Khuôn mặt Sài Gòn trong y nghiệp của tôi là nhân diện của những bậc đàn anh đến từ mọi vùng miền của đất nước. Qua đó, tôi thấy lại một nền y khoa nhân bản, đầy lòng trắc ẩn và hoàn toàn vắng mặt những lời tung hô, xưng tụng hay những khẩu hiệu ngoa ngôn sáo rỗng.
1. Ông là sĩ quan quân y cao cấp của chế độ cũ, giám đốc một tổng Y viện lớn bậc nhất miền Trung. Sau 1975, khi đi cải tạo về, ông được “lưu dung” làm tại một bệnh viện lớn của Sài Gòn. Với khả năng chuyên môn giỏi giang, ông được đề bạt làm trưởng khoa một khoa bệnh nặng và khó.
Tân bác sĩ y khoa Sài Gòn đọc lời thề Hippocrates khi nhận văn bằng tốt nghiệp. (ảnh tư liệu).
Là người Bắc di cư, ông lịch lãm, điềm đạm. Nhưng dưới con mắt của một chú sinh viên năm cuối, ấn tượng về ông không chỉ có thế. Trong một góc của khoa bệnh do ông phụ trách, có căn phòng nhỏ, là nơi trú ngụ nhiều năm của một thanh niên bị chứng bệnh nặng, hôn mê dầm dề không biết chừng nào hồi tỉnh. Cám cảnh nhà đơn chiếc, ông sắp xếp cho cô chị chừng 20 tuổi của người bệnh thập tử nhất sinh này được đem chiếc máy may cũ kỹ vào bệnh viện để vừa may vá lạch xạch kiếm tiền độ nhật, vừa chăm sóc đứa em trai xấu số.
Một lần, ông nói với bọn sinh viên lộc ngộc chúng tôi: “Lấy vợ thì để anh giới thiệu cho cô bé ấy. Nhìn cách cô ấy chăm em, anh biết đó là một hiền thê”. Nhìn cách ông nói nghiêm túc, tôi biết con người nhân hậu ấy không đùa cợt. Ông đã che chở, cưu mang cho chị em nhà ấy như một “bố già” tốt bụng, chu đáo và ân cần như một người mẹ.
2. Ông cũng là bác sĩ quân y được “lưu dung” sau thời gian cải tạo. Khắc khổ với mái tóc hoa râm, nhưng luôn ăn mặc chỉn chu, thanh lịch. Đi làm bằng Piaggio và là chủ nhân của một phòng mạch rất đông khách. Ông dạy chúng tôi nhiệt tình, truyền hết những hiểu biết rất uyên bác của ông về một chuyên ngành khó.
Sau một buổi trình bệnh án, ông đốt điếu thuốc, trầm ngâm nói khẽ: “Tôi nhớ lại khi bằng tuổi các em, vừa mới ra trường, hiếu thắng vô cùng. Tôi kê toa vô tội vạ, rất nhiều thứ thuốc mắc tiền. Giờ này nghĩ lại, không biết bao nhiêu người nghèo đã phá sản, bán hết ruộng vườn, ly tán… vì những toa thuốc đắt tiền của mình hồi đó”?
Chỉ trong phút chốc, con người hào hoa ấy già sọm hẳn đi, như thể gánh nặng của cả một đời hành nghề đang đè nặng trên vai.
3. Một đàn anh lập dị, thoạt nhìn có vẻ ngông nghênh, ít được đồng nghiệp gần gũi. Từ miền Bắc vào sau 1975, anh là trưởng khoa của một bệnh viện lớn.
Lúc ấy có một đàn anh khác bị bệnh thập tử nhất sinh, cần máy thở để hỗ trợ hô hấp. Ngặt nỗi thời ấy máy thở là của hiếm và đang bị một bệnh nhân VIP chiếm dụng. Bệnh của VIP này thì giới trong nghề coi như đã “xong”, chỉ chờ ngày lành tháng tốt rút máy thở là tivi phát ngay cáo phó. Vị trưởng khoa nhà ta thấy cảnh bất bằng, quát thật to trong buổi giao ban: “Các anh dành máy thở cho một cái xác khô, trong khi đồng nghiệp mình đang thoi thóp tìm sự sống, các anh coi thế mà được à?”. Anh nhất quyết giành cho bằng được chiếc máy thở đó cho bệnh nhân - đồng nghiệp còn hy vọng sống sót, từ một người bệnh coi như cầm chắc cái chết. Dù người ấy là VIP! Nói cho cùng, trước bệnh tật, người bệnh nào cũng như nhau cả thôi.
***
Đừng bao giờ hỏi tôi tên họ của ba con người này. Vì họ chưa bao giờ xuất hiện trên tivi, báo chí để rao giảng về y đức. Họ cũng chưa bao giờ mở miệng răn dạy bọn đàn em chúng tôi lấy nửa câu về nghĩa vụ luận y khoa. Thậm chí, họ còn... văng tục khi bị triệu đi họp về công tác triển khai y đức gì gì đó… Nhưng đã hơn 20 năm, họ là hình tượng đẹp đẽ trong ký ức. Bằng lòng nhân hậu, mẫn cảm với những số phận không may. Bằng sự trung thực, luôn tự vấn lương tâm nghề nghiệp. Và bằng cơn “thánh nộ” rất đáng kính trọng trong một cơ chế chằng chịt thời ấy.
Nhớ lại họ, những bậc đàn anh rất đáng kính của y khoa Sài Gòn, để tự răn mình trong dòng chảy của một nền y khoa đổ nát hôm nay. Và để thấy y nghiệp của mình là nhỏ bé vô cùng!
ThS.BS Lê Đình Phương, trưởng phòng khám đa khoa bệnh viện FV Saigon.