Hôm qua 11.1, tại Hà Nội, Trung tâm Minh Triết (thuộc Liên hiệp Các hội khoa học kỹ thuật VN) đã tổ chức buổi gặp mặt tưởng niệm 40 năm sự kiện Hoàng Sa bị Trung Quốc đánh chiếm.
Tham dự có nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu trong lĩnh vực biển đảo.
Bà Huỳnh Thị Sinh
nhận tấm phù điêu tôn vinh hành động vì biển đảo VN - Ảnh: Trường
Sơn
|
Chà đạp luật pháp quốc tế
|
Tại buổi gặp mặt, Trung tâm Minh Triết đã ra tuyên bố trong đó khẳng định việc chiếm đoạt một phần quần đảo Hoàng Sa (1956) và đem quân cưỡng chiếm hoàn toàn Hoàng Sa năm 1974 của Trung Quốc là phi pháp, chà đạp lên luật pháp quốc tế. Tuyên bố cũng lên án hành động xâm chiếm lãnh thổ VN mà Trung Quốc vẫn tuyên bố là nước quan hệ “láng giềng hữu nghị”.
Tuyên bố của Trung tâm Minh Triết cũng bày tỏ sự ủng hộ đối với lập trường của Chính phủ VN, khẳng định chủ quyền của VN ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, lên án và tố cáo trước dư luận quốc tế về hành động xâm lược của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, Giám đốc Trung tâm Minh Triết nhận xét với chiến lược biển đầy tham vọng bành trướng, Trung Quốc vẫn đang tiếp tục gây hấn với các nước trong khu vực, ngang nhiên vạch ra “đường lưỡi bò” trên biển Đông, công bố “Vùng nhận diện phòng không” (ADIZ) ở biển Hoa Đông, gây khó dễ cho các hoạt động bình thường của các nước trong khu vực. Cũng theo ông Nguyễn Khắc Mai, hệ thống lại những sự kiện đã xảy ra 40 năm qua, mọi người đều thấy các hành động của Trung Quốc uy hiếp hòa bình, phát triển của khu vực và làm cho cả thế giới lo ngại.
Phát biểu tại cuộc gặp mặt, ông Nguyễn Trung, nguyên trợ lý Thủ tướng Võ Văn Kiệt, chia sẻ 40 năm Hoàng Sa bị Trung Quốc xâm lược là sự kiện đau buồn nhưng cũng nhân dịp này cần có sự thức tỉnh rõ hơn vấn đề hòa hợp dân tộc. Theo ông Nguyễn Trung, việc nhìn nhận những binh lính VN Cộng hòa (VNCH) đã hy sinh cho Hoàng Sa cũng là những người yêu nước đã ngã xuống cho Tổ quốc là vô cùng cần thiết.
Ý thức bảo vệ đất nước
Ông Nguyễn Đăng Quang, một trong những thành viên tham dự Phái đoàn liên hiệp quân sự 4 bên sau Hiệp định Paris (1973) kể lại chính các sĩ quan VNCH mà ông có dịp tiếp xúc đã có dự đoán về việc Trung Quốc sẽ tấn công Hoàng Sa và Trường Sa ngay từ năm 1973.
Cụ thể trong một buổi làm việc chính thức, một thiếu tá VNCH đã hỏi ông Quang: “Chúng ta đều là người Việt, hiện tại chúng ta đang là kẻ thù của nhau nhưng sau này có lẽ sẽ không là kẻ thù của nhau nữa. Tôi xin hỏi liệu sau này có một cường quốc phương bắc xâm chiếm một mảnh đất nào của chúng tôi hoặc của các ông thì các ông sẽ đối phó ra sao?”. “Lúc đó tôi mới ngoài 30, nhiều vấn đề cũng chưa hiểu rõ để đủ sức trả lời câu hỏi này. Chỉ một năm sau đó khi xảy ra sự kiện Hoàng Sa tôi mới thấy rằng chính những người ở phía đối địch hóa ra họ cũng có ý thức bảo vệ đất nước không hề kém chúng ta”, ông Quang nhớ lại.
