LTS. Sinh thời, ông Trần Bạch Đằng viết về kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát (tên thường gọi Tám Chí) như sau: “Anh không cầm súng, chưa bao giờ là chỉ huy quân sự, song lại cáng đáng một trận địa mà có lẽ không dễ có người thay: huy động lực lượng trí thức vào hàng ngũ đấu tranh giành độc lập dân tộc. Càng biết nhiều khía cạnh đời riêng của anh Phát, những mất mát của anh về những người ruột thịt, (cha, chú, cô của ông bị giết trong thời kỳ cách mạng còn ấu trĩ tả khuynh dù cho ông nội của ông là Thành Hoàng Huỳnh Văn Thiệu theo nghĩa quân Trương Định bị Pháp giết) càng khâm phục anh”.
Tướng Trần Văn Trà thì cho rằng: “Anh Phát không thuộc một gia đình “trơn tru”. Anh vẫn có tâm tư riêng”. Tâm tư đó thêm nặng trĩu khi con gái ông, chị Huỳnh Lan Khanh, trong một chuyến công tác ở chiến khu C, lọt vào vòng biệt kích Mỹ và đã hy sinh… Người Đô Thị trân trọng giới thiệu đoạn trích trong hồi ký Tháng ngày tôi sống với những người cộng sản của nhà nghiên cứu văn hóa, nhà từ điển học Thanh Nghị về kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát. Dù chỉ là đoạn ngắn ghi lại khoảnh khắc đặc biệt của lịch sử, khi kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát đón những người trí thức Sài Gòn vào chiến khu chuẩn bị cho việc thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam năm 1968. Trên đường hành quân ngắn ngủi ấy, Thanh Nghị đã khám phá tư tưởng lớn và nỗi đau giấu kín trong nụ cười rất đặc biệt của kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát. Có người gọi đó là “Nụ cười lặng im”. Người Đô Thị nương theo nụ cười ấy mà đặt tựa cho đoạn trích này là:
... Có lẽ tôi còn nhắc đến anh Tám đôi bận nữa trong sách này. Chắc chắn là anh không muốn, nhưng biết làm thế nào. Tôi cố hết sức trung thực trong việc kể lại mà anh thì lại thường có mặt trong những sự việc đó.
Theo kiểu cách văn nghệ, nói anh là vai chính thì hoàn toàn không đúng vì trên anh, chung quanh anh còn bao nhiêu người nữa, nhưng ác quá, anh lại trực tiếp liên hệ với chúng tôi trong suốt quá trình hình thành một mặt trận mới. Mặt trận Liên minh, về sau gọi là Mặt trận 2, một mặt trận chính trị liên hiệp hành động giữa những người yêu nước ở các đô thị với những người đã điều khiển hoặc đã tham gia cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ từ lúc khởi đầu trong tình thế mới, trong một khúc quanh lịch sử.
Dinh Bảo Đại - Đà Lạt, do KTS. Huỳnh Tấn Phát đồng thiết kế. Ảnh Trần Đức Tài
Tôi chưa thấy cần thiết phải nói tên thật của anh. Có lẽ rồi không nói cũng nên. Chỉ biết là anh phụ trách chúng tôi, về đường lối liên hiệp với nhiệm vụ và quyền hạn tương ứng. Anh từng sống ở đô thị, cùng thành phần xã hội, có lẽ anh hiểu được chúng tôi hơn. Khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định lại là địa bàn hoạt động của anh từ bao nhiêu năm trước.
Tôi không nghĩ đây là sự khéo chọn mà là công việc đã được sắp xếp từ đầu, từ những nước đầu của một ván cờ sinh tử và cực kỳ khó khăn. Sự đòi hỏi của cách mạng, của toàn bộ chiến lược và sách lược để chiến thắng kẻ thù, không nhất thiết đó là xe hay pháo, nếu đúng thời cơ tốt vẫn làm nên việc lớn.
