Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chiến tranh Việt Nam đã gây ra cái chết của từ 2 đến 5 triệu người Việt (tùy từng nguồn khác nhau). Trong số các nước đồng minh của Việt Nam Cộng hòa, người Mỹ có số thương vong cao nhất với hơn 58.000 người chết và hơn 305.000 người bị thương (trong đó 153.000 bị thương nặng hoặc tàn phế). Vào khoảng từ 4.400 đến 5.000 binh sĩ Hàn Quốc bị chết; Úc có khoảng 500 chết và hơn 3.000 bị thương; New Zealand38 chết và 187 bị thương; Thái Lan 351 chết và bị thương; còn Philippines vẫn chưa có con số thống kê cụ thể.[1][2][3] Tổn thất trực tiếp và gián tiếp trong Chiến tranh Việt Nam được chia ra như sau:
Mục lục
[ẩn]Việt Nam Dân chủ Cộng hòa[sửa | sửa mã nguồn]
Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Số liệu chính thức về thương vong của phía Việt Nam được chính thức công bố gần đây nhất là:[4]
Theo tài liệu Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia có:
- 1,1 triệu quân nhân chết; trong số đó có 300.000 quân nhân mất tích (chưa tìm được xác)
- 600.000 quân nhân bị thương hoặc bị bệnh.
Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam, trong tất cả các cuộc chiến tranh kể từ sau năm 1945 (Chiến tranh Đông Dương, Chiến tranh Việt Nam, Chiến tranh biên giới Tây Nam, Chiến tranh biên giới Việt-Trung) và một số chiến dịch chống thổ phỉ vàFULRO, cả Việt Nam có trên 1.140.000 liệt sĩ. Thống kê này nêu ra tổng số liệt sĩ của Việt Nam nhưng không nêu rõ số liệt sĩ trong Chiến tranh Việt Nam và trong các cuộc chiến tranh khác chiếm bao nhiêu trong số này[5][6]
Nhờ các hoạt động quy tập mộ liệt sĩ, đến năm 2012 cả nước đã quy tập được hơn 937.000 hài cốt liệt sĩ, trong đó tổng số mộ liệt sĩ trong các nghĩa trang liệt sĩ là 780.522 mộ; tổng số mộ liệt sĩ gia đình quản lý là 156.904 mộ. Số địa phương còn nhiều mộ liệt sĩ chưa được quy tập là 18 tỉnh, là những địa bàn chiến tranh ác liệt. Tính đến tháng 7/2014, sau 20 năm liên tục tiến hành các cuộc tìm kiếm, cả nước đã tìm thêm được gần 90.000 hài cốt liệt sỹ, song vẫn còn khoảng 214.000 liệt sĩ chưa tìm được hài cốt. Nhiệm vụ tìm kiếm số hài cốt còn lại là hết sức khó khăn, phức tạp do địa hình, địa vật tại nơi chôn cất có nhiều thay đổi, đặc biệt là thông tin trong giấy báo tử, hồ sơ danh sách liệt sĩ được ghi theo ký hiệu, phiên hiệu, mật danh riêng của đơn vị để giữ bí mật.[5][6]
Theo tư liệu giải mã của Chính phủ Việt Nam năm 1995 cũng như sự xác nhận của các viên chức chính phủ từng tham gia vào cuộc chiến. Trong một phim tài liệu trình chiếu trên kênh truyền hình The History Channel, có nhiều viên chức của Việt Nam trong các cuộc phỏng vấn đã xác nhận con số gần đây từ tài liệu giải mã, và số chiến binh tử trận của Quân đội Nhân dân Việt Nam (hay còn gọi là quân Giải phóng Miền Nam) vào khoảng 1,1 triệu, bao gồm 300.000 mất tích. Cần lưu ý, số thiệt mạng không chỉ bao gồm số thiệt mạng trong chiến đấu, mà còn bao gồm số thiệt mạng do bệnh tật, tai nạn, kiệt sức..., và cũng không chỉ gồm lính chiến đấu mà còn gồm bộ phận không tham gia chiến đấu như cán bộ dân chính, cơ sở chính trị ngầm, tổ chức dân vận...