Tại sự kiện này, Trung tâm Minh Triết đã trao tặng bà Huỳnh Thị Sinh, quả phụ thiếu tá Ngụy Văn Thà, Hạm trưởng chiến hạm Nhật Tảo của quân đội VNCH, người đã hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa 1974 tấm phù điêu tôn vinh hành động vì biển đảo VN và một khoản tiền hỗ trợ do trung tâm vận động đóng góp.
Còn nhiều vấn đề Theo GS-TS Nguyễn Chu Hồi - nguyên Phó tổng cục trưởng Tổng cục Biển và hải đảo VN (Bộ Tài nguyên - Môi trường), việc tưởng niệm Hoàng Sa 1974 cũng như các sự kiện khác là quan trọng nhưng điều quan trọng hơn là từ sự kiện đó rút ra những bài học cho tương lai. Theo ông Hồi, liên quan đến vấn đề biển đảo vẫn còn quá nhiều góc cạnh mà hiện VN đang bỏ trống, trong đó có cả những vấn đề lý luận về chiến lược phát triển kinh tế biển. Trong khi đó phía Trung Quốc khẳng định rõ ràng của chung thì khai thác trước, của riêng Trung Quốc thì phải giữ riêng, những khu vực còn tranh chấp thì củng cố, trong trường hợp không còn con đường nào khác mà buộc phải phân chia thì Trung Quốc không bao giờ chịu thua. |
Trường Sơn
>> Tưởng niệm 40 năm sự kiện Hoàng Sa
>> Hải chiến Hoàng Sa qua hồi ức một cựu quân nhân (kỳ 1)
>> Hải chiến Hoàng Sa qua hồi ức một cựu quân nhân (kỳ 2)
>> Danh sách các quân nhân Việt Nam Cộng Hòa hi sinh trong Hải chiến Hoàng Sa 1974
"Hóa ra họ cũng có ý thức bảo vệ đất nước không hề kém chúng ta”. Phải khi Trung Quốc đánh Hoàng Sa, 19-1-1974, ông Nguyễn Đăng Quang - một thành viên của phía Hà Nội trong "Phái đoàn liên hiệp quân sự 4 bên" thi hành Hiệp định Paris (1973) - mới nhận ra điều này. Họ ở đây là các sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bên mà cho đến nay, nhiều người vẫn gọi là phía "ngụy"[1].
Phải mất 40 năm sau, báo chí nhà nước mới bắt đầu đăng hình bà quả phụ trung tá Ngụy Văn Thà lên trang nhất, sau khi một tổ chức "dân lập" - trung tâm Minh Triết - chứng nhận chồng bà đã "hành động vì biển đảo".
Phải mất 40 năm sau, các thế hệ người Việt trong nước mới biết hình ảnh trung Tá Ngụy Văn Thà, thiếu tá Nguyễn Thành Trí, đứng thẳng trên đài chỉ huy chiến hạm Nhựt Tảo khi những loạt đạn đang bắn từ các tàu Trung Quốc; biết đến, hai hạ sĩ Lê Văn Tây và Ngô Văn Sáu từ chối xuống tàu cứu sinh, chiến đấu cho đến viên đạn cuối cùng rồi đi vào lòng biển Hoàng Sa cùng con tàu Nhựt Tảo.
"Hóa ra họ cũng có ý thức bảo vệ đất nước không hề kém chúng ta”. Ngày 14-3-1988, trên bãi đá ngầm Gạc Ma, trước mũi súng bắn thẳng của quân Trung Quốc xâm lược, các chiến sỹ hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam đã quyết không rời khỏi lãnh thổ thiêng liêng. Trong ngày hôm ấy, 64 người lính Việt Nam đã chết trong tư thế hiên ngang, máu họ đã lắng lại thành những cột mốc muôn đời trên biển.
