Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2014

Việt - Nhật: Mưa nắng cùng thuyền

Nguyễn Thị Hồng Mai
Việt Nam và Nhật Bản cùng khẳng định, hoà bình và ổn định trên biển là lợi ích chung của cả hai nước cũng như của cộng đồng quốc tế. Lưu tâm đến các kết nối hàng hải và hàng không giữa Nhật Bản và Việt Nam trong khu vực, Thủ tướng Sinzo Abe tuyên bố không thể xem nhẹ bất kỳ hành động mang tính đơn phương, cưỡng ép nào thách thức hoà bình và ổn định.

Việt Nam quan trọng đối với Nhật Bản về chiến lược. Quan hệ nồng ấm giữa hai nước bước vào thời kỳ rực rỡ. Bang giao Việt-Nhật có 3 cái nhất: ODA lớn nhất, FDI nhiều nhất và Nhật Bản là một trong những nước có quan hệ “đối tác chiến lược” gần cận nhất với Việt Nam. Mối quan hệ đối tác giữa hai nước trở thành hình mẫu lý tưởng trong khu vực và tạo nên một dấu ấn quan trọng trong quá trình hình thành nên diện mạo của một châu Á mới. Đấy là những điểm xuyết nhanh từ các nhận định của giới chuyên gia trong vùng và trên thế giới về chuyến thăm Nhật vừa qua của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Tại chuyến thăm cấp Nhà nước từ 16-19/3 này, hai nước đã quyết định nâng mối quan hệ lên một tầm cao mới thành “quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình, phồn vinh ở châu Á”.

Quý hơn cả tiền bạc

Liên hệ Việt Nam-Nhật Bản không chỉ đơn thuần là mối “quan hệ đối tác chiến lược”, từ nay được nâng lên thành “đối tác chiến lược sâu rộng”. Nội hàm của hình dung từ “sâu rộng” hẳn nhiên bao trùm giải tần mọi giá trị gia tăng của mạng liên kết địa-chiến lược và địa-kinh tế từ thấp lên cao. Nhưng vượt lên trên các giá trị đong đếm và không đong đếm được ấy, tình bằng hữu Việt-Nhật, biểu đạt bằng ngôn ngữ của chính cựu Thủ tướng Yukio Hatoyama, được xây đắp từ những tương đồng “cùng chung nhịp đập trái tim”. Giá trị này, đối với người Việt, quý hơn cả tiền bạc. Hãy nghe đánh giá của ông Hatoyama, “đối với Nhật, hơn bất kỳ quốc gia nào khác, Việt Nam là quốc gia có thể dùng cụm từ “dĩ tâm truyền tâm”, nghĩa là người dân hai nước có thể hiểu nhau mà không cần dùng lời để nói”. “Việt Nam chính là nước mà Nhật Bản đã xây dựng được quan hệ tin cậy nhất”, vị cựu Thủ tướng xác quyết như vậy.
Lời kêu gọi của Chủ tịch nước Việt Nam gợi lại ứng xử văn hóa chính trị của người Nhật sau Chiến tranh thế giới II, khi mà dân nước này không tỏ ra oán giận, mà còn tiếp nhận Tướng MacArthur của Mỹ như một chính khách có công lớn trong việc tái thiết, xây dựng nên nước Nhật hiện đại. Tiếp nhận nhưng không thành chư hầu, không chịu thân phận thuộc quốc. Tiếp nhận để kết nối các giá trị truyền thống với hiện đại, quốc gia với quốc tế.

Với tư cách là quốc khách, Chủ tịch nước Việt Nam đã cổ võ cho việc đổi mới tư duy về cách nhìn nhận đánh giá môi trường chiến lược cũng như phương thức hợp tác và quan hệ giữa các nước. Lời kêu gọi này gợi cho ta nhớ lại ứng xử văn hóa chính trị của người Nhật sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi mà người dân nước này không hề tỏ ra oán giận, mà còn tiếp nhận Tướng Tham mưu trưởng lục quân MacArthur của Hoa Kỳ như một trong những chính khách có công lớn trong việc tái thiết, xây dựng nên nước Nhật hiện đại. Tiếp nhận nhưng không phải để thành chư hầu, chịu thân phận thuộc quốc. Tiếp nhận để biết kết hợp hài hòa giữa các giá trị truyền thống với hiện đại, giữa quốc gia với quốc tế. Nihonjin-Người Nhật không hổ danh là dân tộc có nhân cách, nước Nhật xứng đáng được biết đến như một xứ sở có “quốc cách” chính hiệu (tư cách một quốc gia đã trưởng thành).