Quân đội Mỹ trước đây ước đoán hành động quân sự của họ đã giết chết khoảng 500.000 quân đối phương, trong lúc 400.000 bị tiêu diệt bởi các lực lượng đồng minh (900.000 tổng số). Trong các báo cáo sau trận đánh, quân đội Mỹ thường dùng tỉ lệ "1 đổi 10" (1 lính Mỹ thương vong đổi 10 lính Quân đội Nhân dân Việt Nam). Tuy nhiên, tỉ lệ này là phi lý vì nó còn vượt quá tổng quân số của QĐNDVN. Số liệu toàn cuộc chiến cho thấy thương vong của hai bên khá tương đương. Do đó, tỷ lệ này hiện nay được các nhà sử học xác định là phóng đại nhiều lần so với thực tế, cả vì vô tình lẫn cố ý, ví dụ như:
- Để đơn vị và bản thân được khen thưởng, các sĩ quan Mỹ thường cố ý khai khống số thi thể đối phương đếm được vì dù sao cũng chẳng có ai kiểm chứng lại báo cáo của họ.
- Khi ném bom hoặc pháo kích, nhiều thi thể không còn nguyên vẹn, thi thể của một người có thể bị tưởng là của nhiều người.
- Mặt khác, trong nhiều trường hợp, cả do vô tình lẫn cố ý, lính Mỹ đã tính luôn xác thường dân vào số lính đối phương bị tiêu diệt.
Các tài liệu mới do Quân đội Nhân dân Việt Nam công bố về thương vong trong các trận đánh cũng thấp hơn khá nhiều so với ước tính của Mỹ. Một số ví dụ khác về tài liệu Mỹ tịch thu được cho thấy con số thương vong thực của Quân đội Nhân dân Việt Nam thường chỉ bằng một nửa so với con số mà Hoa Kỳ công bố.[7] Thực tế tổng kết số liệu toàn cuộc chiến, thương vong của hai bên khá tương đương (tuy rằng tỉ lệ chết của lính Mỹ và đồng minh thấp hơn do được hỗ trợ quân y tốt hơn).
Một tỉ lệ khá lớn số binh sĩ thiệt mạng của Quân đội Nhân dân Việt Nam (có thể lên tới 40%) không phải trong chiến đấu mà bởi các nguyên nhân diễn ra trong hoàn cảnh chiến đấu khó khăn (như tai nạn, rắn cắn, thú dữ, bệnh tật...), đặc biệt với những đoàn quân hành quân qua những chặng đường gian khổ của Đường mòn Hồ Chí Minh. Tính trung bình, trong giai đoạn nửa đầu (trước 1968), khi quân Mỹ đánh phá ác liệt và hệ thống quân y viện chưa phổ biến, cứ 10 lính Quân đội Nhân dân Việt Nam vào Nam chiến đấu thì chỉ 5-6 người vào tới miền Nam, còn lại hầu hết bị ốm hoặc tử vong dọc đường do sốt rét, rắn cắn, kiệt sức hoặc tai nạn. Hiện Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn là nghĩa trang liệt sĩ lớn nhất Việt Nam với hơn 1 vạn mộ, song cũng chỉ chiếm một phần số bộ đội hi sinh khi hành quân trên tuyến đường này.[cần dẫn nguồn]
Con số bị thương cũng khó xác định bởi nhiều chiến binh bị thương nhiều lần, nhiều người khác lại không bị thương do bom đạn mà bị mất sức chiến đấu do bệnh tật, và khó lần tìm bằng cách xem sổ sách lưu giữ, nhất là đối với lực lượng du kích ở miền Nam. Hơn nữa việc cấp cứu y tế khó khăn và thiếu thốn thuốc men cho lực lượng du kích đồng nghĩa với tỷ lệ chết của thương binh cao hơn nhiều so với của lực lượng Hoa Kỳ và đồng minh ở miền Nam [8] (thông thường cứ 2 lính quân Giải phóng bị thương thì có 1 chết vì không đủ phương tiện cứu chữa, trong khi cứ 6 lính Mỹ và đồng minh bị thương thì mới có 1 chết do có hệ thống quân y trang bị đầy đủ).
