Sự phát triển của giáo dục đại học Hàn Quốc trong thời gian 40 năm qua rất đáng làm bài học đế Việt Nam tham khảo. Nói đến Hàn Quốc, có lẽ nhiều người trong chúng ta không khỏi ngưỡng mộ. Hàn Quốc có một số nét tương đồng với Việt Nam: phông văn hóa Khổng giáo, cũng trải qua chiến tranh, và cũng từng có thời bị ngoại bang đô hộ... Trong thập niên 1960, thu nhập bình quân của Hàn Quốc tuy có cao hơn thu nhập của người Việt (chỉ tính miền Nam) nhưng mức độ khác biệt không cao.
Nhưng chỉ sau 40 năm, từ một đất nước nghèo nàn và lạc hậu, Hàn Quốcđã thoát ra khỏi tình trạng nghèo khổ, và vươn lên trở thành một cường quốc công nghệ. Thu nhập bình quân của người dân Hàn Quốc hiện nay là 20.510 USD, cao hơn Việt Nam gần 20 lần.
Ngày nay, Hàn Quốc đã sánh vai cùng các nước tiên tiến trên thế giới. Sản phẩm của xứ Kim chi có mặt toàn cầu, với mức giá không hề thấp hơn so với các cường quốc công nghệ ở châu Âu, Mỹ hay Nhật. Nhiều người Việt, trong đó có tôi, nhìn sự phát triển của Hàn Quốc một cách ngưỡng mộ, tự hỏi làm thế nào họ đạt được sự phát triển ngoạn mục như thế? Và liệu chúng ta cũng có thể phát triển như họ?
Giáo dục cũng phát triển ấn tượng
Không chỉ phát triển về kinh tế, mà hệ thống giáo dục đại học của Hàn Quốc cũng phát triển rất ấn tượng. Năm 1945, sau khi giành được độc lập, Hàn Quốc chỉ có 7.819 sinh viên. Nhưng đến năm 1998, tỉ lệ ghi danh đại học đã 98%, cao nhất trong các nước thuộc khối OECD!
Theo số liệu thống kê chính thức, năm 2010, Hàn Quốc có 3,2 triệu sinh viên đại học và 316 ngàn sinh viên sau đại học. Các đại học Hàn Quốc đã bắt đầu tạo được uy danh trên trường quốc tế.
Đại học Quốc gia Seoul được xem là một trong những đại học hàng đầu của Á châu (đứng hạng 13) và trên thế giới (hạng 124, theo bảng xếp hạng của THES). Nhiều đại học khác như Chungnam, Chonbuk, Chonnam, Pusan, Sogang, Inha, v.v... cũng đã trở thành những cái tên đáng kính nể trong vùng và trên thế giới. Các đại học Hàn Quốc, công cũng như tư, đã thu hút sinh viên ngoại quốc, kể cả Việt Nam, đến theo học.
Phát triển đại học dẫn đến phát triển khoa học và công nghệ. Hiện nay số nhà nghiên cứu toàn thời gian (full-time) của Hàn Quốc là 236 ngàn người. Con số này còn cao hơn Pháp (211 ngàn), Anh (175 ngàn), nhưng thấp hơn Đức (284 ngàn).
Hàn Quốc cũng đã có một số trung tâm nghiên cứu lớn và có uy tín cao. Viện nghiên cứu tiên tiến của Hàn Quốc (KAIST), một mô hình mà Nhật Bản đã mô phỏng để tạo nên viện JAIST, là một trung tâm nghiên cứu có tên tuổi trên thế giới.
Về số lượng ấn phẩm khoa học trên các tập san quốc tế, Hàn Quốc đã có một bước nhảy vọt chẳng kém gì Trung Quốc. Năm 1990, tổng số bài báo khoa học từ Hàn Quốc trên các tập san khoa học quốc tế chỉ 1.382 bài (tức xấp xỉ con số của Việt Nam hiện nay). Vậy mà đến năm 2008, con sốnày đã là 26.690 bài, tức tăng 20 lần trong vòng chưa đầy 20 năm!