Chính vì muốn duy trì “căn cước” của dân tộc, Nhật Bản đã không hề muốn trở thành một quốc gia như Thụy Sỹ giữa lòng châu Á. Thay vào đó, họ tôn vinh chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần vượt khó, sáng tạo và đặc biệt là lòng tự tôn dân tộc (kiểu Nhật) để vượt qua mọi hiểm nghèo. Đa phần ở đây mọi thứ thường được đẩy lên đỉnh, từ “hoa đạo”, “trà đạo” đến “võ sĩ đạo”, “kiếm đạo”, “thư đạo” và cả nghệ thuật origami… Họ thể hiện ý thức đặc biệt đối với cái đẹp như ngắm hoa hanami hay ngắm trăng tsukimi. Trong đối nhân xử thế Nihonjin thường khiêm cung, tiết kiệm, tuân thủ những quy tắc nghiêm ngặt, có đẳng cấp và cống hiến hết sức mình cho công việc. Hiện nay, người Nhật đang chủ động điều chỉnh một số tính cách để làm phong phú thêm và hoàn thiện hơn văn hoá kinh doanh để đem lại sức mạnh cho quốc gia và giữ vững vị thế như một cường quốc kinh tế; từ củng cố lòng tin đến tái định vị hệ giá trị, từ giữ vững đến nâng cao bản sắc để tăng sức bền chịu được nhiều áp lực đa chiều.

Người Nhật có xu hướng thích nghi nhanh với các áp lực đa chiều do những thay đổi trong quá trình chuyển dịch các loại quyền lực cứng-mềm-thông minh mang lại. Trong tương quan này, để phát huy tối đa tính hiệu quả trong hợp tác kinh tế, văn hóa quản lý, cũng như phối hợp trên các đường hướng đối ngoại, rất cần những nỗ lực mang tính cách mạng từ nội tại của Việt Nam, đặc biệt từ hệ thống cấu trúc chính trị-kinh tế hiện nay. Tính từ thời cận đại, hai nước quả là đã có tương đồng khá lớn về hoàn cảnh cũng như về văn hóa (Ít nhất, cả hai đều thuộc vùng ngoại vi của Khổng giáo). Hiểu vậy để thấy hết các giá trị của mối “quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng” với một nền dân chủ cốt cách Á Đông, với một mô hình khá thành công như Nhật Bản! Bởi vì, “tấm huân chương nào chẳng có mặt trái”. Làm ăn với một nước bạn như thế, nếu Việt Nam không chuẩn bị công phu và có bài bản thích hợp để giao đãi/tiếp biến, để thích nghi/thay đổi, thì việc phát huy lợi thế của “quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng” chắc chắn sẽ bị hạn chế.

Ba đoàn cấp cao một năm

Từ khi ông Shinzo Abe quay trở lại giữ chức thủ tướng Nhật vào tháng 12/2012, Chính phủ Nhật Bản rất coi trọng việc củng cố quan hệ với các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng. Chuyến công du nước ngoài đầu tiên của ông sau khi trở lại nắm quyền không phải là Mỹ hay một quốc gia nào khác mà là Việt Nam khi ông thăm chính thức Hà Nội vào tháng 1/2013. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng sang Nhật vào tháng 12/2013. Lần này, với chuyến công du của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, trong vòng chỉ hơn có một năm, hai bên đã có tới ba chuyến thăm cấp cao. Và chắc chắn, kinh tế không phải là lý do duy nhất để lãnh đạo hai nước có nhiều chuyến thăm cấp cao trong một thời gian ngắn như vậy. Ở đây, ngoài sự nhậy bén về chính trị của giới lãnh đạo hiện nay, còn là sự tiếp nối của những nỗ lực trong nhiều năm từ cả hai phía, thể hiện một tầm nhìn xa về chiến lược, vượt lên trên mọi tính toán lợi ích ngắn hạn. 
Làm ăn với một nước bạn như Nhật Bản, nếu Việt Nam không chuẩn bị công phu và có bài bản thích hợp để giao đãi/tiếp biến, để thích nghi/thay đổi, thì việc phát huy các lợi thế của “quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng” chắc chắn sẽ bị hạn chế.

