rằng các sự kiện đó chỉ tiếp nối một loạt các hành vi được tính toán kỹ lưỡng, thường kèm với sữ dụng vũ lực, được Trung Quốc thực hiện trong nhiều thập kỷ, rất lâu trước sự «trỗi dậy hòa bình» của nước này.
Giống như cố Tổng thống Mỹ Harry Truman đã từng nói “Những điều mà chúng ta cho là mới mẻ, thật ra chỉ là vì chúng ta chưa biết đủ về lịch sử". (“The only thing new in the world is the history you do not know.”).
Tháng Giêng năm 2014, bốn mươi năm ngày Trung Quốc xâm lăng Hoàng Sa, nhắc nhở chúng ta bài học lịch sử buồn cho dân tộc Việt và là một minh chứng lời nói bất hủ này.
Tháng Giêng năm 1974, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã đổ quân, bắn phá các hòn đảo phía Tây của quần đảo Hoàng Sa (nhóm Nguyệt Thiềm) vốn dưới sự quản lý của Việt Nam Cộng Hòa. Mặc dầu sự phản kháng mãnh liệt từ phía Việt Nam Cộng Hòa, Trung Quốc với tiềm lực hải quân và súng đạn cuối cùng cũng đã hoàn toàn chiếm quần đảo chiến lược này và biến nó thành một sự đã rồi cho đến nay.
Chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa
Toàn cảnh cơ sở hành chính trên đảo Hoàng Sa. Ảnh: tư liệu

Theo giáo sư người Pháp Monique Chemillier Gendreau - trong cuốn sách nổi tiếng "Chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" cho đến khi có Hiệp ước bảo hộ của Pháp vào năm 1884 , Việt Nam có chủ quyền liên tục không gián đoạn trong gần 2 thế kỷ đối với quần đảo Hoàng Sa. Sự thiết lập chủ quyền của Việt Nam phù hợp đối với luật pháp quốc tế và không có sự cạnh tranh hay phản kháng từ bất kỳ nước nào khác.
Trong giai đoạn đầu của thời kỳ Pháp thuộc, cho đến cuối những năm 1920, Pháp đã không chính thức khẳng định chủ quyền đối với các đảo và bỏ qua các quyền trước của Việt Nam trên quần đảo này. Tuy nhiên, Pháp không bao giờ công khai thừa nhận bất kỳ yêu sách chủ quyền của Trung Quốc. Trong giai đoạn thứ hai của thời kỳ Pháp thuộc, cho đến Thế chiến thứ hai, nước Pháp đã rõ ràng và mạnh mẽ khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.
Trong giai đoạn hậu thuộc địa và những năm chiến tranh Việt Nam, từ năm 1956 đến năm 1975, Việt Nam bị chia cắt hai bên vĩ tuyến 17 bởi Hiệp định Genève năm 1954. Quần đảo Hoàng Sa, nằm về phía Nam vĩ tuyến 17, hiển nhiên dưới sự quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa luôn luôn khẳng định và thực thi rõ ràng chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.
Chính trong bối cảnh này Trung Quốc đã xâm lăng Hoàng Sa, 40 năm trước, tháng Giêng năm 1974,
Can thiệp quân sự của Trung Quốc vào tháng 1 năm 1974
Quần đảo Hoàng Sa bao gồm hai nhóm chính: nhóm An Vĩnh (ở phía Đông) và các nhóm Nguyệt Thiềm (ở phía Tây), cách nhau khoảng 70 km.
Tàu chiến của Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa Việt Nam tháng 1/1974. Ảnh: tư liệu

Nên lưu ý rằng đã vào năm 1956, lợi dụng thời gian lực lượng viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, Trung Quốc đã âm thầm đưa quân ra chiếm đóng phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa (nhóm An Vĩnh).
15 tháng 1 năm 1974 , chưa đầy một năm sau khi ký kết Paris hạn chế sự hiện diện của quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam, Bắc Kinh đã đổ quân ở các đảo phía Tây của quần đảo Hoàng Sa. Trong vài ngày sau cho đến ngày 19 tháng 1 năm 1974, hải quân Trung Quốc tấn công và hoàn toàn xâm chiếm các hòn đảo mặc dầu kháng cự quyết liệt của hải quân Việt Nam Cộng Hòa.
Trước sự xâm lăng trắng trợn đó, đại diện của Việt Nam Cộng Hòa tại Liên Hợp Quốc đã yêu cầu đưa vấn đề ra Hội đồng Bảo an. Ngoài ra, trong một công hàm ngoại giao gửi đến tất cả các bên ký kết của hiệp định Paris, chính quyền miền Nam đã yêu cầu một phiên họp đặc biệt của Hội đồng Bảo an. Tuy nhiên, Trung Quốc, với quyền phủ quyết của mình trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, đã ngăn chặn tất cả những nỗ lực này của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 02 tháng 1 năm 1974, đại diện của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã đưa tuyên bố tại Hội nghị của Liên hợp quốc về Luật biển để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa.
Mặc cho những sự phản đối này, Trung Quốc, vẫn chiếm giữ toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và tiếp tục phát triển cơ sở hạ tầng trên quần đảo cho đến nay. Nước Việt Nam thống nhất sau năm 1975 luôn tuyên bố khẳng định rõ ràng chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa.
Luật pháp quốc tế?
Sự can thiệp quân sự của Trung Quốc vào năm 1974 trên quần đảo Hoàng Sa rõ ràng đã đi ngược lại luật pháp quốc tế, bao gồm các nguyên tắc của không thể thụ đắc lãnh thổ bằng vũ lực. Điều này được trình bày chi tiết và rõ ràng trong sách đã dẫn của giáo sư Monique Chemillier Gendreau, chúng tôi xin phép được trích lại dưới đây:
"Sau cú sốc của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, Công ước của Liên đoàn các Quốc gia đã ra tuyên bố cấm chiến tranh xâm lược , và vào ngày 26 tháng 8 năm 1928, Hiệp ước Kellogg - Briand đã cố gắng biến chiến tranh thành phạm pháp với sự cam kết tự nguyện của các quốc gia ký kết . Việc cấm sử dụng vũ lực đã trở thành giá trị và nguyên tắc pháp lý áp dụng đối với tất cả các nước tại điều 2 , đoạn 4 của Hiến Chương Liên hợp quốc .
Mít tinh phản đối Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa. Ảnh: tư liệu