Mười bốn năm trước đó, ngày 19-1-1974, khi một đơn vị hải kích gồm hai nhóm của Việt Nam Cộng Hòa đổ bộ lên chiếm lại đảo Quang Hòa, nhóm người nhái phải lội qua một đầm nước trống trải, ngập đến thắt lưng... Từ bắc đảo, quân Trung Quốc ào ạt đổ bộ lên, chúng núp sau các tảng đá dùng đại liên và cối 82 bắn thẳng vào đội hình - hai người lính Việt Nam cộng hòa tử thương, hai bị thương - nhóm hải kích vẫn không lùi bước. Trong ngày hôm ấy, 74 người lính Việt Nam đã chết trong tư thế hiên ngang, máu họ đã lắng lại thành những cột mốc muôn đời trên biển.
"Hóa ra họ cũng có ý thức bảo vệ đất nước không hề kém chúng ta”.
Thật trớ trêu thay, chỉ khi đứng trước dã tâm của quân Trung Quốc, những người đi từ miền Bắc mới có thể thốt lên, hóa ra người anh em miền Nam của mình cũng sẵn sàng xả thân bảo vệ non sông, đất nước.
Bất cứ điều gì xảy ra cũng đều có lý do, nhưng tại sao phải đợi quân Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa những người như ông Quang mới nhận ra chân lý đó. Năm 1974, Việt Nam Cộng hòa từng có ý định dùng không quân lấy lại Hoàng Sa, theo phi công Nguyễn Thành Trung: “Mấy ông cấp tá... phát biểu trong cuộc họp rằng: Đánh với Việt Cộng là chỉ đánh chơi thôi... Đánh với Trung Cộng mới là đánh, cho nên trận này... cấp đại tá, trung tá, thiếu tá đánh trước, đánh cho họ biết người Việt Nam là như thế nào...".
Phải chờ trận hải chiến Hoàng Sa 1974 những người lính miền Nam mới có cơ hội để chứng minh đầy đủ phẩm chất của một chiến binh; để những người lính miền Bắc, về sau nhận thấy, cái cách mà người anh em của mình chiến đấu, không có mảy may nào là "ngụy".
Cái giá mà người Việt Nam phải trả để nhận biết điều vô cùng đơn giản này là biết bao máu xương và một phần lãnh thổ tổ tiên, quần đảo Hoàng Sa, đã rơi vào tay Trung Quốc.
Chiều 11-1-2014, sau khi nghe ông Lữ Công Bảy, thượng sĩ giám lộ trên khu trục hạm Trần Khánh Dư, kể lại trận hải chiến Hoàng Sa, một cử tọa, vốn là người cởi mở, vẫn dùng từ "ngụy" theo thói quen khi đặt câu hỏi về phía Việt Nam Cộng hòa.
Mất Hoàng Sa đã khiến cho người Việt thống nhất khá cao khi thấy Trung tâm Minh Triết tôn vinh bà quả phụ Ngụy Văn Thà. Nhưng mất Hoàng Sa, không phải người Việt nào cũng học được bài học: không thể giữ đảo, giữ biển khi người Việt Nam vẫn đứng ở các bên để tranh cãi ai chính danh, ai ngụy.
Năm 1950, khi luận về những hiềm khích giữa La Sơn Phu Tử và Bùi Dương Lịch, giáo sư Hoàng Xuân Hãn viết: "Lúc loạn thời... Tuy ai cũng làm theo lẽ phải, nhưng óc đảng phái nó làm sai lệch cả lý luận".
Thống nhất giang san đã khó nhưng còn khó hơn khi thống nhất lòng người.
Thật vui khi trên trang nhất các báo xuất hiện chân dung bà quả phụ trung tá Ngụy Văn Thà. Nhưng làm sao có thể thống nhất lòng người khi chỉ coi 74 người lính cùng hy sinh với trung tá Ngụy Văn Thà là không phải "ngụy".