Những nghiên cứu mạnh của Hàn Quốc (qua số ấn phẩm khoa học) là y sinh học (chiếm 35% tổng số ấn phẩm khoa học), khoa học tự nhiên (37%) và kĩ thuật (26%). Số bằng sáng chế đăng kí ở nước ngoài (chủ yếu là Mĩ, châu Âu và Nhật) tăng từ 1.382 năm 2002 lên 3.158 vào năm 2005. Sốbằng sáng chế đăng kí trong nước tăng từ 45.298 năm 2002 lên 123.705 vào năm 2007.
Vòng tròn phát triển
Cố nhiên, phát triển giáo dục và khoa học, và tăng trưởng kinh tếtương tác lẫn nhau. Tăng trưởng kinh tế tạo ra thị trường lao động cho sinh viên đại học và cao đẳng, và cung cấp tiền cho Nhà nước đầu tư vào giáo dục đại học. Giáo dục đại học cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế.
Nhưng vòng tròn phát triển giáo dục - kinh tế - giáo dục này sẽ không thể nào có được nếu không được sự lãnh đạo sáng suốt của chính phủ nước này. Câu hỏi đặt ra là, bằng cách nào Chính phủ Hàn Quốc có thể tạo ra một vòng tròn phát triển ấn tượng trong 4 thập niên qua.
Có thể trả lời câu hỏi này qua 3 yếu tố: phát triển giáo dục cơ sở, vai trò của trường tư, và quan tâm đến chất lượng.
Giáo dục cơ sở. Quá trình phát triển giáo dục đại học của Hàn Quốc tùy thuộc một phần vào hệ thống giáo dục tiểu học và trung học. Nhìn vào bảng số liệu phía dưới bài này, chúng ta thấy số học sinh tiểu học tăngđến mức đỉnh vào những năm cuối thập niên 1960, và số học sinh trung học tăng đến mức đỉnh vào thập niên 1970 và 1980. Sự tăng trưởng này tạo nên một áp lực "nút chai" cho đại học. Chính vì thế mà hệ thống đại học phải phát triển để đáp ứng nhu cầu giáo dục đại chúng.
Theo một phân tích của các chuyên gia Hàn Quốc, phát triển giáo dục tiểu học và trung học cũng góp phần quan trọng vào việc tạo nên nền kinh tế công nghiệp như hiện nay. Hệ thống giáo dục tiểu học cung cấp nhân lực cho các ngành công nghiệp nhẹ trong thập niên 1960 và 1970. Giáo dục trung học đáp ứng nhu cầu nhân lực cho các ngành công nghiệp cao hơn và nặng như hóa học vào thập niên 1970 và 1980, thời gian mà Hàn Quốcđang ở giữa giai đoạn công nghiệp hóa.
Giáo dục đại học chỉ trở nên quan trọng vào thập niên 1990, khi kinh tế tri thức và kinh tế dựa vào công nghệ tiên tiến bắt đầu hình thành. Do đó, nền kinh tế của Hàn Quốc có sự đóng góp quan trọng của hệ thống giáo dục cơ sở, chứ không phải chỉ giáo dục đại học.
Vai trò của trường tư. Nhằm đáp ứng nhu cầu giáo dục đại học gia tăng nhanh chóng, trong khi hệ thống GD công không đủ đáp ứng, hệthống GD tư nhân đã hình thành. Hơn 80% sinh viên Hàn Quốc theo học tại các đại học tư.Chính phủ Hàn Quốc khuyến khích các đại học tư thục bằng cách chuyểnđầu tư cho giáo dục trung học và tiểu học sang giáo dục đại học tư. Mộtđiều đáng chú ý là Chính phủ Hàn Quốc cho các đại học tư tự chủ về tài chính và tuyền sinh. Ngày nay, có thể nói rằng số đại học tư của Hàn Quốc có tên tuổi trên trường quốc tế không thua kém đại học công.