Từ phải: BS. Phùng Văn Cung, Lê Hiếu Đằng, Huỳnh Tấn Phát, Tôn Thất Dương Kỵ
Chưa trao đổi gì nhiều với nhau về đường hướng quan điểm, và thực nếu có sự bất đồng nào đó, có lẽ rồi cũng không hề gì. Lễ nghĩa mới là nặng, một cái nhìn, một lần nắm tay, một tiếng mời mọc vẫn nói lên đầy đủ. Đối với nhiều dân tộc, điều này rất dễ nhạy bén. Người ta hiểu sâu sắc rằng lời nói có thể là văn hóa nhưng một hạt phấn của tình cảm vẫn khó lòng che giấu.
“Độc quyền yêu nước là một khái niệm vô cùng sai lầm. Công cuộc chống đế quốc xâm lược là nhiệm vụ, là tình cảm của cả dân tộc” - Huỳnh Tấn Phát
Việc anh Tám đi thực không có gì đặc biệt lắm, nếu là từ một người khác nhìn vào. Tôi đã đi trọn một đêm với anh trên con đường chỉ mới hôm qua thôi, với tuổi của anh, đi trở lại con đường đó rồi đi trở về lần nữa, tấm lòng của anh làm cho tôi suy nghĩ mãi cả cho đến bây giờ, qua suốt những tháng ngày tôi sống gần gũi với các anh ấy, nhiều việc còn dữ dội lớn lao gấp trăm lần trong cái chung của cách mạng, nhưng tôi vẫn riêng thương những cử chỉ nhỏ, rất gần với mình.
Thực chỉ mới mấy ngày, thời gian chưa đủ để tạo nên một ý niệm mới, một tình cảm mới rõ rệt, trong thực tế của cách mạng mà sự sống của tôi đang trong thời kỳ nhập thân, bao nhiêu chuyện xảy đến dồn dập. Phải lâu lắm về sau tôi mới đánh giá có phần chính xác được. Không phải là tôi không biết chờ đón cũng không phải là không độ chừng được những quy luật của cuộc sống mà thể xác của con người không thể vượt qua, nhưng vẫn có một cái gì đó khác thường khó nói.
Như việc tôi sắp kể. Thực đã hoàn toàn qua rồi, có vô tình gợi lại những tình cảm không vui, đó là điều mạn phép. Tôi chỉ muốn nói lên cái gì tôi không thể ngăn được mặt chủ quan của mình. Tôi nghĩ là trong cuộc đấu tranh ác liệt này trên trận địa đã phải ném ra sự sống còn của cả một dân tộc và tương lai của con người, sự riêng tư vẫn được mong như một làn gió thoảng có hương thơm.
Mấy anh mấy chị ở thành đã tới nơi. Thực vui như hội. Khu rừng vang tiếng nói cười của đủ lứa tuổi, thọ như cụ Tết (kỹ sư Lâm Văn Tết) và trai tráng như các cậu sinh viên. Phái nữ có chị Thảo (nhũ danh Ngô Thị Phú, vợ luật sư Trịnh Đình Thảo), cô Hoa (bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, nguyên bộ trưởng bộ Y tế chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam) và chị Nga (Bùi Thị Nga, nguyên chủ tịch hội Liên hiệp Phụ nữ TP.HCM), “hiền thê” của anh Tám.
Phải mất mấy ngày mà vẫn chưa hết chuyện kể về chuyến đi của mỗi người. Ai cũng có cái phần khá hấp dẫn của mình và hình như đã trở thành những kỷ niệm khắc sâu trong buổi đầu. Cụ Tết quá thất tuần, đã phải để cho một sinh viên cõng đi qua một cây cầu khỉ: cô Hoa phải mấy lần “chém vè” và suốt nhiều giờ tắm bùn bất đắc dĩ: chị Thảo cũng thế, lại còn nhận chìm xuồng, chiếc xách tay của chị bị ngập nước, khi đến trạm nghỉ, chị phải mất công một buổi sang ngồi phơi những tờ giấy năm trăm bị ướt nhẹp. Mọi câu chuyện được kể một cách ồn ào và linh hoạt qua đủ thứ giọng của ba miền: đặc biệt là giọng núi Ngự sông Hương của anh Dương Kỵ (giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ thuộc dòng dõi Từ Sơn Công Nguyễn Phúc Mão, con út của vua Gia Long, nguyên tổng thư ký Uỷ ban Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam - BT).