Việt Nam Cộng hòa[sửa | sửa mã nguồn]
- ~250.000-316.000 tử trận hoặc mất tích
- ~1.170.000 bị thương
Con số 220.357 tử trận được Lewy dẫn từ tài liệu lưu trữ của Bộ quốc phòng Mỹ, tính từ năm 1965 đến năm 1974. Cộng thêm con số tử trận trong giai đoạn 1974-1975 và trước đó cho ra ước tính khoảng hơn 250.000 tử trận. Nhà sử học R.J. Rummel đưa ra con số ước tính cao nhất có thể lên tới 316.000 tử trận[9]
Tổn thất dân sự[sửa | sửa mã nguồn]
- ~900.000 đến 4.000.000 dân thường chết: Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Việt Nam đưa ra con số này vào ngày 3 tháng 4 năm 1995[cần dẫn nguồn], hai triệu thường dân tại miền Bắc và hai triệu tại miền Nam đã chết khoảng giữa năm 1954 và 1975. Con số tổn thất dân sự của miền Bắc có thể là hậu quả của các chiến dịch không quân của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
- ~3.000.000 ảnh hưởng bởi chất độc da cam
- Số liệu chính thức về thương vong của phía Việt Nam được chính thức công bố gần đây nhất:[4]
- - Gần 2 triệu thường dân chết;
- - Hơn 2 triệu thường dân mang thương tật suốt đời;
- - Khoảng 2 triệu người (gồm cả quân nhân) phơi nhiễm các loại hóa chất độc hại.
Nick Turse, trong sách "Giết mọi thứ di động, lập luận rằng: việc không ngừng tìm kiếm nhiều hơn số xác chết, việc sử dụng lan tràn vùng tự do bắn phá, thường dân có thể bị xem là du kích, và thái độ khinh miệt phổ biến dành cho thường dân Việt Nam đã dẫn đến thương vong lớn và tội ác chiến tranh gây ra bởi quân đội Mỹ.[10] Một ví dụ là Chiến dịch Speedy Express, được mô tả bởi John Paul Vann, là một vụ thảm sát còn ghê gớm gấp nhiều lần Thảm sát Mỹ Lai.[10] Cụ thể hơn:
Hoa Kỳ[sửa | sửa mã nguồn]
- 58.209 tử trận và chết vì lý do khác[12]
- Hơn 305.000 bị thương. Trong đó 153.303 bị thương nặng hoặc tàn phế[13]
- 1.948 mất tích[14]
Quốc gia | Binh chủng | Con số phục vụ | Chết | Bị thương | Mất tích |
---|---|---|---|---|---|
Hoa Kỳ[4] | Lục quân | 4.368.000 | 38.218 | 96.802 | |
Thủy quân lục chiến | 794.000 | 14.840 | 51.392 | ||
Hải quân | 1.842.000 | 2.565 | 4.178 | ||
Không quân | 1.740,000 | 2.587 | 1.021 | ||
Tổng số | 8.744.000 | 58.209 | 153.303 | 1.948 |
Quốc gia | Năm chết | Số người chết |
---|---|---|
Hoa Kỳ[5] | ||
1956-1964 | 401 | |
1965 | 1.863 | |
1966 | 6.143 | |
1967 | 11.153 | |
1968 | 16.592 | |
1969 | 11.616 | |
1970 | 6.081 | |
1971 | 2.357 | |
1972 | 641 | |
1973 | 168 | |
1974-1998 | 1333 |
Tổng thương vong của Hoa Kỳ lên tới hơn 362 ngàn lính, còn cao hơn cả tổn thất trong chiến tranh Thái Bình Dương (khoảng 354.500 lính) và chiến tranh thế giới thứ nhất (khoảng 320 ngàn lính), và là số thương vong cao thứ 2 trong một cuộc chiến tranh đối với Hoa Kỳ. Tuy nhiên tỷ lệ lính Mỹ thiệt mạng được so với các cuộc chiến trước được giảm xuống khá thấp. Tại Việt Nam, lần đầu tiên Hoa Kỳ trang bị rộng rãi các phương tiện cơ giới như xe bọc thép và nhất là trực thăng. Điều này cho phép quân Mỹ khi bị thương nặng có thể được vận chuyển đến trạm phẫu thuật rất nhanh chóng (chỉ dưới 15 phút), cho phép hạn chế tỉ lệ tử vong của thương binh xuống đáng kể. Nếu như trong chiến tranh thế giới thứ hai và chiến tranh Triều Tiên, trung bình cứ 3 lính Mỹ bị thương thì có 1 chết, thì tỉ lệ này ở Việt Nam là 6 lính Mỹ bị thương mới có 1 chết (tức giảm 1 nửa số lính thiệt mạng so với trước).