Chất lượng giáo dục. Vì sự tăng trưởng nhanh của giáo dục đại học, Chính phủ Hàn Quốc rất chú trọng đến vấn đề chất lượng. Họ dùng 3 phương tiện để kiểm soát chất lượng.
Thứ nhất là phát triển hệ tiêu chuẩn để công nhận đại học và chương trình giảng dạy (accreditation). Thứ hai, dùng các chỉ tiêu về thành tựu trong đào tạo và nghiên cứu khoa học để cấp ngân sách cho đại học. Thứ ba, Chính phủ và giới kĩ nghệ đầu tư vào nghiên cứu khoa học và dùng nghiên cứu khoa học làm thước đo để cung cấp ngân sách cho các đại học. Hiện nay, khoảng 3,5% GDP của Hàn Quốc dành cho nghiên cứu và phát triển, và tỉ trọng này thuộc mức cao nhất trong các nước OECD.
Mô hình giáo dục đại học của Hàn Quốc là một hỗn hợp giữa hai mô hìnhĐức và Mĩ. Mô hình giáo dục đại học của Đức (mô hình Humboldt) nhấn mạnh đến tự do học thuật, đào tạo những chuyên gia tinh hoa (elite), và cơ cấu khoa bảng rất "giai cấp". Mô hình của Mĩ mở rộng đại học cho đại chúng, sinh viên phải đóng tiền, khuyến khích tư nhân, và hệ thống tín chỉ.
Do đó, giới khoa bảng Hàn Quốc ngày nay hưởng một chế độ tự do học thuật thoải mái hơn các nước trong vùng. Giáo sư được xã hội kính trọng, và ý kiến của họ được xem trọng.
Cùng với việc mở rộng đại học cho đại chúng, Hàn Quốc cũng cố gắng xây dựng các đại học elite, đại học đặt nặng về nghiên cứu khoa học, và cho đến nay hai "hệ thống" đại học này song hành nhau và bổ sung cho nhau. Thật ra, trong những năm sau này, hệ thống giáo dục đại học của Hàn Quốc có mô hình theo hệ thống của Mĩ gần như tuyệt đối. Điều này cũng dễ hiểu vì rất nhiều giáo sư đại học của Hàn Quốc được đào tạo từMĩ hoặc là Hàn kiều hồi hương, và những người này đã xây dựng và góp phần vào sự phát triển vượt bậc của nền giáo dục đại học Hàn Quốc.
Giáo dục đại học đóng vai trò quan trọng trong phát triển nền kinh tếtri thức. Nhận thức được vai trò này, Hàn Quốc phát động hàng loạt chương trình nhằm nâng cao kinh tế tri thức của Hàn Quốc. Những chương trình như World Class University (đại học đẳng cấp quốc tế), Humanity Korea, Social Science Korea, v.v... đã được triển khai từ đầu năm 2000 và đem lại nhiều thành tựu đáng nể như đã nói ở trên. Còn nghiên cứu khoa học xã hội của Hàn Quốc từ con số gần 0 ngày nay đã chiếm gần 4% tổng số ấn phẩm khoa học của Hàn Quốc.
Tóm lại, sự phát triển của giáo dục đại học Hàn Quốc trong thời gian 40 năm qua rất đáng làm bài học đế Việt Nam tham khảo.
Bài học quan trọng nhất có lẽ là cần phải hoàn thiện hệ thống giáo dục trung và tiểu học trước khi có được một hệ thống đại học có chất lượng cao. Bài học khác là cần phải quan tâm đến chất lượng đào tạo trong khi mở rộng hệ thống đại học tư nhân. Bài học thứ ba là các giá trị Khổng giáo, cộng với mô hình đại học của Mĩ và Đức đã giúp Hàn Quốc có được một nền đại học hiện đại và nhân văn.