Nhìn cái tập thể nhỏ đang hình thành, tôi vừa mừng rỡ vừa ái ngại. Tôi cứ liếc trộm về phía anh Tám. Anh rất vui và rất thoải mái trong sự tiếp đón một số khách mang nhiều thể tài và nội dung như thế, từ nghiệp chủ đến thư sinh, từ những mái đầu bạc phảng phất thời xưa cổ đến mớ tóc xanh bồng bềnh thời trang hiện đại. Trong lời chào đón thân tình giữa cái không khí bà con đoàn tụ, tôi còn nhớ một câu nói của anh: “Độc quyền yêu nước là một khái niệm vô cùng sai lầm. Công cuộc chống đế quốc xâm lược là nhiệm vụ, là tình cảm của cả dân tộc. Chúng tôi được cái may mắn là những người đi trước. Chúng tôi đánh giá rất cao sự đóng góp của các anh, các chị”.
Công trình tiêu biểu do KTS. Huỳnh Tấn Phát thiết kế và đồng tác giả. Ảnh Quý Hòa
Anh Tám có vẻ xúc động. Sự xúc động này, ngày hôm đó, tôi để ý hình như anh cố giấu qua cái cười thường rất tươi của anh mà đôi nét thoáng buồn trong tia mắt vẫn khó che giấu được một thâm tình cố nén. Vì thói quen, tôi hay nhận xét thế thôi và nếu có đôi chút băn khoăn rồi cũng mất ngay trong tiếng cười tiếng nói của ngày đầu họp mặt. Mấy hôm sau vẫn bình thường. Anh Tám vẫn say sưa trình bày và trao đổi với chúng tôi tin tức và tình hình đang diễn biến.
Công trình tiêu biểu
Chỉ qua đêm kế, trên đường vào mật khu, tôi mới tình cờ được biết một tin liên quan tới anh. Tôi nín lặng. Suốt nửa đêm còn lại trên đường đi, cảnh rừng tự nhiên hiện ra với tôi trong một trạng thái xao xuyến khó hiểu. Đêm rừng sâu càng sâu hơn. Bóng tối như cũng chứa đầy uất ức. Cây gợi ý và đất cũng mang thêm vào những dấu chân nặng nghĩa nặng tình. Dù thế nào, bên cạnh một tình thương bao la cho đất nước, vẫn còn những đau xót của riêng mình đối với vợ, với con, với những người thân yêu. Tôi cảm biết là anh khéo giấu về cái tin ấy trong một tình hình đặc biệt đột biến mà tình cảm riêng tư khó để lộ nhưng sự che kín này làm cho tôi bất chợt được thoáng qua đôi mắt anh sự nghẹn ngào xót xa của một niềm mất mát, một cái gì gần gũi xé rút đi từ cốt nhục, từ trong hồn, từ trong tim. Tôi hiểu, vì tôi cũng có con gái, tuổi vừa lớn, tuổi đang vui, tuổi đang cười với mẹ với em. Con gái anh hy sinh, dù trong một tình huống cực kỳ gan góc nhưng lại thương tâm quá. Tôi không muốn kể chi tiết vì chi tiết nào cũng chưa đủ. Bắt đầu từ hôm đó, tôi cảm biết được sự sâu sắc hờn oán, độ căm thù trước đó vẫn có nhưng cũng là tản mạn trong cái tản mạn của những thành phố lớn. Ở đây khuôn mặt kẻ thù hiện ra rất rõ, vừa gớm ghiếc, vừa man rợ. Tôi nghĩ tới các con tôi, nếu cũng phải hy sinh, chắc không có cách nào khác, trong một cuộc chiến đấu mà cái từ một mất một còn không là chuyện văn chương nữa. Thực tế tiếp xúc đã dần dần trở thành da thành thịt, thành hơi thở, thành tư tưởng.
Tôi chỉ ân hận là trong mấy ngày qua, vô tình mình mải vui đùa.