Bên cạnh những tổn thất về sinh mạng về thể xác, lính Mỹ còn phải chịu những mất mát nặng nề về tinh thần. Hàng trăm ngàn lính Mỹ khi về nước đã mắc nhiều chứng rối loạn tâm thần do bị chấn thương tâm lý bởi những nỗi khiếp sợ họ gặp ở Việt Nam (thường được người Mỹ gọi là Hội chứng Việt Nam); khoảng 200 ngàn lính Mỹ đã mắc nghiện ma túy trong những ngày ở Việt Nam[15]. Thêm vào đó, hàng trăm ngàn lính Mỹ đã bị nhiễm chất độc màu da cam, khiến sức khỏe của họ dần hao mòn và con cháu mà họ sinh ra bị mắc nhiều chứng dị tật khác nhau.
Tổn thất đầu và cuối của Hoa Kỳ[sửa | sửa mã nguồn]
- Dân sự Hoa Kỳ:
- 6 tháng 5 năm 1954 — James 'Earthquake McGoon' McGovern và phi công phụ Wallace Buford chết tại Lào (bị pháo cao xạ Việt Minh bắn rơi tại trận Điện Biên Phủ.
- Quân sự Hoa Kỳ:
- 12–15 tháng 5 năm 1975 — 41 quân nhân Hoa Kỳ chết và 41 quân nhân khác bị thương trong "Sự kiện Mayaguez" tại "Kampuchia Dân chủ".
Tù binh chiến tranh[sửa | sửa mã nguồn]
- Tù binh chiến tranh đầu tiên bị bắt
- 26 tháng 12 năm 1961 - George F. Fryett là tù binh đầu tiên bị bắt và được phóng thích vào tháng 6 năm 1962.
- Tù binh chiến tranh cuối cùng bị bắt
- 27 tháng 1 năm 1973 - Phillip A. Kientzler là tù binh cuối cùng bị bắt và được phóng thích vào ngày 27 tháng 3 năm 1973.
- Tù binh chiến tranh bị giữ lâu nhất
- 8 năm, 355 ngày- Floyd James Thompson bị bắt ngày 26 tháng 3 năm 1964 và được phóng thích ngày 16 tháng 3 năm 1973. Chỉ thiếu 10 ngày là đủ 9 năm làm tù binh chiến tranh, ông bị bắt giữ làm tù binh lâu nhất trong Chiến tranh Việt Nam và là tù binh Hoa Kỳ bị bắt giữ lâu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.
Hàn Quốc[sửa | sửa mã nguồn]
- 5.099 tử trận
- 11.232 bị thương
- 4 mất tích trong chiến đấu[16]
CHDCND Triều Tiên[sửa | sửa mã nguồn]
14 phi công chết, 2 cố vấn bị thương.
Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]
- 1.446 công binh bị chết (phần lớn do bệnh tật hoặc tai nạn)[cần dẫn nguồn]
Liên Xô[sửa | sửa mã nguồn]
Khoảng 6.000 quân nhân Xô Viết tham gia vào Chiến tranh Việt Nam với vai trò cố vấn kỹ thuật và huấn luyện; 16 trong số đó thiệt mạng do bệnh tật hoặc tai nạn (không có ghi nhận thiệt mạng trong chiến đấu)[cần dẫn nguồn].
Philippines[sửa | sửa mã nguồn]
- 552 tử trận[cần dẫn nguồn]
Thái Lan[sửa | sửa mã nguồn]
- 351 tử trận[16]
- 1.358 bị thương
Úc[sửa | sửa mã nguồn]
Khoảng 500 chết, bao gồm 426 chết trong chiến đấu và 76 chết vì các nguyên nhân khác (tai nạn hoặc bị bệnh).
New Zealand[sửa | sửa mã nguồn]
- 55 tử trận + 2 dân thường
- 212 bị thương[16]
Campuchia[sửa | sửa mã nguồn]
Thường dân Campuchia
- 70.000[cần dẫn nguồn]
Lào[sửa | sửa mã nguồn]
Thường dân Lào
- ~50.000 chết[cần dẫn nguồn]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ [1]
- ^ [2]
- ^ [3]
- ^ a ă Phạm Ngọc Thạch - Hồ Khang. Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975). Tập VIII. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội. 2008. trang 436.
- ^ a ă 900.000 hài cốt liệt sĩ đã được quy tập, Báo Quân đội Nhân dân online, Thứ Sáu, 13/01/201
- ^ a ă http://www.baodongkhoi.com.vn/?act=detail&id=37685
- ^ Spencer Tucker, Vietnam, (Routledge: 1999), pp. 120-145
- ^ Counting Hell, Bruce Sharp
- ^ http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.TAB6.1A.GIF
- ^ a ă Turse 2013, tr. 251.
- ^ Turse 2013, tr. 212.
- ^ Statistical information about casualties of the Vietnam Conflict, US National Archives
- ^ Bill Abbott, Names On The Wall: A Closer Look At Those Who Died In Vietnam, HistoryNet.com
- ^ The Vietnam-Era Prisoner-of-War/Missing-in-Action Database, Vietnam-Era Unaccounted for Statistical Report, CURRENT AS OF: ngày 7 tháng 11 năm 2001, Library of Congress
- ^ American War and Military Operations Casualties: Lists and Statistics, Congressional Research Service, ngày 26 tháng 2 năm 2010 Available online
- ^ a ă â KOREA military army official statistics, 28 tháng 8, 2005 (tiếng Triều Tiên)
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]
- Edward Doyle, Samuel Lipsman, et al, Setting the Stage. Boston: Boston Publishing Company, 1981.
- U.S.—57,605. South Vietnamese military—220,357. Republic of Korea, Australia, New Zealand, and Thailand—not listed. DRV and NLF deaths—444,000. Combined DRV and RVN civilian deaths—587,000.
- Harry G. Summers, The Vietnam War Almanac. Novato CA: Presidio Press, 1985.
- U.S. killed in action, died of wounds, died of other causes, missing and declared dead—57,690. South Vietnamese military killed—243,748. Republic of Korea killed—4,407. Australia and New Zealand (combined)—469. Thailand—351. The Vietnam People's Army and NLF (combined)—666,000. North Vietnamese civilian fatalities—65,000. South Vietnamese civilian dead—300,000.
- Marc Leepson, ed, Webster's New World Dictionary of the Vietnam War. New York: Simon and Schuster, 1999.
- U.S. killed in action, etc.—58,159. South Vietnamese military—224,000. Republic of Korea, Australia, New Zealand, and Thailand—not listed. DRV military—not listed. DRV civilians—65,000. South Vietnamese civilians—300,000.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
- (tiếng Anh) Source of the figures
- (tiếng Anh) National Archives AAD Searchable database
- (tiếng Anh) Casualties—US vs NVA/VC Casualty breakdown by year, province, unit.
- (tiếng Anh) The American War Library's best estimates on friendly fire casualties since WW2