Một đúc kết điển hình về quan hệ Nhật-Việt đã được chính ông Shinzo Abe đưa ra tại Hà Nội, trong chuyến thăm đầu năm ngoái: "Hai nước chúng ta cùng chia sẻ những thử thách giống nhau, trong lúc hai nền kinh tế có thể hỗ trợ lẫn nhau". Đây cũng là thời gian ông Abe đang ra sức thi hành "chính sách kinh tế mới" dưới cái tên Abenomics nhằm kềm chế giảm phát cùng lúc với việc sử dụng các gói kích thích để đưa Nhật ra khỏi suy thoái kinh tế. Việt Nam ủng hộ Nhật như một ứng viên cho quy chế thường trực Hội đồng Bảo an LHQ. Nhật, Mỹ và Philipinnes phản đối bản đồ “đường lưỡi bò”, tức là đòi hỏi của Trung Quốc chiếm đoạt gần 90% diện tích Biển Đông. Sự hỗ trợ các nước dành cho nhau ở đây không phải là những lợi ích vị kỷ, nhất thời. Hy vọng quá trình hoán chuyển do chính sách quốc tế mới của Nhật tạo ra, đang được mô hình hóa một cách cụ thể, thiết thực và phù hợp, “đối tác chiến lược sâu rộng” Việt-Nhật sẽ góp phần giúp cho các mục tiêu của Abenomics về đích sớm.

Tuyên bố chung dài hơn 5.600 chữ mà Thủ tướng Nhật Bản và Chủ tịch nước Việt Nam vừa đặt bút ký lại thêm minh chứng mới cho sự phát triển phong phú và đa dạng của những liên kết song phương lẫn đa phương trong bang giao. Cả hai nhà lãnh đạo đều cho rằng, sự phục hồi kinh tế Nhật Bản sẽ mang lại lợi ích to lớn cho các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam và sự tăng trưởng của Việt Nam cũng sẽ có lợi cho Nhật Bản. Thông qua chính sách Abenomics, sự phục hồi kinh tế Nhật Bản nói lên bản lĩnh và tính kỷ luật cao của dân Nhật, minh chứng cho sự lãnh đạo đúng đắn của Quốc hội và Chính phủ Nhật. Chuyến thăm cấp Nhà nước lần này còn là sự kiện chính trị quan trọng, góp phần tăng cường lòng tin chiến lược cũng như nâng cấp mối quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước, đặc biệt trong bối cảnh khu vực và toàn cầu đang có nhiều biến chuyển dữ dội.

Đúng như Chủ tịch Trương Tấn Sang đã nhấn mạnh trước Quốc hội Nhật Bản, thành quả của mối quan hệ hai nước không chỉ mang lại những lợi ích to lớn, thiết thực cho nhân dân mỗi nước, mà còn khẳng định một chân lý rằng, tinh thần khoan dung, đối thoại thay cho đối đầu, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác cùng có lợi là sự lựa chọn tốt nhất đối với các quốc gia, dân tộc. Sự hợp tác hiệu quả về mặt kinh tế giữa hai nước được thể hiện bằng những con số biết nói. Với khoảng 24 tỷ USD, Nhật Bản chiếm đến 30% tổng ODA cho Việt Nam. Với 1990 dự án đầu tư và tổng số vốn lên đến 32,6 tỷ USD, Nhật Bản là quốc gia có đầu tư FDI lớn nhất ở Việt Nam. Kim ngạch thương mại song phương hiện ước đạt 25,6 tỷ USD và đang hướng tới mục tiêu tăng gấp đôi vào năm 2020. Hiện hai nước đang tích cực tham gia vào tiến trình đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Hòa bình-Phồn vinh cho châu Á

Điều đặc biệt khích lệ là khi Thủ tướng Sinzo Abe tuyên bố Nhật Bản sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ để triển khai kế hoạch hành động cho 6 ngành được lựa chọn từ Chiến lược Công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030. Các ngành này gồm chế biến nông/thủy sản, điện tử ô tô/phụ tùng ô tô, máy nông nghiệp, công nghiệp môi trường/tiết kiệm năng lượng và đóng tàu. Nhật Bản còn cam kết sẽ hợp tác giúp phát triển công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam cũng như hỗ trợ Việt Nam hoàn thành mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào năm 2020 thông qua việc nâng cao năng lực hoạch định và thực thi chính sách công nghiệp. Theo yêu cầu của Việt Nam, Nhật tiếp tục hỗ trợ phát triển hai khu công nghiệp tại Hải Phòng và Bà Rịa-Vũng Tàu.