Đến bây giờ thì những người chết đã yên vui. Lòng biết ơn của những ai còn sống thật là vô hạn.
KTS. Huỳnh Tấn Phát sinh ngày 15.2.1913 tại xã Châu Hưng, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Là học sinh trường Pétrus Ký - Sài Gòn, năm 1933, ông thi vào cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương và tốt nghiệp thủ khoa năm 1938. Cuối năm đó, ông trở về Sài Gòn và làm việc tại văn phòng kiến trúc sư Chauchon (người Pháp) tại số 68 - 70 đường Mayer (nay là Võ Thị Sáu).
Năm 1940, ông là kiến trúc sư Việt Nam đầu tiên mở văn phòng kiến trúc tư ở Sài Gòn. Năm 1941, ông đoạt giải nhất cuộc thi thiết kế khu trung tâm hội chợ triển lãm Đông Dương do Toàn quyền Jean Decoux tổ chức tại vườn ông Thượng (nay là công viên Tao Đàn).
Các biệt thự do KTS. Huỳnh Tấn Phát thiết kế trước năm 1943 ở Sài Gòn đến nay vẫn còn giữ nguyên vẻ cổ kính rất phù hợp với khí hậu nóng, ẩm phương Nam như biệt thự 7 Lê Duẩn (văn phòng phía Nam của Chính phủ), biệt thự 151 Nguyễn Đình Chiểu, biệt thự 6 Nguyễn Huy Lượng... Ông cũng là người đồng thiết kế Dinh 3 - biệt điện của vua Bảo Đại, một di sản kiến trúc nổi bật của Đà Lạt.
Sau hiệp định Genève năm 1954, ông ở lại Sài Gòn, làm việc tại văn phòng KTS. Nguyễn Hữu Thiện. Năm đó, đồ án thiết kế của ông tham dự cuộc thi thiết kế nhà văn hóa dự kiến xây dựng ở Khám lớn Sài Gòn đã đoạt giải nhì (không có giải nhất) và Thư viện Quốc gia Sài Gòn (đồng tác giả với KTS. Nguyễn Hữu Thiện và KTS. Phạm Quang Hanh) - một trong những công trình đẹp nhất Sài Gòn được giới nghề và công chúng đánh giá cao.
Ông tham gia các phong trào đòi hòa bình, tự do, dân chủ, thống nhất đất nước, đòi thi hành Hiệp định Genève. Năm 1960, ông bí mật thoát ly khỏi Sài Gòn, tham gia Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, giữ chức vụ phó chủ tịch kiêm tổng thư ký Uỷ ban Trung ương, đồng thời là chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng khu Sài Gòn - Gia Định. Tháng 6.1969, ông được Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam bầu làm Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và giữ chức vụ này cho đến ngày Việt Nam thống nhất.
Năm 1976, KTS. Huỳnh Tấn Phát được cử làm Phó thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước, Phó chủ tịch hội Kiến trúc sư Việt Nam. Ông làm trưởng ban chỉ đạo quy hoạch thủ đô và chủ nhiệm đồ án thiết kế xây dựng Hà Nội, chỉ đạo và góp ý kiến các dự án thiết kế quy hoạch các đô thị trong cả nước như: Hà Nội, TP.HCM, Phan Thiết, Nha Trang, Vũng Tàu - Côn Đảo, Tây Ninh... Ông còn là người thiết kế công trình nhà hát Hòa Bình (khánh thành năm 1985) - nhà hát đạt tiêu chuẩn hiện đại duy nhất của Sài Gòn từ sau 1975.
Dù đảm trách nhiều chức vụ quan trọng, nhưng lúc nào con người kiến trúc sư trong ông cũng đau đáu về những vấn đề quan trọng của quy hoạch và kiến trúc đô thị. Bất cứ khi nào có thể, ông đều vẽ nên những phác thảo kiến trúc. Trong chiến tranh, ngay sau ngày Lộc Ninh được giải phóng, ông cũng kịp đưa ra một thiết kế thủ phủ của cách mạng trên một vùng đồi xanh rất đẹp.
Thanh Nghị