Còn nhiều trang sử cần được mở ra, không chỉ có ở Hoàng Sa, dù ở đâu trên mảnh đất của ông cha, người Việt Nam chỉ nên để súng ống quay về cùng một hướng. Chỉ có hòa giải quốc gia mới có thể phát triển quốc gia. Một dân tộc không thể vững mạnh nếu như lòng người phân tán.
Huy Đức
>> Hải chiến Hoàng Sa qua hồi ức một cựu quân nhân (kỳ 1)
>> Hải chiến Hoàng Sa qua hồi ức một cựu quân nhân (kỳ 2)
>> Danh sách các quân nhân Việt Nam Cộng Hòa hi sinh trong Hải chiến Hoàng Sa 1974
Hồi ức sau 40 năm của vợ thiếu tá VNCH
Ngụy Văn Thà
TTO - 40 năm là quãng thời gian đằng đẵng bà Huỳnh Thị Sinh, vợ hạm trưởng Ngụy Văn Thà, một mình nuôi ba đứa con gái nên người. “Giờ các cháu có gia đình hết rồi, đi làm công nhân thôi nhưng cũng ổn, tôi có ba cháu ngoại”.
Buổi tưởng niệm 40 năm Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm đoạt bằng vũ lực và 74 chiến sĩ hải quân VN cộng hòa đã ngã xuống trong trận hải chiến Hoàng Sa 19-1-1974 được tổ chức ngày 11-1 tại Hà Nội.
Buổi tưởng niệm có sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu, gia quyến của cựu binh Hoàng Sa Ngụy Văn Thà (thiếu tá - hạm trưởng hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10 tử trận trong trận hải chiến Hoàng Sa).
Hồi tưởng về những ngày trước chuyến đi định mệnh của thiếu tá, hạm trưởng Ngụy Văn Thà, bà Huỳnh Thị Sinh rưng rưng kể:
“Hôm đó anh Thà nói với tôi là đi công tác ở Đà Nẵng. Tôi nghĩ đó là chuyến công tác bình thường, cứ đi rồi về nhà 10 ngày rồi đi nữa. Lần đó ông mới đi rồi trở lại và bảo: Tàu của anh bị hư, phải sửa chữa. Tôi hỏi: Sao cứ đi đi về về hoài vậy anh? Anh ở nhà được khoảng 1 tuần rồi đi luôn, đó là chuyến cuối cùng anh không trở về nữa”.
“Anh Thà hiền lắm, chỉ cười thôi à! Anh cứ đi đi về về vậy nhưng cũng ít khi kể về công việc của mình. Lần cuối đó tôi chỉ biết anh đi Đà Nẵng chứ đâu biết anh ra tận Hoàng Sa. Mấy ngày sau khi anh đi, thấy báo chí nói tùm lum là có trận chiến đó rồi bao nhiêu người chết."
Bà Sinh kể: "Con gái tôi mới 9 tuổi vừa đọc vừa đánh vần rồi hỏi: Mẹ ơi, bộ ba chết rồi hả, sao con thấy báo nói nhiều quá! Rồi mấy ngày sau có người đến báo tin là anh Thà chết trên tàu rồi. Sau đó, một số đồng đội của anh có tìm gặp tôi và kể về anh. Lúc tàu chìm, anh đã chết!”, bà Sinh rưng rưng kể.
40 năm là quãng thời gian đằng đẵng bà Huỳnh Thị Sinh một mình nuôi ba đứa con gái nên người. “Giờ các cháu có gia đình hết rồi, đi làm công nhân thôi nhưng cũng ổn, tôi có ba cháu ngoại”, khóe mắt bà lấp lánh niềm vui.
Người vợ của Thiếu tá, hạm trưởng Ngụy Văn Thà chia sẻ suốt mấy năm nay chỉ mong ước có một căn nhà, lập bàn thờ cho người chồng đã khuất. 40 năm không thấy xác, không thấy dù chỉ một chút kỷ vật trở về...