Việt Nam hoàn toàn có khả năng xây dựng một nền giáo dục đại học nhưHàn Quốc, nhưng cần phải có một chương trình cải cách lâu dài và có hệthống.
GS. Nguyễn Văn Tuấn (từ Úc)
Bảng: Một số thống kê về giáo dục Hàn Quốc
Nhưng chỉ sau 40 năm, từ một đất nước nghèo nàn và lạc hậu, Hàn Quốcđã thoát ra khỏi tình trạng nghèo khổ, và vươn lên trở thành một cường quốc công nghệ. Thu nhập bình quân của người dân Hàn Quốc hiện nay là 20.510 USD, cao hơn Việt Nam gần 20 lần.
Ngày nay, Hàn Quốc đã sánh vai cùng các nước tiên tiến trên thế giới. Sản phẩm của xứ Kim chi có mặt toàn cầu, với mức giá không hề thấp hơn so với các cường quốc công nghệ ở châu Âu, Mỹ hay Nhật. Nhiều người Việt, trong đó có tôi, nhìn sự phát triển của Hàn Quốc một cách ngưỡng mộ, tự hỏi làm thế nào họ đạt được sự phát triển ngoạn mục như thế? Và liệu chúng ta cũng có thể phát triển như họ?
Thủ đô Seoul của Hàn Quốc
|
Không chỉ phát triển về kinh tế, mà hệ thống giáo dục đại học của Hàn Quốc cũng phát triển rất ấn tượng. Năm 1945, sau khi giành được độc lập, Hàn Quốc chỉ có 7.819 sinh viên. Nhưng đến năm 1998, tỉ lệ ghi danh đại học đã 98%, cao nhất trong các nước thuộc khối OECD!
Theo số liệu thống kê chính thức, năm 2010, Hàn Quốc có 3,2 triệu sinh viên đại học và 316 ngàn sinh viên sau đại học. Các đại học Hàn Quốc đã bắt đầu tạo được uy danh trên trường quốc tế.
Đại học Quốc gia Seoul được xem là một trong những đại học hàng đầu của Á châu (đứng hạng 13) và trên thế giới (hạng 124, theo bảng xếp hạng của THES). Nhiều đại học khác như Chungnam, Chonbuk, Chonnam, Pusan, Sogang, Inha, v.v... cũng đã trở thành những cái tên đáng kính nể trong vùng và trên thế giới. Các đại học Hàn Quốc, công cũng như tư, đã thu hút sinh viên ngoại quốc, kể cả Việt Nam, đến theo học.
Phát triển đại học dẫn đến phát triển khoa học và công nghệ. Hiện nay số nhà nghiên cứu toàn thời gian (full-time) của Hàn Quốc là 236 ngàn người. Con số này còn cao hơn Pháp (211 ngàn), Anh (175 ngàn), nhưng thấp hơn Đức (284 ngàn).
Hàn Quốc cũng đã có một số trung tâm nghiên cứu lớn và có uy tín cao. Viện nghiên cứu tiên tiến của Hàn Quốc (KAIST), một mô hình mà Nhật Bản đã mô phỏng để tạo nên viện JAIST, là một trung tâm nghiên cứu có tên tuổi trên thế giới.
Về số lượng ấn phẩm khoa học trên các tập san quốc tế, Hàn Quốc đã có một bước nhảy vọt chẳng kém gì Trung Quốc. Năm 1990, tổng số bài báo khoa học từ Hàn Quốc trên các tập san khoa học quốc tế chỉ 1.382 bài (tức xấp xỉ con số của Việt Nam hiện nay). Vậy mà đến năm 2008, con sốnày đã là 26.690 bài, tức tăng 20 lần trong vòng chưa đầy 20 năm!