Đưa tin về chuyến thăm Tokyo của Chủ tịch nước Việt Nam, hãng Kyodo cho biết, “trong hội đàm giữa Thủ tướng Abe và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, lãnh đạo hai nước ưu tiên bàn cả về an ninh và các vấn đề khác ở châu Á khi mà Trung Quốc đang ngày càng mạnh bạo hơn trên biển”. Quả đúng là, nếu không có biện pháp bảo đảm hòa bình thì không thể có an ninh, mà không có an ninh thì đừng nói chuyện hợp tác vì phồn vinh. Triết lý của “đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình, phồn vinh ở châu Á” chính là ở “bí mật công khai” ấy. Thủ tướng Sinzo Abe đánh giá cao các nỗ lực của Việt Nam hướng tới giải quyết các vấn đề trên biển bao gồm lĩnh vực an ninh hàng hải dựa trên nguyên tắc tuân thủ pháp luật. Hai nhà lãnh đạo đã chia sẻ lập trường rằng tất cả các bên hữu quan cần thúc đẩy Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông (COC), tuân thủ luật pháp quốc tế, gồm Công ước LHQ về Luật biển 1982 (UNCLOS).

Lưu tâm đến các kết nối hàng hải và hàng không quốc tế và khu vực, Thủ tướng Nhật Bản cũng cho rằng không thể xem nhẹ bất kỳ hành động mang tính đơn phương, cưỡng ép nào thách thức hoà bình và ổn định. Tính chất “sâu rộng” của “quan hệ đối tác chiến lược” Nhật-Việt hẳn còn được thể hiện ở phương cách đối phó với những thách thức trên các biển Đông. An ninh từ đây là một và không thể chia cắt. Hoà bình, ổn định trên các biển châu Á là lợi ích chung của cả hai nước cũng như cộng đồng quốc tế. Chính sách an ninh của Nhật Bản, nhất là các nỗ lực trong khuôn khổ chính sách “chủ nghĩa hòa bình tích cực” xuất phát từ các nguyên tắc hợp tác quốc tế. Việt Nam hết sức hoan nghênh và tiếp tục đặt niềm tin vào thành công của Nhật. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bày tỏ mong muốn Nhật Bản tiếp tục đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định và thịnh vượng. Đây sẽ là nguồn kinh nghiệm quý báu để Việt Nam tham khảo trong quá trình đổi mới.

“Arigatô Gôzaimashita!” Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã nói lời cám ơn bằng Nhật ngữ để kết thúc bài phát biểu trước Quốc hội Nhật Bản, một cơ quan lập pháp có lịch sử lâu đời nhất ở châu Á và có vai trò rất quan trọng trong suốt 125 năm lịch sử của đất nước Mặt Trời mọc. Với đầu đề “Đổi mới và sáng tạo để thích ứng trong một thế giới đang thay đổi”, bài phát biểu vừa là bức thông điệp khẳng định mong muốn tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác bền vững giữa hai dân tộc Việt-Nhật, vừa nêu bật những đánh giá sâu sắc về tình hình thế giới, khu vực và những xu thế lớn của thời đại. Đổi mới, sáng tạo chính là “con đường sáng” trong kỷ nguyên Abenomics của Nhật và tái cơ cấu kinh tế của Việt Nam. Thông điệp sáng rõ này được Lưỡng Viện Nhật hoan nghênh nhiệt liệt và chắc chắn sẽ để lại ấn tượng sâu đậm và mạnh mẽ trong chính giới cũng như công chúng Nhật Bản./.

Hà Nội, cuối tháng 3/2014

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 22-3-14
(Một phiên bản của bài này được đăng trên báo Văn Hóa Nghệ An ngày 24-3-14)