HÀ HƯƠNG
* Đọc thêm:
>> Kỳ 1: 40 năm hải chiến Hoàng Sa
>> Kỳ 2: Tăng viện, tái chiếm đảo
>> Kỳ 3: Đổ bộ đảo Quang Hòa
>> Kỳ 4: 40 năm Hải chiến Hoàng sa - Kỳ 4: Lệnh khai hỏa
>> Nhật Tảo nằm lại, không kích bất thành
>> Kỳ 2: Tăng viện, tái chiếm đảo
>> Kỳ 3: Đổ bộ đảo Quang Hòa
>> Kỳ 4: 40 năm Hải chiến Hoàng sa - Kỳ 4: Lệnh khai hỏa
>> Nhật Tảo nằm lại, không kích bất thành
Hoàng Sa & Hòa Giải Quốc Gia
"Hóa ra họ cũng có ý thức bảo vệ đất nước không hề kém chúng ta”. Phải khi Trung Quốc đánh Hoàng Sa, 19-1-1974, ông Nguyễn Đăng Quang - một thành viên của phía Hà Nội trong "Phái đoàn liên hiệp quân sự 4 bên" thi hành Hiệp định Paris (1973) - mới nhận ra điều này. Họ ở đây là các sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bên mà cho đến nay, nhiều người vẫn gọi là phía "ngụy"[1].
Phải mất 40 năm sau, báo chí nhà nước mới bắt đầu đăng hình bà quả phụ trung tá Ngụy Văn Thà lên trang nhất, sau khi một tổ chức "dân lập" - trung tâm Minh Triết - chứng nhận chồng bà đã "hành động vì biển đảo".
Phải mất 40 năm sau, các thế hệ người Việt trong nước mới biết hình ảnh trung Tá Ngụy Văn Thà, thiếu tá Nguyễn Thành Trí, đứng thẳng trên đài chỉ huy chiến hạm Nhựt Tảo khi những loạt đạn đang bắn từ các tàu Trung Quốc; biết đến, hai hạ sĩ Lê Văn Tây và Ngô Văn Sáu từ chối xuống tàu cứu sinh, chiến đấu cho đến viên đạn cuối cùng rồi đi vào lòng biển Hoàng Sa cùng con tàu Nhựt Tảo.
"Hóa ra họ cũng có ý thức bảo vệ đất nước không hề kém chúng ta”. Ngày 14-3-1988, trên bãi đá ngầm Gạc Ma, trước mũi súng bắn thẳng của quân Trung Quốc xâm lược, các chiến sỹ hải quân Quân đội Nhân dân Việt Nam đã quyết không rời khỏi lãnh thổ thiêng liêng. Trong ngày hôm ấy, 64 người lính Việt Nam đã chết trong tư thế hiên ngang, máu họ đã lắng lại thành những cột mốc muôn đời trên biển.
Mười bốn năm trước đó, ngày 19-1-1974, khi một đơn vị hải kích gồm hai nhóm của Việt Nam Cộng Hòa đổ bộ lên chiếm lại đảo Quang Hòa, nhóm người nhái phải lội qua một đầm nước trống trải, ngập đến thắt lưng... Từ bắc đảo, quân Trung Quốc ào ạt đổ bộ lên, chúng núp sau các tảng đá dùng đại liên và cối 82 bắn thẳng vào đội hình - hai người lính Việt Nam cộng hòa tử thương, hai bị thương - nhóm hải kích vẫn không lùi bước. Trong ngày hôm ấy, 74 người lính Việt Nam đã chết trong tư thế hiên ngang, máu họ đã lắng lại thành những cột mốc muôn đời trên biển.
"Hóa ra họ cũng có ý thức bảo vệ đất nước không hề kém chúng ta”.
Thật trớ trêu thay, chỉ khi đứng trước dã tâm của quân Trung Quốc, những người đi từ miền Bắc mới có thể thốt lên, hóa ra người anh em miền Nam của mình cũng sẵn sàng xả thân bảo vệ non sông, đất nước.