Những nghiên cứu mạnh của Hàn Quốc (qua số ấn phẩm khoa học) là y sinh học (chiếm 35% tổng số ấn phẩm khoa học), khoa học tự nhiên (37%) và kĩ thuật (26%). Số bằng sáng chế đăng kí ở nước ngoài (chủ yếu là Mĩ, châu Âu và Nhật) tăng từ 1.382 năm 2002 lên 3.158 vào năm 2005. Sốbằng sáng chế đăng kí trong nước tăng từ 45.298 năm 2002 lên 123.705 vào năm 2007.
Khuôn viên Đại học Yonsei, một trong những đại học tư thục lâu đời và danh tiếng của Hàn Quốc
|
Cố nhiên, phát triển giáo dục và khoa học, và tăng trưởng kinh tếtương tác lẫn nhau. Tăng trưởng kinh tế tạo ra thị trường lao động cho sinh viên đại học và cao đẳng, và cung cấp tiền cho Nhà nước đầu tư vào giáo dục đại học. Giáo dục đại học cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế.
Nhưng vòng tròn phát triển giáo dục - kinh tế - giáo dục này sẽ không thể nào có được nếu không được sự lãnh đạo sáng suốt của chính phủ nước này. Câu hỏi đặt ra là, bằng cách nào Chính phủ Hàn Quốc có thể tạo ra một vòng tròn phát triển ấn tượng trong 4 thập niên qua.
Có thể trả lời câu hỏi này qua 3 yếu tố: phát triển giáo dục cơ sở, vai trò của trường tư, và quan tâm đến chất lượng.
Giáo dục cơ sở. Quá trình phát triển giáo dục đại học của Hàn Quốc tùy thuộc một phần vào hệ thống giáo dục tiểu học và trung học. Nhìn vào bảng số liệu phía dưới bài này, chúng ta thấy số học sinh tiểu học tăngđến mức đỉnh vào những năm cuối thập niên 1960, và số học sinh trung học tăng đến mức đỉnh vào thập niên 1970 và 1980. Sự tăng trưởng này tạo nên một áp lực "nút chai" cho đại học. Chính vì thế mà hệ thống đại học phải phát triển để đáp ứng nhu cầu giáo dục đại chúng.
Theo một phân tích của các chuyên gia Hàn Quốc, phát triển giáo dục tiểu học và trung học cũng góp phần quan trọng vào việc tạo nên nền kinh tế công nghiệp như hiện nay. Hệ thống giáo dục tiểu học cung cấp nhân lực cho các ngành công nghiệp nhẹ trong thập niên 1960 và 1970. Giáo dục trung học đáp ứng nhu cầu nhân lực cho các ngành công nghiệp cao hơn và nặng như hóa học vào thập niên 1970 và 1980, thời gian mà Hàn Quốcđang ở giữa giai đoạn công nghiệp hóa.
Giáo dục đại học chỉ trở nên quan trọng vào thập niên 1990, khi kinh tế tri thức và kinh tế dựa vào công nghệ tiên tiến bắt đầu hình thành. Do đó, nền kinh tế của Hàn Quốc có sự đóng góp quan trọng của hệ thống giáo dục cơ sở, chứ không phải chỉ giáo dục đại học.
Vai trò của trường tư. Nhằm đáp ứng nhu cầu giáo dục đại học gia tăng nhanh chóng, trong khi hệ thống GD công không đủ đáp ứng, hệthống GD tư nhân đã hình thành. Hơn 80% sinh viên Hàn Quốc theo học tại các đại học tư.Chính phủ Hàn Quốc khuyến khích các đại học tư thục bằng cách chuyểnđầu tư cho giáo dục trung học và tiểu học sang giáo dục đại học tư. Mộtđiều đáng chú ý là Chính phủ Hàn Quốc cho các đại học tư tự chủ về tài chính và tuyền sinh. Ngày nay, có thể nói rằng số đại học tư của Hàn Quốc có tên tuổi trên trường quốc tế không thua kém đại học công.
Chất lượng giáo dục. Vì sự tăng trưởng nhanh của giáo dục đại học, Chính phủ Hàn Quốc rất chú trọng đến vấn đề chất lượng. Họ dùng 3 phương tiện để kiểm soát chất lượng.