Nguyên tắc xây dựng vào năm 1945 đã được phát triển và củng cố trong Nghị quyết 26/25 (1970) . " Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với Hiến chương. Lãnh thổ của một nước không thể được thụ đắc bởi một quốc gia khác từ kết quả của việc sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Bất cứ sự thụ đắc lãnh thổ nào từ việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực đều được coi là phạm pháp. "
Cùng một văn bản cũng nói : "Mỗi quốc gia có nghĩa vụ từ bỏ việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực để xâm phạm biên giới đang tồn tại với một quốc gia khác hay để giải quyết cách tranh chấp quốc tế, bao gồm các tranh chấp về lãnh thổ hay liên quan đến biên giới quốc gia.
Như vậy, chính sách ngoại giao pháo hạm không còn bất cứ hiệu lực pháp luật nào . Sử dụng vũ lực không thể là cơ sở của một luật pháp." Hết trích dẫn.
Nhận định này chỉ có thể càng có ý nghĩa nếu được áp dụng cho nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và nước ký kết tất cả những hiến chương và điều lệ trên.
Mặt khác, không phải không tồn tại giải pháp hòa bình nào cho tranh chấp lãnh thổ. Một trong những giải pháp là đưa tranh chấp ra Tòa án Công lý Quốc tế. Tuy nhiên Bắc Kinh đã hoàn toàn làm ngơ trước mọi đề xuất theo hướng này, ít nhất hai lần đối với Pháp vào năm 1937 và năm 1947. Nếu Trung Quốc không ngừng lặp đi lặp lại sức mạnh của bằng chứng về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, tại sao họ lại không đồng ý sự phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế, tổ chức quốc tế thích hợp nhất để giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia? Đặc biệt là Trung Quốc có một thẩm phán trong tổ chức này.
Ngoài ra, luật pháp quốc tế đòi hỏi các quốc gia phải đàm phán, như đã nêu trong Điều 33 của Hiến chương Liên hơp quốc: "Các bên trong một tranh chấp có thể ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh quốc tế, có trách nhiệm tìm kiếm giải pháp cho tranh chấp thông qua đàm phán, điều tra, hòa giải, trọng tài, tòa án, hoặc nhờ vào các tổ chức, thỏa thuận khu vực hay bất cứ phương thức hòa bình nào có thể thống nhất được với nhau. Hội đồng Bảo an, nếu thấy cần thiết, kêu gọi các bên giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp như vậy."
Điều nghịch lý là, Trung Quốc không những đã không tạo điều kiện thuận lợi, mà còn liên tục ngăn ngừa bất kỳ ý định nào ​​của Hội đồng bảo an theo hướng này. Minh chứng cụ thể là vào năm 1974, hoặc sau đó vào năm 1988 khi Việt Nam cố gắng đưa vấn đề ra Hội đồng bảo an.
Trung Quốc đang có những động thái nhằm hợp lý hóa cái gọi là "thành phố Tam Sa" phi pháp, vi phạm chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa và Trường Sa.

Việc sử dụng và đe dọa vũ lực, từ chối đàm phán và giải quyết bởi tòa án quốc tế, rõ ràng không phải là những hành động đáng có của một thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an.
Những việc này làm mất phẩm giá hình ảnh của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, cường quốc kinh tế thứ hai của thế giới, đất nước với khẩu hiệu «trỗi dậy hòa bình» và «giấc mơ Trung Hoa».
Tháng Giêng năm 2014, kỷ niệm bốn mươi năm Trung Quốc xâm lăng quần đảo Hoàng Sa, là lúc nhìn lại lịch sử để hiểu rõ hơn về hành vi hiện tại của Trung Quốc và từ đó để dự đoán tốt hơn trong tương lai.
Mặt khác, nhìn lại và trân trọng lịch sử cũng là cách để người Việt biết chúng ta đã và đang mất những gì để từng ngày nuôi dưỡng ý chí khôi phục.
Lê Trung Tĩnh