Bất cứ điều gì xảy ra cũng đều có lý do, nhưng tại sao phải đợi quân Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa những người như ông Quang mới nhận ra chân lý đó. Năm 1974, Việt Nam Cộng hòa từng có ý định dùng không quân lấy lại Hoàng Sa, theo phi công Nguyễn Thành Trung: “Mấy ông cấp tá... phát biểu trong cuộc họp rằng: Đánh với Việt Cộng là chỉ đánh chơi thôi... Đánh với Trung Cộng mới là đánh, cho nên trận này... cấp đại tá, trung tá, thiếu tá đánh trước, đánh cho họ biết người Việt Nam là như thế nào...".
Phải chờ trận hải chiến Hoàng Sa 1974 những người lính miền Nam mới có cơ hội để chứng minh đầy đủ phẩm chất của một chiến binh; để những người lính miền Bắc, về sau nhận thấy, cái cách mà người anh em của mình chiến đấu, không có mảy may nào là "ngụy".
Cái giá mà người Việt Nam phải trả để nhận biết điều vô cùng đơn giản này là biết bao máu xương và một phần lãnh thổ tổ tiên, quần đảo Hoàng Sa, đã rơi vào tay Trung Quốc.
Chiều 11-1-2014, sau khi nghe ông Lữ Công Bảy, thượng sĩ giám lộ trên khu trục hạm Trần Khánh Dư, kể lại trận hải chiến Hoàng Sa, một cử tọa, vốn là người cởi mở, vẫn dùng từ "ngụy" theo thói quen khi đặt câu hỏi về phía Việt Nam Cộng hòa.
Mất Hoàng Sa đã khiến cho người Việt thống nhất khá cao khi thấy Trung tâm Minh Triết tôn vinh bà quả phụ Ngụy Văn Thà. Nhưng mất Hoàng Sa, không phải người Việt nào cũng học được bài học: không thể giữ đảo, giữ biển khi người Việt Nam vẫn đứng ở các bên để tranh cãi ai chính danh, ai ngụy.
Năm 1950, khi luận về những hiềm khích giữa La Sơn Phu Tử và Bùi Dương Lịch, giáo sư Hoàng Xuân Hãn viết: "Lúc loạn thời... Tuy ai cũng làm theo lẽ phải, nhưng óc đảng phái nó làm sai lệch cả lý luận".
Thống nhất giang san đã khó nhưng còn khó hơn khi thống nhất lòng người.
Thật vui khi trên trang nhất các báo xuất hiện chân dung bà quả phụ trung tá Ngụy Văn Thà. Nhưng làm sao có thể thống nhất lòng người khi chỉ coi 74 người lính cùng hy sinh với trung tá Ngụy Văn Thà là không phải "ngụy".
Còn nhiều trang sử cần được mở ra, không chỉ có ở Hoàng Sa, dù ở đâu trên mảnh đất của ông cha, người Việt Nam chỉ nên để súng ống quay về cùng một hướng. Chỉ có hòa giải quốc gia mới có thể phát triển quốc gia. Một dân tộc không thể vững mạnh nếu như lòng người phân tán.
Huy Đức
[1] Theo báo Thanh Niên số ra ngày 12-1-2014: Trong một buổi làm việc chính thức, một thiếu tá VNCH đã hỏi ông Quang: “Chúng ta đều là người Việt, hiện tại chúng ta đang là kẻ thù của nhau nhưng sau này có lẽ sẽ không là kẻ thù của nhau nữa. Tôi xin hỏi liệu sau này có một cường quốc phương bắc xâm chiếm một mảnh đất nào của chúng tôi hoặc của các ông thì các ông sẽ đối phó ra sao?”. “Lúc đó tôi mới ngoài 30, nhiều vấn đề cũng chưa hiểu rõ để đủ sức trả lời câu hỏi này. Chỉ một năm sau đó khi xảy ra sự kiện Hoàng Sa tôi mới thấy rằng chính những người ở phía đối địch hóa ra họ cũng có ý thức bảo vệ đất nước không hề kém chúng ta”, ông Quang nhớ lại.