Thứ nhất là phát triển hệ tiêu chuẩn để công nhận đại học và chương trình giảng dạy (accreditation). Thứ hai, dùng các chỉ tiêu về thành tựu trong đào tạo và nghiên cứu khoa học để cấp ngân sách cho đại học. Thứ ba, Chính phủ và giới kĩ nghệ đầu tư vào nghiên cứu khoa học và dùng nghiên cứu khoa học làm thước đo để cung cấp ngân sách cho các đại học. Hiện nay, khoảng 3,5% GDP của Hàn Quốc dành cho nghiên cứu và phát triển, và tỉ trọng này thuộc mức cao nhất trong các nước OECD.
Mô hình giáo dục đại học của Hàn Quốc là một hỗn hợp giữa hai mô hìnhĐức và Mĩ. Mô hình giáo dục đại học của Đức (mô hình Humboldt) nhấn mạnh đến tự do học thuật, đào tạo những chuyên gia tinh hoa (elite), và cơ cấu khoa bảng rất "giai cấp". Mô hình của Mĩ mở rộng đại học cho đại chúng, sinh viên phải đóng tiền, khuyến khích tư nhân, và hệ thống tín chỉ.
Do đó, giới khoa bảng Hàn Quốc ngày nay hưởng một chế độ tự do học thuật thoải mái hơn các nước trong vùng. Giáo sư được xã hội kính trọng, và ý kiến của họ được xem trọng.
Cùng với việc mở rộng đại học cho đại chúng, Hàn Quốc cũng cố gắng xây dựng các đại học elite, đại học đặt nặng về nghiên cứu khoa học, và cho đến nay hai "hệ thống" đại học này song hành nhau và bổ sung cho nhau. Thật ra, trong những năm sau này, hệ thống giáo dục đại học của Hàn Quốc có mô hình theo hệ thống của Mĩ gần như tuyệt đối. Điều này cũng dễ hiểu vì rất nhiều giáo sư đại học của Hàn Quốc được đào tạo từMĩ hoặc là Hàn kiều hồi hương, và những người này đã xây dựng và góp phần vào sự phát triển vượt bậc của nền giáo dục đại học Hàn Quốc.
Giáo dục đại học đóng vai trò quan trọng trong phát triển nền kinh tếtri thức. Nhận thức được vai trò này, Hàn Quốc phát động hàng loạt chương trình nhằm nâng cao kinh tế tri thức của Hàn Quốc. Những chương trình như World Class University (đại học đẳng cấp quốc tế), Humanity Korea, Social Science Korea, v.v... đã được triển khai từ đầu năm 2000 và đem lại nhiều thành tựu đáng nể như đã nói ở trên. Còn nghiên cứu khoa học xã hội của Hàn Quốc từ con số gần 0 ngày nay đã chiếm gần 4% tổng số ấn phẩm khoa học của Hàn Quốc.
Tóm lại, sự phát triển của giáo dục đại học Hàn Quốc trong thời gian 40 năm qua rất đáng làm bài học đế Việt Nam tham khảo.
Bài học quan trọng nhất có lẽ là cần phải hoàn thiện hệ thống giáo dục trung và tiểu học trước khi có được một hệ thống đại học có chất lượng cao. Bài học khác là cần phải quan tâm đến chất lượng đào tạo trong khi mở rộng hệ thống đại học tư nhân. Bài học thứ ba là các giá trị Khổng giáo, cộng với mô hình đại học của Mĩ và Đức đã giúp Hàn Quốc có được một nền đại học hiện đại và nhân văn.
Việt Nam hoàn toàn có khả năng xây dựng một nền giáo dục đại học nhưHàn Quốc, nhưng cần phải có một chương trình cải cách lâu dài và có hệthống.
GS. Nguyễn Văn Tuấn (từ Úc)
Bảng: Một số thống kê về giáo dục Hàn Quốc
|